



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58562220 CHUYÊN ĐỀ 1
NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ GIÁO DỤC HÒA NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
I. Người khuyết tật và các quan điểm về người khuyết tật
1.1. Người khuyết tật
Người khuyết tật là người khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy
giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn. Theo đó, người khuyết tật phải có khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ
thể hoặc suy giảm chức năng, khiếm khuyết hoặc suy giảm chức năng được biểu hiện
dưới các dạng tật, lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Họ là người có một hay có
nhiều khiếm khuyết trên cơ thể hoặc tinh thần, những khiếm khuyết ấy ảnh hưởng trực
tiếp đến khả năng vận động hay trí tuệ người mắc bệnh. Những khiếm khuyết đó gây ra
những suy giảm đáng kể và ảnh hưởng lâu dài đến đời sống của họ. Sự suy yếu về thể
trạng hay trí tuệ của người khuyết tật sẽ làm giảm khả năng vận động, giảm khả năng tư duy vè nhận thức.
Theo định nghĩa của tổ chức Y tế thế giới thì phân loại khuyết tật không phải là phân
loại con người, mà là phân loại những đặc điểm sức khỏe của họ cùng với những hạn
chế trong hoạt động của cá thể cộng với môi trường sống của họ.
Phân loại khuyết tật căn cứ vào 3 yếu tố cơ bản: -
Những thiếu hụt về cấu trúc cơ thể và sự suy giảm các chức năng. -
Những hạn chế trong hoạt động của cá thể. -
Môi trường sống của họ: những khó khăn, trở ngại do môi trƣờng sống
mang lại làm cho họ không thể tham gia đầy đủ và có hiệu quả mọi hoạt động trong cộng đồng.
So với các nước trên thế giới, khái niệm Người Khuyết tật của Việt Nam nằm trong
nhóm theo Quan điểm khuyết tật xã hội. Trước khi Luật Người khuyết tật năm 2010 có
hiệu lực, pháp luật Việt Nam nhìn nhận người khuyết tật dưới góc độ “Người tàn tật”.
Theo quy định của Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998, “người tàn tật không phân biệt
nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc
chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động,
khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn.”. Kế thừa các quy định của
Pháp lệnh người tàn tật năm 1998, ngày 17/06/2010, Quốc hội Việt Nam đã thông qua
Luật Người khuyết tật, có hiệu lực từ 01/01/2011 chính thức sử dụng khái niệm người lOMoAR cPSD| 58562220
khuyết tật thay cho khái niệm người tàn tật, phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn
nhận của thế giới về vấn đề khuyết tật. Theo quy định tại khoản 1 điều 2 luật này, “Người
khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm
chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiế-n cho lao đ 1 - ộng, sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn. Người khuyết tật có những đặc điểm cơ bản là nhóm thiểu số lớn nhất thế giới
và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất.”. Như vậy, dựa theo định nghĩa
về Người khuyết tật theo Luật người khuyết tật, ta có:
Thứ nhất, thuật ngữ “người tàn tật” đã được thay thế bằng thuật ngữ “người khuyết
tật”. Đánh giá về mặt ngôn ngữ thì thuật ngữ “người tàn tật” nghe có vẻ mang lại cảm
giác nặng nề hơn thuật ngữ “người khuyết tật”, tuy nhiên thì xét về mặt bản chất thì hai
thuật ngữ này dường như đồng nhất. Sự thay đổi thuật ngữ này, như đã nói ở trên, mặc
dù không thay đổi bản chất nhưng có vẻ nó cũng có tác động nhất định tới nhận thức của những người xung quanh.
Thứ hai, những người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận
cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật. Theo cách hiểu này thì
người khuyết tật bao gồm cả những người bị khuyết tật bẩm sinh, người bị khiếm khuyết
di bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh binh… Như vậy, luật người khuyết tật Việt Nam
đã đưa ra khái niệm người khuyết tật dựa vào mô hình xã hội, tuy nhiên còn chung chung
so với khái niệm trong Công ước về quyền của người khuyết tật.
Thứ ba, lao động, sinh hoạt, học tập của người khuyết tật gặp khó khăn. Có thể thấy,
cả trong định nghĩa “người tàn tật” và “người khuyết tật”, các hoạt động “gặp khó khăn”
của người khuyết tật dường như bị giới hạn trong các hoạt động “lao động, sinh hoạt,
học tập”. Như vậy, có thể thấy các hoạt động “lao động, sinh hoạt, học tập” nhìn chung
đã bao quát đầy đủ các hoạt động của người khuyết tật gặp khó khăn, nhưng trên thực
tế, người khuyết tật gặp khó khăn trên tất cả các lĩnh vực đời sống của xã hội chứ không
chỉ riêng các hoạt động này. Với cách tiếp cận đó, có thể đưa ra định nghĩa người khuyết
tật theo quy định của Pháp luật Việt Nam như sau: Người khuyết tật là người bị khiếm
khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn
chế đáng kể và lâu dài trong việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội
trên cơ sở bình đẳng với những chủ thể khác.
1.2. Phân loại người Khuyết tật
Luật Người khuyết tật (Luật số 51/2010/QH12) được Quốc hội khóa 12 thông qua
tại kỳ họp thứ 7 ngày 17/6/2010. Luật có hiệu lực từ ngày 01/01/2011. Theo đó, Khoản
1, Điều 2, Luật quy định người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ lOMoAR cPSD| 58562220
phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao
động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Căn cứ Luật Người khuyết tật 2010, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 28/2012 ngày 10/4/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Người khuyết tật (sau đây gọi tắt là Nghị định). Theo đó,
Nghị định đã quy định 6 dạng tật (Điều 2), cụ thể là:
- Khuyết tật vận động: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ,
chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển. Người bị khuyết tật vận
động thường có bất thường về cấu trúc; suy giảm chức năng vận động (phản xạ vận động
bất thường, thiếu khả năng điều phối vận động phù hợp với lứa tuổi, vận động lặp lại
hoặc dừng lại không có lý do, thăng bằng kém, trương lực kém); chậm phát triển vận
động (không đạt được các mốc phát triển phù hợp với lứa tuổi chẳng hạn như điều khiển
đầu, lẫy, điều khiển thân mình, ngồi, đứng, bò… ở trẻ em); suy giảm vận động (trương
cơ lực hay vận động có chiều hướng yếu đi thay vì trở nên tinh vi và mạnh mẽ hơn); suy
giảm chức năng sinh lý thần kinh…..
- Khuyết tật nghe, nói: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả
nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi
thông tin bằng lời nói: - Người khiếm thính: Đây là người bị suy giảm chức năng trong
vấn đề về khả năng nghe ở các mức độ với tần suất khác nhau. Người bị khiếm thính
không thể trả lời và giao tiếp với người khác khi khả năng nghe của họ bị hạn chế. Do
vậy tùy theo khả năng nghe của người khiếm thính, người ta chia khuyết tật nghe thành
các mức độ khác nhau và áp dụng các biện pháp trợ nghe như dùng máy trợ thính để
những người khuyết tật có thể nghe rõ hơn đối với những trường hợp nghe không rõ.
Những người không nói được, có thể bị câm hoặc nói ngọng, nói lắp, nói không rõ, nói
một cách rất khó nghe mà người nghe không thể hiểu được ý người đó đang muốn nói gì.
- Khuyết tật nhìn: là tình trạng giảm hoặc mất hả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng,
màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường. Những
người bị khuyết tật về nhìn thường được gọi là người khiếm thị. Họ có thể không nhìn
thấy hoặc là nhìn thấy nhưng rất mờ và cần đến sự trợ giúp của các phương tiện khác để
hỗ trợ trong cuộc sống hàng ngày. Người khiếm thị có những mức độ khác nhau về thị
lực do suy giảm chức năng và tầm nhìn của mắt. Bên cạnh đó có thể gặp những trường
hợp người bị khiếm khuyết về mắt có một bên nhìn rõ và một bên không hoặc cả hai mắt
đều không nhìn thấy. Do vậy dựa vào độ khuyết tật của thị giác người ta chia khuyết tật
nhìn thành hai loại: Đó là nhìn kém và mù. lOMoAR cPSD| 58562220
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần: là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc,
kiểm sơát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường
khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.
- Khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu
hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết
sự việc. Những người bị khuyết tật về mặt trí tuệ ở dưới mức trung bình thường có IQ
nhỏ hơn 70. Họ có thể bị hạn chế về mặt kiến thức cũng như năng lực và trình độ đối với
việc học và làm việc. Khả năng tiếp thu kém, đồ-ng th 3 - ời không có hành vi nhận thức
và tự phục vụ bản thân. Có thể bị ngớ ngẩn hoặc những vấn đề về thần kinh hay không
tiếp thu được các kiến thức mà mọi người đã truyền đạt. Hiện tượng khuyết tật về trí tuệ
thường xuất hiện từ thời thơ ấu.
- Khuyết tật khác: là các tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến
cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp nêu trên.
1.3. Nguyên nhân khuyết tật
Có rất nhiều yếu tố có thể tác động và ảnh hưởng đến con người làm họ bị dị dạng,
khuyết tật mà vô tình chúng ta không hề để ý đến. Cụ thể như một số nguyên nhân dưới đây:
Thứ nhất, môi trường sống tưởng như rất bình thường nhưng nó lại có tầm ảnh hưởng
đến cuộc sống của mỗi cá nhân. Những môi trường sống với các điều kiện cơ sở vật chất
thiếu thốn, nơi ở chật chội, yếu kém, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khỏe gây nên đói
nghèo, suy dinh dưỡng. Dẫn đến hậu quả bệnh tật mà không tìm cách chữa trị và ảnh
hưởng đến cơ thể. Những người lao động trong môi trường độc hại, nhiều khói bụi hay
thường xuyên tiếp xúc với các loại hóa chất, khi sinh con cũng có thể mắc phải chứng
khuyết tật với việc thiếu khuyết các bộ phận trên cơ thể. Việc ô nhiễm môi trường và và
suy thoái môi trường, thiên tai, cũng ảnh hưởng đến con người đáng kể. Bên cạnh đó
việc sử dụng thuốc chữa bệnh không theo khoa học làm biến chứng cơ thể và dẫn đến khuyết tật.
Thứ hai, yếu tố dẫn đến khuyết tật là gì nếu một người đang bình thường mà thành
khuyết tật? Đó có thể là do họ gặp phải do các vụ tai nạn, rủi ro hay trong khi đang lao
động và mắc phải các tai nạn về lao động.
Thứ ba, do bà bầu trong quá trình mang thai bị ảnh hưởng bởi việc thiếu oxi , tổn
thương khi sinh non hay bị mắc các bệnh dịch trong quá trình mang thai. Không có sự
chuẩn bị và phòng chống nên con sinh ra thường mắc các bệnh về dị tật. lOMoAR cPSD| 58562220
Thứ tư là, thiếu kiến thức và không thực hiện tiêm phòng và sử dụng các dịch vụ y
tế sẵn. Bên cạnh đó tình trạng cơ thể thường xuyên bị áp lực và căng thẳng cũng làm cho
bản thân tinh thần bị tổn thương nghiêm trọng, ảnh hưởng đến trí não.
Thứ năm, có thể do việc kết hôn cùng huyết thống. Những người dân tộc thiểu số
thuộc vùng sâu vùng xa thường không có kiến thức và kết hôn trong cùng một dòng họ.
Chính vì suy nghĩ này làm cho con sinh ra khả năng mắc và gặp phải tình trạng khuyết tật là rất lớn.
Cuối cùng khuyết tật cũng có thể do bẩm sinh. Có thể do bị di truyền, dị tật bẩm sinh hay do bị lỗi gen,.
1.4. Các quan điểm về người khuyết tật
Người khuyết tật họ cũng giống như bao nhiêu người bình thường khác họ cũng
được pháp luật quy định là có quyền con người, họ có những quyền cơ bản của công dân
không chỉ có vậy mà người khuyết tật còn được pháp luật quy định là được bình đẳng
tham gia vào các hoạt động xã hội mà không phải chịu bất kì sự kì thị và phân biệt đối
xử nào của xã hội. Bên cạnh những quan điểm tiến bộ về người khuyết tật vẫn có những
quan điểm kỳ thị với người khuyết tật. Theo như quy định của luật pháp về người khuyết
tật cũng đã nêu rõ về định nghĩa cụ thể về khái niệm kì thị, là hành vi của những người
khác phân biệt đối xử với Người khuyết tật kèm theo đó pháp luật cũng quy định rõ ràng
và chi tiết những nghiêm cấm hành vi kì thị và phân biệt đối xử với Người khuyết tật
nên người nào có thái độ khinh thường, thiếu tôn trọng và có hành vi xa lánh, phỉ bang,
có thành kiến, từ chối, ngược đãi, hạn chế quyền của người khuyết tật thì đều vi phạm
quy định pháp luật Người khuyết tật và sẽ phải chịu hình phạt tùy theo mức độ vi phạm
của mình. Hành vi kì thị, phân biệt đối xử với người khuyết tật được giải thích cụ thể tại Điều
2 Luật Người khuyết tật 2010 như sau: Kỳ thị người khuyết tật là thái độ khinh thường
hoặc thiếu tôn trọng người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó; Phân biệt đối xử
người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn
chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó.
Những quan niệm mang tính kỳ thị đối với người khuyết tật ở Việt Nam có 3 xu hướng sau:
Quan điểm thứ nhất: Người bình thường cho rằng người bị khuyết tật là do thuyết
nhân quả của người khuyết tật kiếp trước ở ác thì kiếp này gặp ác hay là cái quan niệm
nếu bố mẹ làm điều xấu thì tội sẽ đến phần con cái gánh và họ sẽ bị khuyết tật xem như
là một hình thức trừng phạt. có thể thấy chính từ những câu chuyện mê tín thuộc về tâm lOMoAR cPSD| 58562220
linh này mà những người khuyết tật đã bị xa lánh chú họ không biết đây là những con
người xấu số sinh ra đã mang trong mình sự khiếm khuyết và bị mọi người kì thị
Quan điểm thứ hai: Có thể thấy rằng đối với những người không bị khuyết tật thì
người khuyết tật họ được xem như là những người không bình thường và sự không lành
lặn trên cơ thể sự khiếm khuyết đi một bộ phận nào đó chính vì điều này mà những người
khuyết tật trong mắt họ luôn là người sống phụ thuộc và là gánh nặng cho gia đình và xã
hội. Nhưng thực chất không phải ai khiếm khuyết về một phần nào đó trên cơ thể cũng
phải phụ thuộc vào người khác mà học cũng tự mình tự lập và kiếm tiền thậm chí là còn
giúp đỡ được rất nhiều người khuyết tật khác, giúp họ có công ăn việc làm ổn định.
Quan điểm thứ ba: với quan điểm mê tín này đa phần mọi người sinh sống trong
cộng đồng đều mệ tín cho rằng người khuyết tật là một phần hiện thân của điều đen đủi
và không may mắn họ sợ người khuyết tật đem lại sự đen đủi nhưng họ không để ý đến
những tư tưởng lạc hậu và mê tín đó đã đẩy nh- 5 ữ- ng người khuyết tật càng ngày càng
vào xâu trong bóng tối và rất khó để những người khuyết tật này có thể hòa nhập vào
cộng cồng và sinh sống như những người bình thường khác được. Người khuyết tật họ
đã chịu nhiều thiệt thòi và chịu sự áp đặt của người khác, họ phải chịu những lời nói
không hay về mình, những lời nói này ngày càng khiến người khuyết tật thu bản thân lại
và không thực hiện những việc mà người khuyết tật có thể làm cũng chính tại quan điểm này mà ra.
II. Các phương thức giáo dục người khuyết tật
Lịch sử giáo dục có từ buổi bình minh của nền văn hoá nhân loại. Trong khi đó, lĩnh
vực giáo dục TKT chỉ mới ra đời từ khoảng thế kỉ XI. Trước đó, do nhận thức và quan
niệm sai lầm, mê tín về người khuyết tật nên họ bị bỏ rơi trong giáo dục. Từ thế kỉ XI,
một số người khuyết tật được chăm sóc, nuôi dạy trong các tu viện và được học chữ.
Từ đó, người ta bắt đầu tin vào khả năng có thể giáo dục người khuyết tật.
Tuỳ theo quan điểm và nguồn gốc nảy sinh, đã hình thành các hình thức trường lớp
khác nhau cho TKT. Đến nay đã có 3 hình thức giáo dục TKT : giáo dục chuyên biệt,
giáo dục hội nhập và GDHN. Hình thức sau ra đời muộn hơn, giải quyết mâu thuẫn nội
tại của các hình thức trước đó và dần thay thế các hình thức giáo dục cũ, bị lạc hậu.
Giáo dục chuyên biệt
- Sự ra đời của giáo dục chuyên biệt : Xuất hiện sớm nhất trong lịch sử giáo dục
TKT, từ thế kỉ XI ở các nước Pháp, Đức, Tây Ban Nha và một số nước châu Âu khác.
- Mục tiêu của giáo dục chuyên biệt: 1) Chăm sóc, chữa trị và phục hồi chức năng;
2) Dạy văn hoá và dạy nghề; 3) Giám sát, quản lí lOMoAR cPSD| 58562220
- Bản chất: Mô hình y tế, coi TKT là con bệnh, chia theo dạng tật, mức độ để “chữa
trị” và dạy theo phương pháp đặc thù.
- Hạn chế: Trẻ bị gán mác, tách biệt, không hoà nhập được cuộc sống bình thường.
Giáo dục hội nhập
- TKT được học trong lớp học chuyên biệt, đặt trong trường phổ thông bình thường.
Trong quá trình giáo dục, TKT nào có “khả năng” sẽ được học chung ở một số môn học
hoặc tham gia một số hoạt động cùng trẻ bình thường.
Ture Johson đã đưa ra khái niệm về các mức độ hội nhập như sau:
Hội nhập về thể chất: Trẻ lành và TKT được giao lưu với nhau hay cùng chơi với
nhau trong một địa điểm và trong một thời gian nhất định.
Hội nhập về chức năng: Trẻ lành và TKT được tham gia cùng nhau trong một số hoạt
động như thể thao, vẽ, …
Hội nhập xã hội:Trẻ cùng học với nhau trong một trường nhưng theo các chương
trình khác nhau, có giờ học chung và học riêng tuỳ theo môn học và khả năng học của trẻ.
Hội nhập hoàn toàn: TKT học như trẻ lành theo một chương trình cứng bắt buộc.
- Vấn đề: Khi nào thì hội nhập về thể chất, khi nào hội nhập về chức năng ; ai là
người quyết định cho trẻ hội nhập ở các mức đó. - Những hạn chế:
+ TKT chưa thực sự được hoà nhập với trẻ bình thường.
+ Việc học tập của TKT trong các lớp chuyên biệt theo một chương trình riêng,
không trùng lặp với các lớp khác nên trẻ không thích ứng được.
Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy, đây là con đường bế tắc không có tính phát triển.
Một trường Tiểu học tại quận Đống Đa, Hà Nội đã mở 4 lớp chuyên biệt cho khoảng 60
trẻ chậm phát triển tinh thần (khó khăn trong học tập). Sau 14 năm duy trì, mô hình trên
đã bộc lộ một số tồn tại sau: Phần lớn HS không qua được cấp tiểu học; Trẻ lĩnh hội được
rất ít các kĩ năng xã hội, khi ra trường không hoà nhập được vào xã hội; Đầu ra cho trẻ
lớn tuổi rất bế tắc, trẻ không biết làm gì; Nhiều trẻ bị ức chế về tâm lí, không muốn học trong lớp chuyên biệt.
Trong chương trình giáo dục hội nhập do UNICEF tài trợ thực hiện ở một số tỉnh
thành từ năm 1991 đã mở một số lớp chuyên biệt trong trường phổ thông, nhiều lớp đã
tự giải tán sau một vài năm. Chương trình giáo dục hội nhập trẻ khiếm thính cũng rơi
vào tình trạng tương tự. Nhiều trẻ được hội nhập, sau một thời gian lại trở về với trường chuyên biệt. lOMoAR cPSD| 58562220
Giáo dục hoà nhập
Giáo dục hoà nhập là phương thức giáo dục trong đó trẻ khuyết tật cùng học với trẻ
em bình thường trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh sống. Thuật ngữ giáo dục
hoà nhập được xuất phát từ Canada và được hiểu là những trẻ ngoại lệ được hoà nhập,
qui thuộc vào trường hoà nhập. Giáo dục hoà nhập là phương thức giáo dục mọi trẻ em,
trong đó có trẻ khuyết tật, trong lớp học bình thường của trường phổ thông. Giáo dục
hoà nhập là "Hỗ trợ mọi học sinh, trong đó có trẻ khuyết tật, cơ hội bình đẳng tiếp nhận
dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học phù hợp tại trường phổ thông
nơi trẻ sinh sống nhằm chuẩn bị trở thành những thành viên đầy đủ của xã hội. Hoà
nhập không có nghĩa là "xếp chỗ" cho trẻ khuyết tật trong trường lớp phổ thông và không
phải tất cả mọi trẻ đều đạt trình độ hoàn toàn như nhau trong mục tiêu giáo dục. Giáo
dục hoà nhập đòi hỏi sự hỗ trợ cần thiết để mọi học sinh phát triển hết khả năng của
mình. Sự hỗ trợ cần thiết đó được thể hiên trong việc điều chỉnh chương trình, các đồ
dùng dạy học, dụng cụ hỗ trợ đặc biệt, các kỹ năng giảng dạy đặc thù,… Các giáo viên
và nhân viên nhà trường cần thấm nhuần tư tưởng hoà nhập để trẻ khuyết tật được phụ
thuộc lẫn nhau, được chấp nhận, được có giá trị, được hỗ trợ của bạn bè… Trường hoà
nh- 7 - ập là "Tổ chức giải quyết vấn đề đa dạng nhằm chú trọng đến việc học của mọi trẻ.
Mọi giáo viên, cán bộ và nhân viên nhà trường cam kết làm việc cùng nhau tạo ra và
duy trì môi trường đầm ấm có hiệu quả cho việc học tập. Trách nhiệm cho mọi trẻ được chia sẻ"
Giáo dục hoà nhập dựa trên quan điểm xã hội trong việc nhìn nhận đánh giá đúng
trẻ khuyết tật. Nguyên nhân gây ra khuyết tật không phải chỉ do khiếm khuyết của bản
thân cá thể mà còn là môi trường xã hội. Môi trường xã hội đóng vai trò quan trọng trong
sự phát triển của trẻ khuyết tật. Trẻ khuyết tật về vận động (như liệt) sẽ là mất khả năng
nếu không có các phương tiện đi lại, không được tham gia vào hoạt động xã hội và sẽ
trở thành tàn phế nếu không ai chăm sóc giúp đỡ. Nhưng cũng trẻ đó, nếu được hỗ trợ,
có phương tiện đi lại và xã hội có những cơ sở vật chất thích ứng không tạo ra các khó
khăn (như có các đường lên xuống dễ dàng cho xe đẩy) và cùng được tham gia vào các
hoạt động, trẻ sẽ được bình đẳng và phát triển như mọi trẻ khác.
Giáo dục hoà nhập dựa trên quan điểm tích cực về trẻ khuyết tật. Mọi trẻ khuyết tật
đều có những năng lực nhất định, chính từ sự đánh giá đó mà trẻ khuyết tật được coi là
chủ thể chứ không phải là đối tượng thụ động trong quá trình tiếp nhận các tác động giáo
dục. Từ đó người ta tập trung quan tâm, tìm kiếm những cái mà trẻ khuyết tật có thể làm
được. Các em sẽ làm tốt những việc phù hợp với nhu cầu và năng lực của mình. Trong lOMoAR cPSD| 58562220
giáo dục, gia đình, cộng đồng, xã hội cần tạo ra sự hợp tác và hoà nhập với các em trong
mọi hoạt động. Vì thế các em phải được học ngay ở trường học gần nhất, nơi các em
sinh ra và lớn lên. Các em luôn luôn được gần gũi gia đình, luôn được sưởi ấm bằng tình
yêu của cha, mẹ, anh, chị mình và được cả cộng đồng đùm bọc, giúp đỡ. Trẻ khuyết tật
sẽ được học cùng một chương trình, cùng lớp, cùng trường với các bạn học sinh bình
thường. Cũng như mọi học sinh khác, học sinh khuyết tật là trung tâm của quá trình giáo
dục. Các em được tham gia đầy đủ, và bình đẳng mọi công việc trong nhà trường và
cộng đồng để thực hiện lý tưởng "trường học cho mọi trẻ em, trong một xã hội cho mọi
người". Chính lý tưởng đó tạo cho trẻ khuyết tật niềm tin, lòng tự trọng, ý chí vươn lên
để đạt đến mức cao nhất mà năng lực của mình cho phép. Đó là giáo dục hoà nhập.
Sự khác biệt giữa các mô hình giáo dục
UNICEF và UNESCO đã giới thiệu bảng tổng hợp khái quát sự khác nhau
giữa các hình thức giáo dục trong 11 tiêu chí so sánh như sau: Tiêu chí Chuyên biệt Hội nhập Hoà nhập lOMoAR cPSD| 58562220 Trẻ Đặc biệt
Được đưa tới càng gần Đứa trẻ tồn tại như "bình thường" càng tốt chính bản thân nó Trường học Chuyên biệt Lựa chọn trường "phổ Trường học ngay tại thông" nơi trẻ sống Chương trình, Đặc biệt Môn học làm trung Lấy trẻ làm trung tâm phương pháp tâm Giáo viên Chuyên biệt GV chủ nhiệm, giáo Giáo viên chủ nhiệm viên chuyên biệt, chuyên gia của các lĩnh vực liên quan
Hiệu quả giảng Chuyên biệt Không thay đổi; chỉ Có khả năng giúp mọi dạy của cho nhóm trẻ có khả năng dạy trẻ trẻ trong quá trình học cùng dạng tật "lành " giáo viên
Sự tự tin ở trẻ Thấp, cảm Có cảm giác bị cách
Cảm giác tự tin về bản giác mình bị biệt thân khác biệt Môi trường Gần như bị Không thay đổi Giới hạn thấp nhất, tách biệt, từ chối
mở rộng ngang bằng với những trẻ khác Ngân sách Rất cao Đỡ đắt hơn Hầu hết đều có hiệu quả Tính bền vững Không bền Không chứng minh Hoàn toàn bền vững vững được là bền vững
Cơ hội tham Rất hạn chế Một phần
Bình đẳng như mọi trẻ gia
Quyền học tập Đối tượng của
Được thừa nhận là có Thực tế và cấp thiết của trẻ em từ thiện
quyền nhưng không triệt được thực thi hoàn toàn bình đẳng để lOMoAR cPSD| 58562220 -
III. Bản chất và lợi ích của giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật
3.1. Bản chất của giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật
- Giáo dục cho mọi đối tượng HS. Đây là tư tưởng chủ đạo, yếu tố đầu tiên thể hiện
bản chất của GDHN. Trong GDHN không có sự tách biệt giữa HS với nhau. Mọi HS đều
được tôn trọng và đều có giá trị như nhau.
- Học ở trường nơi mình sinh sống.
- Mọi HS được hưởng một chương trình giáo dục phổ thông. Điều này vừa thể hiện
sự bình đẳng trong giáo dục, vừa thể hiện sự tôn trọng.
- Điều chỉnh chương trình, đổi mới phương pháp dạy học và thay đổi quan điểm,
cách đánh giá là vấn đề cốt lõi giúp GDHN đạt hiệu quả cao nhất.
- Điều chỉnh chương trình là việc làm tất yếu của GDHN, có điều chỉnh chương
trình cho phù hợp thì mới đáp ứng cho mọi trẻ em có nhu cầu, năng lực khác nhau.
- GDHN không đánh đồng mọi trẻ em như nhau. Mỗi đứa trẻ là một cá nhân, một
nhân cách có năng lực khác nhau, cách học khác nhau, tốc độ học cũng không như nhau.
Vì thế, điều chỉnh chương trình cho phù hợp là cần thiết.
- Dạy học một cách sáng tạo, tích cực và hợp tác. Đó là mục tiêu của dạy học hoà nhập.
- Dạy học hoà nhập sẽ tạo ra được cho trẻ kiến thức chung, tổng thể, cân đối. Muốn
thế, phương pháp dạy học phải có hiệu quả và đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của HS.
- Muốn dạy học có hiệu quả, kế hoạch bài giảng phải cụ thể, chú trọng áp dụng
phương pháp học hợp tác. Phải biết lựa chọn phương pháp và sử dụng đúng lúc: phương
pháp đồng loạt, phương pháp đa trình độ, phương pháp trùng lập giáo án, phương pháp
thay thế, phương pháp cá biệt.
Mọi trẻ em đều được học trong môi trường giáo dục, mà trong đó trẻ có điều kiện và có
cơ hội để lĩnh hội những tri thức mới theo nhu cầu và khả năng của mình. Để có một môi
trường học tập như vậy cho mọi trẻ em, giáo dục hoà nhập cần đề cập đến những nội
dung cơ bản sau đây trong dạy và học:
- Trẻ được học theo một chương trình phổ thông
- Tuỳ theo năng lực và nhu cầu của từng trẻ mà giáo viên có trách nhiệm điều chỉnh nội dung cho phù hợp lOMoAR cPSD| 58562220
- Đổi mới phương pháp dạy và học, đặc biệt giáo viên cần biết cách điều chỉnh và
lựa chọn những hoạt động học tập sao cho mọi trẻ đều có đủ những điều kiện thuận lợi
và cơ hội để lĩnh hội kiến thức mới
- Môi trường giáo dục phù hợp cho mọi đối tượng.
Porter (1995) đã đề xuất các yếu tố của giáo dục hoà nhập như sau:
- Học sinh khuyết tật được học ở trường thuộc khu vực sinh sống.
- Học sinh khuyết tật, với tỷ lệ hợp lí, được bố trí vào lớp học phù hợp lứa tuổi. -
Cung cấp các dịch vụ và giúp đỡ HS ngay trong trường hoà nhập.
- Mọi học sinh đều là thành viên của tập thể. Bạn bè cùng lứa giúp đỡ lẫn nhau. -
Đánh giá cao tính đa dạng của học sinh.
- Điều chỉnh chương trình phổ thông cho phù hợp với năng lực nhận thức của học
sinh. Phương pháp dạy học đa dạng dựa vào điểm mạnh của học sinh. Học sinh với
những khả năng khác nhau được học theo nhóm.
- Giáo viên phổ thông và chuyên biệt cùng chia sẻ trách nhiệm giáo dục mọi đối tượng học sinh.
- Chú trọng cả lĩnh hội tri thức và kĩ năng xã hội.
3.2. Tính tất yếu của giáo dục hòa nhập
Giáo dục hoà nhập là một xu thế, là một sự tất yếu của thời đại. Tại Hội nghị về giáo
dục cho trẻ khuyết tật tại Agra, ấn độ (3/1998) do UNESCO tổ chức đã khẳng định xu
hướng: Giáo dục hoà nhập cho mọi trẻ em. Những nội dung sau đây sẽ lý giải tại sao
phải tiến hành giáo dục hoà nhập cho mọi trẻ em, trong đó có trẻ khuyết tật.
* Đáp ứng mục tiêu giáo dục
UNESCO đã đề ra 4 mục tiêu đào tạo con người như sau: - Học để làm người: - Học để biết; - Học để làm ;
- Học để cùng chung sống.
* Thay đổi quan điểm giáo dục
- Môi trường giáo dục cần thay đổi để đáp ứng nhu cầu đa dạng của trẻ em, phát
huy tối đa tiềm năng của trẻ chứ không phải bắt đứa trẻ phải đáp ứng các điều kiện của môi trường.
- Không có trẻ em không học được, chỉ có môi trường và phương pháp giáo dục chưa phù hợp. lOMoAR cPSD| 58562220
* Tính hiệu quả Xoá bỏ mặc cảm;
Giao tiếp phát triển nhanh;
Phát triển tính độc lập; Học được nhiều hơn; Đi học gần nhà; Có nhiều bạn bè; - Hội nhập dễ dàng;
Có cơ hội tìm việc làm; Học cách giao tiếp; Hiểu nhau; Gây nhu cầu giao tiếp; Phát triển tư duy;
Được phát triển tài năng;
Được bạn bè giúp đỡ; •
Xoá bỏ dần sự lệ thuộc. •
*Cơ sở pháp lí
- Công ước quốc tế về quyền trẻ em (điều 18, 23): Bình đẳng về cơ hội học tập cho mọi trẻ em.
- Tuyên bố Salamanca (1994): “Giáo dục là quyền của con người và những người
khuyết tật cũng có quyền được học trong các trường phổ thông và các trường đó phải
được thay đổi để tất cả trẻ em đều được học”.
- Tuyên ngôn thế giới về giáo dục cho mọi người (1990): “Các quốc gia phải quan
tâm đến nhu cầu giáo dục đặc biệt của trẻ em khuyết tật và tạo điều kiện bình đẳng trong
giáo dục cho mọi TKT như là một bộ phận thiết yếu của hệ thống giáo dục quốc dân”.
+ Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992
Điều 59 : “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoá và học nghề phù hợp”.
+ Luật phổ cập Giáo dục Tiểu học ngày 16/8/1991
Điều 11: Trẻ em là con liệt sĩ, thương binh nặng, trẻ em tàn tật, trẻ em mồ côi không
nơi nương tựa, trẻ em khó khăn đặc biệt, được Nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ, tạo
điều kiện cần thiết để đạt trình độ giáo dục Tiểu học. lOMoAR cPSD| 58562220
+ Luật bảo vệ và Chăm sóc giáo dục trẻ em 16/8/1991
Điều 6, mục 3: Trẻ em tàn tật, trẻ em khuyết tật, được Nhà nước và xã hội giúp đỡ
trong điều trị, phục hồi chức năng để hoà nhập vào cuộc sống xã hội; được thu nhận vào
các trường lớp đặc biệt.
+ Pháp lệnh về người tàn tật 30/7/1998
Chương III, điều 16: (1) Việc học tập của trẻ em tàn tật được tổ chức, thực hiện bằng
các hình thức học hoà nhập trong các trường phổ thông, trường chuyên biệt dành cho
người tàn tật, cơ sở nuôi dưỡng người tàn tật tại gia đình. (2) HS tàn tật có năng khiếu
được ưu tiên tiếp nhận vào học tại các trường năng khiếu tương ứng. * Tính kinh tế - Đỡ tốn kém. lOMoAR cPSD| 58562220
- Huy động được nhiều trẻ đi học.
Như ta biết, kinh phí giáo dục cho một trẻ khuyết tật bao gồm các chi phí cho học
sinh, đào tạo giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học,... Theo số liệu tổng hợp
từ các cơ sở, chi phí cho một trẻ khiếm thính trong một năm nội trú - khoảng 5 triệu,
trường bán trú - khoảng 2,5 triệu trong đó chưa tính đào tạo giáo viên và máy trợ thính.
Chi phí cho cơ sở vật chất ban đầu cũng là điều cần đề cập; Xây dựng cơ sở vật chất của
cho các trường, trung tâm cũng rất cao.
Tuy nhiên, giáo dục hoà nhập không chỉ để giải quyết vấn đề ngân sách, mà vấn đề
cơ bản là làm thế nào để trẻ được hưởng lợi nhiều nhất.
Cũng cần tránh tư tưởng cho rằng giáo dục hoà nhập là ít tốn kém hơn nhiều so với
giáo dục chuyên biệt, nên không cần chi phí nhiều. Trên thực tế tại nhiều nước, giáo dục
hoà nhập nhiều khi cần có nguồn kinh phí không kém giáo dục chuyên biệt như Niu
Dilân. Còn ở bang Têchdat Hoa Kỳ do chi phí cho trẻ khuyết tật trong lớp hoà nhập chỉ
bằng 1/10 so với trường chuyên biệt nên hệ quả là nhà trường không muốn nhận trẻ
khuyết tật và tỷ lệ học sinh học hoà nhập là 5% trong tổng số trẻ khuyết tật, so với các bang khác là 53%.
*Đáp ứng đựơc gia tăng số lượng trẻ khuyết tật
Sự gia tăng dân số kéo theo số trẻ khuyết tật ngày càng tăng. Theo số liệu của Tổ
chức Y tế thế giới, khi nền văn minh nhân loại càng phát triển, thì tỉ lệ trẻ khuyết tật càng
tăng. Cũng theo Tổ chức này, hiện tại tỉ lệ người khuyết tật trên thế giới là 8-10% dân
số, con số này sẽ tăng lên 12-15% vào năm 2020.
=> GDHN là mô hình giáo dục TKT có hiệu quả nhất -
TKT được học ở môi trường bình thường, học ở trường gần nhà nhất -
TKT được học cùng một chương trình giáo dục với các bạn bình thường
khác. Chương trình và phương pháp ở đây sẽ được điều chỉnh, đổi mới cho phù hợp
với nhu cầu, năng lực của các em. -
Coi trọng sự cân đối giữa kiến thức và kĩ năng xã hội -
Tạo ra cơ hội, môi trường để các lực lượng tham gia giáo dục có điều kiện
hợp tác với nhau vì mục tiêu chung.
3.3. Những mặt tích cực của giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật
Giáo dục hoà nhập là mô hình giáo dục trẻ khuyết tật có hiệu quả
- Trong giáo dục hoà nhập, trẻ khuyết tật được học ở môi trường bình thường, học
ở trường gần nhà nhất. Điều này tạo cho các em không bị tách biệt với bố, mẹ, anh, chị
trong gia đình. Các em luôn gần gũi với bạn bè, người thân, người quen ở làng, xã. Sống lOMoAR cPSD| 58562220
trong môi trường như vậy ở các em sẽ yên tâm hơn. Những xúc động, vui, buồn, trong
tình cảm diễn ra ở trẻ một cách bình thư- 13 - ờng. Do đó tâm lý ổn định, phát triển cân
đối, hài hoà như những trẻ em khác, trong điều kiện đó các em sẽ yên tâm phấn đấu, học tập và phát triển.
- Các em được học cùng một chương trình với các bạn bình thường khác. Chương
trình và phương pháp ở đây sẽ được điều chỉnh, đổi mới cho phù hợp với nhu cầu, năng
lực của các em. Dạy học như vậy sẽ đưa đến hiệu quả cao, các em sẽ phát triển hết khả năng của mình.
- Giáo dục hoà nhập coi trọng sự cân đối giữa kiến thức và kỹ năng xã hội. Môi
trường giáo dục thay đổi, các em được tự do giao lưu, giúp đỡ lẫn nhau làm cho các em
phát triển toàn diện hơn và thích ứng tốt hơn với môi trường xã hội
- Giáo dục hoà nhập sẽ tạo ra cơ hội, môi trường để các lực lượng tham gia giáo
dục có điều kiện hợp tác với nhau vì mục tiêu chung. Đây cũng là môi trường mà mọi
người trong cộng đồng có dịp tiếp cận với trẻ khuyết tật nhiều hơn, thấy rõ hơn những
nhu cầu, tiềm năng của các em, những mặt mạnh, khó khăn của các em, từ đó thấy cần
phải làm những gì để hỗ trợ các em nhiều hơn. Càng có nhiều người hiểu các em, giúp
đỡ các em, chắc chắn các em sẽ có sự phát triển tốt hơn.
Giáo dục hoà nhập là mô hình hoàn thiện nhất trong các mô hình giáo dục trẻ khuyết tật
- Giáo dục hoà nhập có cơ sở lý luận vững chắc về đánh giá con người, về mối
quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và các giải pháp thích hợp trong tổ chức cũng như
trong tiến hành giáo dục.
- Giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật được áp dụng những lý luận dạy học hiện đại
- lấy người học là trung tâm. Chương trình được điều chỉnh, phương pháp đựơc đổi
mới thích hợp cho mọi học sinh.
- Giáo dục hoà nhập là mô hình giáo dục kinh tế nhất, mang tính nhân văn nhất.
Mô hình này làm cho mọi trẻ em đi học đều vui, đều thấy rõ trách nhiệm của mình. Nó
cũng làm cho người lớn gần gũi nhau hơn, có cơ hội hợp tác với nhau vì sự nghiệp giáo dục trẻ khuyết tật.
3.4. Những nguyên tắc cơ bản trong giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật
* Đảm bảo các nguyên tắc giáo dục chung
Là bộ phận của khoa học giáo dục, giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật cũng phải
tuân theo những nguyên tắc chung của giáo dục. Những nguyên tắc chủ yếu đó là:
- Nguyên tắc thống nhất giữa trình độ học vấn và quá trình giáo dục; lOMoAR cPSD| 58562220
- Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học của nội dung giáo dục và dạy học;
- Đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh;
- Phù hợp với độ tuổi;
- Đảm bảo tính hệ thống và kế thừa;- 14
- Đảm bảo tính phát triển;
* Nguyên tắc tôn trọng sự khác biệt
Con người khi được sinh ra đều mang những đặc tính chung của loài người nhưng
cũng mang những đặc điểm riêng của từng cá nhân. Chúng ta nhận ra nhau nhờ những
đặc điểm riêng biệt đó. Chúng ta khác nhau về nhiều mặt: Hình thức bề ngoài, năng lực
nhận thức, năng lực vận động… sở thích, tình cảm, thái độ…
Học sinh khuyết tật cũng có những năng lực, trình độ, tình cảm… như những người
khác và các em cũng có những đặc điểm riêng biệt. Chúng ta có thể chấp nhận những
đặc điểm khác biệt của nhau thì chúng ta cũng có thể chấp nhận những khác biệt ở học
sinh khuyết tật. Những đặc điểm riêng ấy ở học sinh khuyết tật cũng cần được tôn trọng
như những sự khác biệt khác.
Như vậy, cơ sở của nguyên tắc này dựa trên quy luạt đa dạng và khác biệt của mỗi
người trong xã hội. Trong giáo dục học sinh khuyết tật, nguyên tắc tôn trọng những khác
biệt ở học sinh khuyết tật nói riêng cũng như ở mọi học sinh em khác nói chung. Nguyên
tắc giáo dục này cũng giúp học sinh khuyết tật hiểu rõ về những khác biệt của bản thân,
từ đó có ý thức trách nhiệm với bản thân, có phương pháp hòa nhập xã hội. Giáo dục học
sinh khuyết tật phải tuân theo nguyên tắc này để học sinh khuyết tật trở nên tự tin thể
hiện mình trong các hoạt động.
Nguyên tắc giáo dục tôn trọng sự khác biệt đảm bảo rằng mục tiêu, nội dung chương
trình, phương pháp, hình thức giáo dục học sinh khuyết tật cần phải thích ứng với những
khác biệt của cá nhân học sinh và đảm bảo cho sự tôn trọng những khác biệt ấy.
* Nguyên tắc giáo dục học sinh khuyết tật dựa vào cộng đồng
Cũng như những học sinh bình thường khác, học sinh khuyết tật, trong quá trình
phát triển luôn chịu những tác động từ các yếu tố của cộng đồng, nơi các em đang sinh
sống. Những yếu tố tác dộng đó có thể là những yếu tố tự nhiên như: Vị trí địa lý, địa
hình, môi trường, khí hậu, đường giao thông… Đó là những yếu tố xã hội như: Phong
tục tập quán, trình độ dân trí, nhận thức của cộng đồng đối với học sinh khuyết tật, sự
phát triển của y tế, giáo dục, sự quan tâm của chính quyền địa phương và các đoàn thể…
Đó là các yếu tố kinh tế như tình trạng kinh tế của gia đình, của địa phương, các phương lOMoAR cPSD| 58562220
tiện, tiện ích xã hội của cộng đồng… Như vậy, cộng đồng có vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển của học sinh khuyết tật.
Nguyên tắc giáo dục dựa vào cộng đồng đảm bảo rằng, học sinh khuyết tật được học
tập tại nơi học sinh sinh sống. Môi trường giáo dục cộng đồng sẽ giúp học sinh có những
cơ hội tốt nhất để thích ứng, được chấp nhận và hòa nhập. Nguyên tắc giáo dục này đòi
hỏi những nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục học sinh khuyết tật phải
dựa trên nền tảng cơ sở của cộng đồng. - 15 - lOMoAR cPSD| 58562220
Nguyên tắc này cũng chỉ ra mối liên hệ, sự ảnh hưởng của văn hóa làng xã, quê
hương đối với mỗi cá nhân. Học sinh khuyết tật sẽ dễ dàng hiểu biết hơn về cộng đồng,
chấp nhận và tuân theo những quy ước làng xã ở chính nơi các em được sinh ra (yếu tố
tác động văn hóa), do vậy, các em sẽ hòa nhập tốt hơn vào cuộc sống cộng đồng. Bà con,
hàng xóm là những người hiểu, dễ chia sẻ với học sinh và gia đình học sinh. Họ có thể
dành thời gian, công sức và có rách nhiệm thường xuyên đối với học sinh khuyết tật.
Huy động mọi thành phần xã hội, đặc biệt là gia đình học sinh khuyết tật tích cực tham
gia giáo dục để tăng tối đa khả năng hòa nhập cộng đồng là ý nghĩa quan trọng của nguyên tắc này.
* Nguyên tắc tổ chức hoạt động giáo dục linh hoạt, phù hợp và dựa vào học sinh
khuyết tật có khả năng, nhu cầu sở thích riêng.
Giáo dục học sinh khuyết tật không thể thành công nếu tổ chức các hoạt động giáo
dục một cách đồng loạt, đại trà. Phải dựa vào học sinh và những đặc điểm riêng để hướng
các hoạt động đạt hiệu quả cao nhất. Trong giáo dục học sinh khuyết tật, mỗi học sinh
em là rất khác nhau và có những cách tiếp cận khác nhau. Học sinh tăng động giảm tập
tủng (ADHD - Attention Deficits/ Hyperactivity Disorders) không có khả năng tập trung
chú ý cao, nếu hoạt động dạy học kéo dài trên lớp mà không có sự thay đổi hình thức tổ
chức thì chắc chắn học sinh sẽ không thể tiếp tục tham gia vào quá trình học tập. Học
sinh mù hoàn toàn nếu đưa ra yêu cầu quan sát tranh để mô tả các hoạt động đang diễn
ra trong bức tranh thì học sinh sẽ không bao giờ hoàn thành được nhiệm vụ. Để tăng
cường hiệu quả học tập, các hoạt động được thiết kế có thể tính tới hoạt động tĩnh và
động, những hoạt động trò chơi, thi đua, giao nhiệm vụ được đan kết hợp lí, chú ý đến
những thay đổi tâm lý và hành vi của học sinh ADHD để xử lí linh hoạt sẽ gắn kết học
sinh vào các hoạt động học tập tích cực hơn. Giáo viên có thể chú ý tới khả năng xúc
giác của học sinh mù để đưa ra nội dung quan sát có sử dụng xúc giác và các giác quan
còn lại để nhận biết, hoặc có thể dựa trên những trải nghiệm thực tiễn của học sinh kết
hợp với hình thức học nhóm, cách đưa ra câu hỏi để giúp học sinh hoàn thành tốt hơn nội dung bài học.
Mỗi loại học sinh khuyết tật những nhu cầu đặc trưng, đồng thời mỗi học sinh đều
có đặc điểm, nhu cầu cá nhân. Việc tính đến đặc điểm đó cho phép thu hút học sinh
khuyết tật tham gia tích cực hơn vào quá trình học tập.
Việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh khuyết tật dựa trên mặt mạnh của
học sinh để tạo điều kiện cho các em thành công hơn trong học tập. Những khiếm khuyết
về thể chất, tinh thần hay giác quan đã làm hạn chế năng lực tiến hành học tập của học lOMoAR cPSD| 58562220
sinh. Nhà giáo dục không chỉ nhìn vào đặc điểm khiếm khuyết của học sinh mà phải chỉ
ra cơ thể, khả năng thay thế bù trừ chức năng trong quá trình học tập của học sinh. Quá
trình giáo dục học sinh khuyết tật phải nhận ra những năng lực bù trừ đó và tổ chức, tạo
- 16 - cơ hội cho học sinh sử dụng tối đa những năng lực còn lại như là điểm mạnh để tiến
hành các hoạt động học tập. Ví dụ: học sinh mù thường có cảm giác xúc giác và thính
giác nhạy bén hơn nên chúng học được chữ nổi Braille dễ dàng hơn và nhận biết các vấn
đề của cuộc sống chủ yếu bằng xúc giác và thính giác.
Những người làm công tác giáo dục học sinh khuyết tật cần hiểu rõ đặc điểm của
mỗi học sinh, những tác động có thể ảnh hưởng tới khả năng tiếp nhận thông tin của các
em, từ đó đưa ra những hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp với từng học sinh
khuyết tật. Nếu các hoạt động học tập không được tổ chức một cách linh hoạt, phù hợp
với mỗi cá nhân học sinh thì sẽ không mang lại kết quả hoặc thậm chí cho kết quả tiêu cực.
* Nguyên tắc can thiệp giáo dục sớm.
Nguyên tắc này chỉ ra mỗi giai đoạn phát triển được gọi là" giai đoạn phát triển nhạy
cảm" ở trẻ nhỏ. Những năm tháng đầu tiên là rất cần thiết để học hỏi. Đây là giai đoạn
trẻ học hỏi thông qua các mối quan hệ với sự vật hiện tượng. Đặc biệt sự ảnh hưởng quan
trọng từ mối quan hệ gắn bó giữa trẻ và người chăm sóc đối với sự phát triển tâm lí và
nhận thức sau này của trẻ. Can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật giúp các em hình thành
những kĩ năng thích nghi, kĩ năng xã hội và giao tiếp. Trải nghiệm sớm và kinh nghiệm
thực tiễn trong cuộc sống sẽ giúp trẻ khuyết tật giảm bớt những rào cản cho cuộc sống
độc lập và hòa nhập sau này.
Can thiệp sớm sẽ làm giảm thiểu những khó khăn do khuyết tật gây nên, đồng thời,
tăng cường những mặt phát triển của trẻ bị trì trệ, giúp cho quá trình phát triển đúng
hướng. Nếu để kéo dài không can thiệp, sự trì trệ hay phát triển lệch hướng sẽ ảnh hưởng
lớn tới sự phát triển toàn diện của trẻ sau này.
Nguyên tắc này cho thấy sự can thiệp giáo dục sớm là sự can thiệp giáo dục ngay
sau khi phát triển khuyết tật càng sớm càng tốt. Đây là những tác động có chủ đích, có
kế hoạch, có phương pháp của nhà giáo dục nhằm tạo ra những cơ hội thuận lợi để trẻ
khuyết tật không bị phát triển gián đoạn hoặc bị phát triển lệch hướng. Thông thường
quá trình can thiệp sớm được tiến hành cho trẻ ở giai đoạn từ 0 đến 3 tuổi là hiệu quả
nhát. Trẻ khuyết tật càng được phát triển sớm, can thiệp sớm thì quá trình giáo dục càng đạt hiệu quả cao.
* Nguyên tắc bình thường hóa