/54
lOMoARcPSD| 61559320
Trị liệu Adler
Mục tiêu học tập
1. tcác khái niệm chính của tiếp
cận Adler: hành vi có mục đích và
đính hướng tới mục tiêu, sự tự ti
ưu việt, cái nhìn chủ quan về thực
tế, tính thống nhất về nhân cách,
lối sống và động lực.
2. Giải thích ý nghĩa của lợi ích
hội và chỉ ra vì sao nó đóng vai trò
một khái niệm nền tảng trong tiếp
cận Adler
3. Xác định các nhiệm vụ của cuộc
sống và giải thích các tác động đối
với việc thực hành các liệu pháp.
4. Miêu tả cách thức những người
theo trường phái Adler quan sát
thứ tự ra đời các tác động từ
quan hệ anh chị em.
5. Hiểu được vai trò của chòm sao
gia đình những hồi tưởng đầu
đời trong việc đánh giá lối sống.
6. Giải thích mối quan hệ giữa nhà trị
liệu thân chủ từ góc nhìn của
trường phái Adler
lOMoARcPSD| 61559320
7. tả bốn giai đoạn của quá trình
trị liệu Adler
8. Xác định những yếu tố liên quan
trong việc đánh giá toàn diện một
cá nhân.
9. Giải thích góc nhìn của những nhà
tâm theo trường phái Adler về
vai trò của phân tích trong quá
trình trị liệu.
10. Miêu tả những yếu t liên quan
đến quá trình tái định hướng
huấn luyện phc hồi
(reeducation).
11. tả các khía cạnh tiếp cận
Adler có thể áp dụng
12. Xác định các điểm mạnh hạn
chế của liệu pháp Adler từ quan
điểm đa chiều
13. Hiểu được sự đóng góp đặc biệt
của tiếp cận Adler tới sự phát triển
của các phương thức tiếp cận tham
vấn khác.
14. Chỉ ra tối thiểu một sự phản đối
tiếp cận Adler.
lOMoARcPSD| 61559320
ALFRED ADLER (1870–1937) lớn lên trong một gia đình
Vienna gồm sáu anh em trai và hai chị em gái. Em trai của
Adler qua đời khi còn rất nhỏ trên trên chiếc giường bên
cạnh Alfred. Tuổi thơ của Adler không hề hạnh phúc; ông
thường bị ốm và nhận thức rõ rệt về cái chết. Khi lên 4 tuổi,
ông đã suýt chết vì bệnh viêm phổi, ông nghe bác sĩ nói với
cha mình rằng "Alfred đã mất”. Những điều ông trải qua
trong thời gian này đã đưa ông tới quyết định trở thành một
thầy thuốc. Bởi ông đã bị ốm rất nhiều trong những năm đầu
đời, Adler đã được mẹ rất cưng chiều. Ông đã phát triển một
mối quan hệ tin cậy với cha nhưng không cảm thấy gần gũi
với mẹ. Ông đã cực k ghen tị với anh trai của mình
Sigmund, dẫn đến một mối quan hệ căng thẳng giữa hai người trong suốt thời thơ ấu
và thiếu niên. Khi chúng ta xem xét mối quan hệ căng thẳng của Adler với Sigmund
Freud, chúng tôi không tránh được việc nghi ngờ rằng các đặc điểm từ chòm sao gia
đình đã được tái thiết lập trong mối quan hệ này.
Trải nghiệm thời thơ ấu của Adler tác động đến sự hình thành học thuyết của ông.
Adler chủ động cuộc sống của mình hơn phó mặc cho số phận. Adler luôn được
coi là thông minh, nhưng ông chỉ học vừa đủ để theo kịp ở trường cho đến một ngày
ông nhận ra rằng một giáo viên dạy toán không biết câu trả lời cho một câu hỏi
ông đặt ra. Adler đã đợi cho đến khi những học sinh giỏi nhất trả lời, và sau đó ông
ấy giơ tay và đứng lên. Mọi người cười nhạo ông ấy nhưng ông đã đưa ra được câu
trả lời đúng. Sau đó, ông ấy bắt đầu chuyên tâm vươn lên đứng đầu lớp. Ông ấy
tiếp tục học y học tại Đại học Vienna, tham gia thực tập nhân như một bác nhãn
khoa, và sau đó chuyển sang y học tổng hợp. Cuối cùng ông hc chuyên sâu về lĩnh
vực thần kinh tâm thần học, và ông ấy rất quan tâm đến những bệnh nan y của trẻ
nhỏ.
Adler đã trải qua chủ nghĩa bài Do Thái và nỗi kinh hoàng của Thế chiến I. Những
trải nghiệm bối cảnh chính trị hội của thời đó đã góp phần hình thành quan
điểm của ông về chủ nghĩa nhân văn và sự cần thiết trong việc phối hợp giữa các cá
nhân . Ông nhận thức sâu sắc về tác động bối cảnh văn hóa lên nhân cách con
người, và lý thuyết của ông xuất phát từ nhận thức này.
lOMoARcPSD| 61559320
Adler một mối quan tâm sâu sắc vnhững người bình dân và phê bình thẳng thắn
hoạt động nuôi dạy trẻ, cải cách trường học định kiến dẫn đến những xung đột.
Ông sử dụng ngôn ngữ nói và viết một cách đơn giản, không mang tính học thuật
ông trợ giúp trẻ em đang phải đối mặt với các nguy cơ, ủng hộ quyền của phụ nữ,
bình đẳng giới, giáo dục người trưởng thành, sức khỏe tinh thần cộng đồng, tham
vấn gia đình, và trị liệu ngắn hạn (Watts, 2012).
Adlers (1927/1959) “Hiểu Bản chất Con người” là cuốn sách tâm học lớn đầu
tiên bán được hàng trăm hàng nghìn bản tại Hoa Kỳ. Sau khi phục vụ Thế chiến thứ
nhất với cách một quan y tế, Adler đã thành lập 32 sở định hướng trẻ
các trường học công cộng tại Vienna và bắt đầu đào tạo giáo viên, nhân viên xã hội,
bác sĩ, các chuyên gia khác. Ông đã đi tiên phong trong việc thực hiện các hình
thức đào tạo chuyên nghiệp thông qua các buổi giảng dạy trực tiếp với cha mẹ
con cái trước số lượng lớn người tham dự, hiện được gọi là tham vấn gia đình “diễn
đàn mở”. Các phòng trị liệu do ông thành lập ngày càng tăng trở nên phổ biến,
và ông không ngừng nỗ lực trong việc giảng dạy và truyền bá tư tưởng của mình.
Mặc Adler có mt lịch trình làm việc dày đặc trong phần lớn cuộc đời hành nghề,
ông vẫn dành ra thời gian để ca hát, thưởng thức âm nhạc giao lưu với bạn bè.
Giữa những năm 1920, ông bắt đầu giảng dạy Hoa Kỳ, sau đó ông thường
xuyên những chuyến đến thăm du lịch tại đây. Ông phớt lờ lời cảnh báo của
bạn về việc giảm cường độ hoạt động, vào ngày 28 tháng 5 năm 1937, trong
khi đi dạo trước giờ giảng dạy Aberdeen, Scotland, Adler gục ngã chết suy
tim.
Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về cuộc đời của Adler, bạn tìm cuốn tiểu sử xuất sắc
của Edward Hoffman’s (1996), The Drive For Self. Để biết thêm về các bài viết của
Adler và ý nghĩa của chúng trong hội hiện đại, hãy xem tác phẩm của Jon Carlson
và Michael Maniacci (2012), Alfred Adler Revisited.
lOMoARcPSD| 61559320
JON D. CARLSON (sinh năm 1945) lớn lên vùng ngoại ô
Chicago con út trong một gia đình 4 người con.
con út ở nhà và ở trường, anh phải vật lộn với sự thua kém về
bản thân. Theo Adler, những đứa trẻ nhỏ tuổi nhất cố gắng
thuộc về thế giới người lớn và sống quá mức, Carlson phù
hợp với khuôn mẫu đó. Khi còn trẻ, anh mắc bệnh hen suyễn
dị ứng nghiêm trọng khiến anh thường xuyên phải nhà,
nhưng cuối cùng anh đã “vượt qua” các vấn đề về hấp
được bù đắp bằng cách trở thành vận động viên chạy cự ly
huấn luyện viên đại học, giành được một số giải thưởng quốc
gia. Ông đã viết hoặc hiệu chỉnh hơn 60 cuốn sách 300
video đào tạo chuyên nghiệp hơn 60.000 giờ thực hành
lâm sàng. Ông đã có hai bằng tiến sĩ về tham vấn và tâm lý học lâm sàng, cũng như
Chứng chỉ Tâm lý trị liệu danh giá của Trường Adler ở Chicago.
Hiện nay, Jon Carlson giữ chức vụ Giáo sư xuất sắc về Tâm lý học Adler tại Đại học
Adler Chicago. Carlson đã nhận được giải thưởng đóng góp trọn đời từ APA, ACA
NASAP và được ACA đặt tên “Huyền thoại sống trong lĩnh vực tham vấn” vào
năm 2004.
Carlson tin rằng các nhà tham vấn chuyên nghiệp nhà trị liệu tâm phải những
hình mẫu về sức khỏe tâm thần và xác thực trong tất cả những gì họ làm và nói,
trong phòng vấn hay bên ngoài. “Tôi tự hào đã kết hôn với Laura trong 5 thập
kỷ và có mối quan hệ tốt với cả 5 đứa con của chúng tôi. Tôi đã có hơn 30 năm với
cách cố vấn học đường / ntâm lý học trong trường công lập. Tôi đã thực
hành như một cặp vợ chồng và nhà trị liệu gia đình và đã tham gia vào giảng viên
của Hội nghị Tiến hóa Tâm lý trị liệu thể hiện liệu pháp tâm lý theo quan điểm của
Adler”.
Carlson nghi ngờ rằng ngay cả bản thân Adler cũng sẽ một Adlerian ngày nay.
Trong nghiên cứu của Carlson với cách biên tập viên của Tạp chí Tâm
nhân và là diễn giả chính tại một số hội nghị của Adlerian, ông đã khuyến khích các
chuyên gia “vượt ra khỏi Adler” và kết hợp các ý tưởng của Adler với nhiều phương
pháp tiếp cận có giá trị khác trong tư vấn và trị liệu tâm lý đương đại.
lOMoARcPSD| 61559320
JAMES ROBERT BITTER (sinh năm 1947), đồng tác giả
của chương này, là một trong những các nhân vật đương đại
trong liệu pháp Adlerian. Ông lớn lên Wenatchee,
Washington, là con lớn trong hai người con, cả hai đều được
nhận làm con nuôi.
Khi còn học trung học, Manford Sonstegard, một học sinh
đồng nghiệp của Rudolf Dreikurs, thành lập trung tâm giáo dục gia đình trong thị
trấn ca mình. Sonstegard người sau này trở thành cố vấn của Bitter, dạy anh ta làm
thế nào để trở thành một nhân viên tư vấn hiệu quả.
Mẹ của Bitter chết vì ung thư khi ông 14 tuổi, và ông thấy mình chỉ có thể là chính
mình ở trường trung học và đại học. Sau năm thứ hai của mình ở trường đại học
không đạt được gì, một người bạn đã yêu cầu ông học nghiêm túc và chịu trách
nhiệm về cuộc sống của mình. Bitter đã bắt đầu có được kết quả trong cả công việc
học tập và các hoạt động ngoại khóa.
Được sự giới thiệu bởi Giáo Tom Edgar về tham vấn gia đình của Adler vào những
năm 1970, Bitter các sinh viên khác tại Đại học Bang Idaho đã mở trung tâm giáo
dục gia đình đầu tiên Idaho. Bitter nhận bằng thạc tiến tại Đại học Bang
Idaho, sau đó nhận công việc tại Đại học West Virginia trong một chương trình tham
vấn do Manford Sonstegard chủ trì. Trong 13 năm tiếp theo, họ đã cùng nhau giảng
dạy các khóa học, tchức hội thảo hội nghị, viết bài và biên tập tạp chí, đồng
thời phát triển hình Adlerian cho các nhóm tham vấn (Sonstegard & Bitter,
2004).
Sau một khóa đào tạo kéo dài một tháng do Virginia Satir dẫn dắt vào năm 1979,
Bitter đã trở thành một phần của Mạng AVANTA của Satir. Trong chín năm tiếp theo,
Bitter đã giúp dẫn dắt các buổi đào tạo của Satir. Năm 1987, Satir đến Đại học Bang
California tại Fullerton để giúp Bitter bắt đầu một knguyên mới trong chương trình
tư vấn ở đó. Tại Fullerton Bitter đã gặp
lOMoARcPSD| 61559320
Jerry Corey, người đã khuyến khích Bitter đóng góp vào cuốn sách này cũng như
viết sách ca riêng mình, một trong số đó là Lý thuyết và Thực hành về Trị liệu Gia
đình vấn (Bitter, 2014). Sự hợp tác tình bạn này với Corey đã tiếp tục trong
hơn một phần tư thế kỷ. Bitter sẽ là chủ tịch của Hiệp hội Tâm lý học Adlerian Bắc
Mỹ (NASAP) vào năm 2017 và 2018.
Bitter một nhà tổng hợp Adlerian, giống như bạn của ông, Jon Carlson. Anh ấy
tổng hợp những ý tưởng thu thập được từ những người khác, nhưng nền tảng vẫn là
hệ thống thực hành trị liệu của tâm học Adler. Bitter tin rằng snhấn mạnh của
Adler về tầm quan trọng ca cảm giác cộng đồng và hành động với lợi ích xã hội là
những gì đảm bảo sức khỏe tinh thần và giúp mọi người vượt qua cảm giác tự ti và
nhận thức được vị trí trong xã hội. Trong chương nay, Bitter đã mang triết lý và kinh
nghiệm thực tế của mình để thảo luận về lý thuyết và thực hành của Adler.
Giới thiệu
Introduction
Cùng với Freud Jung, Alfred Adler là người đóng góp lớn vào sự phát triển ban
đầu của phương pháp tâm học hoạt động trong trị liệu. Sau một thập kỷ hợp tác,
Freud Adler tách ra, Freud tuyên bố rằng Adler là một kẻ dị giáo đã bỏ rơi anh ta.
Adler tchức chủ tịch Hiệp hội Phân tâm học Vienna vào năm 1911 thành lập
Hiệp hội Tâm lý học nhân vào năm 1912. Sau đó Freud khẳng định rằng không
thể ủng hộ các khái niệm của Adlerian và vẫn giữ vững vị thế là một nhà phân tâm
học.
Sau đó, một số nhà phân tâm học khác đã đi chệch quan điểm chính thống của
Freud. Những người theo chủ nghĩa cải cách trường phái Phân tâm - bao gồm Karen
Horney, Erich Fromm và Harry Stack Sullivan - đồng ý rằng các yếu tố quan hệ, xã
hội và văn hóa ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách. Mặc dù ba nhà trị
liệu này thường được gọi là tân phân tâm (Neo-Freudians), nhưng sẽ thích hợp hơn,
như Heinz Ansbacher (1979) đã gợi ý, gọi họtân Adlerian vì họ rời xa quan điểm
sinh học và quan điểm tất định của Freud và hướng tới quan điểm tâm lý học xã hội
và mục đích luận-teleogical (hoặc định hướng có mục tiêu) về bản chất con người.
lOMoARcPSD| 61559320
Adler nhấn mạnh tính thống nhất của nhân cách, cho rằng con người chỉ thể được
hiểu những sinh vật hợp nhất hoàn chỉnh (integrate & complete). Quan điểm
này ng tán thành bản chất có tính mục đích của hành vi, nhấn mạnh rằng chúng ta
đến tđâu không quan trọng bằng việc chúng ta đang phấn đấu để đi đến đâu. Adler
coi mọi người vừa đấng sáng tạo vừa những sáng tạo trong cuộc sống của chính
họ; nghĩa là, mi người phát triển một phong cách sống riêng vừa là sự chuyển động
hướng tới vừa là một biểu hiện của các mục tiêu đã chọn. Theo nghĩa này, chúng ta
tạo ra chính mình chứ không chỉ đơn thuần được định hình bởi những trải nghiệm
thời thơ ấu của chúng ta.
Sau cái chết của Adler năm 1937, Rudolf Dreikurs người dấu ấn nhất trong
việc đưa tâm học nhân đến Hoa Kỳ, đặc biệt khi các nguyên của trường
phái này được áp dụng trong việc giáo dục, nuôi dạy con cái, trị liệu nhân, tliệu
nhóm cũng như tham vấn gia đình. Dreikurs được ghi nhận người đã thúc đẩy ý
tưởng về các trung tâm hỗ trợ trẻ em (child guidance centers) và đào tạo các chuyên
gia để họ thể làm việc với nhiều nhóm khách hàng khác nhau (Terner & Pew,
1978).
Khái niệm chính
Key Concepts
Quan điểm về bản chất con người
View of Human Nature
Adler đã từ bỏ các lý thuyết cơ bản của Freud vì ông tin rằng Freud đã quá hạn hẹp
khi nhấn mạnh vào những yếu tố sinh học và bản năng. Adler tin rằng cá nhân bắt
đầu hình thành cách tiếp cận cuộc sống đâu đó trong khoảng sáu năm đầu đời. Ông
tập trung vào quá khứ của một người như thể nó đang được nhận thức trong hiện tại
xem xét việc phân tích các skiện đầu đời của một cá nhân sẽ tiếp tục ảnh hưởng
đến hành vi hiện tại của người đó theo cách như thế nào. Theo Adler, con người
được thúc đẩy chủ yếu bởi mối quan hệ hội hơn bởi những xung năng tình dục;
hành vi mang tính chủ định hướng tới mục tiêu; ý thức, hơn thức. đây
là điểm trọng tâm của liệu pháp. Adler nhấn mạnh đến sự lựa chọn và trách nhiệm,
ý nghĩa của cuộc sống và sự phấn đấu để đạt được thành công, sự hoàn thiện và sự
hoàn hảo. Adler Freud đã hình thành những thuyết rất khác nhau, mặc cả
lOMoARcPSD| 61559320
hai người đều lớn lên cùng một thành phố trong cùng một thời đại được đào tạo
như những bác sĩ tại cùng một trường đại học. Những trải nghiệm thời thơ ấu mang
tính nhân và riêng biệt, đi kèm với những trắc trở trong cuộc sống và cả những
người mà họ đã làm việc cùng là những yếu tố quan trọng trong việc phát triển các
quan điểm cụ thể của họ về bản chất của con người (Schultz & Schultz, 2013).
thuyết của Adler bắt đầu bằng việc xem xét cảm giác thua kém thứ mà ông coi là
tình trạng bình thường của tất cả mọi người và là nguồn gốc của sự phấn đấu của tất
cả con người. Thay được coi một dấu hiệu của sự yếu kém hoặc bất thường,
cảm giác thua kém thể nguồn gốc của sự sáng tạo. Chúng thúc đẩy chúng ta
cố gắng vươn lên để làm chủ, thành công (vượt trội) hoàn thiện. Chúng ta được
thúc đẩy để vượt qua cảm giác thua kém và phấn đấu để ngày càng có trình độ phát
triển cao hơn (Ansbacher & Ansbacher, 1956/1964). Thật vậy, vào khoảng 6 tuổi, ảo
tuởng cấu về bản thân hoàn hảo toàn vẹn của chúng bắt bắt đầu chuyển biến
thành các mục tiêu của cuộc sống. Mục tiêu cuộc sống định hình nhân cách và trở
thành nguồn động lực của con người; mọi sự phấn đấu nỗ lực để vượt qua mặc
cảm giờ đây trở nên phù hợp với những mục tiêu này.
Theo quan điểm của trường phải Adler, hành vi của con người không được xác định
bởi đặc tính di truyền hay môi trường. Thay vào đó, chúng ta khả năng hiểu được,
tác động tạo ra các skiện. Adler khẳng định rằng gen di truyền không quan
trọng bằng việc chúng ta chọn làm với những khả năng những giới hạn
chúng ta đang có. Freud cho rằng mọi người được định hình một cách cố định bởi
những trải nghiệm đầu đời của họ, trong khi Adler tin rằng mọi người thể thay
đổi thông qua học tập hội. Mặc những người theo trường phái Adler bác bỏ
lập trường tất định, nhưng họ không hướng tới thái cực còn lại khẳng định rằng
các nhân có thtrở thành bất kỳ ai họ muốn. Người Adlerian nhận ra rằng các
điều kiện sinh học môi trường hạn chế khả năng lựa chọn sáng tạo của con
người.
Các nhà tâm theo trường phái Adler đặt trọng tâm vào việc huấn luyện phục hồi
(reeducation) các nhân tái thiết lập hội. Adler người đi đầu của một
phương pháp tiếp cận chủ quan đối với tâm học, trong đó ông tập trung vào các
yếu tố quyết định nội tại của hành vi như hệ giá trị, niềm tin, thái độ, mục tiêu, sở
thích và nhận thức của cá nhân về hiện thực. Ông là người tiên phong trong phương
lOMoARcPSD| 61559320
thức tiếp cận toàn diện, tính hội, định hướng mục tiêu, hệ thống mang
tính nhân văn. Adler là nhà trị liệu hthống đầu tiên (systemic therapist): ông khẳng
định rằng ta cần xem xét mọi người trong một hệ thống (system) họ đang sống
trong đó.
Nhận thức chủ quan về thực tế
Subjective Perception of Reality
Adlerian cố gắng nhìn thế giới từ hệ quy chiếu chủ quan của thân chủ, một định
hướng được mô tả với thuật ngữ hiện tượng luận (phenomenological). Chú ý đến
cách nhân nhìn nhận thế giới của họ, được gọi "thực tế chủ quan (subjective
reality)", bao gồm nhận thức, suy nghĩ, cảm xúc, giá trị, niềm tin, niềm tin kết
luận của nhân. Hành vi được nhìn nhận từ góc nhìn thuận lợi của khía cạnh chủ
quan này. Theo quan điểm của Adlerian, hiện thực khách quan ít quan trọng hơn
cách chúng ta diễn giải chúng những ý nghĩa chúng ta gán vào những trải
nghiệm.
Sự thống nhất và các khuôn mẫu của nhân cách
Unity and Patterns of Human Personality
Adler đã chọn cái tên m học nhân (ttiếng Latinh, riêng lẻ, có nghĩa
không thể phân chia) cho phương pháp tiếp cận thuyết của nh ông muốn
tránh những phân chia theo thuyết giản lược của Freud ncái ấy, cái tôi và cái siêu
tôi. Đối với Adler, Tâm lý học Cá nhân có nghĩa là tâm lý học không thể phân tách.
Adler nhấn mạnh sự thống nhất và không thể tách rời của con người và nhấn mạnh
việc hiểu toàn bộ con người trong bối cảnh cuộc sống của họ — cách con người n
tổng hợp của các bộ phận đc kết nối với nhau cách tất cả các thành phần này
được thống nhất bởi svận động của nhân hướng tới các mục tiêu sống. Khái
niệm toàn diện (holistic concept) này ngụ ý rằng các cá nhân không thể được nhìn
nhận theo từng phần riêng lẻ; đúng hơn, tất cả các khía cạnh của bản thân chúng ta
phải được hiểu trong mối quan hệ với bối cảnh hội bao gồm gia đình, văn hóa,
trường học và nơi làm việc (Carlson & Johnson, 2016). Chúng ta là những sinh vật
hội, sáng tạo, khả năng ra quyết định, hành động mục đích không thể
được thấu hiểu nếu tách rời khỏi những bối cảnh ý nghĩa trong cuộc sống
(Sherman & Dinkmeyer, 1987).
lOMoARcPSD| 61559320
Nhân cách con người trở nên thống nhất thông qua sự phát triển của một mục tiêu
sống (life goal). Suy nghĩ, cảm xúc, niềm tin, niềm tin, thái độ, tính cách hành
động của một cá nhân là những biểu hiện về tính độc đáo của họ. Và tất cả đều phản
ánh một kế hoạch của cuộc sống, điều đưa chúng ta đến gần với mục tiêu bản
thân đã lựa chọn. Hàm ý của quan điểm toàn diện về nhân cách thân chủ một
bộ phận cấu thành của một hệ thống hội. Người ta chú trọng nhiều hơn đến các
mối quan hgiữa các nhân hơn vào các động lực tâm nội tại của mi
nhân.
Hành vi có mục đích và định hướng mục tiêu
Behavior as Purposeful and Goal Oriented
Tâm lý học Cá nhân giả định rằng tất cả các hành vi của con người đềumục đích
mục đích này là nền tảng của học thuyết Adler. Adler đã thay thế những lời giải
thích mang tính tất định bằng những lời giải thích mang tính mục đích luận (có ch
đích, hướng đến mục tiêu). Một giả định bản của Tâm nhân suy nghĩ, cảm
nhận và hành động của chúng ta phải liên quan đến mục tiêu của chúng ta; con
người có thể được nhìn thấu một cách đầy đủ chỉ khi biết các mục đích và mục tiêu
chúng ta đang phấn đấu để thực hiện. Mặc các nhà tâm theo trường phái
Adler quan tâm đến tương lai, nhưng họ không coi nhẹ tầm quan trọng của những
ảnh hưởng trong quá khứ. Họ cho rằng hầu hết các quyết định đều dựa trên những
trải nghiệm của một người, dựa vào hoàn cảnh ở hiện tại và con đường mà người đó
đang hướng tới trong đó những điều sau thì quan trọng hơn. Họ m kiếm tính
liên tục bằng cách chú ý đến các bối cảnh xuyên sut cuộc đời của một người.
Adler chịu ảnh hưởng của nhà triết học Hans Vaihinger (1965), người đã cho rằng
rằng mọi người thường sống theo những cấu (hoặc quan điểm về việc thế giới
nên diễn ra như thế nào). Mọi người hình thành các giả định về nhận thức (hoặc hư
cấu) đóng vai trò như một tấm bản đồ về thế giới. Các nhà tâm lý Adlerian sử dụng
thuật ngữ cái kết cấu để ám chỉ một mục tiêu cuộc đời trong tưởng tượng, đây
thứ sẽ định hướng hành vi của một nhân. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Adler đã
ngừng sử dụng thuật ngnày và thay thế bằng "định hướng về cái tôi tưởng
(guiding self-ideal)" "mục tiêu hướng đến sự hoàn hảo (goal of perfection)" để
giải thích cho việc chúng ta phấn đấu hướng tới sự vượt trội hoặc hoàn hảo. Khái
niệm phấn đấu cho sự hoàn hảo của Adler nghĩa phấn đấu để đạt được năng
lực cao hơn, không chỉ cho bản thân mà còn vì lợi ích chung của người khác (Bitter,
lOMoARcPSD| 61559320
2012; Watts, 2012). Ngay khi còn nhỏ, chúng ta bắt đầu hình dung mình sẽ trở nên
như thế nào nếu chúng ta thành công, hoàn thiện, đầy đủ hoặc hoàn hảo.
Nếu gắn liền điều này với động lực của con người, việc định hướng về cái tôi
tưởng có thể được thể hiện theo cách như sau: "Chỉ khi tôi hoàn hảo, tôi mới có thể
được hạnh phúc an toàn" hoặc "Chỉ khi tôi một nhân quan trọng, tôi mới
được chấp nhận." Việc định hướng về cái tôi lý tưởng là hiện diện của một hình ảnh
gắn liền với mục tiêu về sự hoàn hảo, vậy một nhân sẽ phấn đấu trong bất kỳ
hoàn cảnh cụ thể nào. Nhờ mục tiêu cuối cùng chủ quan (subjective final goal),
chúng ta hình thành năng lực sáng tạo đlựa chọn những chúng ta cho đúng,
lựa chọn cách chúng ta sẽ hành xử và cách chúng ta diễn giải các sự kiện.
Phấn đấu cho sự quan trọng và vượt trội
Striving for Significance and Superiority
Adler nhấn mạnh rằng khi sinh ra chúng ta đã nhận ra cảm giác thua kém, theo sau
đó là những phấn đấu để đạt được sự hoàn hảo hoặc tính ưu thế (Ansbacher &
Ansbacher, 1979); đó hai mặt của một vấn đề. Để hiểu được hành vi của con
người, chúng ta cần phải nắm được ý nghĩa về những thua kém bản và sbù đắp.
Từ những năm đầu đời, chúng ta cần người lớn chắm sóc cho chúng ta, nhưng đây
không phải yếu tố tiêu cực trong cuộc sống. Theo Adler, vào thời điểm chúng ta
cảm nhận được sthua kém, chúng ta ng được thôi thúc bởi nỗ lực vượt trội. Ví
dụ, khi trẻ tập đi hoặc lấy bút màu, thường một nụ cười chiến thắng hoặc tiếng
hét đi kèm. Chiến thắng sự tự ti này một bước đi trên con đường phấn đấu vươn
lên. Adler khẳng định rằng mục tiêu thành công sthúc đẩy mọi người tiến tới tính
ưu thế và cho phép họ vượt qua những trở ngại.
Mục tiêu về sự vượt trội góp phần vào sự phát triển của cộng đồng loài người. Tuy
nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là "vượt trội", như Adler sử dụng, không nhất thiết
có nghĩa là vượt trội hơn những người khác. Thay vào đó, nó có nghĩa là di chuyển
từ mức nhận thức thấp hơn (điểm âm) tới mức tốt hơn (điểm dương) trong mối quan
hệ với bản thân. Mọi người đương đầu với cảm giác bất lực bằng cách phấn đấu để
đạt được năng lực, khả năng làm chủ bản thân và sự hoàn thiện. Ví d, họ có thể tìm
cách thay đổi điểm yếu thành điểm mạnh, hoặc cố gắng trở nên xuất sắc trong một
lĩnh vực để đắp những khiếm khuyết trong các lĩnh vực khác. Những cách thức
riêng biệt mọi người phát triển để đạt được tiềm năng điều sẽ tạo nên cá tính
lOMoARcPSD| 61559320
hoặc lối sống của họ. Cách Adler phản ứng với những trải nghiệm mất mát, bị chối
bỏ và điểm kém trong học tập thời thơ ấu và thanh thiếu niên một dụ sng động
về khía cạnh này trong lý thuyết của ông.
Lối sống
Lifestyle
Sự chuyển biến từ điểm tiêu cực tới điểm tích cực là kết quả của việc phát triển một
mục tiêu cuộc đời, từ đó hợp nhất nhân cách cũng như những giả định niềm tin
cốt lõi của cá nhân. Những niềm tin và giả định cốt lõi này định hướng sự vận động
của mỗi người trong suốt cuộc đời thiết lập hiện thực của họ, mang lại ý nghĩa
cho các sự kiện trong cuộc sống. Adler gọi sự chuyển biến này là “phong cách sống
- lifestyle” của nhân. Các tđồng nghĩa của thuật ngữ này bao gồm “kế hoạch
cuộc đời”, “phong cách sống”, “chiến lược sống” và “lộ trình của cuộc đời”. Phong
cách sống, thường được tả nhận thức của chúng ta về bản thân, người khác
thế giới, bao gồm các chủ đề các quy tắc tương tác mang lại ý nghĩa cho hành
động của chúng ta. Đó xu hướng suy nghĩ, hành động, cảm nhận, nhận thức và
sống đặc trưng của mỗi chúng ta (Carlson & Johnson, 2016).
Adler xem con người như những diễn viên, người sáng tạo nghệ sĩ. Hiểu được lối
sống của một người cũng giống như hiểu được phong cách của một nhà soạn nhạc:
“Chúng ta có thể bắt đầu ở bất cứ đâu chúng ta chọn: mọi biểu hiện sẽ dẫn chúng ta
theo cùng một hướng — hướng tới một động cơ, một giai điệu, mà đó nhân cách
sẽ được hình thành” (Adler, được trích dẫn trong Ansbacher & Ansbacher,
1956/1964, trang 332).
Con người được xem là đang áp dụng cách tiếp cận một cách chủ động, thay
phản ứng đơn thuần đối với môi trường hội của họ. Mặc dù các sự kiện trong môi
trường ảnh hưởng đến sự phát triển của nhân cách, nhưng những sự kiện đó không
phải là nguyên nhân khiến một người trở nên như thế nào; đúng hơn, chính cách
diễn giải của chúng ta về những sự kiện này sẽ hình thành nhân cách. Việc diễn giải
sai có thdẫn đến quan niệm sai lầm trong logic riêng của chúng ta, điều này sẽ ảnh
hưởng đáng kể đến hành vi hiện tại. Một khi chúng ta nhận thức được các khuôn
mẫu và tính liên tục của cuộc sống, chúng ta thể sửa đổi những giả định sai lầm
lOMoARcPSD| 61559320
đó thực hiện những thay đổi bản. Chúng ta thể đúc kết lại những trải nghiệm
thời thơ ấu và tạo ra một phong cách sống mới một cách có ý thức.
Mối quan tâm xã hội và ý thức cộng đồng
Social Interest and Community Feeling
Mối quan tâm hội ý thức cộng đồng (Gemeinschaftsgefühl) lẽ những khái
niệm quan trọng đặc biệt nhất của Adler (Ansbacher, 1992). Các thuật ngữ này
đề cập đến nhận thức của các cá nhân về việc trở thành một phần của cộng đồng con
người và thái độ của các cá nhân trong việc ứng xử với thế giới xã hội.
Mối quan tâm xã hội được coi như một chuỗi hành động của ý thức cộng đồng và
nó liên quan đến việc quan tâm đến người khác như quan tâm đến chính mình. Khái
niệm này liên quan đến khả năng hợp tác đóng góp cho một cái đó lớn hơn bản
thân mình (Milliren & Clemmer, 2006). Mối quan tâm của hội đòi hỏi chúng ta
phải có đủ liên hệ với hiện tại để tạo ra một bước tiến hướng tới một tương lai có ý
nghĩa, hay việc chúng ta sẵn sàng cho đi nhận lại, đồng thời phát triển năng lực
của mình để đóng góp cho phúc lợi của người khác phấn đấu sự tốt đẹp hơn
của nhân loại.
Quá trình xã hội hóa gắn liền với mối quan tâm xã hội bắt đầu từ thời thơ ấu và liên
quan đến việc giúp trẻ em tìm thấy một vị trí trong xã hội và có được cảm giác thân
thiết (Kefir, 1981). Mặc dù Adler coi mối quan tâm xã hội là bẩm sinh, ông cũng tin
rằng nó phải được học hỏi, phát triểnsử dụng. Adler đã đánh đồng mối quan tâm
xã hội với ý thức về bản dạng và sự đồng cảm với người khác: “nhìn bằng mắt của
người khác, nghe bằng tai của người khác, cảm nhận bằng trái tim của người khác”
(được trích dẫn trong Ansbacher & Ansbacher, 1979, tr 42; cũng xem Clark, 2007).
Đối với những nhà Adlerian, sự quan tâm của hội chỉ số trung tâm của sức khỏe
tinh thần. Những người quan tâm đến hội sẽ hướng sự phấn đấu của họ đến
những khía cạnh lành mạnh và hữu ích cho đời sống xã hội. Khi sự quan tâm của
hội phát triển, cảm giác thua kém xa lánh sẽ giảm đi. Mọi người thể hiện mối
quan tâm hội thông qua hoạt động chia sẻ, hợp tác, cùng tham gia vào lợi ích
chung và tôn trọng lẫn nhau (Carlson & Johnson, 2016).
lOMoARcPSD| 61559320
Tâm lý học cá nhân dựa trên một niềm tin cốt lõi rằng hạnh phúc và thành công của
chúng ta phần lớn liên quan đến skết nối xã hội này. Vì mọi người sinh sng trong
một hội, thực sự trong toàn thể nhân loại vậy nên sẽ khó để hiểu được
họ nếu tách ra khỏi bối cảnh xã hội đó. Chúng ta chủ yếu được thúc đẩy bởi mong
muốn được thuộc về. Ý thức cộng đồng – community feeling diễn tả ý thức về sự
kết nối với tất cả nhân loại quá khứ, hiện tại, tương lai sự tham gia đóng
góp để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Ý thức cộng đồng đưa đến một nhu cầu
tiến hóa về cảm giác được đón nhận (belonging), nó thể hiện lòng dũng cảm,
sự đồng cảm, sự quan tâm, lòng trắc ẩn, sự gắn bó và hợp tác (Bitter, 2012). Những
người thiếu ý thức cộng đồng scảm thấy chán nản cuối cùng trở thành kẻ
dụng trong cuộc sống. Chúng ta tìm kiếm một vị trí trong gia đình trong hội
để đáp ứng các nhu cầu bản về an toàn, sự chấp nhận kính trọng. Nhiều vấn
đề mà chúng ta gặp phải có liên quan đến nỗi sợ hãi không được chấp nhận bởi các
nhóm chúng ta coi trọng. Nếu cảm giác của chúng ta về sự đón nhận không được
đáp ứng thì sẽ dẫn đến kết quả sự lo âu. Chỉ khi chúng ta cảm thấy hòa hợp với
người khác, chúng ta mới được sự can đảm để đối mặt giải quyết các vấn đ
của mình (Adler, 1938/1964).
Những nhiệm vụ của cuộc đời
The Life Tasks
Adler đã dạy rằng chúng ta phải làm chủ được ba nhiệm vụ chung của cuộc sống:
xây dựng tình bạn (nhiệm vụ xã hội), thiết lập sự thân thiết (nhiệm vụ tình yêu hôn
nhân) và đóng góp cho hội (nhiệm vụ nghề nghiệp). Tất cả mọi người cần phải
giải quyết những nhiệm vụ này, bất kể tuổi tác, giới tính, thời điểm lịch sử, văn hóa
hoặc quốc tịch. Mỗi nhiệm vụ này đòi hỏi sự phát triển các năng lực tâm lý về tình
bạn sự đón nhận, sự đóng góp giá trị bản thân, sự hợp tác (Bitter, 2007).
Những nhiệm vụ cơ bản trong cuộc sống này quan trọng đến mức nếu làm không tốt
bất kỳ nhiệm vụ nào thường sẽ dẫn đến rối loạn tâm (Hiệp hội Tâm thần Hoa
Kỳ, 2013). Nhân cách của chúng ta là kết quả của những quan điểm mà chúng ta rút
ra trong các mối liên hệ với những nhiệm vtrong cuộc sống chúng ta phải
đương đầu (Bitter, 2012). Thông thường, khi mọi người tìm kiếm việc trị liệu, đó là
bởi vì họ chưa giải quyết được một hay nhiều những nhiệm vụ nêu trên . Mục đích
của trị liệu là khuyến khích thân chủ phát triển những mối quan tâm xã hội và điều
chỉnh phong cách sống để họ thể quản lý hiệu quả hơn từng nhiệm vụ của cuộc
đời(Carlson & Johnson, 2016).
lOMoARcPSD| 61559320
Hầu hết mọi người gặp khó khăn khi họ thiếu scan đảm tìm cách trốn tránh
những yêu cầu những nhiệm vụ của cuộc đời đặt ra. Adler (1929/1969) đã đưa
ra "Câu hỏi – The Question" như một phương thức đxác định nhiệm vụ nào là vấn
đề hay triệu chứng khả năng khiến người đó tránh. Lúc đầu, câu hỏi được
đặt ra là "Giả sử bạn đang cảm thấy khá ổn, bạn sẽ làm gì?" (tr. 201 – Trị liệu
Gestalt). Nếu người đó trả lời rằng nếu không lo âu thì anh ta sẽ hoàn thành hết
các bài kiểm tra trường, Adler biết rằng sự lo âu đó điều cần thiết đngười đó
tránh khả năng thất bại.
Thứ tự ra đời và mối quan hệ anh chị em ruột
Birth Order and Sibling Relationships
Cách tiếp cận Adler độc nhất trong việc dành sự quan tâm đặc biệt đến các mối
quan hgiữa anh chị em vtra đời (birth position) vkhóa cạnh tâm trong
gia đình của một nhân. Adler đã xác định năm góc nhìn tâm lý, hay các điểm
thuận lợi mà trẻ em có xu hướng dựa vào đó để nhìn nhận cuộc sống: lớn tuổi nhất,
thứ hai trong hai người, giữa, trẻ nhất duy nhất. Thứ tự ra đời không phải một
khái niệm tất định nhưng làm tăng khả năng một nhân được những trải nghiệm
nhất định. Thứ tự ra đời trong thực tế ít quan trọng hơn so với cách diễn giải của cá
nhân hoặc vị trí của đứa trẻ trong gia đình xét theo góc độ tâm lý. dụ, đứa con
thứ hai (trong số bốn đứa trẻ) có thể có những trải nghiệm với gia đình từ góc nhìn
tâm của đứa út nếu một đứa út khác được sinh ra sau 10 năm tiếp theo. Và đứa
con thứ ba có thể có trải nghiệm của đứa út nhất ở giai đoạn 10 năm đầu đời. Bởi vì
các nhà Adler xem hầu hết các vấn đề của con người, về bản chất, liên quan đến
các vấn đhội, họ nhấn mạnh các mối quan hệ trong gia đình như những hệ thống
xã hội sớm nhất và có lẽ có tầm ảnh hưởng nhất.
Adler (1931/1958) quan sát thấy nhiều người thắc mắc tại sao những đứa trẻ trong
cùng một gia đình thường khác nhau rất nhiều, và ông chỉ ra rằng thật là sai lầm khi
cho rằng những đứa trẻ trong cùng một gia đình được hình thành trong cùng một
môi trường. Mặc dù anh chị em có những góc nhìn chung trong cùng một chòm sao
gia đình, nhưng hoàn cảnh tâm của mỗi đứa trẻ lại khác với những đứa trẻ khác
do thứ tự ra đời. Dưới đây tả về ảnh hưởng của thứ tự ra đời dựa theo như
Ansbacher và Ansbacher (1964), Dreikurs (1953), và Adler (1931/1958).
lOMoARcPSD| 61559320
1. Đứa trẻ lớn nhất thường nhận được rất nhiều sự quan tâm, trong
thờigian đứa trẻ này con một, thường tỏ ra hơi ương bướng trung
tâm của sự chú ý. Đứa trẻ có xu hướng đáng tin cậy và làm việc chăm chỉ và
cố gắng vươn lên dẫn đầu. Tuy nhiên, khi một người anh hoặc chị mới được
sinh ra, đứa trẻ cảm thấy mình như bị lật đổ khỏi vị trí được ưu ái. Đứa trẻ
này không còn duy nhất hay đặc biệt nữa. Đứa trẻ thể dễ dàng tin rằng
người anh chị mới chào đời (hoặc kxâm phạm) sẽ cướp đi tình yêu mà mình
đã có. Thông thường, đứa trẻ skhẳng định vị trí của mình bằng cách trở
thành một đứa trẻ kiểu mẫu, chỉ huy dạy dỗ những đứa trẻ nhỏ hơn thể hiện
tính thành tích cao.
2. Đứa trẻ thứ hai (trong 2 đứa trẻ) ở một vị trí khác. Từ khi đứa trẻ được
sinh ra, nó đã phải chia sẻ sự quan tâm nhận được txung quanh với một đứa
trẻ khác. Một đứa trẻ thứ hai điển hình sẽ nh xử như thể đang trong một
cuộc đua nói chung luôn trong tình trạng cố gắng. Như thnhư đứa tr
thứ hai này đang trong một cuộc huấn luyện để vượt qua anh trai hoặc chị gái.
Cuộc chiến cạnh tranh này giữa hai đứa trẻ đầu tiên ảnh hưởng đến cuộc sống
sau này của chúng. Đứa trẻ nhỏ tuổi hơn phát triển khả năng tìm ra điểm yếu
của đứa trẻ lớn hơn và tiếp tục giành được lời khen ngợi từ cả cha mẹ và giáo
viên bằng cách đạt được những thành công trong khi người anh chị lớn hơn
đã thất bại. Nếu một người tài trong một lĩnh vực nhất định, người kia sẽ
cố gắng để được công nhận bằng cách phát triển các khả năng khác. Người
sinh thứ hai thường trái ngược với người sinh đầu tiên.
3. Đứa trẻ giữa thường có cảm giác bị vắt kiệt. Đứa trẻ này thể đặt
niềm tin vào skhông công bằng của cuộc sống cảm thấy mình đang bị
lừa dối. Đứa trẻ này có thể hình thành một thái độ “tôi kém cỏi” và có thể trở
thành một đứa trẻ vấn đề. Tuy nhiên, đặc biệt trong những gia đình mang
những đặc điểm xung đột, người con giữa thể trở thành người “tổng đài”
người hòa giải, người sgắn kết mi thứ lại với nhau. Nếu một gia đình
4 người con, đứa trẻ thứ hai thường cảm thấy mình là con giữa và đứa trẻ thứ
ba sẽ dễ tính hơn, hòa đồng hơn và có thể hòa hợp với đứa lớn nhất.
4. Em út luôn em của gia đình xu hướng được cưng chiều nhất.
Vì được nuông chiều hoặc chiều chuộng, đứa trẻ có thể phát triển sự bất lực -
lOMoARcPSD| 61559320
helplessness thành một loại hình nghệ thuật art form và trở nên thành thạo
trong việc khiến người khác nghe theo mình. Những đứa trẻ nhỏ nhất xu
hướng đi theo con đường riêng của chúng, thường phát triển theo những cách
mà những người khác trong gia đình không cố gắng hướng tới và có thể vượt
trội hơn tất cả mi người.
5. Đứa trẻ duy nhất (con một) có một vấn đề của riêng mình. Mặc dù đứa
trẻ một số đặc điểm tương đồng với đứa trẻ lớn nhất (ví dụ: thích thành
tích cao), nhưng trẻ thể không học cách chia sẻ hoặc hợp tác với những
đứa trẻ khác. Đứa trẻ sẽ học cách đương đầu và thỏa thuận tốt với người lớn,
vì họ là nhân tố tạo nên thế giới gia đình ban đầu. Thông thường, đứa trẻ duy
nhất được cha mẹ cưng chiều và có thtrở nên phụ thuc vào một hoặc cả hai
người. Đứa trẻ có thể luôn muốn có vị trí trung tâm, và nếu vị trí của mình b
ảnh hưởng thì đứa trẻ sẽ cảm thấy điều đó là không công bằng.
Thứ tự sinh và việc diễn giải vị trí của một đứa trẻ trong gia đình có liên quan rất
nhiều đến cách mà người trưởng thành tương tác với nhau trong cuộc sống. Các
nhân đinh hình một phong cách liên hnhất định với những người xung quanh
thời thơ ấu hình thành một bức tranh rõ ràng về bản thân mà họ sẽ mang vào áp
dụng cho những tương tác sau này ở tuổi trưởng thành. Trong liệu pháp Adler, thao
tác với những động lực đến từ gia đình – family dynamics, đặc biệt là các mối quan
hệ giữa anh chị em, đảm nhận một vai trò quan trọng. Tuy nhiên các nhà tâm
trường phái Adler không áp dng các mô tả về thứ tự ra đời một cách quá giáo điều.
Điều quan trọng nhất phải tránh hình thành nên các khuôn mẫu về các nhân,
nhưng một số xu hướng tính cách bắt đầu từ thời thơ ấu, liên sự ganh đua giữa
anh chị em ruột có thể ảnh hưởng đến các cá nhân trong suốt cuộc đời về sau.
Quy trình trị liệu/ The Therapeutic Process
Mục tiêu trị liệu/ Therapeutic Goals
vấn trị liệu Adlerian phụ thuộc vào sự sắp xếp hợp tác giữa khách hàng nhà
tư vấn. Nói chung, quá trình trị liệu bao gồm việc hình thành một mối quan hệ dựa
trên sự tôn trọng lẫn nhau; một cuộc điều tra tâm lý tổng thể hoặc đánh giá lối sống;
và tiết lộ những mục tiêu sai lầm và những giả định sai lầm trong phong cách sống
của một người. Tiếp theo việc đào tạo lại hoặc định hướng lại thân chủ vkhía
lOMoARcPSD| 61559320
cạnh hữu ích của cuộc sống. Mục đích chính của liệu pháp phát triển cảm giác
thân thuộc của thân chủ và hỗ trợ việc áp dụng các hành vi và quy trình được đặc
trưng bởi cảm giác cộng đồng mi quan tâm hội. Điều này được thực hiện
bằng cách nâng cao nhận thức về bản thân của khách hàng, đồng thời thách thức và
sửa đổi các tiền đbản, mục tiêu cuộc sống các khái niệm bản của họ
(Dreikurs, 1967, 1997).
Người Adlerian ủng hộ hình phát triển nhân cách, tập trung vào điểm mạnh
hạnh phúc, hơn là hình y tế dựa trên bệnh lý. Trọng tâm sức khỏe phòng
ngừa, không phải khắc phục. thuyết Adlerian một quan điểm lạc quan coi
mọi người là những người sáng tạo, độc đáo, có năng lực và có trách nhiệm (Watts,
2012, 2015). Thay vì bị mắc kẹt trong một số loại bệnh lý, Adlerian cho rằng khách
hàng thường không được khuyến khích. Quy trình trị liệu tập trung vào việc cung
cấp thông tin, giảng dạy, ớng dẫn khuyến khích những thân chủ nản lòng.
Khuyến khích là phương pháp mạnh mẽ nhất hiện để thay đổi niềm tin của một
người, giúp thân chủ xây dựng lòng ttin kích thích lòng can đảm. Dũng
cảm sự sẵn sàng hành động ngay cả khi sợ hãi theo những cách phù hợp với lợi
ích hội. Sợ hãi và can đảm song hành với nhau; không sợ hãi, sẽ không cần can
đảm. Sự mất can đảm hoặc sự chán nản dẫn đến hành vi sai lầm rối loạn chức
năng. Những người nản lòng xu hướng chỉ hành động phù hợp với lợi ích bản
thân nhận thức được của họ, điều này thường đi kèm với sự thiếu quan tâm của
hội.
vấn viên Adlerian cung cấp cho khách hàng hội để nhìn mọi thứ từ một góc
độ khác, tuy nhiên khách hàng sẽ quyết định chấp nhận một quan điểm thay thế
hay không. Adlerian hợp tác làm việc với khách hàng để giúp họ đạt được các mục
tiêu tự xác định. Adlerian giáo dục khách hàng những cách nhìn mới về bản thân,
người khác cuộc sống. Thông qua quá trình cung cấp cho khách hàng một “bản
đồ nhận thức” mới, hiểu biết cơ bản về mục đích của hành vi của họ, tư vấn viên h
trợ họ thay đổi nhận thức của nh. Maniacci, Sackett-Maniacci, Mosak (2014)
xác định những mục tiêu này cho quá trình giáo dục trị liệu:
- Thúc đẩy squan tâm của hội bằng cách giúp khách hàng kết nối
với
trách nhiệm của họ đối với cộng đồng của họ/ Giúp
thân chủ vượt qua cảm giác chán nản và tự ti/
- Sửa đổi lối sống của khách hàng theo hướng trở nên thích nghi, linh
hoạtvà xã hội hơn/
Thay đổi động cơ bị lỗi/
lOMoARcPSD| 61559320
- Khuyến khích sự bình đẳng chấp nhận bản thân những người
khác/
- Giúp mọi người trở thành thành viên đóng góp của cộng đồng thế giới/

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61559320 Trị liệu Adler Mục tiêu học tập
1. Mô tả các khái niệm chính của tiếp
cận Adler: hành vi có mục đích và
đính hướng tới mục tiêu, sự tự ti và
ưu việt, cái nhìn chủ quan về thực
tế, tính thống nhất về nhân cách,
lối sống và động lực.
2. Giải thích ý nghĩa của lợi ích xã
hội và chỉ ra vì sao nó đóng vai trò
một khái niệm nền tảng trong tiếp cận Adler
3. Xác định rõ các nhiệm vụ của cuộc
sống và giải thích các tác động đối
với việc thực hành các liệu pháp.
4. Miêu tả cách thức mà những người
theo trường phái Adler quan sát
thứ tự ra đời và các tác động từ quan hệ anh chị em.
5. Hiểu được vai trò của chòm sao
gia đình và những hồi tưởng đầu
đời trong việc đánh giá lối sống.
6. Giải thích mối quan hệ giữa nhà trị
liệu và thân chủ từ góc nhìn của trường phái Adler lOMoAR cPSD| 61559320
7. Mô tả bốn giai đoạn của quá trình trị liệu Adler
8. Xác định những yếu tố liên quan
trong việc đánh giá toàn diện một cá nhân.
9. Giải thích góc nhìn của những nhà
tâm lý theo trường phái Adler về
vai trò của phân tích trong quá trình trị liệu.
10. Miêu tả những yếu tố liên quan
đến quá trình tái định hướng và huấn luyện phục hồi (reeducation).
11. Mô tả các khía cạnh mà tiếp cận Adler có thể áp dụng
12. Xác định các điểm mạnh và hạn
chế của liệu pháp Adler từ quan điểm đa chiều
13. Hiểu được sự đóng góp đặc biệt
của tiếp cận Adler tới sự phát triển
của các phương thức tiếp cận tham vấn khác.
14. Chỉ ra tối thiểu một sự phản đối tiếp cận Adler. lOMoAR cPSD| 61559320
ALFRED ADLER (1870–1937) lớn lên trong một gia đình
ở Vienna gồm sáu anh em trai và hai chị em gái. Em trai của
Adler qua đời khi còn rất nhỏ trên trên chiếc giường bên
cạnh Alfred. Tuổi thơ của Adler không hề hạnh phúc; ông
thường bị ốm và nhận thức rõ rệt về cái chết. Khi lên 4 tuổi,
ông đã suýt chết vì bệnh viêm phổi, ông nghe bác sĩ nói với
cha mình rằng "Alfred đã mất”. Những điều ông trải qua
trong thời gian này đã đưa ông tới quyết định trở thành một
thầy thuốc. Bởi ông đã bị ốm rất nhiều trong những năm đầu
đời, Adler đã được mẹ rất cưng chiều. Ông đã phát triển một
mối quan hệ tin cậy với cha nhưng không cảm thấy gần gũi
với mẹ. Ông đã cực kỳ ghen tị với anh trai của mình là
Sigmund, dẫn đến một mối quan hệ căng thẳng giữa hai người trong suốt thời thơ ấu
và thiếu niên. Khi chúng ta xem xét mối quan hệ căng thẳng của Adler với Sigmund
Freud, chúng tôi không tránh được việc nghi ngờ rằng các đặc điểm từ chòm sao gia
đình đã được tái thiết lập trong mối quan hệ này.
Trải nghiệm thời thơ ấu của Adler có tác động đến sự hình thành học thuyết của ông.
Adler chủ động cuộc sống của mình hơn là phó mặc cho số phận. Adler luôn được
coi là thông minh, nhưng ông chỉ học vừa đủ để theo kịp ở trường cho đến một ngày
ông nhận ra rằng một giáo viên dạy toán không biết câu trả lời cho một câu hỏi mà
ông đặt ra. Adler đã đợi cho đến khi những học sinh giỏi nhất trả lời, và sau đó ông
ấy giơ tay và đứng lên. Mọi người cười nhạo ông ấy nhưng ông đã đưa ra được câu
trả lời đúng. Sau đó, ông ấy bắt đầu chuyên tâm và vươn lên đứng đầu lớp. Ông ấy
tiếp tục học y học tại Đại học Vienna, tham gia thực tập cá nhân như một bác sĩ nhãn
khoa, và sau đó chuyển sang y học tổng hợp. Cuối cùng ông học chuyên sâu về lĩnh
vực thần kinh và tâm thần học, và ông ấy rất quan tâm đến những bệnh nan y của trẻ nhỏ.
Adler đã trải qua chủ nghĩa bài Do Thái và nỗi kinh hoàng của Thế chiến I. Những
trải nghiệm và bối cảnh chính trị xã hội của thời đó đã góp phần hình thành quan
điểm của ông về chủ nghĩa nhân văn và sự cần thiết trong việc phối hợp giữa các cá
nhân . Ông nhận thức sâu sắc về tác động bối cảnh và văn hóa lên nhân cách con
người, và lý thuyết của ông xuất phát từ nhận thức này. lOMoAR cPSD| 61559320
Adler có một mối quan tâm sâu sắc về những người bình dân và phê bình thẳng thắn
hoạt động nuôi dạy trẻ, cải cách trường học và định kiến dẫn đến những xung đột.
Ông sử dụng ngôn ngữ nói và viết một cách đơn giản, không mang tính học thuật và
ông trợ giúp trẻ em đang phải đối mặt với các nguy cơ, ủng hộ quyền của phụ nữ,
bình đẳng giới, giáo dục người trưởng thành, sức khỏe tinh thần cộng đồng, tham
vấn gia đình, và trị liệu ngắn hạn (Watts, 2012).
Adler’s (1927/1959) “Hiểu Bản chất Con người” là cuốn sách tâm lý học lớn đầu
tiên bán được hàng trăm hàng nghìn bản tại Hoa Kỳ. Sau khi phục vụ Thế chiến thứ
nhất với tư cách là một sĩ quan y tế, Adler đã thành lập 32 cơ sở định hướng trẻ ở
các trường học công cộng tại Vienna và bắt đầu đào tạo giáo viên, nhân viên xã hội,
bác sĩ, và các chuyên gia khác. Ông đã đi tiên phong trong việc thực hiện các hình
thức đào tạo chuyên nghiệp thông qua các buổi giảng dạy trực tiếp với cha mẹ và
con cái trước số lượng lớn người tham dự, hiện được gọi là tham vấn gia đình “diễn
đàn mở”. Các phòng trị liệu do ông thành lập ngày càng tăng và trở nên phổ biến,
và ông không ngừng nỗ lực trong việc giảng dạy và truyền bá tư tưởng của mình.
Mặc dù Adler có một lịch trình làm việc dày đặc trong phần lớn cuộc đời hành nghề,
ông vẫn dành ra thời gian để ca hát, thưởng thức âm nhạc và giao lưu với bạn bè.
Giữa những năm 1920, ông bắt đầu giảng dạy ở Hoa Kỳ, và sau đó ông thường
xuyên có những chuyến đến thăm và du lịch tại đây. Ông phớt lờ lời cảnh báo của
bạn bè về việc giảm cường độ hoạt động, và vào ngày 28 tháng 5 năm 1937, trong
khi đi dạo trước giờ giảng dạy ở Aberdeen, Scotland, Adler gục ngã và chết vì suy tim.
Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về cuộc đời của Adler, bạn tìm cuốn tiểu sử xuất sắc
của Edward Hoffman’s (1996), The Drive For Self. Để biết thêm về các bài viết của
Adler và ý nghĩa của chúng trong xã hội hiện đại, hãy xem tác phẩm của Jon Carlson
và Michael Maniacci (2012), Alfred Adler Revisited. lOMoAR cPSD| 61559320
JON D. CARLSON (sinh năm 1945) lớn lên ở vùng ngoại ô
Chicago và là con út trong một gia đình có 4 người con. Là
con út ở nhà và ở trường, anh phải vật lộn với sự thua kém về
bản thân. Theo Adler, những đứa trẻ nhỏ tuổi nhất cố gắng
thuộc về thế giới người lớn và sống quá mức, và Carlson phù
hợp với khuôn mẫu đó. Khi còn trẻ, anh mắc bệnh hen suyễn
và dị ứng nghiêm trọng khiến anh thường xuyên phải ở nhà,
nhưng cuối cùng anh đã “vượt qua” các vấn đề về hô hấp và
được bù đắp bằng cách trở thành vận động viên chạy cự ly và
huấn luyện viên đại học, giành được một số giải thưởng quốc
gia. Ông đã viết hoặc hiệu chỉnh hơn 60 cuốn sách và 300
video đào tạo chuyên nghiệp và có hơn 60.000 giờ thực hành
lâm sàng. Ông đã có hai bằng tiến sĩ về tham vấn và tâm lý học lâm sàng, cũng như
Chứng chỉ Tâm lý trị liệu danh giá của Trường Adler ở Chicago.
Hiện nay, Jon Carlson giữ chức vụ Giáo sư xuất sắc về Tâm lý học Adler tại Đại học
Adler ở Chicago. Carlson đã nhận được giải thưởng đóng góp trọn đời từ APA, ACA
và NASAP và được ACA đặt tên là “Huyền thoại sống trong lĩnh vực tham vấn” vào năm 2004.
Carlson tin rằng các nhà tham vấn chuyên nghiệp và nhà trị liệu tâm lý phải là những
hình mẫu về sức khỏe tâm thần và xác thực trong tất cả những gì họ làm và nói, dù
ở trong phòng tư vấn hay bên ngoài. “Tôi tự hào vì đã kết hôn với Laura trong 5 thập
kỷ và có mối quan hệ tốt với cả 5 đứa con của chúng tôi. Tôi đã có hơn 30 năm với
tư cách là cố vấn học đường / nhà tâm lý học trong trường công lập. Tôi đã thực
hành như một cặp vợ chồng và nhà trị liệu gia đình và đã tham gia vào giảng viên
của Hội nghị Tiến hóa Tâm lý trị liệu thể hiện liệu pháp tâm lý theo quan điểm của Adler”.
Carlson nghi ngờ rằng ngay cả bản thân Adler cũng sẽ là một Adlerian ngày nay.
Trong nghiên cứu của Carlson với tư cách là biên tập viên của Tạp chí Tâm lý Cá
nhân và là diễn giả chính tại một số hội nghị của Adlerian, ông đã khuyến khích các
chuyên gia “vượt ra khỏi Adler” và kết hợp các ý tưởng của Adler với nhiều phương
pháp tiếp cận có giá trị khác trong tư vấn và trị liệu tâm lý đương đại. lOMoAR cPSD| 61559320
JAMES ROBERT BITTER (sinh năm 1947), đồng tác giả
của chương này, là một trong những các nhân vật đương đại
trong liệu pháp Adlerian. Ông lớn lên ở Wenatchee,
Washington, là con lớn trong hai người con, cả hai đều được nhận làm con nuôi.
Khi còn học trung học, Manford Sonstegard, một học sinh
và đồng nghiệp của Rudolf Dreikurs, thành lập trung tâm giáo dục gia đình trong thị
trấn của mình. Sonstegard người sau này trở thành cố vấn của Bitter, dạy anh ta làm
thế nào để trở thành một nhân viên tư vấn hiệu quả.
Mẹ của Bitter chết vì ung thư khi ông 14 tuổi, và ông thấy mình chỉ có thể là chính
mình ở trường trung học và đại học. Sau năm thứ hai của mình ở trường đại học mà
không đạt được gì, một người bạn đã yêu cầu ông học nghiêm túc và chịu trách
nhiệm về cuộc sống của mình. Bitter đã bắt đầu có được kết quả trong cả công việc
học tập và các hoạt động ngoại khóa.
Được sự giới thiệu bởi Giáo sư Tom Edgar về tham vấn gia đình của Adler vào những
năm 1970, Bitter và các sinh viên khác tại Đại học Bang Idaho đã mở trung tâm giáo
dục gia đình đầu tiên ở Idaho. Bitter nhận bằng thạc sĩ và tiến sĩ tại Đại học Bang
Idaho, sau đó nhận công việc tại Đại học West Virginia trong một chương trình tham
vấn do Manford Sonstegard chủ trì. Trong 13 năm tiếp theo, họ đã cùng nhau giảng
dạy các khóa học, tổ chức hội thảo và hội nghị, viết bài và biên tập tạp chí, đồng
thời phát triển mô hình Adlerian cho các nhóm tham vấn (Sonstegard & Bitter, 2004).
Sau một khóa đào tạo kéo dài một tháng do Virginia Satir dẫn dắt vào năm 1979,
Bitter đã trở thành một phần của Mạng AVANTA của Satir. Trong chín năm tiếp theo,
Bitter đã giúp dẫn dắt các buổi đào tạo của Satir. Năm 1987, Satir đến Đại học Bang
California tại Fullerton để giúp Bitter bắt đầu một kỷ nguyên mới trong chương trình
tư vấn ở đó. Tại Fullerton Bitter đã gặp lOMoAR cPSD| 61559320
Jerry Corey, người đã khuyến khích Bitter đóng góp vào cuốn sách này cũng như
viết sách của riêng mình, một trong số đó là Lý thuyết và Thực hành về Trị liệu Gia
đình và Tư vấn (Bitter, 2014). Sự hợp tác và tình bạn này với Corey đã tiếp tục trong
hơn một phần tư thế kỷ. Bitter sẽ là chủ tịch của Hiệp hội Tâm lý học Adlerian Bắc
Mỹ (NASAP) vào năm 2017 và 2018.
Bitter là một nhà tổng hợp Adlerian, giống như bạn của ông, Jon Carlson. Anh ấy
tổng hợp những ý tưởng thu thập được từ những người khác, nhưng nền tảng vẫn là
hệ thống thực hành trị liệu của tâm lý học Adler. Bitter tin rằng sự nhấn mạnh của
Adler về tầm quan trọng của cảm giác cộng đồng và hành động với lợi ích xã hội là
những gì đảm bảo sức khỏe tinh thần và giúp mọi người vượt qua cảm giác tự ti và
nhận thức được vị trí trong xã hội. Trong chương nay, Bitter đã mang triết lý và kinh
nghiệm thực tế của mình để thảo luận về lý thuyết và thực hành của Adler. Giới thiệu Introduction
Cùng với Freud và Jung, Alfred Adler là người đóng góp lớn vào sự phát triển ban
đầu của phương pháp tâm lý học hoạt động trong trị liệu. Sau một thập kỷ hợp tác,
Freud và Adler tách ra, Freud tuyên bố rằng Adler là một kẻ dị giáo đã bỏ rơi anh ta.
Adler từ chức chủ tịch Hiệp hội Phân tâm học Vienna vào năm 1911 và thành lập
Hiệp hội Tâm lý học Cá nhân vào năm 1912. Sau đó Freud khẳng định rằng không
thể ủng hộ các khái niệm của Adlerian và vẫn giữ vững vị thế là một nhà phân tâm học.
Sau đó, một số nhà phân tâm học khác đã đi chệch quan điểm chính thống của
Freud. Những người theo chủ nghĩa cải cách trường phái Phân tâm - bao gồm Karen
Horney, Erich Fromm và Harry Stack Sullivan - đồng ý rằng các yếu tố quan hệ, xã
hội và văn hóa có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách. Mặc dù ba nhà trị
liệu này thường được gọi là tân phân tâm (Neo-Freudians), nhưng sẽ thích hợp hơn,
như Heinz Ansbacher (1979) đã gợi ý, gọi họ là tân Adlerian vì họ rời xa quan điểm
sinh học và quan điểm tất định của Freud và hướng tới quan điểm tâm lý học xã hội
và mục đích luận-teleogical (hoặc định hướng có mục tiêu) về bản chất con người. lOMoAR cPSD| 61559320
Adler nhấn mạnh tính thống nhất của nhân cách, cho rằng con người chỉ có thể được
hiểu là những sinh vật hợp nhất và hoàn chỉnh (integrate & complete). Quan điểm
này cũng tán thành bản chất có tính mục đích của hành vi, nhấn mạnh rằng chúng ta
đến từ đâu không quan trọng bằng việc chúng ta đang phấn đấu để đi đến đâu. Adler
coi mọi người vừa là đấng sáng tạo vừa là những sáng tạo trong cuộc sống của chính
họ; nghĩa là, mỗi người phát triển một phong cách sống riêng vừa là sự chuyển động
hướng tới vừa là một biểu hiện của các mục tiêu đã chọn. Theo nghĩa này, chúng ta
tạo ra chính mình chứ không chỉ đơn thuần được định hình bởi những trải nghiệm
thời thơ ấu của chúng ta.
Sau cái chết của Adler năm 1937, Rudolf Dreikurs là người có dấu ấn nhất trong
việc đưa tâm lý học cá nhân đến Hoa Kỳ, đặc biệt là khi các nguyên lý của trường
phái này được áp dụng trong việc giáo dục, nuôi dạy con cái, trị liệu cá nhân, trí liệu
nhóm cũng như tham vấn gia đình. Dreikurs được ghi nhận là người đã thúc đẩy ý
tưởng về các trung tâm hỗ trợ trẻ em (child guidance centers) và đào tạo các chuyên
gia để họ có thể làm việc với nhiều nhóm khách hàng khác nhau (Terner & Pew, 1978). Khái niệm chính Key Concepts
Quan điểm về bản chất con người View of Human Nature
Adler đã từ bỏ các lý thuyết cơ bản của Freud vì ông tin rằng Freud đã quá hạn hẹp
khi nhấn mạnh vào những yếu tố sinh học và bản năng. Adler tin rằng cá nhân bắt
đầu hình thành cách tiếp cận cuộc sống ở đâu đó trong khoảng sáu năm đầu đời. Ông
tập trung vào quá khứ của một người như thể nó đang được nhận thức trong hiện tại
và xem xét việc phân tích các sự kiện đầu đời của một cá nhân sẽ tiếp tục ảnh hưởng
đến hành vi hiện tại của người đó theo cách như thế nào. Theo Adler, con người
được thúc đẩy chủ yếu bởi mối quan hệ xã hội hơn là bởi những xung năng tình dục;
hành vi mang tính chủ định và hướng tới mục tiêu; và ý thức, hơn là vô thức. Và đây
là điểm trọng tâm của liệu pháp. Adler nhấn mạnh đến sự lựa chọn và trách nhiệm,
ý nghĩa của cuộc sống và sự phấn đấu để đạt được thành công, sự hoàn thiện và sự
hoàn hảo. Adler và Freud đã hình thành những lý thuyết rất khác nhau, mặc dù cả lOMoAR cPSD| 61559320
hai người đều lớn lên ở cùng một thành phố trong cùng một thời đại và được đào tạo
như những bác sĩ tại cùng một trường đại học. Những trải nghiệm thời thơ ấu mang
tính cá nhân và riêng biệt, đi kèm với những trắc trở trong cuộc sống và cả những
người mà họ đã làm việc cùng là những yếu tố quan trọng trong việc phát triển các
quan điểm cụ thể của họ về bản chất của con người (Schultz & Schultz, 2013).
Lý thuyết của Adler bắt đầu bằng việc xem xét cảm giác thua kém thứ mà ông coi là
tình trạng bình thường của tất cả mọi người và là nguồn gốc của sự phấn đấu của tất
cả con người. Thay vì được coi là một dấu hiệu của sự yếu kém hoặc bất thường,
cảm giác thua kém có thể là nguồn gốc của sự sáng tạo. Chúng thúc đẩy chúng ta
cố gắng vươn lên để làm chủ, thành công (vượt trội) và hoàn thiện. Chúng ta được
thúc đẩy để vượt qua cảm giác thua kém và phấn đấu để ngày càng có trình độ phát
triển cao hơn (Ansbacher & Ansbacher, 1956/1964). Thật vậy, vào khoảng 6 tuổi, ảo
tuởng hư cấu về bản thân là hoàn hảo và toàn vẹn của chúng bắt bắt đầu chuyển biến
thành các mục tiêu của cuộc sống. Mục tiêu cuộc sống định hình nhân cách và trở
thành nguồn động lực của con người; mọi sự phấn đấu và nỗ lực để vượt qua mặc
cảm giờ đây trở nên phù hợp với những mục tiêu này.
Theo quan điểm của trường phải Adler, hành vi của con người không được xác định
bởi đặc tính di truyền hay môi trường. Thay vào đó, chúng ta có khả năng hiểu được,
tác động và tạo ra các sự kiện. Adler khẳng định rằng gen và di truyền không quan
trọng bằng việc chúng ta chọn làm gì với những khả năng và những giới hạn mà
chúng ta đang có. Freud cho rằng mọi người được định hình một cách cố định bởi
những trải nghiệm đầu đời của họ, trong khi Adler tin rằng mọi người có thể thay
đổi thông qua học tập xã hội. Mặc dù những người theo trường phái Adler bác bỏ
lập trường tất định, nhưng họ không hướng tới thái cực còn lại và khẳng định rằng
các cá nhân có thể trở thành bất kỳ ai mà họ muốn. Người Adlerian nhận ra rằng các
điều kiện sinh học và môi trường hạn chế khả năng lựa chọn và sáng tạo của con người.
Các nhà tâm lý theo trường phái Adler đặt trọng tâm vào việc huấn luyện phục hồi
(reeducation) các cá nhân và tái thiết lập xã hội. Adler là người đi đầu của một
phương pháp tiếp cận chủ quan đối với tâm lý học, trong đó ông tập trung vào các
yếu tố quyết định nội tại của hành vi như hệ giá trị, niềm tin, thái độ, mục tiêu, sở
thích và nhận thức của cá nhân về hiện thực. Ông là người tiên phong trong phương lOMoAR cPSD| 61559320
thức tiếp cận toàn diện, có tính xã hội, có định hướng mục tiêu, có hệ thống và mang
tính nhân văn. Adler là nhà trị liệu hệ thống đầu tiên (systemic therapist): ông khẳng
định rằng ta cần xem xét mọi người trong một hệ thống (system) mà họ đang sống trong đó.
Nhận thức chủ quan về thực tế
Subjective Perception of Reality
Adlerian cố gắng nhìn thế giới từ hệ quy chiếu chủ quan của thân chủ, một định
hướng được mô tả với thuật ngữ hiện tượng luận (phenomenological). Chú ý đến
cách mà cá nhân nhìn nhận thế giới của họ, được gọi là "thực tế chủ quan (subjective
reality)", bao gồm nhận thức, suy nghĩ, cảm xúc, giá trị, niềm tin, niềm tin và kết
luận của cá nhân. Hành vi được nhìn nhận từ góc nhìn thuận lợi của khía cạnh chủ
quan này. Theo quan điểm của Adlerian, hiện thực khách quan ít quan trọng hơn
cách chúng ta diễn giải chúng và những ý nghĩa mà chúng ta gán vào những trải nghiệm.
Sự thống nhất và các khuôn mẫu của nhân cách
Unity and Patterns of Human Personality
Adler đã chọn cái tên Tâm lý học cá nhân (từ tiếng Latinh, riêng lẻ, có nghĩa là
không thể phân chia) cho phương pháp tiếp cận lý thuyết của mình vì ông muốn
tránh những phân chia theo thuyết giản lược của Freud như cái ấy, cái tôi và cái siêu
tôi. Đối với Adler, Tâm lý học Cá nhân có nghĩa là tâm lý học không thể phân tách.
Adler nhấn mạnh sự thống nhất và không thể tách rời của con người và nhấn mạnh
việc hiểu toàn bộ con người trong bối cảnh cuộc sống của họ — cách con người như
là tổng hợp của các bộ phận đc kết nối với nhau và cách tất cả các thành phần này
được thống nhất bởi sự vận động của cá nhân hướng tới các mục tiêu sống. Khái
niệm toàn diện (holistic concept)
này ngụ ý rằng các cá nhân không thể được nhìn
nhận theo từng phần riêng lẻ; đúng hơn, tất cả các khía cạnh của bản thân chúng ta
phải được hiểu trong mối quan hệ với bối cảnh xã hội bao gồm gia đình, văn hóa,
trường học và nơi làm việc (Carlson & Johnson, 2016). Chúng ta là những sinh vật
xã hội, sáng tạo, có khả năng ra quyết định, hành động có mục đích và không thể
được thấu hiểu nếu tách rời khỏi những bối cảnh có ý nghĩa trong cuộc sống
(Sherman & Dinkmeyer, 1987). lOMoAR cPSD| 61559320
Nhân cách con người trở nên thống nhất thông qua sự phát triển của một mục tiêu
sống (life goal). Suy nghĩ, cảm xúc, niềm tin, niềm tin, thái độ, tính cách và hành
động của một cá nhân là những biểu hiện về tính độc đáo của họ. Và tất cả đều phản
ánh một kế hoạch của cuộc sống, điều mà đưa chúng ta đến gần với mục tiêu mà bản
thân đã lựa chọn. Hàm ý của quan điểm toàn diện về nhân cách là thân chủ là một
bộ phận cấu thành của một hệ thống xã hội. Người ta chú trọng nhiều hơn đến các
mối quan hệ giữa các cá nhân hơn là vào các động lực tâm lý nội tại của mỗi cá nhân.
Hành vi có mục đích và định hướng mục tiêu
Behavior as Purposeful and Goal Oriented
Tâm lý học Cá nhân giả định rằng tất cả các hành vi của con người đều có mục đích
và mục đích này là nền tảng của học thuyết Adler. Adler đã thay thế những lời giải
thích mang tính tất định bằng những lời giải thích mang tính mục đích luận (có chủ
đích, hướng đến mục tiêu). Một giả định cơ bản của Tâm lý cá nhân là suy nghĩ, cảm
nhận và hành động của chúng ta phải có liên quan đến mục tiêu của chúng ta; con
người có thể được nhìn thấu một cách đầy đủ chỉ khi biết các mục đích và mục tiêu
mà chúng ta đang phấn đấu để thực hiện. Mặc dù các nhà tâm lý theo trường phái
Adler quan tâm đến tương lai, nhưng họ không coi nhẹ tầm quan trọng của những
ảnh hưởng trong quá khứ. Họ cho rằng hầu hết các quyết định đều dựa trên những
trải nghiệm của một người, dựa vào hoàn cảnh ở hiện tại và con đường mà người đó
đang hướng tới — trong đó những điều sau thì quan trọng hơn. Họ tìm kiếm tính
liên tục bằng cách chú ý đến các bối cảnh xuyên suốt cuộc đời của một người.
Adler chịu ảnh hưởng của nhà triết học Hans Vaihinger (1965), người đã cho rằng
rằng mọi người thường sống theo những hư cấu (hoặc quan điểm về việc thế giới
nên diễn ra như thế nào). Mọi người hình thành các giả định về nhận thức (hoặc hư
cấu) đóng vai trò như một tấm bản đồ về thế giới. Các nhà tâm lý Adlerian sử dụng
thuật ngữ cái kết hư cấu để ám chỉ một mục tiêu cuộc đời trong tưởng tượng, đây
là thứ sẽ định hướng hành vi của một cá nhân. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Adler đã
ngừng sử dụng thuật ngữ này và thay thế nó bằng "định hướng về cái tôi lý tưởng
(guiding self-ideal)" và "mục tiêu hướng đến sự hoàn hảo (goal of perfection)" để
giải thích cho việc chúng ta phấn đấu hướng tới sự vượt trội hoặc hoàn hảo. Khái
niệm phấn đấu cho sự hoàn hảo của Adler có nghĩa là phấn đấu để đạt được năng
lực cao hơn, không chỉ cho bản thân mà còn vì lợi ích chung của người khác (Bitter, lOMoAR cPSD| 61559320
2012; Watts, 2012). Ngay khi còn nhỏ, chúng ta bắt đầu hình dung mình sẽ trở nên
như thế nào nếu chúng ta thành công, hoàn thiện, đầy đủ hoặc hoàn hảo.
Nếu gắn liền điều này với động lực của con người, việc định hướng về cái tôi lý
tưởng có thể được thể hiện theo cách như sau: "Chỉ khi tôi hoàn hảo, tôi mới có thể
được hạnh phúc và an toàn" hoặc "Chỉ khi tôi là một cá nhân quan trọng, tôi mới
được chấp nhận." Việc định hướng về cái tôi lý tưởng là hiện diện của một hình ảnh
gắn liền với mục tiêu về sự hoàn hảo, vì vậy một cá nhân sẽ phấn đấu trong bất kỳ
hoàn cảnh cụ thể nào. Nhờ có mục tiêu cuối cùng chủ quan (subjective final goal),
chúng ta hình thành năng lực sáng tạo để lựa chọn những gì chúng ta cho là đúng,
lựa chọn cách chúng ta sẽ hành xử và cách chúng ta diễn giải các sự kiện.
Phấn đấu cho sự quan trọng và vượt trội
Striving for Significance and Superiority
Adler nhấn mạnh rằng khi sinh ra chúng ta đã nhận ra cảm giác thua kém, theo sau
đó là những phấn đấu để đạt được sự hoàn hảo hoặc tính ưu thế (Ansbacher &
Ansbacher, 1979); đó là hai mặt của một vấn đề. Để hiểu được hành vi của con
người, chúng ta cần phải nắm được ý nghĩa về những thua kém cơ bản và sự bù đắp.
Từ những năm đầu đời, chúng ta cần người lớn chắm sóc cho chúng ta, nhưng đây
không phải là yếu tố tiêu cực trong cuộc sống. Theo Adler, vào thời điểm chúng ta
cảm nhận được sự thua kém, chúng ta cũng được thôi thúc bởi nỗ lực vượt trội. Ví
dụ, khi trẻ tập đi hoặc lấy bút màu, thường có một nụ cười chiến thắng hoặc tiếng
hét đi kèm. Chiến thắng sự tự ti này là một bước đi trên con đường phấn đấu vươn
lên. Adler khẳng định rằng mục tiêu thành công sẽ thúc đẩy mọi người tiến tới tính
ưu thế và cho phép họ vượt qua những trở ngại.
Mục tiêu về sự vượt trội góp phần vào sự phát triển của cộng đồng loài người. Tuy
nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là "vượt trội", như Adler sử dụng, không nhất thiết
có nghĩa là vượt trội hơn những người khác. Thay vào đó, nó có nghĩa là di chuyển
từ mức nhận thức thấp hơn (điểm âm) tới mức tốt hơn (điểm dương) trong mối quan
hệ với bản thân. Mọi người đương đầu với cảm giác bất lực bằng cách phấn đấu để
đạt được năng lực, khả năng làm chủ bản thân và sự hoàn thiện. Ví dụ, họ có thể tìm
cách thay đổi điểm yếu thành điểm mạnh, hoặc cố gắng trở nên xuất sắc trong một
lĩnh vực để bù đắp những khiếm khuyết trong các lĩnh vực khác. Những cách thức
riêng biệt mà mọi người phát triển để đạt được tiềm năng là điều sẽ tạo nên cá tính lOMoAR cPSD| 61559320
hoặc lối sống của họ. Cách Adler phản ứng với những trải nghiệm mất mát, bị chối
bỏ và điểm kém trong học tập thời thơ ấu và thanh thiếu niên là một ví dụ sống động
về khía cạnh này trong lý thuyết của ông. Lối sống Lifestyle
Sự chuyển biến từ điểm tiêu cực tới điểm tích cực là kết quả của việc phát triển một
mục tiêu cuộc đời, từ đó hợp nhất nhân cách cũng như những giả định và niềm tin
cốt lõi của cá nhân. Những niềm tin và giả định cốt lõi này định hướng sự vận động
của mỗi người trong suốt cuộc đời và thiết lập hiện thực của họ, mang lại ý nghĩa
cho các sự kiện trong cuộc sống. Adler gọi sự chuyển biến này là “phong cách sống
- lifestyle” của cá nhân. Các từ đồng nghĩa của thuật ngữ này bao gồm “kế hoạch
cuộc đời”, “phong cách sống”, “chiến lược sống” và “lộ trình của cuộc đời”. Phong
cách sống
, thường được mô tả là nhận thức của chúng ta về bản thân, người khác và
thế giới, bao gồm các chủ đề và các quy tắc tương tác mang lại ý nghĩa cho hành
động của chúng ta. Đó là xu hướng suy nghĩ, hành động, cảm nhận, nhận thức và
sống đặc trưng của mỗi chúng ta (Carlson & Johnson, 2016).
Adler xem con người như những diễn viên, người sáng tạo và nghệ sĩ. Hiểu được lối
sống của một người cũng giống như hiểu được phong cách của một nhà soạn nhạc:
“Chúng ta có thể bắt đầu ở bất cứ đâu chúng ta chọn: mọi biểu hiện sẽ dẫn chúng ta
theo cùng một hướng — hướng tới một động cơ, một giai điệu, mà ở đó nhân cách
sẽ được hình thành” (Adler, được trích dẫn trong Ansbacher & Ansbacher, 1956/1964, trang 332).
Con người được xem là đang áp dụng cách tiếp cận một cách có chủ động, thay vì
phản ứng đơn thuần đối với môi trường xã hội của họ. Mặc dù các sự kiện trong môi
trường ảnh hưởng đến sự phát triển của nhân cách, nhưng những sự kiện đó không
phải là nguyên nhân khiến một người trở nên như thế nào; đúng hơn, chính cách
diễn giải của chúng ta về những sự kiện này sẽ hình thành nhân cách. Việc diễn giải
sai có thể dẫn đến quan niệm sai lầm trong logic riêng của chúng ta, điều này sẽ ảnh
hưởng đáng kể đến hành vi hiện tại. Một khi chúng ta nhận thức được các khuôn
mẫu và tính liên tục của cuộc sống, chúng ta có thể sửa đổi những giả định sai lầm lOMoAR cPSD| 61559320
đó và thực hiện những thay đổi cơ bản. Chúng ta có thể đúc kết lại những trải nghiệm
thời thơ ấu và tạo ra một phong cách sống mới một cách có ý thức.
Mối quan tâm xã hội và ý thức cộng đồng
Social Interest and Community Feeling
Mối quan tâm xã hội và ý thức cộng đồng (Gemeinschaftsgefühl) có lẽ là những khái
niệm quan trọng và đặc biệt nhất của Adler (Ansbacher, 1992). Các thuật ngữ này
đề cập đến nhận thức của các cá nhân về việc trở thành một phần của cộng đồng con
người và thái độ của các cá nhân trong việc ứng xử với thế giới xã hội.
Mối quan tâm xã hội được coi như một chuỗi hành động của ý thức cộng đồng và
nó liên quan đến việc quan tâm đến người khác như quan tâm đến chính mình. Khái
niệm này liên quan đến khả năng hợp tác và đóng góp cho một cái gì đó lớn hơn bản
thân mình (Milliren & Clemmer, 2006). Mối quan tâm của xã hội đòi hỏi chúng ta
phải có đủ liên hệ với hiện tại để tạo ra một bước tiến hướng tới một tương lai có ý
nghĩa, hay việc chúng ta sẵn sàng cho đi và nhận lại, đồng thời phát triển năng lực
của mình để đóng góp cho phúc lợi của người khác và phấn đấu vì sự tốt đẹp hơn của nhân loại.
Quá trình xã hội hóa gắn liền với mối quan tâm xã hội bắt đầu từ thời thơ ấu và liên
quan đến việc giúp trẻ em tìm thấy một vị trí trong xã hội và có được cảm giác thân
thiết (Kefir, 1981). Mặc dù Adler coi mối quan tâm xã hội là bẩm sinh, ông cũng tin
rằng nó phải được học hỏi, phát triển và sử dụng. Adler đã đánh đồng mối quan tâm
xã hội với ý thức về bản dạng và sự đồng cảm với người khác: “nhìn bằng mắt của
người khác, nghe bằng tai của người khác, cảm nhận bằng trái tim của người khác”
(được trích dẫn trong Ansbacher & Ansbacher, 1979, tr 42; cũng xem Clark, 2007).
Đối với những nhà Adlerian, sự quan tâm của xã hội là chỉ số trung tâm của sức khỏe
tinh thần. Những người quan tâm đến xã hội có sẽ hướng sự phấn đấu của họ đến
những khía cạnh lành mạnh và hữu ích cho đời sống xã hội. Khi sự quan tâm của xã
hội phát triển, cảm giác thua kém và xa lánh sẽ giảm đi. Mọi người thể hiện mối
quan tâm xã hội thông qua hoạt động chia sẻ, hợp tác, cùng tham gia vào lợi ích
chung và tôn trọng lẫn nhau (Carlson & Johnson, 2016). lOMoAR cPSD| 61559320
Tâm lý học cá nhân dựa trên một niềm tin cốt lõi rằng hạnh phúc và thành công của
chúng ta phần lớn liên quan đến sự kết nối xã hội này. Vì mọi người sinh sống trong
một xã hội, và thực sự là trong toàn thể nhân loại vậy nên sẽ khó để mà hiểu được
họ nếu tách ra khỏi bối cảnh xã hội đó. Chúng ta chủ yếu được thúc đẩy bởi mong
muốn được thuộc về. Ý thức cộng đồng – community feeling diễn tả ý thức về sự
kết nối với tất cả nhân loại — quá khứ, hiện tại, tương lai — và sự tham gia đóng
góp để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Ý thức cộng đồng đưa đến một nhu cầu
tiến hóa về cảm giác được đón nhận (belonging), và nó thể hiện ở lòng dũng cảm,
sự đồng cảm, sự quan tâm, lòng trắc ẩn, sự gắn bó và hợp tác (Bitter, 2012). Những
người thiếu ý thức cộng đồng sẽ cảm thấy chán nản và cuối cùng trở thành kẻ vô
dụng trong cuộc sống. Chúng ta tìm kiếm một vị trí trong gia đình và trong xã hội
để đáp ứng các nhu cầu cơ bản về an toàn, sự chấp nhận và kính trọng. Nhiều vấn
đề mà chúng ta gặp phải có liên quan đến nỗi sợ hãi không được chấp nhận bởi các
nhóm mà chúng ta coi trọng. Nếu cảm giác của chúng ta về sự đón nhận không được
đáp ứng thì sẽ dẫn đến kết quả là sự lo âu. Chỉ khi chúng ta cảm thấy hòa hợp với
người khác, chúng ta mới có được sự can đảm để đối mặt và giải quyết các vấn đề
của mình (Adler, 1938/1964).
Những nhiệm vụ của cuộc đời The Life Tasks
Adler đã dạy rằng chúng ta phải làm chủ được ba nhiệm vụ chung của cuộc sống:
xây dựng tình bạn (nhiệm vụ xã hội), thiết lập sự thân thiết (nhiệm vụ tình yêu hôn
nhân) và đóng góp cho xã hội (nhiệm vụ nghề nghiệp). Tất cả mọi người cần phải
giải quyết những nhiệm vụ này, bất kể tuổi tác, giới tính, thời điểm lịch sử, văn hóa
hoặc quốc tịch. Mỗi nhiệm vụ này đòi hỏi sự phát triển các năng lực tâm lý về tình
bạn và sự đón nhận, sự đóng góp và giá trị bản thân, và sự hợp tác (Bitter, 2007).
Những nhiệm vụ cơ bản trong cuộc sống này quan trọng đến mức nếu làm không tốt
ở bất kỳ nhiệm vụ nào thường sẽ dẫn đến rối loạn tâm lý (Hiệp hội Tâm thần Hoa
Kỳ, 2013). Nhân cách của chúng ta là kết quả của những quan điểm mà chúng ta rút
ra trong các mối liên hệ với những nhiệm vụ trong cuộc sống mà chúng ta phải
đương đầu (Bitter, 2012). Thông thường, khi mọi người tìm kiếm việc trị liệu, đó là
bởi vì họ chưa giải quyết được một hay nhiều những nhiệm vụ nêu trên . Mục đích
của trị liệu là khuyến khích thân chủ phát triển những mối quan tâm xã hội và điều
chỉnh phong cách sống để họ có thể quản lý hiệu quả hơn từng nhiệm vụ của cuộc
đời(Carlson & Johnson, 2016). lOMoAR cPSD| 61559320
Hầu hết mọi người gặp khó khăn khi họ thiếu sự can đảm và tìm cách trốn tránh
những yêu cầu mà những nhiệm vụ của cuộc đời đặt ra. Adler (1929/1969) đã đưa
ra "Câu hỏi – The Question" như một phương thức để xác định nhiệm vụ nào là vấn
đề hay là triệu chứng có khả năng khiến người đó né tránh. Lúc đầu, câu hỏi được
đặt ra là "Giả sử bạn đang cảm thấy khá ổn, bạn sẽ làm gì?" (tr. 201 – Trị liệu
Gestalt). Nếu người đó trả lời rằng nếu không có lo âu thì anh ta sẽ hoàn thành hết
các bài kiểm tra ở trường, Adler biết rằng sự lo âu đó là điều cần thiết để người đó
tránh khả năng thất bại.
Thứ tự ra đời và mối quan hệ anh chị em ruột
Birth Order and Sibling Relationships
Cách tiếp cận Adler là độc nhất trong việc dành sự quan tâm đặc biệt đến các mối
quan hệ giữa anh chị em và vị trí ra đời (birth position) về khóa cạnh tâm lý trong
gia đình của một cá nhân. Adler đã xác định năm góc nhìn tâm lý, hay các điểm
thuận lợi mà trẻ em có xu hướng dựa vào đó để nhìn nhận cuộc sống: lớn tuổi nhất,
thứ hai trong hai người, ở giữa, trẻ nhất và duy nhất. Thứ tự ra đời không phải là một
khái niệm tất định nhưng làm tăng khả năng một cá nhân có được những trải nghiệm
nhất định. Thứ tự ra đời trong thực tế ít quan trọng hơn so với cách diễn giải của cá
nhân hoặc vị trí của đứa trẻ trong gia đình xét theo góc độ tâm lý. Ví dụ, đứa con
thứ hai (trong số bốn đứa trẻ) có thể có những trải nghiệm với gia đình từ góc nhìn
tâm lý của đứa út nếu một đứa út khác được sinh ra sau 10 năm tiếp theo. Và đứa
con thứ ba có thể có trải nghiệm của đứa út nhất ở giai đoạn 10 năm đầu đời. Bởi vì
các nhà Adler xem hầu hết các vấn đề của con người, về bản chất, là liên quan đến
các vấn đề xã hội, họ nhấn mạnh các mối quan hệ trong gia đình như những hệ thống
xã hội sớm nhất và có lẽ có tầm ảnh hưởng nhất.
Adler (1931/1958) quan sát thấy nhiều người thắc mắc tại sao những đứa trẻ trong
cùng một gia đình thường khác nhau rất nhiều, và ông chỉ ra rằng thật là sai lầm khi
cho rằng những đứa trẻ trong cùng một gia đình được hình thành trong cùng một
môi trường. Mặc dù anh chị em có những góc nhìn chung trong cùng một chòm sao
gia đình, nhưng hoàn cảnh tâm lý của mỗi đứa trẻ lại khác với những đứa trẻ khác
do thứ tự ra đời. Dưới đây là mô tả về ảnh hưởng của thứ tự ra đời dựa theo như
Ansbacher và Ansbacher (1964), Dreikurs (1953), và Adler (1931/1958). lOMoAR cPSD| 61559320 1.
Đứa trẻ lớn nhất thường nhận được rất nhiều sự quan tâm, và trong
thờigian đứa trẻ này là con một, nó thường tỏ ra hơi ương bướng vì là trung
tâm của sự chú ý. Đứa trẻ có xu hướng đáng tin cậy và làm việc chăm chỉ và
cố gắng vươn lên dẫn đầu. Tuy nhiên, khi một người anh hoặc chị mới được
sinh ra, đứa trẻ cảm thấy mình như bị lật đổ khỏi vị trí được ưu ái. Đứa trẻ
này không còn là duy nhất hay đặc biệt nữa. Đứa trẻ có thể dễ dàng tin rằng
người anh chị mới chào đời (hoặc kẻ xâm phạm) sẽ cướp đi tình yêu mà mình
đã có. Thông thường, đứa trẻ sẽ khẳng định vị trí của mình bằng cách trở
thành một đứa trẻ kiểu mẫu, chỉ huy dạy dỗ những đứa trẻ nhỏ hơn và thể hiện tính thành tích cao. 2.
Đứa trẻ thứ hai (trong 2 đứa trẻ) ở một vị trí khác. Từ khi đứa trẻ được
sinh ra, nó đã phải chia sẻ sự quan tâm nhận được từ xung quanh với một đứa
trẻ khác. Một đứa trẻ thứ hai điển hình sẽ hành xử như thể đang trong một
cuộc đua và nói chung luôn ở trong tình trạng cố gắng. Như thể là như đứa trẻ
thứ hai này đang trong một cuộc huấn luyện để vượt qua anh trai hoặc chị gái.
Cuộc chiến cạnh tranh này giữa hai đứa trẻ đầu tiên ảnh hưởng đến cuộc sống
sau này của chúng. Đứa trẻ nhỏ tuổi hơn phát triển khả năng tìm ra điểm yếu
của đứa trẻ lớn hơn và tiếp tục giành được lời khen ngợi từ cả cha mẹ và giáo
viên bằng cách đạt được những thành công trong khi người anh chị lớn hơn
đã thất bại. Nếu một người có tài trong một lĩnh vực nhất định, người kia sẽ
cố gắng để được công nhận bằng cách phát triển các khả năng khác. Người
sinh thứ hai thường trái ngược với người sinh đầu tiên. 3.
Đứa trẻ ỡ giữa thường có cảm giác bị vắt kiệt. Đứa trẻ này có thể đặt
niềm tin vào sự không công bằng của cuộc sống và cảm thấy mình đang bị
lừa dối. Đứa trẻ này có thể hình thành một thái độ “tôi kém cỏi” và có thể trở
thành một đứa trẻ có vấn đề. Tuy nhiên, đặc biệt là trong những gia đình mang
những đặc điểm xung đột, người con giữa có thể trở thành người “tổng đài”
và người hòa giải, người sẽ gắn kết mọi thứ lại với nhau. Nếu một gia đình có
4 người con, đứa trẻ thứ hai thường cảm thấy mình là con giữa và đứa trẻ thứ
ba sẽ dễ tính hơn, hòa đồng hơn và có thể hòa hợp với đứa lớn nhất. 4.
Em út luôn là em bé của gia đình và có xu hướng được cưng chiều nhất.
Vì được nuông chiều hoặc chiều chuộng, đứa trẻ có thể phát triển sự bất lực - lOMoAR cPSD| 61559320
helplessness thành một loại hình nghệ thuật – art form và trở nên thành thạo
trong việc khiến người khác nghe theo mình. Những đứa trẻ nhỏ nhất có xu
hướng đi theo con đường riêng của chúng, thường phát triển theo những cách
mà những người khác trong gia đình không cố gắng hướng tới và có thể vượt
trội hơn tất cả mọi người. 5.
Đứa trẻ duy nhất (con một) có một vấn đề của riêng mình. Mặc dù đứa
trẻ có một số đặc điểm tương đồng với đứa trẻ lớn nhất (ví dụ: thích thành
tích cao), nhưng trẻ có thể không học cách chia sẻ hoặc hợp tác với những
đứa trẻ khác. Đứa trẻ sẽ học cách đương đầu và thỏa thuận tốt với người lớn,
vì họ là nhân tố tạo nên thế giới gia đình ban đầu. Thông thường, đứa trẻ duy
nhất được cha mẹ cưng chiều và có thể trở nên phụ thuộc vào một hoặc cả hai
người. Đứa trẻ có thể luôn muốn có vị trí trung tâm, và nếu vị trí của mình bị
ảnh hưởng thì đứa trẻ sẽ cảm thấy điều đó là không công bằng.
Thứ tự sinh và việc diễn giải vị trí của một đứa trẻ trong gia đình có liên quan rất
nhiều đến cách mà người trưởng thành tương tác với nhau trong cuộc sống. Các cá
nhân đinh hình một phong cách liên hệ nhất định với những người xung quanh ở
thời thơ ấu và hình thành một bức tranh rõ ràng về bản thân mà họ sẽ mang vào áp
dụng cho những tương tác sau này ở tuổi trưởng thành. Trong liệu pháp Adler, thao
tác với những động lực đến từ gia đình – family dynamics, đặc biệt là các mối quan
hệ giữa anh chị em, đảm nhận một vai trò quan trọng. Tuy nhiên các nhà tâm lý
trường phái Adler không áp dụng các mô tả về thứ tự ra đời một cách quá giáo điều.
Điều quan trọng nhất là phải tránh hình thành nên các khuôn mẫu về các cá nhân,
nhưng một số xu hướng tính cách bắt đầu từ thời thơ ấu, có liên sự ganh đua giữa
anh chị em ruột có thể ảnh hưởng đến các cá nhân trong suốt cuộc đời về sau.
Quy trình trị liệu/ The Therapeutic Process
Mục tiêu trị liệu/ Therapeutic Goals
Tư vấn và trị liệu Adlerian phụ thuộc vào sự sắp xếp hợp tác giữa khách hàng và nhà
tư vấn. Nói chung, quá trình trị liệu bao gồm việc hình thành một mối quan hệ dựa
trên sự tôn trọng lẫn nhau; một cuộc điều tra tâm lý tổng thể hoặc đánh giá lối sống;
và tiết lộ những mục tiêu sai lầm và những giả định sai lầm trong phong cách sống
của một người. Tiếp theo là việc đào tạo lại hoặc định hướng lại thân chủ về khía lOMoAR cPSD| 61559320
cạnh hữu ích của cuộc sống. Mục đích chính của liệu pháp là phát triển cảm giác
thân thuộc của thân chủ và hỗ trợ việc áp dụng các hành vi và quy trình được đặc
trưng bởi cảm giác cộng đồng và mối quan tâm xã hội. Điều này được thực hiện
bằng cách nâng cao nhận thức về bản thân của khách hàng, đồng thời thách thức và
sửa đổi các tiền đề cơ bản, mục tiêu cuộc sống và các khái niệm cơ bản của họ (Dreikurs, 1967, 1997).
Người Adlerian ủng hộ mô hình phát triển nhân cách, tập trung vào điểm mạnh và
hạnh phúc, hơn là mô hình y tế dựa trên bệnh lý. Trọng tâm là sức khỏe và phòng
ngừa, không phải là khắc phục. Lý thuyết Adlerian là một quan điểm lạc quan coi
mọi người là những người sáng tạo, độc đáo, có năng lực và có trách nhiệm (Watts,
2012, 2015). Thay vì bị mắc kẹt trong một số loại bệnh lý, Adlerian cho rằng khách
hàng thường không được khuyến khích. Quy trình trị liệu tập trung vào việc cung
cấp thông tin, giảng dạy, hướng dẫn và khuyến khích những thân chủ nản lòng.
Khuyến khích là phương pháp mạnh mẽ nhất hiện có để thay đổi niềm tin của một
người, vì nó giúp thân chủ xây dựng lòng tự tin và kích thích lòng can đảm. Dũng
cảm là sự sẵn sàng hành động ngay cả khi sợ hãi theo những cách phù hợp với lợi
ích xã hội. Sợ hãi và can đảm song hành với nhau; không sợ hãi, sẽ không cần can
đảm. Sự mất can đảm hoặc sự chán nản dẫn đến hành vi sai lầm và rối loạn chức
năng. Những người nản lòng có xu hướng chỉ hành động phù hợp với lợi ích bản
thân nhận thức được của họ, điều này thường đi kèm với sự thiếu quan tâm của xã hội.
Tư vấn viên Adlerian cung cấp cho khách hàng cơ hội để nhìn mọi thứ từ một góc
độ khác, tuy nhiên khách hàng sẽ quyết định có chấp nhận một quan điểm thay thế
hay không. Adlerian hợp tác làm việc với khách hàng để giúp họ đạt được các mục
tiêu tự xác định. Adlerian giáo dục khách hàng những cách nhìn mới về bản thân,
người khác và cuộc sống. Thông qua quá trình cung cấp cho khách hàng một “bản
đồ nhận thức” mới, hiểu biết cơ bản về mục đích của hành vi của họ, tư vấn viên hỗ
trợ họ thay đổi nhận thức của mình. Maniacci, Sackett-Maniacci, và Mosak (2014)
xác định những mục tiêu này cho quá trình giáo dục trị liệu:
- Thúc đẩy sự quan tâm của xã hội bằng cách giúp khách hàng kết nối với
trách nhiệm của họ đối với cộng đồng của họ/ Giúp
thân chủ vượt qua cảm giác chán nản và tự ti/
- Sửa đổi lối sống của khách hàng theo hướng trở nên thích nghi, linh hoạtvà xã hội hơn/
Thay đổi động cơ bị lỗi/ lOMoAR cPSD| 61559320
- Khuyến khích sự bình đẳng và chấp nhận bản thân và những người khác/
- Giúp mọi người trở thành thành viên đóng góp của cộng đồng thế giới/