lOMoARcPSD| 58702377
2.2.1 Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Đầu tư có
tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cấu kinh tế
phù hợp với quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo sự cân
đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân giữa các ngành, vùng, nhằm phát huy nội lực của nền kinh
tế trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực
Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư vào từng ngành nhiều hay ít, việc
sử dụng vốn có hiệu quả cao hay thấp… đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường
sở vật chất của từng ngành, tạo điều kiện tiền đề vật chất cho sự phát triển các ngành mới… do đó
làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành
Việc đầu như trên đã tác động đến chuyển dịch cấu ngành theo hướng tích cực phù hợp với tiến
trình CNH, HĐH đất nước.
Tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp từ năm 2011 19,57% giảm xuống còn 17,7% năm 2014. Tỷ
trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 2014 ltăng 7,6 % so với năm 2013. Tỷ trọng của dịch
vụ trong GDP cũng ngày càng tăng cao và dần chiếm ưu thế.
Việc chuyển dịch cấu ngành kinh tế cũng phụ thuộc vào đầu nước ngoài. Các dự án đầu trực
tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào nh vực công nghiệp xâydựng với 2885 dự án, vốn đăng
23213,71 triệu USD (chiếm 66,7% số dự án, 56,9% tổng số vốn đăng ký); nông nghiệp 596 dự án
với vốn đăng ký 2893,34 triệu USD (chiếm 13,8% dự án; 7,1% vốn đăng ký); ngành dịch vụ có 843 dự
án với vốn đăng 14682,7 triệu USD (chiếm 20,41% số dự án; 36% vốn đăng ký. ( Nguồn: Bộ kế
hoạch và đầu tư, giai đoạn 1988 – 2003 )
Một số tồn tại khi tập trung đầu vào công nghiệp, dịch vụ là: việc môi trường quanh các khu công
nghiệp ngày càng ô nhiễm ( VD: Vụ việc Vedan xả thải ra sông Thị Vải), các tệ nạn hội quanh các
khu CN, sự mất phương hướng của người nông dân hay các vấn đề nan giải của ngành dịch vụ
Tác động của đầu tư phát triển tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ
Đối với cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, đầu tư tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa
các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những
lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát triển nhanh
hơn.
Cơ cấu vốn đầu tư tập trung vào 2 vùng ktế lớn là vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ.
Vùng miền núi phía Bắc và Tây nguyên là 2 vùng có tỷ trọng đtư nhỏ nhất.
Nguồn vốn đầu thường được tập trung tại những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Các vùng
kinh tế trọng điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của
cả nước, làm đầu tàu kéo kinh tế chung của đất nước đi lên.
Về đầu bằng nguồn vốn nước ngoài, vốn FDI thường đầu vào các vùng kinh tế phát triển, do đó
các vùng kinh tế trọng điểm đã chiếm tới 80% vốn FDI. Ngược lại, vốn ODA lại thường được ưu tiên
hỗ trợ các vùng kinh tế kém phát triển hơn.
Tuy nhiên, việc đầu tư chỉ tập trung vào một số khu vực gây ra nhiều bất cập. Sự phát triển chênh lệch
quá lớn giữa các vùng cũng gây ra những khó khăn lớn trong nền kinh tế, gây mất cân đối trong sự phát
triển giữa các vùng, gia tăng khoảng cách phát triển giữa các vùng kinh tế. Đồng thời tạo ra các vấn đề
nan giải về môi trường, các vấn đề an ninh, tệ nạn, di dân, bỏ đất hoang,….
lOMoARcPSD| 58702377
Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào chiến lược phát triển
của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định thành phần nào là chủ đạo, thành phần nào là được
ưu tiên phát triển, vai trò, nhiệm vụ của các thành phần trong nền kinh tế. đây, đầu tư đóng vai trò
nhân tố thực hiện.
Đầu tạo ra sự phong phú, đa dạng về nguồn vốn đầu tư. Cùng với sự xuất hiện của các thành phần
kinh tế mới là sự bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo nên nguồn
lực mạnh mẽ hơn trước để nâng cao tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc có thêm c thành phần kinh
tế đã huy động và tận dụng được các nguồn lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích mọi
các nhân tham gia đầu tư vào kinh tế.
Bảng 1.3. Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế ( Nguồn: Tổng cục thống kê )
Cơ cấu vốn đầu tư ( % )
2011
2012
2013
Kinh tế Nhà Nước
37
40,3
40,4
KT ngoài Nhà nước
38,5
38,1
37,7
Khu vực vốn nước ngoài
24,5
21,6
21,9
Bảng 1.4. Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế ( % ) ( Nguồn: Tổng cục thống kê )
2011
2012
2013
2014
Kinh tế Nhà nước
29,01
29,39
29,01
28,73
Kinh tế ngoài nhà nước
43,87
44,62
43,52
43,33
Kinh tế tập thể
3,98
4
4,03
4,04
Kinh tế tư nhân
7,34
7,97
7,78
7,79
Kinh tế cá thể
32,55
32,65
31,71
31,5
Từ bảng trên, ta thấy, trong giai đoạn trước khu vực kinh tế Nhà nước luôn chiếm lượng đầu tư lớn nhất
nhưng đến những năm gần đây đã giảm đi đáng kể, lượng đầu tư đã tập trung nhiều hơn vào 2 khu vực
còn lại. Vì thế GDP các khu vực cũng có sự thay đổi cùng chiều với đầu tư. Hiện nay, khu vực kinh tế
ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang vươn lên mạnh mẽ bởi sự năng động, sáng
tạo và ngày càng thu hút nhiều nguồn lực.
đầu tư phát triển tác ddoognj đến chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế làm chuyển dịch
cơ cấu ngành
Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ 1: Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành: Đây là 1
hệ quả tất yếu của đầu tư. Đầu vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng khả năng
đóng góp lớn hơn vào GDP. Việc tập trung đầu tư vào ngành nào phụ thuộc vào chính sách
chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Thông qua các chính sách chiến lược, nhà nước
thể tăng cường khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư đối với các ngành cho phù hợp với từng giai
đoạn phát triển. Dẫn đến sự tăng đầu vào 1 ngành sẽ kéo theo sự tanưg trưởng kinh tế của
ngành đó và thúc đẩy sự phát triển của c ngành, các khu vực có liên quan. Vì vậy sẽ tạo ra sự
lOMoARcPSD| 58702377
tăng trưởng kinh tế chung của đất nước. Việc c định nên tập trung đầu tư vào ngành nào
tính chất quyết định sự phát triển của quốc gia. Nhưng kinh nghiệm của các nước trên thế giới
đã cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường
đầu nhằm tạo ra sự phát triển khu vực công nghiệp dịch vụ. Do đó, để thực hiện được
các mục tiêu đã định, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài sự phát triển.
Thứ 2: Như đã nói ở trên, đầu tư đã làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong cnền kinh
tế. Sự thay đổi này lại đi liền với sự thay đổi cấu sản xuất trong từng ngành hay nói cách
khác, sự phân hoá cấu sản xuất trong mỗi ngành kinh tế do tác động của đầu tư. Sự
phân hoá này cũng một tất yếu để phù hợp với sự phát triển của ngành. Trong từng ngành,
đầu tư lại hướng vào các ngành có điều kiện thuận lợi để phát triển, phát huy được lợi thế của
ngành đó và làm điểm tựa cho các ngành khác cùng phát triển.
Thứ 3: Nhờ đầu tư mà quy mô, năng lực sản xuất của các ngành cũng được tăng cường.
Mọi việc như mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm, mua sắm máy móc ….Suy cho cùng đều
cần đến vốn, 1 ngành muốn tiêu thụ rộng rãi sản phẩm của mình thì phải luôn đầu tư nâng cao
chất lượng sản phẩm đa dạng hoá mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu chế tạo các chức năng, công
dụng mới cho sản phẩm. Do đó việc đầu tư để nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong
sản phẩm 1 điều kiện không thể thiếu được nếu muốn sản phẩm đứng vững trên thị trường,
nhờ vậy mà nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường
Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng – lãnh thổ
Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế của một số vùng- lãnh thổ
Một số vùng – lãnh thổ khi có nguồn vốn đầu tư vào sẽ có thể có nhiều cơ hội để sản xuất
kinh doanh, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế của mình. Tác động này của đầu thể xem
xét trên 2 khía cạnh như sau:
Thứ nhất là: Đầu tư giúp các vùng lãnh thổ phát huy được tiềm năng, thế mạnh kinh tế
của vùng.
Với nhưng vị trí địa lý, đặc thù tự nhiên khác nhau mỗi vùng lãnh thổ sẽ có những thế
mạnh kinh tế khác nhau, nhưng để phát triển kinh tế thì không chỉ dựa vào những tài nguyên vị
trí địa sẵn đó, mà phải có đủ điều kiện để khai thác và sự dụng có hiệu quả. Điều này
đòi hỏi phải nguồn vốn đầu tư. Vì khi được dầu thích đáng các vùng sẽ điều kiện để
xây dựng sở hạ tầng, máy móc công nghệ hiện đại, xác định các phương hướng phát triển
đúng đắn để tận dụng, phát huy sức mạnh của vùng. Như một số vùng miền núi có địa hình đồii
núi cao ( Sơn La Hoà Bình ) trước khi được đầu vùng không công trình nào lớn mạnh
thực sự, nhưng nhờ đầu tư khai thác thế mạnh sông núi của vùng nhà máy thuỷ điện đã được
xây dựng, góp phần làm phát triển nền kinh tế của vùng.
Thứ hai là: Đầu góp phần nâng cao tỷ trọng đóng góp vào GDP của các vùng lãnh
thổ được đầu tư.
Như phân tích trên đầu tư giúp các vùng tận dụng được thế mạnh của mình, tạo đà cho sự
phát triển kinh tế của vùng. Khi nền kinh tế phát triển hơn thì khả năng đóng góp vào GDP cũng
sẽ cao hơn so với trước kia.
Như vậy đầu tác động làm chuyển dịch cấu kinh tế vùng, vùng nào sự đầu
nhiều hơn sẽ có cơ hội phát triển kinh tế nhiều hơn, khả năng đóng góp vào GDP của vùng tăng
lOMoARcPSD| 58702377
cao hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng cao hơn các vùng lãnh thổ ít được đầu
khác
Đầu tư tác động nâng cao đời sống của dân cư
Nguồn vốn đầu tư được sử dụng vào các hoạt động sản xuất và dịch vụ góp phần tạo công
ăn việc làm cho người lao động. Nhờ nguồn vốn đầu các vùng mới điều kiện để
xây dựng các nhà máy, cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ của vùng. Ngay khi những công trình của d
án đầu tư mới đang được xây dựng thì đã là cơ hội tạo việc làm cho nhiều người dân của vùng,
thu hút lao động nhàn rỗi của vùng. Cho đến khi các cơ sở đó đi vào hoạt động cũng đã thu hút
được nhiều lao động trong vùng. Như hàng loạt các nhà máy đường, xi măng được đầu tư xây
dựng đã thu hút công nhân lao động trong vùng vào làm, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho
khu vực đó.
Đầu tư giúp nâng cao thu nhập của dân cư, giúp xoá đói giảm nghèo, người dân từ chỗ bế
tắc, thất nghiệp, sau khi có nguồn vốn đầu tư thu hút lao động, tạo việc làm, người dân thể
có thu nhập cao hơn, ổn định cuộc sống, phát huy năng lực của mình.
thể phân tích qua dụ cụ thể sau: huyện Thạch Thành Thanh Hoá Trước khi
nhà máy đường liên doanh Đài Loan – Việt Nam, người dân trồng mía chỉ để bán lẻ hoặc bán
với giá quá rẻ, nhiều người dân không có việc làm. Nhưng sau khi có nhà máy đường tại đó,
người dân trồng mía có nơi tiêu thụ lại với giá cao hơn, nên người dân đã có thu nhập cao hơn,
nhiều người dân đã có việc làm, góp phần nâng cao đời sống của mình.
Đầu tư góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các vùng
Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước,
thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của những khu vực đó, và đến lượt mình những vùng phát
triển này lại làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. c vùng kinh tế trọng
điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả đất
nước, kéo con tàu kinh tế chung của đất nước đi lên, khi đó các vùng kinh tế khác mới có điều
kiện để phát triển.
Đầu cũng đã thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn khả năng phát triển, giảm bớt sự
chênh lệch kinh tế với các vùng khác. Các vùng kinh tế khó khăn khi nhận được sự đầu tư, giúp
họ có thể đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết những vướng mắc
về tài chính, cơ sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển,tạo đà cho nền kinh tế vùng , làm
giảm bớt về sự chênh lệch với nền kinh tế các vùng khác.
Qua những phân tích trên cho thấy , đầu tư có sự tác động quan trọng đến sự chuyển dịch
cấu kinh tế vùng _lãnh thổ, từng vùng có khả năng phát triển kinh tế cao hơn, phát huy được
thế mạnh của vùng, đời sống nhân dân trong vùng có nhiều thay đổi, tuy nhiên trên thực tế mức
độ đầu vào từng vùng là khác nhau, điều đó làm cho nền kinh tế giưa các vùng vẫn luôn
sự khác nhau, chênh lệch nhau.
Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
Đầu tư đã có tác động tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của
các thành phần kinh tế
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng nhà nước, trong những năm qua cấu thành
phần kinh tế ở nước ta đãsự chuyển dịch theo hướng tiến bộ và bước đầu đã đạt được nhiều
lOMoARcPSD| 58702377
kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực
tiếp của nước ngoài FDI cũng ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh
tế của cả nước. Đáng chú ý là trong khu vực kinh tế trong nước (bao gồm các thành phần kinh
tế nhà nước, tập thể, tư nhân, cá thể và kinh tế hồn hợp ). cấu của các thành phần đã có sự
chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và giảm tỷ trọng
của kinh tế nhà nước phù hợp với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế nhưng vẫn
đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Tạo ra sự phong phú đa dạng về nguồn vốn đầu tư
Nền kinh tế bao cấp đã chỉ những nhược điểm của mình với 2 thành phần kinh tế
nguồn vốn chỉ do ngân sách cấp, do đó không mang lại hiệu quả cao. Nhưng từ khi nước ta
chuyển sang kinh tế thị trường thì nền kinh tế không chỉ tồn tại 2 thành phần như trước đây
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể mà đã xuất hiện thêm các thành phần kinh tế khác như kinh
tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với sự xuất hiện này là sự đa
dạng về nguồn vốn đầu tư do các thành phần kinh tế mới mang lại. Các thành phần kinh tế mới
đã bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo nên một nguồn
lực mạnh mẽ hơn trước để phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động
tận dụng được các nguồn lực trong hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích được mọi
cá nhân tham gia đầu tư làm kinh tế.
Vốn đầu của họ thể đến được những nơi, những lĩnh vực mà nhà nước chưa đầu tư
đến hoặc không đủ vốn để đầu tư. Chính vậy, việc đa dạng hoá nguồn vốn một yếu tố
không thể thiếu được trong đầu tư phát triển

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58702377
2.2.1 Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Đầu tư có
tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
phù hợp với quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo sự cân
đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, nhằm phát huy nội lực của nền kinh
tế trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực
Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư vào từng ngành nhiều hay ít, việc
sử dụng vốn có hiệu quả cao hay thấp… đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường
cơ sở vật chất của từng ngành, tạo điều kiện tiền đề vật chất cho sự phát triển các ngành mới… do đó
làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành
Việc đầu tư như trên đã tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tích cực phù hợp với tiến
trình CNH, HĐH đất nước.
Tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp từ năm 2011 là 19,57% giảm xuống còn 17,7% năm 2014. Tỷ
trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 2014 ltăng 7,6 % so với năm 2013. Tỷ trọng của dịch
vụ trong GDP cũng ngày càng tăng cao và dần chiếm ưu thế.
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài. Các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xâydựng với 2885 dự án, vốn đăng ký
23213,71 triệu USD (chiếm 66,7% số dự án, 56,9% tổng số vốn đăng ký); nông nghiệp có 596 dự án
với vốn đăng ký 2893,34 triệu USD (chiếm 13,8% dự án; 7,1% vốn đăng ký); ngành dịch vụ có 843 dự
án với vốn đăng ký 14682,7 triệu USD (chiếm 20,41% số dự án; 36% vốn đăng ký. ( Nguồn: Bộ kế
hoạch và đầu tư, giai đoạn 1988 – 2003 )
Một số tồn tại khi tập trung đầu tư vào công nghiệp, dịch vụ là: việc môi trường quanh các khu công
nghiệp ngày càng ô nhiễm ( VD: Vụ việc Vedan xả thải ra sông Thị Vải), các tệ nạn xã hội quanh các
khu CN, sự mất phương hướng của người nông dân hay các vấn đề nan giải của ngành dịch vụ…
Tác động của đầu tư phát triển tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ
Đối với cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa
các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những
lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn.
Cơ cấu vốn đầu tư tập trung vào 2 vùng ktế lớn là vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ.
Vùng miền núi phía Bắc và Tây nguyên là 2 vùng có tỷ trọng đtư nhỏ nhất.
Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung tại những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Các vùng
kinh tế trọng điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của
cả nước, làm đầu tàu kéo kinh tế chung của đất nước đi lên.
Về đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài, vốn FDI thường đầu tư vào các vùng kinh tế phát triển, do đó
các vùng kinh tế trọng điểm đã chiếm tới 80% vốn FDI. Ngược lại, vốn ODA lại thường được ưu tiên
hỗ trợ các vùng kinh tế kém phát triển hơn.
Tuy nhiên, việc đầu tư chỉ tập trung vào một số khu vực gây ra nhiều bất cập. Sự phát triển chênh lệch
quá lớn giữa các vùng cũng gây ra những khó khăn lớn trong nền kinh tế, gây mất cân đối trong sự phát
triển giữa các vùng, gia tăng khoảng cách phát triển giữa các vùng kinh tế. Đồng thời tạo ra các vấn đề
nan giải về môi trường, các vấn đề an ninh, tệ nạn, di dân, bỏ đất hoang,…. lOMoAR cPSD| 58702377
Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào chiến lược phát triển
của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định thành phần nào là chủ đạo, thành phần nào là được
ưu tiên phát triển, vai trò, nhiệm vụ của các thành phần trong nền kinh tế. Ở đây, đầu tư đóng vai trò nhân tố thực hiện.
Đầu tư tạo ra sự phong phú, đa dạng về nguồn vốn đầu tư. Cùng với sự xuất hiện của các thành phần
kinh tế mới là sự bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo nên nguồn
lực mạnh mẽ hơn trước để nâng cao tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh
tế đã huy động và tận dụng được các nguồn lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích mọi
các nhân tham gia đầu tư vào kinh tế.
Bảng 1.3. Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế ( Nguồn: Tổng cục thống kê )
Cơ cấu vốn đầu tư ( % ) 2011 2012 2013 2014 Kinh tế Nhà Nước 37 40,3 40,4 39,9 KT ngoài Nhà nước 38,5 38,1 37,7 38,4
Khu vực vốn nước ngoài 24,5 21,6 21,9 21,7
Bảng 1.4. Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế ( % ) ( Nguồn: Tổng cục thống kê ) 2011 2012 2013 2014 Kinh tế Nhà nước 29,01 29,39 29,01 28,73 Kinh tế ngoài nhà nước 43,87 44,62 43,52 43,33 Kinh tế tập thể 3,98 4 4,03 4,04 Kinh tế tư nhân 7,34 7,97 7,78 7,79 Kinh tế cá thể 32,55 32,65 31,71 31,5
Từ bảng trên, ta thấy, trong giai đoạn trước khu vực kinh tế Nhà nước luôn chiếm lượng đầu tư lớn nhất
nhưng đến những năm gần đây đã giảm đi đáng kể, lượng đầu tư đã tập trung nhiều hơn vào 2 khu vực
còn lại. Vì thế GDP các khu vực cũng có sự thay đổi cùng chiều với đầu tư. Hiện nay, khu vực kinh tế
ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang vươn lên mạnh mẽ bởi sự năng động, sáng
tạo và ngày càng thu hút nhiều nguồn lực.
đầu tư phát triển tác ddoognj đến chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế làm chuyển dịch
cơ cấu ngành
Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ 1: Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành: Đây là 1
hệ quả tất yếu của đầu tư. Đầu tư vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng có khả năng
đóng góp lớn hơn vào GDP. Việc tập trung đầu tư vào ngành nào phụ thuộc vào chính sách và
chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Thông qua các chính sách và chiến lược, nhà nước có
thể tăng cường khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư đối với các ngành cho phù hợp với từng giai
đoạn phát triển. Dẫn đến sự tăng đầu tư vào 1 ngành sẽ kéo theo sự tanưg trưởng kinh tế của
ngành đó và thúc đẩy sự phát triển của các ngành, các khu vực có liên quan. Vì vậy sẽ tạo ra sự lOMoAR cPSD| 58702377
tăng trưởng kinh tế chung của đất nước. Việc xác định nên tập trung đầu tư vào ngành nào có
tính chất quyết định sự phát triển của quốc gia. Nhưng kinh nghiệm của các nước trên thế giới
đã cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường
đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Do đó, để thực hiện được
các mục tiêu đã định, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài sự phát triển.
Thứ 2: Như đã nói ở trên, đầu tư đã làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong cả nền kinh
tế. Sự thay đổi này lại đi liền với sự thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành hay nói cách
khác, sự phân hoá cơ cấu sản xuất trong mỗi ngành kinh tế là do có tác động của đầu tư. Sự
phân hoá này cũng là một tất yếu để phù hợp với sự phát triển của ngành. Trong từng ngành,
đầu tư lại hướng vào các ngành có điều kiện thuận lợi để phát triển, phát huy được lợi thế của
ngành đó và làm điểm tựa cho các ngành khác cùng phát triển.
Thứ 3: Nhờ có đầu tư mà quy mô, năng lực sản xuất của các ngành cũng được tăng cường.
Mọi việc như mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm, mua sắm máy móc ….Suy cho cùng đều
cần đến vốn, 1 ngành muốn tiêu thụ rộng rãi sản phẩm của mình thì phải luôn đầu tư nâng cao
chất lượng sản phẩm đa dạng hoá mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu chế tạo các chức năng, công
dụng mới cho sản phẩm. Do đó việc đầu tư để nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong
sản phẩm là 1 điều kiện không thể thiếu được nếu muốn sản phẩm đứng vững trên thị trường,
nhờ vậy mà nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường
Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng – lãnh thổ
Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế của một số vùng- lãnh thổ
Một số vùng – lãnh thổ khi có nguồn vốn đầu tư vào sẽ có thể có nhiều cơ hội để sản xuất
kinh doanh, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế của mình. Tác động này của đầu tư có thể xem
xét trên 2 khía cạnh như sau:
Thứ nhất là: Đầu tư giúp các vùng – lãnh thổ phát huy được tiềm năng, thế mạnh kinh tế của vùng.
Với nhưng vị trí địa lý, đặc thù tự nhiên khác nhau mỗi vùng – lãnh thổ sẽ có những thế
mạnh kinh tế khác nhau, nhưng để phát triển kinh tế thì không chỉ dựa vào những tài nguyên vị
trí địa lý sẵn có đó, mà phải có đủ điều kiện để khai thác và sự dụng nó có hiệu quả. Điều này
đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư. Vì khi được dầu tư thích đáng các vùng sẽ có điều kiện để
xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc công nghệ hiện đại, xác định các phương hướng phát triển
đúng đắn để tận dụng, phát huy sức mạnh của vùng. Như một số vùng miền núi có địa hình đồii
núi cao ( Sơn La – Hoà Bình ) trước khi được đầu tư vùng không có công trình nào lớn mạnh
thực sự, nhưng nhờ đầu tư khai thác thế mạnh sông núi của vùng nhà máy thuỷ điện đã được
xây dựng, góp phần làm phát triển nền kinh tế của vùng.
Thứ hai là: Đầu tư góp phần nâng cao tỷ trọng đóng góp vào GDP của các vùng – lãnh thổ được đầu tư.
Như phân tích trên đầu tư giúp các vùng tận dụng được thế mạnh của mình, tạo đà cho sự
phát triển kinh tế của vùng. Khi nền kinh tế phát triển hơn thì khả năng đóng góp vào GDP cũng
sẽ cao hơn so với trước kia.
Như vậy đầu tư tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, vùng nào có sự đầu tư
nhiều hơn sẽ có cơ hội phát triển kinh tế nhiều hơn, khả năng đóng góp vào GDP của vùng tăng lOMoAR cPSD| 58702377
cao hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng cao hơn các vùng – lãnh thổ ít được đầu tư khác
Đầu tư tác động nâng cao đời sống của dân cư
Nguồn vốn đầu tư được sử dụng vào các hoạt động sản xuất và dịch vụ góp phần tạo công
ăn việc làm cho người lao động. Nhờ có nguồn vốn đầu tư mà các vùng mới có điều kiện để
xây dựng các nhà máy, cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ của vùng. Ngay khi những công trình của dự
án đầu tư mới đang được xây dựng thì đã là cơ hội tạo việc làm cho nhiều người dân của vùng,
thu hút lao động nhàn rỗi của vùng. Cho đến khi các cơ sở đó đi vào hoạt động cũng đã thu hút
được nhiều lao động trong vùng. Như hàng loạt các nhà máy đường, xi măng được đầu tư xây
dựng đã thu hút công nhân lao động trong vùng vào làm, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho khu vực đó.
Đầu tư giúp nâng cao thu nhập của dân cư, giúp xoá đói giảm nghèo, người dân từ chỗ bế
tắc, thất nghiệp, sau khi có nguồn vốn đầu tư thu hút lao động, tạo việc làm, người dân có thể
có thu nhập cao hơn, ổn định cuộc sống, phát huy năng lực của mình.
Có thể phân tích qua ví dụ cụ thể sau: ở huyện Thạch Thành – Thanh Hoá Trước khi có
nhà máy đường liên doanh Đài Loan – Việt Nam, người dân trồng mía chỉ để bán lẻ hoặc bán
với giá quá rẻ, nhiều người dân không có việc làm. Nhưng sau khi có nhà máy đường ở tại đó,
người dân trồng mía có nơi tiêu thụ lại với giá cao hơn, nên người dân đã có thu nhập cao hơn,
nhiều người dân đã có việc làm, góp phần nâng cao đời sống của mình.
Đầu tư góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các vùng
Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước,
thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của những khu vực đó, và đến lượt mình những vùng phát
triển này lại làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Các vùng kinh tế trọng
điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả đất
nước, kéo con tàu kinh tế chung của đất nước đi lên, khi đó các vùng kinh tế khác mới có điều kiện để phát triển.
Đầu tư cũng đã thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả năng phát triển, giảm bớt sự
chênh lệch kinh tế với các vùng khác. Các vùng kinh tế khó khăn khi nhận được sự đầu tư, giúp
họ có thể có đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết những vướng mắc
về tài chính, cơ sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển,tạo đà cho nền kinh tế vùng , làm
giảm bớt về sự chênh lệch với nền kinh tế các vùng khác.
Qua những phân tích trên cho thấy , đầu tư có sự tác động quan trọng đến sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế vùng _lãnh thổ, từng vùng có khả năng phát triển kinh tế cao hơn, phát huy được
thế mạnh của vùng, đời sống nhân dân trong vùng có nhiều thay đổi, tuy nhiên trên thực tế mức
độ đầu tư vào từng vùng là khác nhau, điều đó làm cho nền kinh tế giưa các vùng vẫn luôn có
sự khác nhau, chênh lệch nhau.
Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
Đầu tư đã có tác động tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của
các thành phần kinh tế
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước, trong những năm qua cơ cấu thành
phần kinh tế ở nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ và bước đầu đã đạt được nhiều lOMoAR cPSD| 58702377
kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực
tiếp của nước ngoài FDI cũng ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh
tế của cả nước. Đáng chú ý là trong khu vực kinh tế trong nước (bao gồm các thành phần kinh
tế nhà nước, tập thể, tư nhân, cá thể và kinh tế hồn hợp ). Cơ cấu của các thành phần đã có sự
chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và giảm tỷ trọng
của kinh tế nhà nước phù hợp với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế nhưng vẫn
đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Tạo ra sự phong phú đa dạng về nguồn vốn đầu tư
Nền kinh tế bao cấp đã chỉ rõ những nhược điểm của mình với 2 thành phần kinh tế và
nguồn vốn chỉ do ngân sách cấp, do đó không mang lại hiệu quả cao. Nhưng từ khi nước ta
chuyển sang kinh tế thị trường thì nền kinh tế không chỉ tồn tại 2 thành phần như trước đây là
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể mà đã xuất hiện thêm các thành phần kinh tế khác như kinh
tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với sự xuất hiện này là sự đa
dạng về nguồn vốn đầu tư do các thành phần kinh tế mới mang lại. Các thành phần kinh tế mới
đã bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo nên một nguồn
lực mạnh mẽ hơn trước để phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động
và tận dụng được các nguồn lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích được mọi
cá nhân tham gia đầu tư làm kinh tế.
Vốn đầu tư của họ có thể đến được những nơi, những lĩnh vực mà nhà nước chưa đầu tư
đến hoặc không có đủ vốn để đầu tư. Chính vì vậy, việc đa dạng hoá nguồn vốn là một yếu tố
không thể thiếu được trong đầu tư phát triển