lOMoARcPSD| 57855709
CHỦ ĐỀ 10: MỘT SỐ LÀNG CỔ VIỆT NAM HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Làng đóng một vai trò hết sức đặc biệt đối với lịch sử đất nước nói chung
đối với cuộc sống mỗi con người Việt Nam nói riêng. Bộ trưởng Quốc gia giáo
dục Chính phủ nhân dân lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ông
Đình Hòe cho biết: “Muốn tìm hiểu lịch sử hình thành của dân tộc Việt Nam thì
phải tìm hiểu cộng đồng ng muốn xây dựng lại đất nước Việt Nam thì
cũng phải bắt đầu xây dựng lại cộng đồng làng xã. Vì không có lần xã Việt Nam
thì không có quốc gia Việt Nam.”
NỘI DUNG
1. Khái quát chung về Làng
1.1. Khái niệm
Theo giáo sư Phan Đại Doãn tlàng thường được dùng như một khái
niệm chung nhưng thực ra làng và xã có nội hàm không đồng nhất.
“Làng” cộng đồng tự nhiên được tập hợp theo quan hệ huyết thống, quan
hệ địa vực, nghề nghiệp.
“Xã” từ Hán Việt , Về phương diện hành chính, thiết chế tính
chất pháp chỉ đơn vị hành chính sở của nhà nước phong kiến vùng nông
thôn Việt Nam.
Làng vốn đơn vị trú, đơn vị kinh tế, tín ngưỡng sinh hoạt cộng
đồng của dân xã, xuất hiện từ thời Hùng Vương, phường xã chỉ mới xuất
hiện từ thời thuộc đường và được khẳng định, cùng cố một cách vững bền với tư
cách là một đơn vị nh chính cấp strong hệ thống chính quyền của nhà nước
quân chủ độc lập từ thế kỷ thứ 10 biến làng Việt truyền thống trở thành đơn vị
quản hội. Nhìn chung, Trước cách mạng T8/1945 trên vùng đồng bằng trung
du Bắc bộ Bắc Trung bộ phần lớn mỗi làng một xã. Do vậy, người ta thường
ghép hai từ làng, xã là một.
Làng là đơn vdân nhỏ nhất nông thôn vùng đồng bằng trung du
Việt Nam, thường đời sống riêng tư về nhiều mặt. đặc điểm kinh tế, địa
vực, sở hạ tầng, cơ cấu tổ chức, phong tục tập quán, quan niệm, tính cách
cả hương âm, thổ ngữ riêng.
1.2. Quá trình hình thành
Sau quá trình tan của công thị tộc thì quá trình công nông thôn
được hình thành. Đây cũng chính là quá trình hình thành làng Việt Nam.
lOMoARcPSD| 57855709
Tuy nhiên, mới chỉ điểm khởi đầu cho hình làng ở Bắc Bộ, n
Trung Bộ Nam bộ thì muộn hơn theo lịch smở mang bờ cõi của đất nước.
(Trung bộ có thể tính từ thế kỷ XVI, Nam bộ từ thế kỷ XVIII).
Làng còn được hình thành từ quá trình khai phá đất hoang, lập xóm, dựng
làng, từ các điền trang, đồn điền, trang trại,.. Sự hình thành làng một quá
trình lâu dài, về mặt hình thái nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Do điều kiện địa lý, sinh kế ảnh hưởng của các cộng đồng dân hay
tộc người bản địa nên ít nhiều người Việt Trung bộ Nam bnhững đặc
điểm riêng trên nền tảng đặc trưng chung của làng Việt Nam là làng Bắc Bộ. Khi
làng được hình thành thì toàn bộ ruộng cày cấy cũng như núi rừng, sông ngòi ao
đầm trong phạm vi làng đều thuộc quyền sở hữu của làng.
Ruộng đất được phân chia cho các gia đình sử dụng theo những tục lệ mang
tính chất bình đẳng theo cộng đồng làng. Ngoài những thửa ruộng riêng thì làng
thể giữ một phần ruộng đất sản xuất chung nhằm sdụng hoa lợi thu hoạch
vào những chi phí cộng đồng.
Về công việc khai hoang, làm thủy lợi và các hình thức lao động công ích
khác đều được tiến hành bằng lao động hợp tác của các thành viên trong làng.
Làng luôn gắn liền với nông nghiệp thủ công nghiệp, gắn liền với ruộng đất
nên có tính ổn định cao.
Từ sau thất bại của An Dương Vương (179 TCN) ruộng đất bị coi là thuộc
quyền sở hữu của Trung Quốc. Phong kiến Trung Quốc đàn áp đến cận snắm
lấy sử dụng làng Việt truyền thống như một công cụ phục vụ cho mưu đồ thống
trị và đồng hóa. Tiêu biểu là đề ra chính sách khuôn làng Việt vào mô hình thống
trị của Trung Quốc. Đặt ra hương dưới hương xã. thực tế phong kiến
Trung Quốc đã không thành công. thể i giai đoạn này người Việt đã mất
nước nhưng chưa thật sự bị mất làng. Người Việt trong suốt thời kỳ Bắc thuộc đã
không ngừng bảo tồn củng cố cộng đồng làng xóm, biến làng xóm trở thành
pháo đài chống Bắc thuộc, chống đồng hóa. Cộng đồng làng với kết cấu bền
chặt không những không bị giải thế còn được củng cố ngày một chặt chẽ. Tuy
nhiều sự giao thoa văn hóa của nền văn hóa Trung Quốc song làng Việt vẫn
mang trong mình những nét truyền thống riêng biệt.
Người Việt cũng như bất cứ dân tộc nào trên thế giới, đầu tiên đều cùng
nhau tụ hội rồi họp thành làng. Có người là có làng, và có làng là có sinh hoạt
nhân cũng như tập thể. Người Việt sống họp thành làng do thiên tính của con
người muốn sống quây quần tụ họp, thiên tính này chính thiên tính sinh tồn.
Các nhà nghiên cứu đã phân loại làng Việt theo các tiêu chí như: theo vùng
địa lý; theo cảnh quan; theo thời gian hình thành, theo sở kinh tế; theo đặc
điểm xã hội, theo tôn giáo
lOMoARcPSD| 57855709
1.3. Vai trò của Làng o Làng một quá trình lịch sử lâu dài bền vững
từng giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế: làm thuỷ lợi, vì dân, khai
hoang lập làng, chinh phục những vùng đất mới gắn với công cuộc mở mang
lãnh thổ. o Tổ chức làng trước đây cũng đóng một vai trò to lớn trong
công cuộc trị thuỷ, chế ngự thiên tai,… tổ chức nào thì trong điều kiện của
chế độ phong kiến lao động thủ công không thể tiến hành xây dựng được
một hthống đê điều quy cùng với hệ thống sông ngòi ao hkênh rạch
chằng chịt khắp miền đồng bằng nước ta như vậy.
o Trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, làng với tổ chức chặt chẽ tinh thần
của các truyền thống ý thức tlực tự cường tinh thần chủ động cao lòng
yêu nước nồng nàn đã là những pháo đài kiên cố chặn bước tiến của quân
địch khi chúng Bình Định nông thôn. Sự tham gia tích cực, đúng động của
nhân dân các địa phương vào công cuộc chống giặc ngoại xâm trong lịch
sử của dân tộc thể hiện nét vai trò chiến lược của làng nòng cốt
là lực lượng dân binh. Đó tổ chức quân sự tự nguyện và bán vũ trang ở
Nam góp phần quan trọng trong sự nghiệp giữ nước giữ làng. Lịch sử
chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cho hay mỗi khi quân giặc tràn đến,
lần đều biến thành làng chiến đấu. Mọi người trong làng dựa vào cấu
trúc của đảng để chiến đấu đến cùng.
o Làng đóng một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng phát triển nền
văn hóa dân tộc. Mỗi lần hùng như đều đình chùa của mình chợ
làng có văn nghệ trung tâm có khách sạn, làng là nơi bảo tồn nền văn hóa
dân tộc, đánh bại mọi âm mưu đồng hóa của kẻ thù ngoại bang. Đây cũng
nơi nuôi dưỡng cái nôi phát triển văn hóa dân gian sản phẩm của
những người lao động.
o Làng còn nơi sinh thành, trường hoạt động nơi mỗi người dân
Việt Nam cảnh báo cuộc đời chung của người dân Việt Nam không
muốn rời bỏ làng quê mình.
1.4. Thành tố cấu tạo nên Làng o
Cổng làng
o Đường làng
o Cây đa đầu làng bàn thờ gốc đa o
Đình làng
o Giếng làng o Lũy tre làng o Chợ
làng o Cánh đồng làng o Con sông,
con mương làng
lOMoARcPSD| 57855709
2. Giới thiệu một số làng cổ
2.1. Làng cổ Đường Lâm
Trong vùng văn hóa xứ Đoài, Đường Lâm một ngôi làng cổ sở hữu những
giá trị văn hóa độc đáo. Đây cũng ngôi làng duy nhất phía Bắc tồn tại đến
ngày nay mà vẫn giữ được lối sinh hoạt và kết cấu làng Việt cổ. Những hình ảnh
quen thuộc của ng quê Việt ncổng làng, giếng nước, ao hồ,…đã tạo ra những
nét văn hóa rất riêng cho ngôi làng cổ này. a. Cổng làng Mông Phụ
Cổng làng được xây bằng đá tổ ong với kiến trúc mái vòm. Đầu cổng làng,
sừng sững y đa tuổi đời hơn 300 năm với bến ao đã tạo nên khung cảnh bình
yên, cổ kính và ấm áp cho ngôi làng.
Xưa kia, cổng làng nơi dừng chân nghỉ ngơi, trò chuyện, giao lưu của
những người nông dân, những người đi chợ, đi buôn... Và dần, cổng làng đã trở
thành biểu tượng không thể thiếu của quê hương. b. Đình làng Mông Phụ
Đình mang đậm dấu ấn kiến trúc Việt - Mường: sàn gỗ cách mặt đất,
phỏng kiến trúc nhà sàn. Bên trong Đình làng có treo rất nhiều hoành phi, câu đối
nổi bật. Cũng như bao ngôi đình khác, đây chính là không gian văn hóa tâm linh,
nơi thực hiện các nghi lễ hành vi tín ngưỡng của người dân vào mỗi dịp lễ,
Tết.
c. Giếng cổ Đường Lâm
Bên cạnh Cổng làng và Đình làng, giếng nước cũng là một biểu tượng đặc
trưng, linh hồn của làng quê Bắc Bộ xưa, gắn liền với đời sống sinh hoạt của
người dân. Người dân trong làng thường ra giếng, múc những xô nước trong vắt,
mát rượi, chảy từ mạch nước ngầm để nấu ăn, giặt giũ, sinh hoạt. Đến nay, giếng
nước không còn được sử dụng phổ biến như trước nữa nhưng Đường Lâm vẫn
giữ gìn bảo tồn những chiếc giếng còn tồn tại trong phạm vi làng một cách
triệt để nhất.
d. Một số ngôi nhà cổ
Nhà của ông Hà Nguyên Huyến
Điểm đặc trưng của ngôi nhà cổ này khoảng sân xếp đầy tăm tắp các vại
tương màu nâu trầm do nhà ông Nguyên Huyến nghề nấu tương gia truyền
lâu đời. Giữa sân khoảng không gian xanh mát, trong nhà bày trí những bộ bàn
ghế, tủ sập, những bức hoành phi, câu đối …
lOMoARcPSD| 57855709
Nhà của ông Nguyễn Văn Hùng
Nhà ông được xây dựng theo lối kiến trúc 5 gian (3 gian giữa thờ cúng tổ
tiên 2 gian ngoài để ở). Được xây dựng từ vật liệu truyền thống như: đá ong,
gỗ xoan, gạch đất nung,...Bộ bàn ghế, tủ, đồ thờ trong nhà đến nay đã có tuổi đời
hàng trăm năm tuổi.
e. Chuyện làng, chuyện họ ở Đường Lâm
một ngôi làng đến nay vẫn giữ nguyên được kết cấu làng Việt cổ. Kết
cấu này thường gắn với hình ảnh cây đa, giếng nước, cổng làng, những ngôi
nhà, sân vườn, ao hkhép kín và cuộc sống của người dân gần gũi với thiên nhiên.
Cũng chính thế đã tạo thuận lợi cho việc canh tác lúa của người dân Đường
Lâm qua bao đời nay.
Dựa vào tuổi thọ ngôi nhà cổ của ông Nguyên Huyến cho thấy rằng,
dòng họ đã sống ở Đường Lâm chừng hơn bốn trăm năm nay và cùng với các
dòng hnhư: Họ Phan, họ Phùng, họ Ngô, họ Hà, họ Giang, họ Đỗ, họ Nguyễn…
lập nên những dòng họ lâu đời đánh giá nơi đây. Tuy nhiều họ nổi danh nhưng
ở Đường Lâm các dòng họ lại khá đoàn kết và nương tựa vào nhau.
lOMoARcPSD| 57855709
Nổi bật dòng họ tự quản đất cổ Đường Lâm, đó chính dòng họ Giang.
Giữ cốt cách dòng họ bằng việc ký cam kết thực hiện nghiêm túc 10 nội dung tự
quản, không để nảy sinh mâu thuẫn, phòng tránh các tệ nạn xã hội,...
2.2. Làng Cựu (Phú Xuyên)
a. Cấu trúc làng cổ
Làng Cựu vẫn còn giữ được cấu trúc của làng truyền thống đã trải qua
biến động. Làng còn Cổng làng, đình, giếng. Đường làng bình yên với các ngõ
nhỏ lát gạch và đá xanh.
b. Đình làng Cựu
Đình nằm đầu làng, trước mặt ao sen. Đình ng nằm trong tổ hợp kiến
trúc: đình, sân đình, cây bồ đề cổ thụ, ao sen. Đình không gian cộng đồng quan
trọng trong làng. Đình là nơi tập trung, nghỉ chân của người dân khi đi làm đồng.
Đồng thời đây cũngkhông gian vui chơi của trẻ em. Trước đình có cây Bồ đề
râm mát cạnh ao làng, đây nơi người dân ra ngồi hóng mát trò chuyện, vẫn n
những chân đá tảng, dấu tích của ngôi đình đẹp đẽ trước đây. c. Giếng làng
Làng 2 giếng, nhưng đến nay chỉ giữ được giếng giữa làng. điều
đặc biệt giếng rộng như ao, một chiều dài đến hơn 30m, bờ đất, hiện chỉ để thả
Sen.
Giếng làng nơi lưu giữ nguồn nước cho làng, ý nghĩa cả về mặt sử
dụng và phong thủy.
d. Nhà truyền thống
Tại làng Cựu phần lớn vẫn giữ nguyên các quan niệm xây dựng nhà truyền
thống. Ngôi nhà chính quay về phía Nam, được bao xung quanh bởi khuôn viên
sân vườn. Nhà chính nhà phụ tách biệt. Cửa nhà không mở trực tiếp ra đường,
việc tiếp cận nhà chính từ đường thông qua khoảng không gian đệm (có thể
sân, hiên, hoặc lối đi giữa nhà).
lOMoARcPSD| 57855709
e. Làng Cựu-giao lưu văn hoá Á-Âu
Nhà phong cách kiến trúc Pháp nét đặc sắc nhất trong di sản làng
Cựu. Hạ tầng cũng giao thoa giữa cấu trúc làng Việt truyền thống hạ tầng
kỹ thuật Châu Âu.
Hệ thống thoát nước chiếu sáng trong làng Cựu được phát triển thời
Pháp thuộc. Các rãnh thoát nước kết nối từ nhà ra đường chính, được lát gạch đ
dưới đáy. Làng được trang bị hệ thống chiếu sáng bằng đèn (thắp bằng dầu hỏa)
chạy dọc theo đường chính của làng.
g. Nghề truyền thống trong đời sống hiện nay
Làng Cựu ngày nay vẫn còn rất nhiều gia đình theo nghề may Âu phục
truyền thống. lẽ, tiếng cắt vải xoèn xoẹt, tiếng lạch xạch của chiếc máy may
nghe quen tai đã ăn sâu tiềm thức của người dân làng Cựu. Những gian nhà chất
đống đồ may, xếp tầng tầng lớp lớp, những cuộn vải mới cao chất ngất trong một
gian nhà là hình ảnh khá quen thuộc của mỗi người dân nơi đây.
Nhờ có nghề may Âu phục mà người làng Cựu chưa lúc nào kinh tế bị rơi
vào đói nghèo.
2.3. Khác
Làng Thổ Hà (Bắc Giang)
Làng Giò chả Ước Lễ (Hà Nội)
Làng Cự Đà (Hà Nội)
Làng Nôm (Hưng n)
Làng cổ Long Tuyền (Cần Thơ)
Làng cổ Phong Nam (Đà Nẵng)
3. Thực trạng
Những ngôi làng cổ đang xuống cấp rất nhanh trước sức ép thời gian. Giới
nghiên cứu văn hóa và cộng đồng cư dân làng cổ lo ngại rằng, với thực trạng bảo
tồn như hiện nay, không u nữa, các làng cổ Việt Nam chcòn trong ức. Nhiều
nhà cao tầng màu sắc xen lẫn những nếp nhà loang lổ rêu phong.
lOMoARcPSD| 57855709
Người dân các làng cổ đang xu hướng bán đất nên tiền, đua nhau
xây nhà chẳng theo một quy chuẩn, kiến trúc nào, chủ yếu nhà cao tầng hình ng.
Dấu ấn của làng Việt cổ của cả nước nay trở nên nhạt nhòa dần, thay vào đó, nỗi
lo bê-tông hóa hiện rõ trên những khuôn mặt khắc khổ của các bậc cao niên. Ví
như đình làng Mông Phụ, một trong những ngôi đình đẹp nhất, cổ nhất không ch
của Đường Lâm mà còn của cả vùng đồng bằng Bắc Bộ hôm nay đã được khoác
lên một chiếc áo mới. Ngày phá đình dựng đình mới, nhiều cụ già trong làng
chỉ biết đứng lặng người nhìn rồi rơi lệ. Ngôi đình mới khang trang đã mọc lên
thay thế nhưng người ta vẫn tiếc cho ngôi đình i ngói nghiêng. Đình làng
vẫn thế nhưng cái hồn đã khác xưa!
Sự xuống cấp, phai nhạt bản sắc của làng cổ có thể nhận thấy ngay từ tổng
thể cho đến sự biến đổi của những công trình kiến trúc, cảnh quan hoặc nếp sinh
hoạt văn hóa của người dân stại. Chiếc cổng, một yếu tố “linh hồn” của làng
cũng bị tác động khi thực tế có nhiều cổng làng bị đập đi hoặc có nơi bỏ ra hàng
tỷ đồng xây lại cổng mới to, rộng hơn, sơn lòe loẹt, kiểu dáng kiến trúc như nhau
khiến cho cổng làng trở thành những chiếc cổng chào vô cảm.
Do sự biến đổi về phương thức canh tác, lối sống... đã làm thay đổi cả vật
chất tinh thần của các làng. Cũng bởi dân số tăng, nhiều gia đình phải chia nhỏ
mảnh đất cha ông để lại cho các con xây nhà ở riêng chứ không chung sống theo
kiểu gia đình ba, bốn thế hệ trong ngôi nhà truyền thống chật hẹp. Cơn lốc đô th
hóa vội vã, thiếu kiểm soát đang nguy làm cho ng cổ ngày càng phai dần bản
sắc vốn có của nó.
4. Công tác bảo tồn
Thời đại phát triển, chúng ta cũng không chỉ sống bằng tâm niệm hoài cổ
theo duy “ao làng”. Nhưng phải nhận thức rằng, những giá trị tốt đẹp xưa
thì không nên để dễ dàng mất đi phải bảo tồn hài hòa trong không gian mới
mẻ khi tiến trình phát triển không thể dừng lại. hội ngày nay với những biến
động không ngừng của nó, cần phải được nhìn nhận tìm kiếm những giải pháp
phù hợp.
Trong hoàn cảnh đó, nhiều quốc gia đã áp dụng thành công mô hình “nông
thị” hay cách gọi khác nông trấn” (agritown) như một cách dung hòa giữa phát
triển hiện đại bảo lưu những giá trị truyền thống. Trong một “nông thị” như
thế, diện tích mặt nước, bãi cỏ, khu vui chơi vẫn được ưu tiên khu vực tâm
linh, nhà ở, sản xuất, thương mại, hành chính, trường học được sắp xếp hợp lý,
hài hòa. Không một mẫu chung, mỗi không gian cảnh quan kiến trúc
làng phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa hình, nhu cầu sản xuất sinh hoạt.
lOMoARcPSD| 57855709
Với Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII mới đây, Hội nghị n hóa toàn
quốc thêm một lần xác định, nền văn hóa Việt Nam phải đứng vững trên “đôi
chân” vừa tiên tiến - hiện đại, vừa đậm đà bản sắc, kế thừa truyền thống. Gần đây,
nhiều bản người Thái, người Mường phía bắc, các buôn người Ê Đê, Ho
phía nam hay các làng người Kinh khu vực đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long
đã rất quan tâm bảo tồn văn hóa tộc người không gian sống cổ truyền nhằm
khai thác du lịch. Từ góc độ bảo tồn không gian làng Việt có thể coi đó là những
hình mẫu quý. Các quan chức năng như Bộ Nông nghiệp Phát triển nông
thôn hay Viện Quy hoạch đô thị Nông thôn quốc gia (Bộ Xây dựng) nên đặc
biệt quan tâm đến sự thay đổi diện mạo các làng quê, tích cực tham gia cùng chính
quyền sở và hướng dẫn người dân ý thức hơn trong việc bảo tồn kiến tạo
những giá trgia tăng để m đẹp không gian, cảnh quan làng quê Việt Nam trong
thời đổi mới.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Toan Ánh (1991). Nếp làng xóm Việt Nam, Nhà xuất bản TP Hồ Chí
Minh.
2. Phạm Thị Thanh Huyền (2018). Giải pháp phát triển du lịch cộng đồng tại
làng cổ Đường Lâm, Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Dân
lập Hải Phòng.
3. Nguyễn Hồng Nhung (2020). Làng cổ Đường Lâm Thực trạng hoạt động
du lịch và giải pháp cung ứng dịch vụ du lịch bền vững, Luận văn thạc sĩ,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Nguyễn Quang Ngọc. Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội.
5. Bùi Thị Trang (2014). Văn hóa Làng Cựu, Vân Từ, huyện Phú Xuyên,
thành phố Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Văn Hóa Nội.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 57855709
CHỦ ĐỀ 10: MỘT SỐ LÀNG CỔ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY MỞ ĐẦU
Làng xã đóng một vai trò hết sức đặc biệt đối với lịch sử đất nước nói chung
và đối với cuộc sống mỗi con người Việt Nam nói riêng. Bộ trưởng Quốc gia giáo
dục Chính phủ nhân dân lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ông Vũ
Đình Hòe cho biết: “Muốn tìm hiểu lịch sử hình thành của dân tộc Việt Nam thì
phải tìm hiểu cộng đồng làng xã và muốn xây dựng lại đất nước Việt Nam thì
cũng phải bắt đầu xây dựng lại cộng đồng làng xã. Vì không có lần xã Việt Nam
thì không có quốc gia Việt Nam.” NỘI DUNG
1. Khái quát chung về Làng xã 1.1. Khái niệm
Theo giáo sư Phan Đại Doãn thì làng xã thường được dùng như một khái
niệm chung nhưng thực ra làng và xã có nội hàm không đồng nhất.
“Làng” là cộng đồng tự nhiên được tập hợp theo quan hệ huyết thống, quan
hệ địa vực, nghề nghiệp.
“Xã” là từ Hán Việt , Về phương diện hành chính, xã là thiết chế có tính
chất pháp lý chỉ đơn vị hành chính cơ sở của nhà nước phong kiến ở vùng nông thôn Việt Nam.
Làng vốn là đơn vị cư trú, đơn vị kinh tế, tín ngưỡng và sinh hoạt cộng
đồng của cư dân bà xã, xuất hiện từ thời Hùng Vương, phường xã chỉ mới xuất
hiện từ thời thuộc đường và được khẳng định, cùng cố một cách vững bền với tư
cách là một đơn vị hành chính cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền của nhà nước
quân chủ độc lập từ thế kỷ thứ 10 biến làng Việt truyền thống trở thành đơn vị
quản lý xã hội. Nhìn chung, Trước cách mạng T8/1945 trên vùng đồng bằng trung
du Bắc bộ và Bắc Trung bộ phần lớn mỗi làng là một xã. Do vậy, người ta thường
ghép hai từ làng, xã là một.
Làng là đơn vị dân cư nhỏ nhất ở nông thôn vùng đồng bằng và trung du
Việt Nam, thường có đời sống riêng tư về nhiều mặt. Có đặc điểm kinh tế, địa
vực, cơ sở hạ tầng, cơ cấu tổ chức, phong tục tập quán, quan niệm, tính cách và
cả hương âm, thổ ngữ riêng.
1.2. Quá trình hình thành
Sau quá trình tan rã của công xã thị tộc thì quá trình công xã nông thôn
được hình thành. Đây cũng chính là quá trình hình thành làng xã Việt Nam. lOMoAR cPSD| 57855709
Tuy nhiên, nó mới chỉ là điểm khởi đầu cho mô hình làng xã ở Bắc Bộ, còn
Trung Bộ và Nam bộ thì muộn hơn theo lịch sử mở mang bờ cõi của đất nước.
(Trung bộ có thể tính từ thế kỷ XVI, Nam bộ từ thế kỷ XVIII).
Làng còn được hình thành từ quá trình khai phá đất hoang, lập xóm, dựng
làng, từ các điền trang, đồn điền, trang trại,.. Sự hình thành làng xã là một quá
trình lâu dài, về mặt hình thái nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Do điều kiện địa lý, sinh kế và ảnh hưởng của các cộng đồng dân cư hay
tộc người bản địa nên ít nhiều người Việt ở Trung bộ và Nam bộ có những đặc
điểm riêng trên nền tảng đặc trưng chung của làng Việt Nam là làng Bắc Bộ. Khi
làng được hình thành thì toàn bộ ruộng cày cấy cũng như núi rừng, sông ngòi ao
đầm trong phạm vi làng đều thuộc quyền sở hữu của làng.
Ruộng đất được phân chia cho các gia đình sử dụng theo những tục lệ mang
tính chất bình đẳng theo cộng đồng làng. Ngoài những thửa ruộng riêng thì làng
có thể giữ một phần ruộng đất sản xuất chung nhằm sử dụng hoa lợi thu hoạch
vào những chi phí cộng đồng.
Về công việc khai hoang, làm thủy lợi và các hình thức lao động công ích
khác đều được tiến hành bằng lao động hợp tác của các thành viên trong làng.
Làng luôn gắn liền với nông nghiệp và thủ công nghiệp, gắn liền với ruộng đất
nên có tính ổn định cao.
Từ sau thất bại của An Dương Vương (179 TCN) ruộng đất bị coi là thuộc
quyền sở hữu của Trung Quốc. Phong kiến Trung Quốc đàn áp đến cận cơ sở nắm
lấy và sử dụng làng Việt truyền thống như một công cụ phục vụ cho mưu đồ thống
trị và đồng hóa. Tiêu biểu là đề ra chính sách khuôn làng Việt vào mô hình thống
trị của Trung Quốc. Đặt ra hương và dưới hương là xã. Và thực tế phong kiến
Trung Quốc đã không thành công. Có thể nói giai đoạn này người Việt đã mất
nước nhưng chưa thật sự bị mất làng. Người Việt trong suốt thời kỳ Bắc thuộc đã
không ngừng bảo tồn và củng cố cộng đồng làng xóm, biến làng xóm trở thành
pháo đài chống Bắc thuộc, chống đồng hóa. Cộng đồng làng xã với kết cấu bền
chặt không những không bị giải thế mà còn được củng cố ngày một chặt chẽ. Tuy
có nhiều sự giao thoa văn hóa của nền văn hóa Trung Quốc song làng Việt vẫn
mang trong mình những nét truyền thống riêng biệt.
Người Việt cũng như bất cứ dân tộc nào trên thế giới, đầu tiên đều cùng
nhau tụ hội rồi họp thành làng. Có người là có làng, và có làng là có sinh hoạt cá
nhân cũng như tập thể. Người Việt sống họp thành làng là do thiên tính của con
người muốn sống quây quần tụ họp, và thiên tính này chính là thiên tính sinh tồn.
Các nhà nghiên cứu đã phân loại làng Việt theo các tiêu chí như: theo vùng
địa lý; theo cảnh quan; theo thời gian hình thành, theo cơ sở kinh tế; theo đặc
điểm xã hội, theo tôn giáo lOMoAR cPSD| 57855709
1.3. Vai trò của Làng o Làng xã có một quá trình lịch sử lâu dài bền vững
từng giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế: làm thuỷ lợi, vì dân, khai
hoang lập làng, chinh phục những vùng đất mới gắn với công cuộc mở mang
lãnh thổ. o Tổ chức làng xã trước đây cũng đóng một vai trò to lớn trong
công cuộc trị thuỷ, chế ngự thiên tai,… Có tổ chức nào thì trong điều kiện của
chế độ phong kiến và lao động thủ công không thể tiến hành xây dựng được
một hệ thống đê điều quy mô cùng với hệ thống sông ngòi ao hồ kênh rạch
chằng chịt khắp miền đồng bằng nước ta như vậy.
o Trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, làng với tổ chức chặt chẽ tinh thần
của các truyền thống ý thức tự lực tự cường và tinh thần chủ động cao lòng
yêu nước nồng nàn đã là những pháo đài kiên cố chặn bước tiến của quân
địch khi chúng Bình Định nông thôn. Sự tham gia tích cực, đúng động của
nhân dân các địa phương vào công cuộc chống giặc ngoại xâm trong lịch
sử của dân tộc thể hiện rõ nét vai trò chiến lược của làng xã mà nòng cốt
là lực lượng dân binh. Đó là tổ chức quân sự tự nguyện và bán vũ trang ở
Nam góp phần quan trọng trong sự nghiệp giữ nước giữ làng. Lịch sử
chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cho hay mỗi khi quân giặc tràn đến,
lần xã đều biến thành làng chiến đấu. Mọi người trong làng dựa vào cấu
trúc của đảng để chiến đấu đến cùng.
o Làng xã đóng một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng và phát triển nền
văn hóa dân tộc. Mỗi lần hùng như đều có đình và chùa của mình có chợ
làng có văn nghệ trung tâm có khách sạn, làng là nơi bảo tồn nền văn hóa
dân tộc, đánh bại mọi âm mưu đồng hóa của kẻ thù ngoại bang. Đây cũng
là nơi nuôi dưỡng là cái nôi phát triển văn hóa dân gian sản phẩm của những người lao động.
o Làng còn là nơi sinh thành, là trường hoạt động là nơi mà mỗi người dân
Việt Nam cảnh báo và cuộc đời chung của người dân Việt Nam là không
muốn rời bỏ làng quê mình.
1.4. Thành tố cấu tạo nên Làng o Cổng làng o Đường làng
o Cây đa đầu làng và bàn thờ gốc đa o Đình làng
o Giếng làng o Lũy tre làng o Chợ
làng o Cánh đồng làng o Con sông, con mương làng lOMoAR cPSD| 57855709
2. Giới thiệu một số làng cổ
2.1. Làng cổ Đường Lâm
Trong vùng văn hóa xứ Đoài, Đường Lâm là một ngôi làng cổ sở hữu những
giá trị văn hóa độc đáo. Đây cũng là ngôi làng duy nhất ở phía Bắc tồn tại đến
ngày nay mà vẫn giữ được lối sinh hoạt và kết cấu làng Việt cổ. Những hình ảnh
quen thuộc của làng quê Việt như cổng làng, giếng nước, ao hồ,…đã tạo ra những
nét văn hóa rất riêng cho ngôi làng cổ này. a. Cổng làng Mông Phụ
Cổng làng được xây bằng đá tổ ong với kiến trúc mái vòm. Đầu cổng làng,
sừng sững cây đa có tuổi đời hơn 300 năm với bến ao đã tạo nên khung cảnh bình
yên, cổ kính và ấm áp cho ngôi làng.
Xưa kia, cổng làng là nơi dừng chân nghỉ ngơi, trò chuyện, giao lưu của
những người nông dân, những người đi chợ, đi buôn... Và dần, cổng làng đã trở
thành biểu tượng không thể thiếu của quê hương. b. Đình làng Mông Phụ
Đình mang đậm dấu ấn kiến trúc Việt - Mường: có sàn gỗ cách mặt đất, mô
phỏng kiến trúc nhà sàn. Bên trong Đình làng có treo rất nhiều hoành phi, câu đối
nổi bật. Cũng như bao ngôi đình khác, đây chính là không gian văn hóa tâm linh,
nơi thực hiện các nghi lễ và hành vi tín ngưỡng của người dân vào mỗi dịp lễ, Tết.
c. Giếng cổ Đường Lâm
Bên cạnh Cổng làng và Đình làng, giếng nước cũng là một biểu tượng đặc
trưng, là linh hồn của làng quê Bắc Bộ xưa, gắn liền với đời sống sinh hoạt của
người dân. Người dân trong làng thường ra giếng, múc những xô nước trong vắt,
mát rượi, chảy từ mạch nước ngầm để nấu ăn, giặt giũ, sinh hoạt. Đến nay, giếng
nước không còn được sử dụng phổ biến như trước nữa nhưng Đường Lâm vẫn
giữ gìn và bảo tồn những chiếc giếng còn tồn tại trong phạm vi làng một cách triệt để nhất.
d. Một số ngôi nhà cổ
Nhà của ông Hà Nguyên Huyến
Điểm đặc trưng của ngôi nhà cổ này là khoảng sân xếp đầy tăm tắp các vại
tương màu nâu trầm do nhà ông Hà Nguyên Huyến có nghề nấu tương gia truyền
lâu đời. Giữa sân là khoảng không gian xanh mát, trong nhà bày trí những bộ bàn
ghế, tủ sập, những bức hoành phi, câu đối … lOMoAR cPSD| 57855709
Nhà của ông Nguyễn Văn Hùng
Nhà ông được xây dựng theo lối kiến trúc 5 gian (3 gian giữa thờ cúng tổ
tiên và 2 gian ngoài để ở). Được xây dựng từ vật liệu truyền thống như: đá ong,
gỗ xoan, gạch đất nung,...Bộ bàn ghế, tủ, đồ thờ trong nhà đến nay đã có tuổi đời hàng trăm năm tuổi.
e. Chuyện làng, chuyện họ ở Đường Lâm
Là một ngôi làng đến nay vẫn giữ nguyên được kết cấu làng Việt cổ. Kết
cấu này thường gắn bó với hình ảnh cây đa, giếng nước, cổng làng, những ngôi
nhà, sân vườn, ao hồ khép kín và cuộc sống của người dân gần gũi với thiên nhiên.
Cũng chính vì thế đã tạo thuận lợi cho việc canh tác lúa của người dân Đường Lâm qua bao đời nay.
Dựa vào tuổi thọ ngôi nhà cổ của ông Hà Nguyên Huyến cho thấy rằng,
dòng họ Hà đã sống ở Đường Lâm chừng hơn bốn trăm năm nay và cùng với các
dòng họ như: Họ Phan, họ Phùng, họ Ngô, họ Hà, họ Giang, họ Đỗ, họ Nguyễn…
lập nên những dòng họ lâu đời và đánh giá nơi đây. Tuy nhiều họ nổi danh nhưng
ở Đường Lâm các dòng họ lại khá đoàn kết và nương tựa vào nhau. lOMoAR cPSD| 57855709
Nổi bật là dòng họ tự quản ở đất cổ Đường Lâm, đó chính là dòng họ Giang.
Giữ cốt cách dòng họ bằng việc ký cam kết thực hiện nghiêm túc 10 nội dung tự
quản, không để nảy sinh mâu thuẫn, phòng tránh các tệ nạn xã hội,...
2.2. Làng Cựu (Phú Xuyên)
a. Cấu trúc làng cổ
Làng Cựu vẫn còn giữ được cấu trúc của làng truyền thống dù đã trải qua
biến động. Làng còn Cổng làng, đình, giếng. Đường làng bình yên với các ngõ
nhỏ lát gạch và đá xanh.
b. Đình làng Cựu
Đình nằm ở đầu làng, trước mặt là ao sen. Đình làng nằm trong tổ hợp kiến
trúc: đình, sân đình, cây bồ đề cổ thụ, ao sen. Đình là không gian cộng đồng quan
trọng trong làng. Đình là nơi tập trung, nghỉ chân của người dân khi đi làm đồng.
Đồng thời đây cũng là không gian vui chơi của trẻ em. Trước đình có cây Bồ đề
râm mát cạnh ao làng, đây là nơi người dân ra ngồi hóng mát trò chuyện, vẫn còn
những chân đá tảng, dấu tích của ngôi đình đẹp đẽ trước đây. c. Giếng làng
Làng có 2 giếng, nhưng đến nay chỉ giữ được giếng ở giữa làng. Có điều
đặc biệt là giếng rộng như ao, một chiều dài đến hơn 30m, bờ đất, hiện chỉ để thả Sen.
Giếng làng là nơi lưu giữ nguồn nước cho làng, có ý nghĩa cả về mặt sử dụng và phong thủy.
d. Nhà truyền thống
Tại làng Cựu phần lớn vẫn giữ nguyên các quan niệm xây dựng nhà truyền
thống. Ngôi nhà chính quay về phía Nam, được bao xung quanh bởi khuôn viên
sân vườn. Nhà chính và nhà phụ tách biệt. Cửa nhà không mở trực tiếp ra đường,
việc tiếp cận nhà chính từ đường thông qua khoảng không gian đệm (có thể là
sân, hiên, hoặc lối đi giữa nhà). lOMoAR cPSD| 57855709
e. Làng Cựu-giao lưu văn hoá Á-Âu
Nhà ở phong cách kiến trúc Pháp là nét đặc sắc nhất trong di sản ở làng
Cựu. Hạ tầng cũng có giao thoa giữa cấu trúc làng Việt truyền thống và hạ tầng kỹ thuật Châu Âu.
Hệ thống thoát nước và chiếu sáng trong làng Cựu được phát triển thời
Pháp thuộc. Các rãnh thoát nước kết nối từ nhà ra đường chính, được lát gạch đỏ
dưới đáy. Làng được trang bị hệ thống chiếu sáng bằng đèn (thắp bằng dầu hỏa)
chạy dọc theo đường chính của làng.
g. Nghề truyền thống trong đời sống hiện nay
Làng Cựu ngày nay vẫn còn rất nhiều gia đình theo nghề may Âu phục
truyền thống. Có lẽ, tiếng cắt vải xoèn xoẹt, tiếng lạch xạch của chiếc máy may
nghe quen tai đã ăn sâu tiềm thức của người dân làng Cựu. Những gian nhà chất
đống đồ may, xếp tầng tầng lớp lớp, những cuộn vải mới cao chất ngất trong một
gian nhà là hình ảnh khá quen thuộc của mỗi người dân nơi đây.
Nhờ có nghề may Âu phục mà người làng Cựu chưa lúc nào kinh tế bị rơi vào đói nghèo. 2.3. Khác Làng Thổ Hà (Bắc Giang)
Làng Giò chả Ước Lễ (Hà Nội) Làng Cự Đà (Hà Nội) Làng Nôm (Hưng Yên)
Làng cổ Long Tuyền (Cần Thơ)
Làng cổ Phong Nam (Đà Nẵng) … 3. Thực trạng
Những ngôi làng cổ đang xuống cấp rất nhanh trước sức ép thời gian. Giới
nghiên cứu văn hóa và cộng đồng cư dân làng cổ lo ngại rằng, với thực trạng bảo
tồn như hiện nay, không lâu nữa, các làng cổ Việt Nam chỉ còn trong ký ức. Nhiều
nhà cao tầng màu sắc xen lẫn những nếp nhà loang lổ rêu phong. lOMoAR cPSD| 57855709
Người dân ở các làng cổ đang có xu hướng bán đất nên có tiền, đua nhau
xây nhà chẳng theo một quy chuẩn, kiến trúc nào, chủ yếu nhà cao tầng hình ống.
Dấu ấn của làng Việt cổ của cả nước nay trở nên nhạt nhòa dần, thay vào đó, nỗi
lo bê-tông hóa hiện rõ trên những khuôn mặt khắc khổ của các bậc cao niên. Ví
như đình làng Mông Phụ, một trong những ngôi đình đẹp nhất, cổ nhất không chỉ
của Đường Lâm mà còn của cả vùng đồng bằng Bắc Bộ hôm nay đã được khoác
lên một chiếc áo mới. Ngày phá đình cũ dựng đình mới, nhiều cụ già trong làng
chỉ biết đứng lặng người nhìn rồi rơi lệ. Ngôi đình mới khang trang đã mọc lên
thay thế nhưng người ta vẫn tiếc cho ngôi đình cũ mái ngói xô nghiêng. Đình làng
vẫn thế nhưng cái hồn đã khác xưa!
Sự xuống cấp, phai nhạt bản sắc của làng cổ có thể nhận thấy ngay từ tổng
thể cho đến sự biến đổi của những công trình kiến trúc, cảnh quan hoặc nếp sinh
hoạt văn hóa của người dân sở tại. Chiếc cổng, một yếu tố “linh hồn” của làng
cũng bị tác động khi thực tế có nhiều cổng làng bị đập đi hoặc có nơi bỏ ra hàng
tỷ đồng xây lại cổng mới to, rộng hơn, sơn lòe loẹt, kiểu dáng kiến trúc như nhau
khiến cho cổng làng trở thành những chiếc cổng chào vô cảm.
Do sự biến đổi về phương thức canh tác, lối sống... đã làm thay đổi cả vật
chất và tinh thần của các làng. Cũng bởi dân số tăng, nhiều gia đình phải chia nhỏ
mảnh đất cha ông để lại cho các con xây nhà ở riêng chứ không chung sống theo
kiểu gia đình ba, bốn thế hệ trong ngôi nhà truyền thống chật hẹp. Cơn lốc đô thị
hóa vội vã, thiếu kiểm soát đang nguy cơ làm cho làng cổ ngày càng phai dần bản sắc vốn có của nó.
4. Công tác bảo tồn
Thời đại phát triển, chúng ta cũng không chỉ sống bằng tâm niệm hoài cổ
theo tư duy “ao làng”. Nhưng phải nhận thức rằng, những giá trị tốt đẹp xưa cũ
thì không nên để dễ dàng mất đi mà phải bảo tồn hài hòa trong không gian mới
mẻ khi tiến trình phát triển không thể dừng lại. Xã hội ngày nay với những biến
động không ngừng của nó, cần phải được nhìn nhận và tìm kiếm những giải pháp phù hợp.
Trong hoàn cảnh đó, nhiều quốc gia đã áp dụng thành công mô hình “nông
thị” hay cách gọi khác là “nông trấn” (agritown) như một cách dung hòa giữa phát
triển hiện đại và bảo lưu những giá trị truyền thống. Trong một “nông thị” như
thế, diện tích mặt nước, bãi cỏ, khu vui chơi vẫn được ưu tiên và khu vực tâm
linh, nhà ở, sản xuất, thương mại, hành chính, trường học được sắp xếp hợp lý,
hài hòa. Không có một mẫu chung, mà mỗi không gian cảnh quan và kiến trúc
làng phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa hình, nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. lOMoAR cPSD| 57855709
Với Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và mới đây, Hội nghị văn hóa toàn
quốc thêm một lần xác định, nền văn hóa Việt Nam phải đứng vững trên “đôi
chân” vừa tiên tiến - hiện đại, vừa đậm đà bản sắc, kế thừa truyền thống. Gần đây,
nhiều bản người Thái, người Mường ở phía bắc, các buôn người Ê Đê, Cơ Ho
phía nam hay các làng người Kinh khu vực đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long
đã rất quan tâm bảo tồn văn hóa tộc người và không gian sống cổ truyền nhằm
khai thác du lịch. Từ góc độ bảo tồn không gian làng Việt có thể coi đó là những
hình mẫu quý. Các cơ quan chức năng như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn hay Viện Quy hoạch đô thị và Nông thôn quốc gia (Bộ Xây dựng) nên đặc
biệt quan tâm đến sự thay đổi diện mạo các làng quê, tích cực tham gia cùng chính
quyền cơ sở và hướng dẫn người dân ý thức hơn trong việc bảo tồn và kiến tạo
những giá trị gia tăng để làm đẹp không gian, cảnh quan làng quê Việt Nam trong thời đổi mới. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Toan Ánh (1991). Nếp cũ làng xóm Việt Nam, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh.
2. Phạm Thị Thanh Huyền (2018). Giải pháp phát triển du lịch cộng đồng tại
làng cổ Đường Lâm, Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Dân lập Hải Phòng.
3. Nguyễn Hồng Nhung (2020). Làng cổ Đường Lâm – Thực trạng hoạt động
du lịch và giải pháp cung ứng dịch vụ du lịch bền vững, Luận văn thạc sĩ,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Nguyễn Quang Ngọc. Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Bùi Thị Trang (2014). Văn hóa Làng Cựu, xã Vân Từ, huyện Phú Xuyên,
thành phố Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Văn Hóa Hà Nội.