



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 45740413 PHẦN I: MỞ ĐẦU 
I. Lý do chọn đề tài.  
Sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão hiện nay đã tác động tới rất nhiều lĩnh vực 
trong cuộc sống. Công nghệ phát triển từng ngày đã giúp nâng cao đời sống của 
con người giúp cho cuộc sống được thuận lợi hơn tháo gỡ được nhiều khó khăn 
vướng mắc cũng như nhu cầu bức thiết của cuộc sống. Có thể thấy trong những 
năm qua cụm từ “cách mạng công nghiệp 4.0” được nhắc nhiều trên các phương 
tiện truyền thông nhằm phổ biến tới người dân về cuộc cách mạng công nghiệp 
mới đã và đang diễn ra trên toàn cầu và những tác động đang làm thay đổi về lĩnh 
vực kinh tế đồng thời thay đổi hoàn toàn hệ thống sản xuất và quản trị hiện nay. 
Xuất phát từ sự phát triển của KHCN làm thay đổi mạnh mẽ chuỗi cung ứng và 
sức ép trước việc quản trị chuỗi cung ứng trong bối cảnh có rất nhiều thay đổi từ 
bên trong chuỗi cung ứng trong thời gian sắp tới đã đặt ra nhiều cơ hội và thách 
thức trong việc tìm hiểu và đón nhận những tác động từ cuộc cách mạng công 
nghiệp 4.0. Với mong muốn tìm hiểu sâu về đề tài mới mẻ này em đã quyết định 
chọn đề tài “CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 
4.0 ĐỐI VỚI QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN LIÊN HỆ  VỚI VIỆT NAM” 
2. Mục tiêu và nhiệm vụ.  
Mục tiêu: Trên cơ sở nghiên cứu đến những tác động của cuộc CMCN 4.0 đến 
nền kinh tế và thực trạng, cơ hội và thách thức đặt ra cho nhà nước Việt Nam.Và 
nêu ra một số giải pháp mang tính chiến lược. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu 
những vấn đề cơ bản về cuộc CMCN 4.0 và tác động của nó lên tình hình thương 
mại kinh tế của nhà nước ta. Phân tích và đánh giá thực trạng các điều kiện để tận 
dụng tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực của nó đến thị trường 
thương mại của Việt Nam. Phương hướng và một số giải pháp vận dụng tác động 
tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của cách mạng CN 4.0 đối với kinh tế chính  trị của Việt Nam.      lOMoAR cPSD| 45740413
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.  
Cơ hội và thách thức xoay quanh cuộc CMCN 4.0 đến các quốc gia đang phát  triển. 
Phạm vi giới hạn từ năm 2010 đến 2021. 
4. Phương pháp nghiên cứu.  
Các dữ liệu cần thu thập: 
_ Dữ liệu về công nghiệp và những ứng dụng của nó. _ Dữ liệu về quản lý thị 
trường, nền kinh tế. _ Các bài báo cáo nói về thực trạng CMCN 4.0 ở Việt Nam. 
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: _ Từ sách báo tạp chí, internet,... _ Giáo 
trình, tài liệu tham khảo,.... Phương pháp xử lý số liệu: Phân tích ảnh hưởng của 
nền CN 4.0. Dựa trên những già ảnh thu thập được đưa ra những kết luận và giải  pháp lâu dài. 
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN XOAY QUANH CUỘC CÔNG 
NGHIỆP 4.0 CÓ ẢNH HƯỞNG TỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 
TRONG ĐÓ CÓ VIỆT NAM.  
1.1. Tổng quan về cuộc CMCN 4.0  
1.1.1. Khái niệm và sự ra đời.  
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất 
Bắt đầu vào khoảng năm 1784. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp 
lần thứ nhất này là việc sử dụng năng lượng nước, hơi nước và cơ giới hóa sản 
xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp này được đánh dấu bởi dấu mốc quan trọng 
là việc James Watt phát minh ra động cơ hơi nước năm 1784. Phát minh vĩ đại 
này đã châm ngòi cho sự bùng nổ của công nghiệp thế kỷ 19 lan rộng từ Anh đến  châu Âu và Hoa Kỳ. 
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử 
nhân loại – kỷ nguyên sản xuất cơ khí, cơ giới hóa. Cuộc cách mạng công nghiệp      lOMoAR cPSD| 45740413
lần thứ nhất đã thay thế hệ thống kỹ thuật cũ có tính truyền thống của thời đại 
nông nghiệp (kéo dài 17 thế kỷ), chủ yếu dựa vào gỗ, sức mạnh cơ bắp (lao động 
thủ công), sức nước, sức gió và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật mới 
với nguồn động lực là máy hơi nước và nguồn nguyên, nhiên vật liệu và năng 
lượng mới là sắt và than đá. Nó khiến lực lượng sản xuất được thúc đẩy phát triển 
mạnh mẽ, tạo nên tình thế phát triển vượt bậc của nền công nghiệp và nền kinh 
tế. Đây là giai đoạn quá độ từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền sản xuất cơ giới 
trên cơ sở khoa học. Tiền đề kinh tế chính của bước quá độ này là sự chiến thắng 
của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, còn tiền đề khoa học là việc tạo ra nền 
khoa học mới, có tính thực nghiệm nhờ cuộc cách mạng trong khoa học vào thế  kỷ XVII. 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 diễn ra từ khoảng năm 1870 đến 
khi Thế Chiến I nổ ra. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần này là việc 
sử dụng năng lượng điện và sự ra đời của các dây chuyền sản xuất hàng loạt trên 
quy mô lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát triển 
của ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép, và (đặc biệt) là sản xuất và tiêu 
dùng hàng loạt. Cuộc CMCN lần thứ 2 đã tạo nên những tiền đề mới và cơ sở 
vững chắc để phát triển nền công nghiệp ở mức cao hơn nữa. 
Cuộc cách mạng này được chuẩn bị bằng quá trình phát triển 100 năm của các 
lực lượng sản xuất trên cơ sở của nền sản xuất đại cơ khí và bằng sự phát triển 
của khoa học trên cơ sở kỹ thuật. Yếu tố quyết định của cuộc cách mạng này là 
chuyển sang sản xuất trên cơ sở điện - cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục 
bộ trong sản xuất, tạo ra các ngành mới trên cơ sở khoa học thuần túy, biến khoa 
học thành một ngành lao động đặc biệt. Cuộc cách này đã mở ra kỷ nguyên sản 
xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. Công 
nghiệp hóa thậm chí còn lan rộng hơn tới Nhật Bản sau thời Minh Trị Duy Tân, 
và thâm nhập sâu vào nước Nga, nước đã phát triển bùng nổ vào đầu Thế Chiến      lOMoAR cPSD| 45740413
I. Về tư tưởng kinh tế - xã hội, cuộc cách mạng này tạo ra những tiền đề thắng lợi 
của chủ nghĩa xã hội ở quy mô thế giới. 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 xuất hiện vào khoảng từ 1969, với 
sự ra đời và lan tỏa của công nghệ thông tin (CNTT), sử dụng điện tử và công 
nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng này thường được gọi là 
cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát 
triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) 
và Internet (thập niên 1990). 
Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện tiết kiệm các tài nguyên thiên nhiên và các 
nguồn lực xã hội, cho phép chi phí tương đối ít hơn các phương tiện sản xuất để 
tạo ra cùng một khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Kết quả, đã kéo theo sự thay đổi 
cơ cấu của nền sản xuất xã hội cũng như những mối tương quan giữa các khu vực 
I (nông - lâm - thủy sản), II (công nghiệp và xây dựng) và III (dịch vụ) của nền 
sản xuất xã hội. Làm thay đổi tận gốc các lực lượng sản xuất, cuộc Cách mạng 
KHCN hiện đại đã tác động tới mọi lĩnh vực đời sống xã hội loài người, nhất là 
ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển vì đây chính là nơi phát sinh của cuộc cách  mạng này. 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 
Cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư) xuất 
phát từ khái niệm “Industrie 4.0” trong một báo cáo của chính phủ Đức năm 2013. 
“Industrie 4.0” kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo 
ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa Công nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình  bên trong. 
Cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó 
kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và 
sinh học. Khi so sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, 4.0 đang      lOMoAR cPSD| 45740413
tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Hơn nữa, nó 
đang phá vỡ hầu hết ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Và chiều rộng và chiều 
sâu của những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản 
xuất, quản lý và quản trị. 
Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân 
tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Trên 
lĩnh vực công nghệ sinh học, Cách mạng Công nghiệp 4.0 tập trung vào nghiên 
cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y dược, chế 
biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu. Cuối 
cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu 
mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ nano. 
Hiện Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như 
Mỹ, châu Âu, một phần châu Á. Bên cạnh những cơ hội mới, cách mạng công 
nghiệp 4.0 cũng đặt ra cho nhân loại nhiều thách thức phải đối mặt. 
Mặt trái của Cách mạng Công nghiệp 4.0 là nó có thể gây ra sự bất bình 
đẳng. Đặc biệt là có thể phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế lao 
động chân tay trong nền kinh tế, khi robot thay thế con người trong nhiều lĩnh 
vực, hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào cảnh thất nghiệp, nhất là 
những người làm trong lĩnh vực bảo hiểm, môi giới bất động sản, tư vấn tài chính,  vận tải. 
Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới đã đặt ra vấn đề này theo các giai 
đoạn khác nhau. Giai đoạn đầu tiên sẽ là thách thức với những lao động văn 
phòng, trí thức, lao động kỹ thuật. Giai đoạn tiếp theo sẽ là lao động giá rẻ, có thể 
sẽ chậm hơn. Với sự chuyển động của cuộc cách mạng này, trong khoảng 15 năm 
tới thế giới sẽ có diện mạo mới, đòi hỏi các doanh nghiệp thay đổi. Sau đó, những 
bất ổn về kinh tế nảy sinh từ Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ dẫn đến những bất 
ổn về đời sống. Hệ lụy của nó sẽ là những bất ổn về chính trị. Nếu chính phủ các      lOMoAR cPSD| 45740413
nước không hiểu rõ và chuẩn bị đầy đủ cho làn sóng công nghiệp 4.0, nguy cơ 
xảy ra bất ổn trên toàn cầu là hoàn toàn có thể. Bên cạnh đó, những thay đổi về 
cách thức giao tiếp trên Internet cũng đặt con người vào nhiều nguy hiểm về tài 
chính, sức khoẻ. Thông tin cá nhân nếu không được bảo vệ một cách an toàn sẽ 
dẫn đến những hệ lụy khôn lường. 
Cách mạng công nghiệp lần 4 mang đến cơ hội, và cũng đầy thách thức với  nhân loại. 
1.1.2. Các lĩnh vực chịu sự tác tác động.  
Nhân loại đang đứng trước một cuộc cách mạng công nghiệp mới, có thể 
thay đổi hoàn toàn cục diện về cách sống, việc làm và quan hệ với nhau. Quy mô 
phạm vi và sự phức tạp của lần chuyển đổi này không giống bất kỳ điều gì mà 
nhân loại từng trải qua. 
1.1.2.1 .Tác động trực tiếp. 
Đối với lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí 
Xu thế công nghệ đối với các hoạt động tìm kiếm thăm dò, khai thác và chế 
biến dầu khí sẽ thay đổi nhiều dưới cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. 
- Khảo sát địa vật lý 
Các phương pháp mới phi truyền thống như phương pháp điện ngoài biển, 
trọng lực, từ chính xác cao, các phương pháp từ vệ tinh, ứng dụng laser là những 
công nghệ mới đang được nghiên cứu phát triển và sẽ được áp dụng. Trong minh 
giải địa vật lý, xu thế chuyển từ minh giải trong không gian 2 chiều (2D) sang 
minh giải trong không gian 3 chiều (3D) và 4 thành phần (4C), làm việc trực tiếp 
với tài liệu điểm sâu chung (CDP), minh giải các dấu hiệu trực tiếp của dầu khí 
(DHI), khai thác thông tin động lực học khác là những công nghệ mới. Những hệ 
thống đo đạc, xử lý và minh giải này trong tương lai có thể kết nối với nhau chặt 
chẽ hơn, cho phép xử lý, minh giải trong thời gian thực cùng với thu thập tín hiệu  trong khi đo đạc.      lOMoAR cPSD| 45740413 - Khai thác dầu khí 
Các công ty dầu khí lớn đã áp dụng sự phát triển của công nghệ và phương 
pháp mới. Một số xu hướng công nghệ là hệ thống xử lý dưới biển, giếng công 
nghệ thông minh, công nghệ quản lý thời gian xử lý, phân tích và sản xuất thực. 
Công nghệ xử lý dưới biển sâu đã được các công ty dầu khí lớn sử dụng để tiếp 
cận các khu vực sâu hoặc trong các điều kiện môi trường khắc nghiệt. Những lợi 
thế của việc đưa các thiết bị xử lý đáy biển là để tối đa hóa và gia tăng hệ số thu 
hồi dầu, kéo dài tuổi thọ trong lĩnh vực này; giảm số lượng mỏ sản xuất cũng như 
các nhà máy xử lý trên bờ. 
Theo khảo sát của các chuyên gia, chi phí kỹ thuật cho khai thác giếng nước 
sâu chiếm khoảng 40% chi phí tổng thể của dự án, do vậy để giảm đầu tư các 
công nghệ đã được nghiên cứu trong việc nâng cao hiệu quả tìm kiếm, khai thác 
trong các công trình dưới biển. Bên cạnh việc tối ưu hóa quy trình, các công nghệ 
tiên tiến như hệ thống hoàn thiện giếng thông minh cho phép khai thác dầu khí từ 
nhiều vỉa chứa từ một giếng khoan, giúp giảm chi phí đầu tư thăm dò khai thác 
tại một diện tích/khu vực có nhiều tầng chứa hoặc nhiều tầng khai thác. 
Từ góc độ công nghệ thông tin, sự phát triển của cơ sở dữ liệu lớn, được 
gọi là “big data”, đã cho phép các ngành công nghiệp của các phân khúc khác 
nhau theo dõi thời gian thực và kiểm soát hoạt động lẫn nhau. Trong ngành công 
nghiệp dầu khí, đã có một số sáng kiến nhằm theo dõi thời gian thực và điều khiển 
thiết bị và hệ thống. Dự báo làn sóng công nghệ này sẽ nhanh chóng lan rộng 
trong ngành công nghiệp dầu khí, hỗ trợ quản lý thời gian thực của các lĩnh vực 
dầu khí ngoài khơi, cho phép quản lý sản xuất tốt hơn và đem lại hiệu quả kinh tế 
cao hơn. Các “vùng khai thác dầu kỹ thuật số” (digital oil field DOF) là một xu 
hướng trong ngành công nghiệp và có thể tối đa hóa lợi nhuận kinh tế. Phần mềm 
DOF được sử dụng như một phần mềm quản lý các vùng khai thác dầu khí thông 
qua hệ thống máy tính [5].      lOMoAR cPSD| 45740413
Ngoài ra, công nghệ nano trong lĩnh vực thăm dò khai thác cũng mang lại 
nhiều thành tựu trong lĩnh vực thăm dò khai thác. Công nghệ cảm biến nano, với 
các nano quang học có thể xác định được tốc độ dòng chảy của dầu và các sóng 
siêu âm trong giếng dầu chính xác. Ứng dụng công nghệ này sẽ cho những kết 
quả đo đạc chính xác, tin cậy, tiết kiệm thời gian và chi phí, tăng hiệu suất, tạo ra 
một bước cải tiến lớn trong thăm dò dầu khí. 
Đối với lĩnh vực lọc hóa dầu 
Những năm gần đây, việc cải tiến công nghệ điều khiển có sự tiến bộ với 
hệ thống điều khiển dự báo dựa trên mô hình điều khiển đa biến tạo khả năng điều 
khiển trong một chương trình điều khiển thống nhất. Thiết bị điều khiển có thể tự 
dự báo, tự điều khiển, xử lý các trường hợp rối loạn chứ không chỉ có chức năng 
thông báo khi đã xảy ra. Mô hình điều khiển đa biến đánh dấu sự tiến bộ trong 
công nghệ tự động hóa của nhà máy lọc - hóa dầu. Cùng với tiến bộ trong thiết bị 
điều khiển, hệ thống truyền tín hiệu bằng cáp quang cũng được phổ biến sử dụng 
đồng thời với các thiết bị đo lường hiện đại online được ứng dụng: thiết bị NIR-
analyser, chương trình LIP (Liner Programme). 
Hiện nay, phần lớn các nhà máy lọc dầu trên thế giới đều sử dụng phần 
mềm LP. Đây là một giải pháp phần mềm dựa trên kỹ thuật lập trình tuyến tính 
nhằm tối ưu hóa lựa chọn sản xuất từ việc lựa chọn dầu thô có sẵn, lập kế hoạch 
sản xuất và cơ cấu sản phẩm cũng như tối đa margin. Nhờ phần mềm tự động này 
mà các tính toán phức tạp trong sản xuất của nhà máy lọc dầu có thể được thực 
hiện, với dữ liệu đầu vào đơn giản là giá dầu thô và giá sản phẩm sản xuất. LP 
được áp dụng trong một nhà máy lọc dầu để thực hiện: lập kế hoạch sản xuất với 
những đầu vào khác nhau, xác định hoạt động trong tương lai trên cơ sở tài sản 
hiện tại; so sánh hiệu suất trong quá khứ và phân bổ sản phẩm, song song với việc 
cải tiến mô hình để hoạt động hiệu quả; tìm kiếm phương thức hoạt động mới 
mang lại hiệu quả cao hơn (thử nghiệm phối trộn dầu thô, đa dạng sản phẩm, kịch      lOMoAR cPSD| 45740413
bản giá khác nhau…); phát triển dự án, đánh giá hiệu quả của đơn vị sản xuất  mới. 
Công nghệ quản lý bảo trì Predictive Maintenance đã được áp dụng tại một 
số nhà máy lọc dầu trên thế giới. Các turbine gió được trang bị cảm biến có thể 
gửi dữ liệu về hoạt động thông qua phần mềm M2M để các kỹ sư kiểm soát tình 
hình. Công nghệ này phân tích dữ liệu, từ đó đề xuất các biện pháp bảo trì, với 
trọng tâm đặt trên các nguy cơ gây ra gián đoạn ngoài kế hoạch. Predictive 
Maintenance có độ tin cậy cao, từ 64 - 94%. Nhờ áp dụng công nghệ này, Nhà 
máy Lọc dầu Takreer ở Abu Dhabi đã cải thiện thời gian chết không có kế hoạch, 
giảm 3 - 5%. Ngoài ra, với việc quản lý dự báo tài sản, hàng tồn kho của nhà máy 
lọc dầu này cũng giảm 10 - 20% [6]. 
Đối với lĩnh vực dịch vụ logistics 
Theo dự báo của Cisco, hệ thống IoS toàn cầu sẽ tạo ra giá trị hơn 14 nghìn 
tỷ USD vào năm 2022 [5]. Một nửa giá trị đến từ việc gia tăng năng suất lao động, 
phát triển dịch vụ logistics và giảm các chi phí sản xuất. Đây là những lĩnh vực 
mà các nhà khai thác dầu khí cần phải cải thiện. Các công ty dầu khí lớn cần phải 
ứng dụng công nghệ như: IoS, Big Data, điện toán đám mây, in ấn 3D, các loại 
xe tự lái. Các công ty dầu khí hiện nay cũng đã bắt đầu thay đổi cách cấu trúc, 
xây dựng và hoạt động của các tài sản, nhưng trong dài hạn mới chỉ là bắt đầu. 
Các công ty dịch vụ sẽ phải thay đổi không chỉ cách thức kinh doanh, các sản 
phẩm, dịch vụ, khách hàng, mà cả sự cạnh tranh mà họ phải đối mặt. 
Đối với hoạt động phân phối sản phẩm dầu khí (xăng, dầu), cuộc cách mạng 
công nghiệp lần thứ 4 bùng nổ được dự báo sẽ rút ngắn kênh phân phối hàng hóa, 
do các quyết định xử lý được thực hiện trực tiếp thông qua hệ thống. Do vậy, các 
doanh nghiệp dầu khí cần tạo ra chuỗi giá trị công nghiệp linh hoạt và sáng tạo 
trong các hoạt động phân phối và thương mại các sản phẩm dầu khí ở hạ nguồn. 
Công ty INPEX tại Nhật Bản hiện đang sử dụng phần mềm Experion Supervisory      lOMoAR cPSD| 45740413
Control and Data Acquisition (SCADA) trong phân phối LPG. SCADA được sử 
dụng để tích hợp và quản lý các dữ liệu đến từ hơn 160 trạm giám sát và kiểm 
soát cùng một mạng lưới phân phối khí hơn 1.400km trải dài 9 quận và cũng quản 
lý việc cung cấp khí đốt cho gia đình và các doanh nghiệp trong các khu vực của 
Tokyo. Ngoài việc quản lý lượng khí xuất, nhập bằng con chip một cách chính 
xác, hệ thống sẽ tự động tính toán mức độ sử dụng của từng gia đình, ngày cần 
thay bình khí của từng hộ, ra quyết định vận chuyển tiết kiệm và hiệu quả nhất  [7]. 
Sản phẩm dầu truyền thống sẽ ngày càng mất đi vị trí quan trọng do sự xuất 
hiện của các nhiên liệu mới (nhiên liệu sinh học, robot thông minh, quản lý qua 
Internet làm giảm nhu cầu xăng dầu cho vận tải…). Xu hướng nhu cầu giảm các 
sản phẩm từ dầu như xăng dầu sẽ tác động đến các doanh nghiệp dầu khí, khiến 
họ cần xem xét thay đổi xu hướng đầu tư sản phẩm. Những năm tiếp theo được 
đánh giá là kỷ nguyên của nhiên liệu sinh học. Người dùng có thể tự lựa chọn tiêu 
chuẩn chất lượng cho sản phẩm mình sử dụng. 
1.1.2.2 Tác động gián tiếp.  Nguồn lực 
Khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 diễn ra, robot, tự động hóa, điều 
khiển học… phát triển dẫn tới lao động phổ thông giảm sút, tuy nhiên nhu cầu 
đối với nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao sẽ gia tăng. Do vậy, đầu tư 
nghiên cứu khoa học công nghệ và đào tạo cần được coi trọng. Đặc biệt với đặc 
điểm ngành công nghiệp dầu khí là ngành công nghiệp nặng, nhiều rủi ro, đòi hỏi 
vốn đầu tư lớn, công nghệ kỹ thuật cao và mang tính quốc tế nên việc đầu tư 
nghiên cứu khoa học công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực dầu khí và đào tạo nhân 
lực phục vụ cho thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là một thách thức không  nhỏ.      lOMoAR cPSD| 45740413
Chuyển dịch cơ cấu chính trị - xã hội 
Mọi cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra đều có tác động sâu sắc tới cơ cấu 
chính trị - xã hội của mỗi quốc gia và thế giới. Nguy cơ gia tăng xung đột khu 
vực, an ninh toàn cầu bị đe dọa, luồng di cư, khủng bố mạng… đều có thể tác 
động đến ngành công nghiệp và thị trường dầu khí. 
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tới ngành công 
nghiệp dầu khí Việt Nam  
Cũng giống như ngành công nghiệp dầu khí thế giới, ngành công nghiệp 
dầu khí Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn trước cuộc 
cách mạng công nghiệp lần thứ 4. 
Theo Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, công tác tìm kiếm 
thăm dò và khai thác dầu khí sẽ được mở rộng ra vùng nước sâu, xa bờ nên công 
nghệ giàn bán chìm và tàu khoan sẽ được sử dụng tại thềm lục địa Việt Nam, để 
khoan các giếng ở mức nước từ 200 - 500m và trên 500m. Các thiết bị trên 
giàn/tàu khoan hay giữa các giàn và hệ thống các tàu dịch vụ có thể sẽ được kết 
nối theo giao thức của IoT và được điều khiển, vận hành theo cách thức hoàn toàn  mới. 
Theo nghiên cứu của Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) về ứng dụng công nghệ 
nano trong bơm ép chất hoạt động bề mặt, các hạt có kích thước nano có khả năng 
bền với nhiệt độ, độ muối, có tính thấm ướt và làm giảm sức căng bề mặt, vì vậy 
với chủng loại và kích thước phù hợp sẽ có khả năng gia tăng hệ số thu hồi dầu 
khi sử dụng trong bơm ép nước, CO2, polymer… Các hạt nano có khả năng liên 
kết với các chất hoạt động bề mặt đặc biệt hiệu quả với chất hoạt động bề mặt 
anion bằng các liên kết hidro và liên kết cộng hóa trị làm gia tăng khả năng chịu 
nhiệt, cải thiện độ nhớt của chất hoạt động bề mặt, hoàn toàn có thể áp dụng để 
nâng cao hiệu suất thu hồi dầu vỉa cát kết Miocen mỏ Bạch Hổ  [8].      lOMoAR cPSD| 45740413
Hiện nay, hoạt động phân phối sản phẩm xăng dầu ở Việt Nam vẫn dựa 
trên mô hình truyền thống (kênh phân phối dài thông qua nhiều trung gian phân 
phối), nhưng cần chuẩn bị cho sự thay đổi trong tương lai bằng cách tiếp cận công 
nghệ số toàn cầu. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang 
diễn ra trên toàn cầu, ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam cần có chiến lược đón 
đầu công nghệ để rút ngắn khoảng cách với các quốc gia khác và có sự chuẩn bị 
kỹ càng: hợp tác quốc tế mạnh mẽ trong nghiên cứu phát triển và chuyển giao 
công nghệ; triển khai ứng dụng các công nghệ mới; đào tạo nguồn nhân lực chất  lượng cao. 
1.2. Xu hướng phát triển công nghiệp 4.0 trên thế giới 
Năm 2016. PwC thực hiện khảo sát có tên “Công nghiệp 4.0: Xây dựng công ty 
kỹ thuật số”. Phạm vi là 2.000 công ty trên 26 quốc gia. Kết quả cho thấy, tỷ lệ 
phần trăm kỹ thuật số hóa của những công ty này sẽ tăng từ 33% lên 72% trong 
vòng 5 năm tới. Hơn thế nữa, các công ty này còn dành 5% doanh thu để đầu tư  vào kỹ thuật số hóa. 
Nghiên cứu cho thấy có nhiều ích lợi mà công nghiệp 4.0 sẽ mang lại cho công 
ty trong khu vực châu Á, như tăng doanh thu (39%), tăng hiệu quả sản xuất (68%)  và giảm chi phí (57%). 
Để trở thành các doanh nghiệp 4.0 hay còn gọi là doanh nghiệp kỹ thuật số hóa, 
các doanh nghiệp đều thực hiện 6 bước sau: 
(1) Lên chiến lược ngành chuyển đổi sang kỹ thuật số; 
(2) Chọn sản phẩm chủ lực; 
(3) Xác định yếu tố đầu vào;  (4) Thực hiện; 
(5) Tạo cơ sở dữ liệu và phân tích dữ liệu để trở thành công ty kỹ thuật số; 
(6) Tích hợp giữa vật lý và kỹ thuật số để tạo ra sản phẩm ưu việt nhất.      lOMoAR cPSD| 45740413
1.2.1. Một công nhận chung - một quyết tâm cao điển hình là khu vực   ASEAN 
CMCN 4.0 được cho là sẽ liên tục định hình tương lai của ASEAN khi nền 
kinh tế số đang phát triển mạnh tại 6 thị trường trong khu vực là Indonesia, 
Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, ước tính sẽ đạt 200 tỷ 
USD vào năm 2025, tăng gấp 4 lần so với 50 tỷ USD năm 2017 (theo Google và 
Temasek - một công ty đầu tư toàn cầu tại Singapore, 2017). Hãng tư vấn quản lý 
hàng đầu thế giới AT Kearney cũng cho rằng, ASEAN có tiềm năng nằm trong 
top 5 nền kinh tế kỹ thuật số hàng đầu trên thế giới vào năm 2025. Đây là một xu 
hướng phát triển tích cực, dù vậy nhiều đánh giá cho rằng các quốc gia thành viên 
ASEAN vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của CMCN 4.0. Minh chứng là các nền 
kinh tế kỹ thuật số mới chỉ chiếm 7% GDP của ASEAN, thấp hơn nhiều so với 
tỷ lệ 16% ở Trung Quốc, 27% ở EU và 35% ở Mỹ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp 
vừa, nhỏ và siêu nhỏ hiện chiếm phần lớn trong tổng số các doanh nghiệp của khu 
vực ASEAN, có 75% doanh nghiệp nhận thấy cơ hội của CMCN 4.0, nhưng mới 
chỉ có 16% trong số đó sử dụng các công cụ kỹ thuật số. CMCN 4.0 cũng đang 
tiềm ẩn không ít thách thức cho nền kinh tế khu vực. Theo kết quả một số nghiên 
cứu, cuộc cách mạng này sẽ tạo ra nhiều việc làm mới cho xã hội, tại các nước 
thành viên ASEAN như Campuchia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan 
và Việt Nam sẽ phải chuyển đổi khoảng một nửa (54-56%) công việc hiện tại 
sang tự động hóa. Điều này đặt ra bài toán đi tìm giải pháp khai thác những tiềm 
năng cũng như giải quyết các thách thức từ CMCN 4.0 cho cộng đồng ASEAN. 
Nhìn lại những năm qua có thể thấy, cộng đồng ASEAN đã sớm chuẩn bị 
cho làn sóng CMCN 4.0 đang lan tỏa trên toàn cầu. ASEAN đã xem CMCN 4.0 
là một trong những xu thế nổi bật nhất toàn cầu và đề ra các sáng kiến quan trọng 
liên quan đến nền kỹ thuật số của cuộc cách mạng, quy định rõ tại yếu tố đặc 
trưng B9 (Các xu thế lớn toàn cầu và các vấn đề mới nổi liên quan đến thương 
mại) của Kế hoạch tổng thể xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN 2025. Theo đó,      lOMoAR cPSD| 45740413
yếu tố này yêu cầu đầu tư vào người lao động và doanh nghiệp như là các trung 
tâm học tập về phát triển công nghiệp, quản lý các điều chỉnh lao động trong hội 
nhập ASEAN; nâng cao sức mạnh tổng hợp giữa các doanh nghiệp, người lao 
động và chính phủ nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh lớn hơn, cũng như đảm 
bảo tính năng động và toàn diện cho các nước thành viên. 
Yếu tố B9 đồng thời đề cập đến việc mở rộng các dòng kết nối xuyên quốc 
gia toàn cầu, đẩy nhanh tiến bộ công nghệ số hóa đang ngày càng định hình hoạt 
động sản xuất, thương mại, dịch vụ và đầu tư quốc tế. Để ASEAN có thể nắm bắt 
được các cơ hội, tất cả các nhóm công tác chuyên ngành được yêu cầu cần phải 
chủ động xem xét tác động của các xu thế lớn và đưa vào chương trình làm việc 
trong tương lai. Ngoài yếu tố B9, Kế hoạch tổng thể xây dựng cộng đồng kinh tế 
ASEAN 2025 cũng đề cập đến các yếu tố khác là chìa khóa cho khả năng cạnh 
tranh của ASEAN trong CMCN 4.0 như: Bảo vệ người tiêu dùng (Yếu tố B2); 
Tăng cường hợp tác quyền sở hữu trí tuệ (Yếu tố B3); Tăng trưởng dựa vào năng 
suất, đổi mới, nghiên cứu, phát triển và thương mại hóa công nghệ (Yếu tố B4); 
Thương mại điện tử (Yếu tố C3) và Khoa học và công nghệ (Yếu tố C9). 
Bên cạnh đó, ASEAN cũng có các chương trình, quy hoạch chuyên ngành 
cho hợp tác nền kỹ thuật số trong khu vực như: Quy hoạch tổng thể về công nghệ 
thông tin ASEAN đến năm 2020, Chương trình làm việc ASEAN về thương mại 
điện tử 2017 - 2025, Kế hoạch hành động về khoa học, công nghệ và đổi mới 
ASEAN (APASTI) 2016-2025, Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN 2025... 
CMCN 4.0 còn là một trong những nội dung quan trọng trong nhiều chương 
trình nghị sự của ASEAN. Lần đầu tiên là tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần 
thứ 30 vào tháng 4/2017 ở Philippines, các nhà lãnh đạo ASEAN đã chỉ đạo các 
nước ASEAN cần có sự chuẩn bị sẵn sàng để tận dụng tối đa các cơ hội do cuộc 
CMCN 4.0 mang lại, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách toàn diện và sự 
phát triển cân bằng trong khu vực ASEAN. Tiếp sau đó, Hội nghị Bộ trưởng Kinh 
tế ASEAN (AEM) lần thứ 49 vào tháng 9/2017 đã thảo luận việc xây dựng các      lOMoAR cPSD| 45740413
cơ chế, chính sách trong khu vực giúp tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vừa, nhỏ 
và siêu nhỏ (MSME) tận dụng tốt các hiệp định thương mại nội khối, vượt qua 
các thách thức mới khi cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, có tác 
động sâu rộng đến mọi doanh nghiệp. Hội nghị đồng thời tán thành khuyến nghị 
giao nhiệm vụ cho Ban Thư ký ASEAN thực hiện đánh giá về mức độ sẵn sàng 
hoặc chuẩn bị của ASEAN và các nước thành viên cho CMCN 4.0 bởi tại thời 
điểm đó chưa có đánh giá nào bao gồm cả 10 quốc gia thành viên. Với chủ đề 
“ASEAN 4.0: Tinh thần doanh nghiệp và Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, 
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) và các nước ASEAN cũng đã tập trung thảo 
luận nhiều vấn đề quan trọng và hình thành các ý tưởng, định hướng lớn về phát 
triển của các nước ASEAN tại Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN 
2018 diễn ra vào tháng 9/2018, nhằm góp phần thực hiện thành công Tầm nhìn 
ASEAN 2025 vì lợi ích và sự phát triển của cả khu vực và từng quốc gia, đóng 
góp cho sự thịnh vượng chung của khu vực và thế giới. 
Tiếp nối những bước đi trên, nhằm tăng tính chủ động chuẩn bị của ASEAN 
cho CMCN 4.0, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 34 tổ chức vào tháng 6/2019 
tại Thái Lan, các nước đã thảo luận nhiều biện pháp vĩ mô để nâng cao hơn nữa 
hợp tác kinh tế - thương mại nội khối, từ đó tăng cường tính tự cường của 
ASEAN. Cụ thể, Lãnh đạo các nước thống nhất sẽ thúc đẩy một ASEAN không 
rào cản thông qua triển khai Sáng kiến Mạng lưới các thành phố thông minh 
ASEAN (ASCN); thúc đẩy kinh tế số và một ASEAN số hóa; thống nhất việc 
chuẩn bị nguồn nhân lực cho CMCN 4.0. Cũng tại Thái Lan, tham gia Hội nghị 
Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 51 (AEM 51), các Bộ trưởng đã thông qua 4/5 
vấn đề kinh tế ưu tiên liên quan đến CMCN 4.0 là: Kế hoạch hành động khung 
tích hợp kỹ thuật số ASEAN 2019-2025; Hướng dẫn về phát triển dịch vụ lao 
động lành nghề để đáp ứng CMCN 4.0; Tuyên bố ASEAN về Chuyển đổi công 
nghiệp sang công nghiệp 4.0; Hướng dẫn chính sách về số hóa các doanh nghiệp  siêu nhỏ ASEAN.      lOMoAR cPSD| 45740413
Mới đây nhất là vào tháng 3/2020, tại Hội nghị AEM họp lần thứ 26 (hội 
nghị thường niên cấp Bộ trưởng phụ trách kinh tế đầu tiên trong năm) tổ chức tại 
Việt Nam, các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN đã chính thức thông qua 12 đề xuất về 
sáng kiến, ưu tiên hợp tác kinh tế của Việt Nam trong năm Chủ tịch ASEAN 
2020, trong có tập trung vào các lĩnh vực liên quan đến CMCN 4.0 như: Thương 
mại điện tử, công nghệ thông tin, đổi mới sáng tạo… 
1.2.2.Đánh giá sự sẵn sàng c甃ऀ a ASEAN cho CMCN 4.0 
Ban Thư ký ASEAN đã đánh giá sự sẵn sàng của ASEAN nói chung và các 
nước thành viên ASEAN (AMS) nói riêng trong bối cảnh của CMCN 4.0 sử dụng 
phương pháp luật từ Báo cáo sẵn sàng cho tương lai của sản xuất của Diễn đàn 
Kinh tế thế giới (WEF), dựa trên 5 yếu tố: (1) Đổi mới và công nghệ; (2) Nguồn 
lực con người; (3) Khung pháp lý; (4) Cơ sở hạ tầng và kết nối; (5) Tăng trưởng  bao trùm và bền vững. 
Theo kết quả đánh giá, 10 nước thành viên được phân loại thành 4 nhóm 
với các cấp độ khác nhau. Nhóm dẫn đầu trong khu vực (có nền kinh tế hiện tại 
mạnh và sẵn sàng cao cho tương lai) lần lượt là Singapore, Malaysia và Thái Lan. 
Tiếp theo là nhóm có nền kinh tế mạnh nhưng phải đối mặt với rủi ro trong tương 
lai, chỉ có duy nhất Indonesia. Thứ ba là nhóm tiềm năng cao (có nền kinh tế còn 
hạn chế, nhưng có vị trí tốt cho tương lai), có 2 quốc gia là Brunei và Philippin. 
Cuối cùng là nhóm khai sinh (có nền kinh tế hạn chế và đối mặt với rủi ro trong 
tương lai), gồm 4 nước Việt Nam, Campuchia, Lào và Myanmar. Điều đáng chú 
ý là Việt Nam nằm gần điểm giao cắt với nhóm T3, cho thấy quốc gia có tiềm 
năng mạnh mẽ hơn và có mức độ sẵn sàng cao hơn 3 nước còn lại. 
Mặc dù đạt được nhiều tiến bộ trong các lĩnh vực đổi mới và trình độ công 
nghệ, song Báo cáo Đánh giá sự sẵn sàng cho CMCN 4.0 cũng cho thấy sự tiến 
bộ không đồng đều của các quốc gia trong các vấn đề: Băng thông rộng cố định, 
công nghệ 4G, nghiên cứu và phát triển (R&D), bằng sáng chế và bảo mật mạng... 
Trong khi đó còn tồn tại khoảng cách đáng kể về nguồn nhân lực giữa và trong      lOMoAR cPSD| 45740413
các nước ASEAN. Do đó, báo cáo đưa ra các lĩnh vực cần được chú trọng hơn để 
nâng cao mức độ sẵn sàng của ASEAN cho CMCN 4.0 đối với từng quốc gia 
riêng lẻ cũng như ở cấp khu vực, cụ thể: 
Thứ nhất, đảm bảo cơ sở hạ tầng vững chắc, bao gồm kết nối về băng thông 
rộng và tiên tiến, bên cạnh kết nối hệ thống cảng biển và đường bộ, kết nối về 
vốn, khung pháp lý, đổi mới công nghệ, và tăng trưởng toàn diện bền vững, Kế 
hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN (MPAC) 2025. 
Thứ hai, cải thiện khung pháp lý, thực hiện nguyên tắc chung về thực hành 
quản lý tốt (GRP), các sáng kiến về Thành phố thông minh, Vườn ươm sáng tạo, 
Nông nghiệp 4.0, ASEAN TVET 4.0, FinTech, phát triển in AI và 3D trong ngành 
y tế, Hệ thống Thống kê Cộng đồng ASEAN (ACSS), Kho lưu trữ thương mại 
ASEAN (ATR) kết nối Kho lưu trữ thương mại quốc gia (NTR) của 10 nước 
ASEAN, Cơ chế Giải quyết Tranh chấp Thương mại, Dịch vụ và Đầu tư ASEAN  (ASSIST). 
Thứ ba, giải quyết các nhu cầu về phát triển kỹ năng: ASEAN đang triển 
khai dịch các tài liệu có thể truy cập trực tuyến, tăng cường các khóa học trực 
tuyến mở và các tài nguyên giáo dục mở… 
Thứ tư, tăng cường sự tham gia của các bên có liên quan: Chú trọng tầm 
quan trọng của “Vai trò tăng cường của khu vực tư nhân”, đẩy mạnh “Quan hệ  đối tác công tư”. 
Thứ năm, tăng cường hợp tác khu vực và phối hợp các trụ cột của 
ASEAN, tập trung vào các nội dung: (1) Phối hợp giữa các lĩnh vực then chốt, 
bao gồm các lĩnh vực của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) như: Khoa học và 
công nghệ, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, bảo vệ người tiêu dùng, các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ và các lĩnh vực an sinh xã hội như: Lao động, tăng 
cường giáo dục và an ninh mạng; (2) Phối hợp giữa các cơ quan liên quan của 
ASEAN như Nhóm đặc trách cấp cao về kinh tế (HTLF-EI), Hội nghị quan chức      lOMoAR cPSD| 45740413
cao cấp Kinh tế (SEOM),Ủy ban Khoa học và Công nghệ (COST), Nhóm công 
tác về hợp tác sở hữu trí tuệ ASEAN (AWGIPC)… nhằm huy động sức mạnh của  cộng đồng khu vực. 
Có thể nói, ASEAN đã, đang có một chiến lược nhằm tăng cường sự chuẩn 
bị chung của khu vực với CMCN 4.0, hướng đến không để ai lại phía sau trong 
hành trình chuyển đổi kỹ thuật số, đồng thời có thể tận dụng các công nghệ để 
giải quyết các mối quan tâm phát triển bền vững, nhằm mục đích mang lại lợi ích 
cho tất cả các quốc gia ASEAN. 
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH 
MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐẾN MỌI MẶT CỦA VIỆT NAM.  
2.1.Việt Nam trong việc hội nhập với CMCN 4.0  2.1.1 Thực trạng 
 Cụm từ cách mạng công nghiệp 4.0 đang được nhắc đến rất nhiều từ cấp 
nhà nước, đến doanh nghiệp và trường đại học, như một thách thức và cơ hội để  phát triển đất nước. 
Nhưng trong thực tế, đất nước chúng ta vẫn còn đang ở giai đoạn công 
nghiệp 1.0 và 2.0 - đó là giai đoạn cơ khí hóa, cơ sở hạ tầng, hệ thống cầu đường, 
bến cảng sân bay đang được xây dựng mạnh mẽ. 
Đường sắt Việt Nam rất lạc hậu, tốc độ tàu thấp do khổ đường ray hẹp từ 
thời Pháp thuộc, thường xuyên có tai nạn do xung đột với giao thông đường bộ. 
Mặc dù sản xuất được điện từ lâu nhưng chúng ta chưa chế tạo được nhiều chủng 
loại động cơ, chưa sản xuất được các máy công cụ vốn là động lực chính cho dây 
chuyền lắp ráp, sản xuất hàng loạt - một đặc trưng của CMCN 2.0. Chúng ta chỉ 
chế tạo được động cơ không đồng bộ công suất nhỏ và vừa cho các ứng dụng đơn 
giản như bơm nước, quạt gió, băng tải... Hầu hết các dây chuyền công nghệ và 
dây chuyền lắp ráp hiện nay được nhập ngoại.      lOMoAR cPSD| 45740413
Do vậy, không thể cho rằng chúng ta đã làm xong CMCN 2.0 và càng 
không thể cho rằng chúng ta đã thực hiện CMCN 3.0, bởi việc tự động hóa toàn 
diện sản xuất - đặc trưng của giai đoạn này còn xa vời với công nghiệp Việt Nam. 
Dù vậy, một số ngành đã bắt kịp CMCN 3.0 như công nghệ thông tin, viễn thông 
và đã có một số yếu tố của CMCN 4.0 như in 3D (đã tạo ra một mảnh sọ nhân tạo 
để vá sọ cho bệnh nhân ở Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2016), trí tuệ nhân tạo (đã có 
một số sản phẩm). Song thành tựu này rất ít ỏi, đa số là trong giai đoạn thử  nghiệm. 
2.1.2. Định hướng c甃ऀ a Nhà nước 
Ngày 3/4/2017, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3/2017, Bộ 
trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh và đại diện Hiệp hội Phần 
mềm và Dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam đã trình bày báo cáo chuyên đề  về cuộc CMCN 4.0. 
Chủ trương của Nhà nước là tập trung vào công nghệ thông tin. Nhìn nhận 
rằng trình độ công nghiệp và nghiên cứu của Việt Nam còn ở mức trung bình và 
thấp, doanh nghiệp chưa đảm bảo trang bị kiến thức trí tuệ và công nghệ. 
Bộ trưởng cũng tham mưu Chính phủ định hướng tiếp cận chủ đạo 5 trụ 
cột - gồm hạ tầng cơ sở, trung tâm dữ liệu, ứng dụng CNTT, nhân lực, an ninh an 
toàn. “Chúng ta thực sự phải có bứt phá về CNTT, công nghệ số. Tất cả các nước 
đều đang tập trung đầu tư cao độ vào khu vực này từ nghiên cứu đến sáng chế. 
Họ coi đây là nòng cốt và có những nghiên cứu phù hợp với từng quốc gia để đưa 
vào ứng dụng” - Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh. Ông cho rằng, Chính phủ 
cần chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương vào cuộc theo cách nhìn mô hình công 
nghiệp hóa trong từng lĩnh vực để có cơ chế, chính sách đồng bộ, giúp sản phẩm 
tích hợp được những công nghệ trên nền tảng của Industry 4.0. 
“Khi làm việc với Bắc Ninh, chúng tôi được biết lãnh đạo tỉnh đã chỉ đạo 
xây dựng hạ tầng CNTT cáp quang băng thông rộng, triển khai chính phủ điện tử,      lOMoAR cPSD| 45740413
đô thị thông minh; ưu đãi để các doanh nghiệp sản xuất và đầu tư trong lĩnh vực 
công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; đào tạo nhân lực theo mô hình 
STEM và đào tạo từ xa; triển khai du lịch thông minh bằng cách số hóa hệ thống 
thông tin về danh lam thắng cảnh, lễ hội… Đây là cách tiếp cận hết sức phù hợp 
với điều kiện của Việt Nam” - Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đã phát biểu. 
Thủ tướng đã giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì theo dõi tình hình 
triển khai việc tận dụng cơ hội từ cách mạng công nghiệp 4.0, xây dựng báo cáo 
kết quả thực hiện hằng năm; đôn đốc, tham mưu, đề xuất để đưa cuộc cách mạng 
này vào Việt Nam một cách mạnh mẽ, quyết liệt. Thủ tướng cũng yêu cầu các Bộ 
trưởng nhận thức rõ về cuộc cách mạng này, “tránh tình trạng chỗ nào cũng nói 
đến cách mạng công nghiệp 4.0 nhưng được hỏi làm gì cho bộ mình, ngành mình 
thì không ai biết rõ ràng”. 
2.2.Phát triển công nghiệp môi trường ở Việt Nam trong điều kiện Cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư.  
2.2.1. Nhận diện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tác động đến 
thế giới đương đại 
Với sự phát triển mạnh mẽ của internet tốc độ cao, điện toán công suất 
mạnh và cảm biến có kích thước ngày càng nhỏ với giá ngày càng rẻ, cuộc cách 
mạng số được khởi nguồn trong cách mạng công nghiệp (CMCN) 3.0 đang đạt 
đến giai đoạn đỉnh điểm để tạo được sự kết nối ngày càng chặt chẽ giữa thế giới 
thực và không gian số với hàng chục tỷ vật thể và hàng tỷ người được kết nối với 
nhau thông qua internet kết nối vạn vật (IoT) để tạo ra dữ liệu lớn làm cơ sở cho 
sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ phá vỡ (disruptive technologies) 
giúp tạo ra những thay đổi lớn trong mọi mặt của thế giới đương đại. Trong thời 
đại ngày nay, mọi hoạt động diễn ra trong thế giới thực được sự hỗ trợ ngày càng 
mạnh mẽ bởi các hoạt động trên không gian số, giúp thế giới trở nên ngày một 
hiệu quả và thông minh hơn. Những đột phá công nghệ trong CMCN 4.0 đang    
