lOMoARcPSD| 58707906
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA ĐẦU
BÀI TẬP LỚN
MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ 1
ĐỀ TÀI:
NHẬN DIỆN CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA ĐẦU TƯ VIỆT NAM TRONG
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0.
lOMoARcPSD| 58707906
MỤC LỤC
PHẦN I: GIỚI THIỆU CÁCH MNG CÔNG NGHIỆP 4.0 3
1. Sự ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp 4.03
2. Định nghĩa của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 4
3. Đặc điểm của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 4
PHẦN II: NHẬN DIỆN CÁC CƠ HỘI THÁCH THỨC 5
1. Thực tiễn tình hình đầu tư: 5
1.1 Thực tiễn các thị trường đầu tư tiêu biểu 5
2. Cơ hội:13
3. Thách thức: 14
3.1 Nhận thức và sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp về cuộc cách
mạngcông nghiệp còn hạn chế. 14
3.2 Rào cản từ chính sách và hành lang pháp lý. 14
3.3 Rào cản về đầu tư cơ sở hạ tầng và ứng dụng công nghệ thông tin. 14
3.4 Rào cản về chất lượng nguồn nhân lực: 15
4. Giải pháp: 16
PHẦN III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM 17
1. Bài học kinh nghiệm từ Singapore 17
2. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc 19
3. Bài học cho sinh viên Việt Nam: 21
PHẦN I: GIỚI THIỆU CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
1. Sự ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
"Cuộc cách mạng" nghĩa một sự thay đổi đột ngột thay đổi mạnh mẽ khi các công
nghệ mới phương pháp mới về nhận thức thế giới tạo ra một một sự biến chuyển sâu sắc
lOMoARcPSD| 58707906
trong các hệ thống kinh tế kết cấu hội. Theo Klaus Schwab trong cuốn “Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư”, ông cho rằng “lấy lịch sử làm khung tham chiếu, những thay đổi đột ngột
này có thể mất nhiều năm để nhìn thấy”.
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên bắt đầu vào thế kỷ 18, xuất phát từ nước Anh rồi sau đó
lan tỏa ra toàn thế giới. Thông qua việc sử dụng năng lượng hơi nước và cơ giới hoá sản xuất,
con người đã cho ra đời những phương tiện di chuyển mới như tàu hơi ớc hoặc đầu máy
chạy bằng hơi nước, điều này đã thay đổi lớn trong cách thức di chuyển của con người cũng
như vận chuyển hàng hóa.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu vào thế kỷ 19 thông qua việc phát hiện ra
động cơ đốt trong và dây chuyền sử dụng điện. Sự ra đời của năng lượng điện và động cơ đốt
trong là tiền đề để chuyển nền sản xuất khí thành sản xuất điện - cơ khí, đưa nhân loại sang
giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất. Năm 1914, năm bắt đầu Thế chiến thứ nhất, giai
đoạn thứ hai này kết thúc.
Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bắt đầu khoảng những năm 1960, khi có các tiến bộ về hạ
tầng điện tử, máy tính và công nghệ kỹ thuật số trên nền tảng là sự phát triển của chất bán dẫn,
siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet. Kể từ khi làm chủ được các công nghệ này, nhân
loại thể tự động hóa toàn bộ quy trình sản xuất không cần sự trợ giúp của con người.
Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra bước đánh dấu giai đoạn thứ ba
kết thúc tuy vậy, đã làm biến đổi mọi mặt đời sống kinh tế hội toàn cầu, tạo tiền đề
cho sự ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp mới.
Hiện nay, chúng ta đang giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cuộc
cách mạng lần này tập trung vào việc đưa công nghệ kỹ thuật số trước đây lên một cấp độ hoàn
toàn mới với sự trợ giúp của kết nối thông qua Internet vạn vật, truy cập dữ liệu thời gian thực
và giới thiệu các hệ thống vật lý không gian mạng. Nó cho phép các nhà máy thông minh, sản
phẩm thông minh chuỗi cung ứng cũng thông minh, làm cho các hệ thống sản xuất
dịch vụ trở nên linh hoạt và đáp ứng ngày càng nhiều các nhu cầu của nhân loại hơn. Tuy mới
chỉ giai đoạn đầu của cuộc cách mạng nhưng đã hàng loạt các sản phẩm ra đời phục con
người như: smartphone; laptop; máy tính nhân; ... trong tương lai gần thể kể đến như
lOMoARcPSD| 58707906
smarthome, ... Trong tương lai, cuộc cách mạng lần này dự kiến sẽ còn phát triển mạnh mẽ
hơn nữa và do đó các doanh nghiệp cần sẵn sàng để chuẩn bị cho một sự đổi mình liên tục thể
cập nhật các xu hướng hiện đại sắp tới.
2. Định nghĩa của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Khái niệm “cách mạng công nghiệp lần thứ tư” lần đầu tiên được sử dụng bởi một nhóm nhà
khoa học người Đức đang phát triển một chiến lược kỹ thuật cao cho Chính phủ Đức năm
2011, có thể coi Đức chính là nước khởi nguồn cho cuộc cách mạng này.
Klaus Schwab, chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới, đã giới thiệu khái niệm này cho
nhiều người hơn tại một bài báo năm 2015 được xuất bản tại báo Foreign Affairs. Trong đó,
ông tuyên bố rằng thế giới nên sự hiểu biết toàn diện chia sẻ toàn cầu về cách công
nghệ thay đổi đáng kể xã hội, kinh tế, sinh thái, ngoài ra Schwab cũng xác nhận rằng, trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tác độnghội của những thay đổi công nghệ đối với
các ngành kinh tế, thị trường lao động, sản xuất và đổi mới được hiểu rõ hơn so với các cuộc
cách mạng công nghiệp trước đây. Trong cuốn “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” ra mắt
một năm sau đó, Klaus Schwab cho rằng kỷ nguyên này được đánh dấu bởi những đột phá
trong những kỹ thuật nổi bật trong những lĩnh vực như công nghệ nano, trí thông minh nhân
tạo AI, Internet vạn vật IoT, bitcoin, blockchain, ....
3. Đặc điểm của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Khả năng tương tác: khả năng giao tiếp, tương tác giữa các yếu tố công nghệ như: trí
tuệnhân tạo AI, điện toán đám mây hay Internet vạn vật (IoT) và con người.
Phân cấp: năng lực lập trình, thiết kế các quy trình tự trị với các yếu tố trí thông minh
nhântạo giúp máy móc có khả năng đưa ra quyết định một cách tự chủ.
Phân tích thời gian thực: khả năng thu thập và phân tích lượng dữ liệu khổng lồ(Big
Data)cho phép giám sát, kiểm soát tối ưu hóa các quy trình ngay lập tức tại mọi thời
điểm.
Ảo hóa: bằng cách thu thập dữ liệu và hình hóa các quy trình công nghiệp (vật lý), cóthể
tạo ra một bản sao ảo các mô hình nhà máy hay thậm trí là cả một thế giới ảo.
Định hướng dịch vụ: mra cho những nhà kinh doanh hình kinh doanh mới, đột phá
vàcải tiến hơn như datamining , khách hàng sẽ những cách tiếp cận hình dịch vụ mới,
chưa từng xuất hiện như AR
Tính module khả năng mở rộng: tính linh hoạt độ co giãn để thích ứng với nhu cầucủa
ngành công nghiệp kinh doanh mọi lúc, với khả năng mở rộng năng lực kỹ thuật của hệ
thống theo yêu cầu của sự phát triển của nhu cầu kinh doanh trong từng trường hợp.
lOMoARcPSD| 58707906
PHẦN II: NHẬN DIỆN CÁC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
1. Thực tiễn tình hình đầu tư:
Theo báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2020. Tính đến 20/12/2020, tổng vốn đăng
cấp mới, điều chỉnh góp vốn mua cổ phần (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt 28,53 tỷ USD, bằng
75% so với cùng kỳ năm 2019. Vốn thực hiện của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 19,98
tỷ USD, bằng 98% so với cùng kỳ năm 2019. Tính lũy kế đến ngày 20/12/2020, cả nước có 33.070
dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng 384 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu
trực tiếp nước ngoài ước đạt 231,86 tỷ USD, bằng 60,4% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Do tác động của đại dịch Covid-19, hoạt động sản xuất, kinh doanh bị ảnh hưởng, vốn đầu tư thực
hiện của các dự án ĐTNN trong năm 2020 tuy giảm so với năm 2019 song mức độ giảm đã được
cải thiện (giảm 2% so với năm 2019). Nhiều doanh nghiệp ĐTNN đang dần hồi phục và duy trì tốt
hoạt động sản xuất kinh doanh mở rộng dự án. Điểm nhấn trong năm 2020 là vốn đầu điều
chỉnh tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2019. Cùng với việc kiểm soát tốt đại dịch Covid Việt
Nam, số dự án cấp mới điều chỉnh vốn đều ng lên trong các tháng cuối năm (Số dự án cấp
mới trong Quý IV năm 2020 tăng 9% so với Quý III năm 2020. Số dự án điều chỉnh vốn cũng tăng
lần lượt 26%, 18% và 45% so với các Quý III, Quý IIQuý I năm 2020). Xét trong bối cảnh đầu
tư toàn cầu suy giảm rất mạnh do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 thì kết quả này tốt hơn nhiều
quốc gia khác, thể hiện sức hấp dẫn của Việt Nam trong mắt giới đầu tư quốc tế.
Tình hình giải ngân vốn: theo báo cáo của Bộ Tài chính, tình hình thực hiện giải ngân 8 tháng năm
2021 đạt 183.320 tỷ đồng, đạt 39,74% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao là 461.300 tỷ đồng. Dự
kiến giải ngân đến 30/9/2021 là 218.550 tỷ đồng, đạt 47,38% kế hoạch; trong đó, vốn trong nước
đạt 51,74%, vốn nước ngoài đạt 12,69%. Do vậy, tỷ lệ giải ngân thời gian này thấp hơn so với
cùng kỳ năm 2020.
Tuy nhiên, ước tính 9 tháng năm 2021, vốn đầu thực hiện toàn hội theo giá hiện hành đạt
1.868,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt
459,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,6% tổng vốn giảm 4,7% so với cùng kỳ năm trước; khu vực
ngoài Nhà nước đạt 1.100,5 nghìn tỷ đồng, bằng 58,9% và tăng 3,9%; khu vực có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài đạt 308,1 nghìn tỷ đồng, bằng 16,5% và giảm 3,4%. Có thể thấy đây cũng là con
số ấn tượng trong thời buổi các nước đều hứng chịu ảnh hưởng của dịch.
1.1 Thực tiễn các thị trường đầu tư tiêu biểu
1.1.1 Thị trường Fintech
“Fintech” một thuật ngữ được đặt ra từ hai thuật ngữ riêng biệt: “Financial"
“Technology", thường được sử dụng để mô tả quá trình áp dụng các công nghệ mới để tự động
hóa nguồn ứng dụng sử dụng các dịch vụ i chính giúp nâng cao hiệu quả của các giao
dịch tài chính. Ngày nay, với sự bùng nổ của công nghệ mới dưới tác động của cách mạng
lOMoARcPSD| 58707906
công nghiệp 4.0, thuật ngữ Fintech đã ngày càng được phổ biến hơn trong cuộc sống, thể
kể đến như: cho vay ngang hàng, thanh toán và chuyển khoản tự động, quản tài chính
nhân, quản đầu tư, bảo hiểm, quản rủi ro, ... giúp tăng số lượng khách hàng thể truy
cập các dịch vụ tài chính.
Sự phát triển của Fintech dựa trên nền tảng công nghệ thông tin truyền thông mới đã làm thay
đổi cách sống, làm việc, tiêu thụ và sản xuất hàng hóa dịch vụ của người dân. Góp phần giảm
chi phí, gia tăng sức mạnh về tính toán, loại bỏ các trung gian thanh toán, quy trình kinh doanh
hợp lý và gia tăng tính hiệu quả bằng việc tiếp cức trên thời gian thực. Từ đó dẫn đến sự ra đời
của các dịch vụ tài chính dựa trên các công nghệ tài chính (Fintech) cải thiện hiệu quả của hệ
thống tài chính và đặt sở thích và trải nghiệm của khách là lên đầu là một trong những yếu tố
quan trọng khiến cho công nghệ tài chính được tiếp nhận nhanh và phát triển rộng khắp.
1.1.1.1 Thị trường Fintech trên thế giới
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (APAC) Châu Mỹ chiếm phần lớn thị phần của thị
trường Fintech toàn cầu, với hơn 40%. Khu vực châu Âu, Trung Đông châu Phi (EMEA)
chiếm thị phần nhỏ hơn đáng kể, với ít hơn 20% tổng thị phần.
Thị trường Fintech khu vực Châu Á - Thái Bình Dương được dự báo sẽ phát triển nhanh
nhất. Các ứng dụng tài chính đang nhanh chóng trở nên phổ biến khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương, hơn 1230 ứng dụng Fintech sẵn khu vực này. Các doanh nghiệp đã chi
244 triệu USD để có được người dùng mới chỉ trong năm 2020 và đã có tổng cộng 2,7 tỷ lượt
cài đặt các ứng dụng Fintech chỉ tính từ quý I năm 2019 đến quý I m 2021. Tính riêng ba
thị trường Ấn Độ Indonesia, cùng với Brazil đã chiếm gần một nửa số lượt tải xuống ứng
dụng Fintech toàn cầu.
1.1.1.2 Thị trường Fintech trong nước
Xét về số lượng, các công ty khởi nghiệp trong nh vực Fintech tại Việt Nam luôn tăng trưởng
theo từng năm. Nếu năm 2015 cả thị trường chỉ có 39 công ty (con số này lần lượt tăng lên 74
vào năm 2017, và 124 vào năm 2019) thì đến nay, ước tính đã gần 200 công ty tham gia
lOMoARcPSD| 58707906
hoạt động trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam. Mặc phát triển vượt bậc nhưng so sánh
tương quan với các nước trong khu vực như Singapore (hơn 1.150 công ty), Indonesia (hơn
510 công ty), Malaysia (hơn 370 công ty), ... thì con số này vẫn còn khá khiêm tốn.
Tính đến tháng 9/2021, Việt Nam 41 nhà cung cấp dịch vụ thanh toán được cấp phép, với
5 điện tử lớn nhất : MoMo, Payoo, Moca, ZaloPay ViettelPay. Mặc tỷ trọng các
công ty Fintech hoạt động trong lĩnh vực thanh toán đã giảm so với toàn thị trường nhưng với
việc chiếm tới 31% trên tổng số lượng doanh nghiệp hiện có, đây vẫn được coi là lĩnh vực chủ
đạo. Bên cạnh đó, các dịch vụ như quản lý tài sản, tài chính cá nhân, đầu tư, bảo hiểm … cũng
đã những doanh nghiệp xuất hiện, đi vào hoạt động được đánh giá sẽ động lực tăng
trưởng mới của thị trường. Tuy nhiên thời điểm hiện tại, tỉ lệ doanh nghiệp Fintech hoạt
động trong mảng Đầu & Quản Tài Sản chnằm mức 7.5%; vừa thể hiện "nguồn cung"
giải pháp công nghệ cho lĩnh vực này vẫn n đang thiếu hụt, vừa cơ hội để nhiều Startup
nhập cuộc.
lOMoARcPSD| 58707906
Năm 2019 đến 2021, với diễn biến xấu của đại dịch COVID - 19, người dân hạn chế ra ngoài
từ đó việc mua sắm online trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Dựa vào thói quen mua sắm này,
các công ty Fintech kết nối với hệ thống sàn thương mại điện tử hỗ trợ thanh toán không tiền
mặt. Khách hàng chỉ cần qua ứng dụng: Zalo Pay, MoMo, ... để thanh toán trực tuyến cho cửa
hàng, chủ động linh hoạt hơn rất nhiều. Từ đó, thúc đẩy thói quen sử dụng ứng dụng Fintech
của đông đảo người dùng. Nhờ vào bàn đạp từ thúc đẩy thói quen khách hàng, mặc cho sự tàn
phá của đại dịch COVID 19, các công ty Fintech với những thế mạnh riêng vẫn đang phát
triển vượt trội: công tymở rộng được thị trường, các công ty khởi nghiệp tiếp tục tăng lên
với đa dạng dịch vụ: thanh toán, đầu tư, cho vay, nạp thẻ điện thoại, …
Theo báo cáo của IDC Financial Insights về lĩnh vực Fintech khu vực châu Á – Thái Bình
Dương, Việt Nam 5 đại diện trong nhóm Fintech Fast 101 (101 công ty Fintech tốc độ
tăng trưởng tốt nhất trong năm 2020) gồm Payoo, Momo, Moca, Tima và ZaloPay. Bốn trong
số năm công ty này sở hữu điện tử, trong đó Moca, Momo ZaloPay chiếm tới 90% thị
phần ví điện tử tại thị trường Việt Nam.
1.1.1.3. Các lĩnh vực ứng dụng Fintech
Đóng vai trò là xu hướng tất yếu trong lĩnh vực tài chính, sự bùng nổ của Fintech đem lại nhiều
hội cho các nhà đầu Việt ở cả hiện tại lẫn tương lai với những tiềm năng to lớn trong việc
tối ưu hóa phương thức đầu tư và đa dạng hóa các ngành đầu tư.
1.1.1.3.1. Insurtech
lOMoARcPSD| 58707906
Insurtech một thuật ngữ được xây dựng nên bởi hai yếu tố: “Insurance” Technology”.
Từ khoảng năm 2016, với sự phát triển mạnh mẽ của Fintech, “Insurtech” lần đầu tiên được
đề cập tới và trở nên phổ biến ở Mỹ khi xuất hiện tại các hội thảo về công nghệ bảo hiểm.
Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, xu hướng chuyển đổi số được đẩy nhanh hơn
bao giờ hết trước những thách thức chưa từng có. Năm 2020, số tiền đầu tư vào Insurtech trên
toàn cầu lên tới 7,5 tỷ USD.
Tại Việt Nam, theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, tổng phí bảo hiểm các công ty bảo hiểm thu
trong năm 2020 đạt 160.000 tỷ đồng, tăng 20,5% so với cùng kỳ. Những năm sắp tới, thị
trường bảo hiểm được dự báo tiếp tục tăng trưởng mạnh Insurtech sẽ bùng nổ chưa tới
10% dân số bảo hiểm nhân thọ. Hiện nay, bên cạnh sự thâm nhập của các doanh nghiệp
nước ngoài, sự xuất hiện của các Startup InsurTech tại Việt Nam như INSO, SaveMoney,
MIIN, Papaya,... cho thấy tiềm năng đầu tư mạnh mẽ của lĩnh vực này.
1.1.1.3.2. Tiền kỹ thuật số
Hoạt động dựa trên nền tảng các thuật toán điện tử , tiền kỹ thuật số loại đơn vị tiền tệ
dạng kỹ thuật số, cho phép các giao dịch được thực hiện một cách tức thời qua hệ thống
smartphone, máy tính các thẻ thanh toán điện tử. Tiền kỹ thuật số đang dần được thử nghiệm
tại một số quốc gia như Trung Quốc, Campuchia,... với mục tiêu thay thế đồng tiền giấy truyền
thống.
Tiền điện tử, tiền kỹ thuật sđang ngày càng tạo sức hút ngày càng mạnh mẽ trên toàn thế giới
cũng như Việt Nam. Theo thống kê, bên cạnh Bitcoin những đồng tiền hóa truyền
thông tiêu biểu, thị trường hiện nay còn hơn 5000 loại tiền a khác đang được lưu hành
dưới các hình thức khác nhau. Không đứng ngoài xu hướng phát triển chung của thế giới, mới
đây Chính phủ đã giao NHNN chủ trì nghiên cứu, xây dựng thí điểm sử dụng tiền điện tử
dựa trên công nghệ blockchain trong giai đoạn 2021-2023. Đây được coi là một bước tiến lớn,
bắt nhịp với xu hướng nghiên cứu, phát triển thí điểm CBDC đang diễn ra mạnh mẽ trên
toàn cầu.
1.1.1.3.3. RegTech
Được viết tắt bởi cụm từ “Regulatory Technology”, thuật ngữ “Regtech” ra đời cùng với sự
phát triển của các giải pháp công nghệ mang trong mình sứ mệnh cải thiện tính minh bạch,
hiệu quả cũng như năng suất của hầu hết các dịch vụ tài chính (ngân hàng, nhà cung cấp bảo
hiểm, v.v.).
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, sự tăng trưởng dự kiến của lĩnh vực này song song với
bối cảnh fintech đang bùng nổ trong khu vực, đặc biệtở Đông Nam Á, nơi chứng kiến các
khoản đầu trị giá 1 tỷ đô la Mỹ vào năm 2019 theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới. Tại
Hồng Kông, Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông (HKMA) đã mở rộng sáng kiến Banking Made Easy
để tạo điều kiện cho các phát triển Regtech tập trung vào các công nghệ giám sát chống rửa
tiền (AML) và chống tài trợ khủng bố (CTF) nhằm quản rủi ro an toàn tuân thủ nghiên
cứu về các quy định.
lOMoARcPSD| 58707906
Tại Việt Nam tiêu biểu phải kể đến là Nexus Frontier Tech thành lập năm 2015 - một công ty
ứng dụng RegTech, tuyên bố vừa kêu gọi thành công 3,8 triệu USD cho thúc đẩy nghiên cứu,
phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh toàn cầu. Ngày 28/10/2021, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam phối hợp với quan Xúc tiến thương mại đầu (Ireland) tổ chức Tọa đàm:
“Kinh nghiệm triển khai RegTech (công nghệ quy định - là một công nghệ mới sử dụng công
nghệ thông tin để tăng cường các quy trình quản lý), SupTech (công nghệ giám sát) các
khuyến nghị đối với Việt Nam”.
1.1.1.3.4. Ví điện tử
điện tử được xem giải pháp số trong công cuộc thay đổi thói quen dùng tiền mặt trong
chi tiêu tài chính hiện nay. Vậy ví điện tử là gì? Ví điện tử hay còn gọi là ví tiền online có tính
năng thanh toán trực tuyến các hoá đơn, dịch vụ phổ biến hiện nay qua số điện thoại một cách
nhanh chóng, tiện lợi và tiết kiệm. Để sử dụng ví điện tử, ta phải liên kết ví với tài khoản ngân
hàng sau đó nạp tiền và thực hiện thanh toán các giao dịch.
Theo Công ty Juniper Research đưa ra trong báo cáo nghiên cứu mới đây tổng số người dùng
điện tử Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan Việt Nam sẽ tăng trưởng
311% lên gần 400 triệu người vào năm 2025. Điều này cũng là dấu hiệu phản ánh sự bùng nổ
thương mại điện tử mạnh mẽ ở khu vực.
Tại Việt Nam, số liệu mới nhất của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, trong những tháng đầu năm
2021 hơn 200 triệu giao dịch được thực hiện thông qua điện tử, với giá trị khoảng 77,7
nghìn tỷ đồng. Thực tế cũng cho thấy, trong những năm vừa qua, tại thị trường Việt Nam, các
công ty công nghệ tài chính (Fintech) đã cạnh tranh quyết liệt giành thị phần béo bở này khi
cho ra mắt hàng loạt các loại điện tử thương hiệu như Momo, Samsung Pay, VTC Pay,
Bankplus, Payoo, ZaloPay, 1Pay, Bảo Kim, Vimo, Mobivi, eDong, FPT, eMonkey, Pay365,
TopPay, Ngân Lượng, AirPay,…
1.1.1.3.5. Giải pháp cho vay ngang hàng P2P
Cho vay ngang hàng (tiếng Anh là Peer-to-peer Lending, viết tắt P2P Lending hoặc cho vay
P2P), là mô hình kết nối trực tiếp giữa người có vốn và người cần vốn thông qua nền tảng trực
tuyến.
Trên thế giới, với tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm 17,8%, giá trị giao dịch toàn cầu của thị
trường cho vay ngang hàng được dự đoán sẽ đạt mức 290 tỷ USD vào năm 2023. Số lượng
tăng trưởng kép hằng năm của khoản vay toàn cầu cũng đạt 8,2%, dự đoán sẽ đạt 51 triệu
khoản vay vào năm 2023.
Tại Việt Nam, với lượng người dân không được tiếp cận với các dịch vụ tài chính chính thức
khá cao (khoảng 79% theo số liệu từ Ngân hàng Thế giới), trong khi tỷ lệ sử dụng internet
Smartphone gia tăng cùng với thu nhập tiêu dùng gia tăng đã thúc đẩy tốc độ phát triển của
thị trường P2P. NHNN đang phối hợp với các bộ, ngành hoàn thiện Báo cáo chế thí điểm
hoạt động cho vay ngang hàng để trình Chính phủ, dự kiến đưa lĩnh vực cho vay ngang hàng
vào Đề án cơ chế quản lý thử nghiệm hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng (Regulatory
Sandbox).
lOMoARcPSD| 58707906
1.1.2 Agritech
Agritech ( Agricultural Technology) những sản phẩm của công nghệ được sử dụng nhằm
nâng cao hiệu quả về năng suất, chất lượng, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của hội
đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp. Ngày nay ứng dụng của công nghệ
4.0 đã được tích hợp trong cách lĩnh vực: công nghiệp hóa nông nghiệp (cơ giới hóa các khâu
của quá trình sản xuất, thu hoạch, sơ chế, chế biến...), tự động hóa, công nghệ thông tin, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học; các giống cây trồng, vật nuôi năng suất, chất lượng
cao...; các quy trình canh tác tiên tiến, canh tác hữu ... cho hiệu quả kinh tế cao trên một
đơn vị sản xuất.
1.1.2.1. Thị trường Agritech nước ngoài
Ngày nay, những nền nông nghiệp lớn nhất thế giới luôn đi kèm với công nghệ nông nghiệp
phát triển vượt bậc, hoàn toàn không phụ thuộc vào diện tích tự nhiên của đất nước đó lớn hay
nhỏ. Trong số các gia tăng về trồng trọt toàn cầu dự kiến vào năm 2030, 87% dự kiến đến từ
tăng năng suất, trong khi 6% đến từ việc mở rộng sử dụng đất 7% do tăng thâm canh. Tương
tự, một phần lớn mở rộng về chăn nuôi thủy sản được kvọng do tăng năng suất. Tuy
nhiên, việc mở rộng đàn gia súc cũng được cho sẽ góp phần đáng kể vào tăng trưởng sản
xuất chăn nuôi ở các nền kinh tế mới nổi và các nước thu nhập thấp Ví dụ: Mỹ một trong
những nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới. Tuy chỉ có 0.7% lực lượng lao động
trong ngành chiếm 1% GDP. Mấu chốt chnông dân Mỹ làm nông nghiệp như c nhà
khoa học làm nghiên cứu - chia thử nghiệm giống, thử nghiệm phân bón, lên công thức
chính xác cho tưới tiêu, áp dụng máy móc hiện đại - hệ thống tưới tiêu, máy bay bón phân …
Hiện nay, các nước chú trọng vào phát triển nông nghiệp sử dụng ng nghệ cao. Covid 19
cũng chính là 1 lý do để các nước nhìn nhận vai trò của sản xuất nông nghiệp. Ở Châu Á, nông
nghiệp Thái Lan thu hút khoảng 40% lực lượng lao động và đóng góp gần 10% GDP. Năm
2015, đầu tư cho công nghệ thông tin đã chiếm 7% GDP của Thái Lan.
1.1.2.2. Thị trường Agritech trong nước.
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, trong những năm gần đây, nông nghiệp Việt Nam có bước
phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu đáng kể về năng suất, sản lượng, đa dạng sản
phẩm quy sản xuất đã tạo ra khối lượng sản phẩm khá lớn đảm bảo tiêu dùng trong
nước và phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên, ở nước ta vấn đề về ô nhiễm môi trường, ngộ độc thực
phẩm, suy giảm đa dạng sinh học, bùng phát sâu bệnh, dịch bệnh... vẫn xuất hiện nhiều
nơi. Do đó, chỉ sản xuất hữu hay sản xuất theo VietGAP mới có thể khắc phục những
hạn chế trên.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) nhân định xu hướng chuyển đổi từ nền
nông nghiệp hóa chất sang nền nông nghiệp hữu (Nông nghiệp xanh) xu hướng tất yếu
trước nhu cầu sdụng thực phẩm sạch của người tiêu dùng hiện nay. Mặc đi sau so với
nhiều quốc gia trên thế giới về các sản phẩm hữu cơ nhưng sự nỗ lực của nhiều doanh nghiệp
cũng như nông dân, đã đưa Việt Nam vào danh sách 170 quốc gia tham gia sản xuất sản phẩm
nông nghiệp hữu cơ. Đến thời điểm này, nhiều loại sản phẩm cây trồng hữu đã chính thức
lOMoARcPSD| 58707906
đặt chân đến nhiều thị trường thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc… như gạo Hoa
Sữa của Công ty Viễn Phú Organic & Healthy Food (Cà Mau); lúa gạo với thương hiệu Tâm
Việt của nông dân 9x Võ Văn Tiếng ở tỉnh Đồng Tháp.
Đến nay, hệ thống DN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã hình thành với trên
50 nghìn DN, bao gồm sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, vật nông nghiệp, nông sản, các
dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp, trong đó, khoảng 10.200 DN trc tiếp đầu phát triển
sản xuất nông, lâm, thủy sản. Tuy vậy, nhiều chuyên gia kinh tế lưu ý, số DN đầu tư trong lĩnh
vực nông nghiệp hiện chỉ chiếm 8% tổng số DN trên cả nước và 96% trong số này là DN nhỏ và
siêu nhỏ. Điều đó cho thấy, cộng đồng DN chưa mặn đầu vào nh vực trọng yếu của đất
nước. Thế nhưng trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản tăng 2,68%, đóng góp 13,5% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu
vực công nghiệp xây dựng tăng 3,98%, đóng góp 53%; khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp
33,5%.-> Đầu tư đối với ngành còn thấp so với những gì nó đóng góp cho GDP.
1.1.3. Thị trường Edtech
EdTech (Education Technology) ứng dụng công nghệ ngành giáo dục. bao gồm tất cả
các khía cạnh khác nhau của giáo dục từ việc dạy và học, quản lý giáo dục, truyền thông giáo
dục. EdTech cực kỳ phát triển trong vài năm trở lại đây, nó xuất hiện như mở ra một cuộc cách
mạng về dạy và học, trở thành một xu thế phát triển tất yếu của thời đại. Sự phát triển của các
phần mềm đã giải phóng các giáo viên khỏi công việc đứng lớp truyền thống để chuyển sang
vai trò những người hướng dẫn đồng hành cùng mỗi học viên, học sinh. sự an toàn,
người dân có xu hướng chuyển sang học trực tuyến trong Covid-19. Báo cáo của Do Ventures,
một quỹ đầu tư mạo hiểm tập trung vào lĩnh vực công nghệ tại Việt Nam Đông Nam Á, cho
rằng Việt Nam điểm đầu hấp dẫn nhất trong khu vực, thời gian tới, các nhà đầu sẽ
tập trung vào ba lĩnh vực chính là giáo dục, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ tài chính.
1.1.3.1. Thị trường EdTech trên thế giới
Đầu tư cho ngành công nghệ giáo dục toàn cầu năm 2015 ước tính chỉ đạt khoảng 45 tỷ GBP.
Nhưng đến năm 2020, do ảnh hưởng dịch Covid-19 cùng sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị
trường công nghệ giáo dục trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, con số này đã tăng vọt
lên 129 tỷ GBP.
lOMoARcPSD| 58707906
So với thế giới, Châu Á hiện nay đang thị trường tiềm năng nhất của lĩnh vực Edtech với
tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Bên cạnh Trung Quốc và Ấn Độ, Đông Nam Á cũng là một khu
vực sở hữu những yếu tthuận lợi thúc đẩy ngành Edtech phát triển, chẳng hạn như: dân số
trẻ, tốc độ phát triển kinh tế cao, nhiều quốc gia trong khu vực đến hàng tỷ người sử dụng
smartphone, khả năng kết nối với Internet lớn mức lương cạnh tranh. Theo Tech Crunch,
đến năm 2020, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sẽ chiếm 54% thị trường EdTech. Đây là
minh chứng cho sự phát triển lan rộng của xu hướng giáo dục trên toàn cầu hiện nay: Sự
phát triển của công nghệ đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của ngành giáo dục, giúp nâng
cao hiệu quả giảng dạy, mang lại trải nghiệm mới cho cả giáo viên, học sinh. Giá trị của các
startup về EdTech (công ty công nghệ chuyên về giáo dục) toàn cầu cũng được ước tính hơn
190 tỷ USD vào năm 2018 và dự kiến vượt 300 tỷ USD vào năm 2025.
1.1.3.2. Thị trường EdTech trong nước
Theo Công ty vấn Quản OCD, hiện nay lĩnh vực Edtech tại Việt Nam một trong những
lĩnh vực các nhà đầu nước ngoài đang xếp hàng” để chờ hội gia nhập thị trường.
Các chuyên gia tại OCD dẫn báo cáo từ tổ chức Ken Research dự báo, quy mô thị trường giáo
dục trực tuyến của Việt Nam sẽ đạt 3 tỷ USD vào năm 2023 với tốc độ tăng trưởng kép hàng
năm (CAGR) đạt khoảng 20,2% trong giai đoạn 2019 – 2023. Việt Nam cũng thuộc top 10 thị
trường có mức tăng trưởng E-learning lớn nhất thế giới trong năm 2019 (44,3%), trở thành thị
trường hấp dẫn đối với các startup và các nhà đầu tư.
Theo những báo cáo của Do Ventures, lĩnh vực Edtech hiện nay là lĩnh vực đang được đầu tư
nhiều thứ 3 tại Việt Nam. Tổng vốn đầu tư mạo hiểm vào lĩnh vực giai đoạn 2019-2020 này là
103 triệu USD, chỉ xếp sau lĩnh vực thanh toán (462 triệu USD) và bán lẻ (416 triệu USD).
Trong khi đó, một báo cáo của Viện nghiên cứu Topica Founder Việt Nam năm 2016 cũng
nhận định Edtech lĩnh vực tổng số tiền đầu vào khởi nghiệp cao thứ ba trên cả nước
(20,2 triệu USD), chỉ đứng sau E-commerce (34,7 triệu USD) và Fintech (129,1 triệu USD).
lOMoARcPSD| 58707906
Đến năm 2019, thị trường Edtech Việt Nam đón nhận khoảng 55 triệu USD đầu từ nhiều
đơn vị nước ngoài. Trong tương lai phần lớn nguồn tài trợ đầu vào các Edtech startup
Việt được dự đoán sẽ tiếp tục đến từ các nhà đầu tư nước ngoài với mức đầu hàng năm dự
kiến tăng trưởng đến 50% nhờ tiềm năng phát triển của thị trường trong nước.
Từ năm 2019 đến 2021, do diễn biến phức tạp khó lường của dịch Covid, Việt Nam đã ghi
nhận gần 80% học sinh học trực tuyến, xếp th17/200 quốc gia vùng lãnh thổ. Việt Nam
điểm sáng cho việc học sinh dễ dàng tiếp cận với công nghệ của giáo dục. Theo báo cáo
Digital 2020 của We Are Social, Việt Nam đất nước tỉ lệ cao sở hữu sử dụng công
nghệ đang nằm trong top 20 nước có số người sử dụng internet cao nhất thế giới với 49 triệu
người kết nối internet, 55% người Việt sở hữu điện thoại thông minh, 46% người Việt sở hữu
máy tính nhân. Theo Google APAC, vào năm 2020 cứ 10 người Việt sẽ 8 người dùng
điện thoại di động. Đây đều là những điều kiện tất yếu và bắt buộc để Edtech phát triển.
2. Cơ hội:
Tính đến nay, nước ta vẫn một nước nền công nghiệp trẻ, lạc hậu với chỉ hơn 60 năm
thành lập nước 30 năm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. CMCN 4.0 mở ra một hội để
nước ta có thể tiếp cận với công nghệ mới, thể rút ngắn được khoảng cách kinh tế- hội
với các nước phát triển. Từ những thực tế được nhóm em thu thập trong phần trước, có thể rút
ra một số những cơ hội cho ngành đầu tư Việt Nam như sau:
Thứ nhất, với trợ lực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ngành đầu động lực để tạo
ra các ngành sản xuất, dịch vụ mới thay đổi duy sản xuất, phương thức kinh doanh của
các doanh nghiệp trong nước.
Trong giai đoạn 2019-2021, thị trường Việt Nam nhanh chóng đổi mới với sự gia tăng đầu
chuyển đổi số của các lĩnh vực truyền thống (như Tài chính - Ngân hàng, Nông nghiệp, Giáo
dục,...), các ngành dịch vụ mới phát triển này sẽ có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế bởi tính
linh hoạt, tiện lợi phù hợp với mọi đối tượng khách hàng. Không chỉ giúp các doanh nghiệp
lớn tối ưu a các hoạt động của mình (như BIDV, TP bank với nghiệp vụ phân tích rủi ro
bằng AI) mà còn giúp những nhà đầu tư cá nhân gia tăng danh mục đầu tư của mình một cách
hiệu quả. Từ các c động như vậy, khu vực đầu nhân được dự o sẽ gia tăng, các mặt
đời sống kinh tế- xã hội của nước ta được cải thiện.
Thứ hai, cơ hội có hoạt động đầu tư hiệu quả hơn thông qua cuộc cách mạng về thể chế, thay
đổi mô hình quản lý, mô hình kinh doanh với ứng dụng công nghệ mới.
Hiện nay, nhà nước đã rất nhiều cố gắng trong cải thiện tốc độ xử lý, kiểm soát, phê
duyệt các đơn từ hành chính nhưng nhìn chung hệ thống vẫn còn rườm gây khó khăn cho
người dân doanh nghiệp. Với CMCN 4.0, chính phủ đẩy mạnh phát triển hệ thống “chính
phủ điện tử” với mục tiêu chuyển đổi số tối đa các dịch vụ công, nghiệp vụ hành chính, đề cao
năng suất xlý, phê duyệt tiêu giảm chi phí duy trì nhân lực, vật lực của cả nhà nước
lOMoARcPSD| 58707906
người dân, doanh nghiệp. Về phía nội bộ doanh nghiệp, CMCN 4.0 mang đến sự cải thiện
rệt trong năng suất làm việc, không chỉ là tối đa hóa năng lực sản xuất bằng dây chuyền hiện
đại các hình quản cũng được chuyển đổi sang hệ thống đa chiều, đề cao tính minh
bạch, ràng trong thông tin doanh nghiệp ddàng cho các hoạt động kiểm soát của nhà
nước.
Thứ ba, hội để gia tăng hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao sức cạnh tranh thương
mại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội trong nước.
Khi công nghệ phát triển, chi phí cho giao thông và thông tin sẽ giảm xuống, dịch vụ hậu cần
chuỗi cung ứng sẽ trở nên hiệu quả hơn các chi phí thương mại sẽ giảm bớt. Điều này
giúp các xí nghiệp và doanh nghiệp bớt ngần ngại hơn khi gia nhập thị trường xuất khẩu hàng
hóa.
3. Thách thức:
3.1 Nhận thức squan m của cộng đồng doanh nghiệp về cuộc cách mạng công nghiệpcòn
hạn chế.
Theo số liệu khảo sát của Bộ Công Thương, hiện nay, có 61% DN Việt Nam còn đứng ngoài cuộc
CMCN 4.0 và 21% DN mới bắt đầu có các hoạt động chuẩn bị. Điểm trung bình toàn ngành Công
Thương 0,53 điểm (so với mức 5 điểm), tương đương với mức sẵn sàng đầu tiên hay chưa
sự chuẩn bị nào. 5 ngành số điểm đánh giá tính sẵn sàng cao nhất là: Dầu khí, sản phẩm
điện tử, sản xuất xe có động cơ, điện, khí đốt, nước và hóa chất. Đáng lưu ý, 3 ngành chủ lực của
ngành Công Thương là: Cơ khí, dệt, may và da giày là những ngành có điểm đánh giá thấp nhất.
Tuy nhiên, trừ các DN ngành Dầu khí có sự bứt phá so với các ngành khác, sự khác biệt giữa các
ngành nêu trên các ngành còn lại không lớn cả 17 nhóm ngành ưu tiên khảo sát đều thuộc
nhóm đứng ngoài cuộc CMCN 4.0.
3.2 Rào cản từ chính sách và hành lang pháp lý.
Hoạch định chính sách trước những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thách
thức phổ biến với hầu hết các quốc gia, không chỉ riêng Việt Nam. Hai yếu tố quan trọng trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần này là internet và công nghệ số cho phép tạo ra những giá trị
số hóa, phương thức giao dịch chưa từng có trong lịch sử (chẳng hạn như quản lý như thế nào
đối với tiền điện tử Bitcoin, dịch vụ vận chuyển Uber…).
Thực tế này cho thấy, chính sách và pháp luật đã không theo kịp với sphát triển của công
nghệ. Những tài sản “mới” xuất hiện giờ đây không thể được quản theo phương thức truyền
thống cần những chính sách hành lang pháp mới. Nếu các khuôn khổ pháp lý
không hoàn thiện không thể bắt kịp với sự phát triển nhanh của công nghệ số nói riêng
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nói chung, thì không chỉ ảnh hưởng đến sự sáng tạo và phát
lOMoARcPSD| 58707906
triển của cộng đồng DN mà còn gây ra sthất thoát, lãng phí, sự “lách luật” tác động tiêu cực
lên những chỉ số chung của nền kinh tế.
3.3 Rào cản về đầu tư cơ sở hạ tầng và ứng dụng công nghệ thông tin.
Trong những năm qua, cộng đồng DN đã nỗ lực đầu hạ tầng ứng dụng công nghệ
thông tin vào hoạt động sản xuất kinh doanh, song thực tế vẫn chưa được như kỳ vọng.
Trong những năm qua, cộng đồng DN đã nỗ lực đầu hạ tầng ứng dụng công nghệ
thông tin vào hoạt động sản xuất kinh doanh, song thực tế vẫn chưa được như kỳ vọng. Khảo
sát mới đây của Viện Đánh giá khoa học và Định giá công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ)
cho biết, chỉ có 23% số các DN được điều tra có hoạt động đổi mới, cải tiến công nghệ.
Nguyên nhân do nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, chế tài chính hỗ trợ cho DN vay vốn,
bảo lãnh vốn vay và các hỗ trợ khác chưa tạo điều kiện để Doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
Các tổ chức làm nhiệm vụ môi giới để kết nối giữa nguồn cung và cầu công nghệ còn hạn chế,
giải một phần nguyên nhân sao các nhà khoa học chưa thuyết phục được nhiều doanh
nghiệp thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.
Cùng với đó, theo khảo sát của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc và Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung Ương, tỷ lệ nhập khẩu công nghệ của Việt Nam hiện chi ở mức 10% (
thấp hơn nhiều so với số trung bình 40% của các nước đang phát triển). Trong đó, nhiều công
nghệ thuộc thập niên 80-90 của thế kỷ trước và 75% máy móc đã hết khấu hao.
Hơn nữa, thể thấy hạ tầng công nghệ nước ta còn yếu kém, chưa có đủ khả năng để tạo ra
một môi trường số thật sự lành mạnh, hiệu quả, công bằng. Tuy ứng dụng công nghệ 4.0 hứa
hẹn những lợi ích lớn lao trong dài hạn, nhưng trong tầm nhìn ngắn hạn vẫn tồn tại những mặt
trái mà khó có thể khắc phục được.
Một là, nguy bảo mật nhân. Trong tương lai, thời kỳ cách mạng 4.0 đi sâu vào đời
sống, sẽ xuất hiện những “hệ sinh thái” công nghệ thông tin liên kết tất cả những phương tiện,
những đầu mối dịch vụ xung quanh con người. đó, chỉ với một điểm chạm, bạn thể dễ
dàng trả các chi phí thông qua phần mềm quản sinh hoạt liên kết giữa bạn - ngân hàng nơi
cung cấp dịch vụ (trường học, siêu thị,..vv). thế thông tin nhân dùng để nhận diện cho
các tài khoản hội ( tài khoản ngân hàng, tài khoản app,..)sẽ ngày càng giá trị hơn. Nếu
những thông tin đó bị đánh cắp hoặc bị tiết lộ bởi một thế lực nào đó thì sẽ làm xáo trộn cuộc
sống, thể bạn sẽ bị trộm rút mất khoản tiền dành dụm trong tài khoản, hay một kẻ lạ mặt
bỗng dưng gọi điện đến và uy hiếp bạn bằng những thông tin riêng từ tài khoản nhân,..vv.
Hai là, nguy bị hacker can thiệp vào hệ thống sản xuất, điều hành của DN. Cách mạng công
nghiệp 4.0 sử dụng công nghệ để kết nối mọi thứ, đây cũng chính là điểm yếu dễ bị khai thác
nhất. Các hacker có thể tấn công vào phần mềm, mạng lưới quản lý để can thiệp vào hệ thống
lOMoARcPSD| 58707906
sản xuất. Thậm chí chúng thể chiếm quyền điều khiển cả hệ thống công ty, doanh nghiệp
gây thiệt hại lớn về kinh tế.
3.4. Rào cản về chất lượng nguồn nhân lực:
Ở Việt Nam, từ trước đến nay, nền kinh tế vẫn dựa nhiều vào các ngành sử dụng lao động giá
rẻ khai thác tài nguyên thiên nhiên, trình độ của người lao động nói riêng của cả nền
kinh tế nước ta nói chung còn thấp.
Theo ước tính của Tổ chức Lao động quốc tế, đến 86% số lao động trong các ngành dệt
may và giày dép của Việt Nam có nguy cơ cao mất việc làm trong vòng 15 năm tới. Bên cạnh
việc mất dần những ngành nghề truyền thống sử dụng nhiều lao động, cuộc CMCN 4.0 cũng
xuất hiện nhiều ngành nghề mới, gắn với đặc trưng của cuộc cách mạng này như: ngành điện
tử, viễn thông, số hóa, kỹ thuật viên máy tính, an ninh mạng, in 3D… Trong tương lai, những
lao động bị mất việc làm do sự phát triển của robot và công nghệ tự động hóa sẽ dịch chuyển
sang những ngành mới này. Tuy nhiên, không phải dễ dàng khi chuyển đổi ngành nghề, nhất
là những ngành mới đòi hỏi nhiều tri thức.
Yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng cấp thiết, trong khi đó, nguồn nhân lực
chất lượng cao của Việt Nam hiện nay lại thiếu hụt cả về số lượng kỹ năng tay nghề. CMCN
4.0 là cuộc cách mạng số nhưng nhân lực chất lượng cao trong các ngành công nghệ thông tin,
kỹ thuật máy tính, tự động hóa… của Việt Nam đang còn quá ít. Theo tính toán của các chuyên
gia, nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin tăng thêm 47% mỗi năm, trong khi đó số sinh viên
ngành công nghệ thông tin ra trường lại chỉ tăng 8%/năm. Trong số nhân lực ấy, không phải
tất cả đều có chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Một nghiên cứu mới
đây cho thấy, tới 72% số sinh viên ngành công nghệ thông tin không kinh nghiệm thực
hành, 42% số sinh viên thiếu kỹ năng làm việc nhóm. Đây là một trong những thách thức lớn
nhất trong cuộc Cách mạng công nghiêp (CMCN 4.0).
3.5. Tác động tiêu cực đến môi trường
Do nhiều dự án FDI đưa vào dây chuyền công nghệ lạc hậu nên có tác động tiêu cực đến môi
trường Việt Nam, điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng đời sống của người
dân, nếu tình trạng không kiểm soát này tiếp tục diễn ra thì sẽ làm dao động niềm tin của người
dân với chính phủ, doanh nghiệp khiến ấn tượng của người dẫn về nguồn vốn FDI trở nên tồi
tệ, bất lợi cho việc phát triển. Tàn phá môi trường chỉ là chuyện trong ngắn hạn, nhưng để hồi
phục phải mất đến hàng thập kỷ, chúng ta phải ý thức rõ ràng về sự phát triển, phải kiểm định
và chọn lọc nguồn vốn FDI “sạch”.
Bên cạnh việc phá hoại môi trường là việc khai thác cạn kiệt tài nguyên. Trong thời gian vừa
qua (giai đoạn trải thảm đỏ đón nhà đầu tư), đã có rất nhiều dự án đầu tư khai thác tài nguyên
khoáng sản không tái tạo được một cách bừa bãi thiếu quy hoạch gây ảnh hưởng tiêu cực đến
nguồn lực quốc gia.
3.6 Các DN vẫn hoạt động rời rạc, riêng lẻ chưa đáp ứng được các yêu cầu cho sự phát triển
Hiện mới chỉ khoảng 300 DN Việt Nam đủ tiêu chuẩn đáp ứng được các tiêu chí về sản
xuất công nghiệp hỗ trợ cho các tập đoàn nước ngoài, còn lại vẫn phải phụ thuộc vào khu vực
lOMoARcPSD| 58707906
FDI. Điều này là rào cản rất lớn cho mục tiêu gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu của nước ta,
bởi với quynhỏ, nguồn lực phân tán thì không thể đáp ứng được các đơn hàng lớn từ các
đơn vị quốc tế.
4. Giải pháp:
4.1 Về các vấn đề nhận thức, giáo dục:
- Nâng cao đầu cho giáo dục mọi độ tuổi chú trọng phát triển các nền tảng học tập,
đàotạo trực tuyến.
Trước bối cảnh nền kinh tế số biến đổi không ngừng, việc học tập, nâng cao khả năng không
chỉ là vấn đề cấp thiết cua lứa tuổi học sinh mà còn là vấn đề quan trọng đối với người trưởng
thành. Bởi theo như dự đoán, trong tương lai không xa, 70% công việc hiện tại sẽ biến mất, bị
thay thế bởi máy móc, nên người dân phải nhanh chóng ttrang bị cho mình những biện pháp
dự phòng. Các công cụ học tập từ xa, học online đảm bảo chất lượng đào tạo cũng càng ngày
phát triển để trở thành trợ lực tuyệt hảo cho nâng cao kiến thức với chi phí rẻ và quỹ thời gian
tối thiểu.
- Tuyên truyền, thông tin, phổ biến để người dân DN hiểu, nhận thức đúng về cuộcCMCN
4.0 và tự chuẩn bị trước cho tương lai.
Có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về CMCN 4.0 là rất quan trọng với người dân, DN. Chỉ khi
hiểu biết rõ và nhận thức được tác động của nó đến đời sống, người dân và DN mới có thể chủ
động trù bị cho tương lai. Mỗi nhân, đơn vị như vậy thì c mặt kinh tế - xã hội đều được
phát triển.
4.2 Về các vấn đề khác:
- Điều quan trọng nhất là các ban ngành phải phối hợp chặt chẽ với nhau, vừa thử nghiệmứng
dụng mới, bám sát các bước chuyển của công nghệ vừa kịp thời bổ sung các chính sách, chế
tài, điều luật để bảo đảm các quyền lợi. Và phải học hỏi các kinh nghiệm của nước khác trong
xử lý rủi ro và tránh lặp lại sai lầm của họ.
- Tăng cường đầu vào xây dựng sở hạ tầng bằng các hình thức gọi vốn khác nhau:
hợptác công -tư, gọi vốn FDI,...
- Khuyến khích các dự án NCKH phát triển nguồn lực trong nước. Nhưng lấy thương mạihóa
các sản phẩm sáng chế là trọng tâm trong chương trình đổi mới quốc gia.
- Thành lập các liên minh, liên kết, các tổ chức hợp tác chiến lược giữa các đơn vị
doanhnghiệp cùng ngành trong nước để tập trung các nguồn lực, gia tăng quy mô. Kết hợp với
cấu lại các tổ chức DN định hướng chuyên môn hóa cao các hoạt động sản xuất để tăng
năng lực cạnh tranh với các nước khác trong ngành công nghiệp chế tạo, chế biến.
lOMoARcPSD| 58707906
- Đưa ra các tiêu chuẩn kiểm định quản & vận hành dự án mới, chặt chẽ, nghiêm khắc
hơnđể đảm bảo phát triển bền vững.
PHẦN III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Bài học kinh nghiệm từ Singapore
1.1 Các thành tựu của Singapore
Chỉ tính riêng nửa đầu năm 2020, Singapore đã thu hút được khoảng 14,3 tỷ SGD các nguồn
đầu vào tài sản cố định tương đương với 95% tổng lượng đầu cam kết cho cnăm 2019.
Con số 15,2 tỷ SGD Singapore đã thu hút được trong năm 2019 là mức cao nhất trong 7 năm
qua.
Phó Chủ tịch điều hành của Ủy ban Phát triển Kinh tế Singapore Kiran Kumar cho rằng nhờ
môi trường kinh doanh thân thiện, tuân thủ chặt chẽ pháp luật có sự liên kết sâu rộng,
Singapore tiếp tục là địa điểm để nhiều công ty nước ngoài gia tăng đầu tư và hoạt động. Một
số các công ty tuyên bố sẽ đầu tư vào Singapore trong năm nay gồm Paypal, Rakuten, Kajima,
Johnson Controls, Twitter Zoom. Công ty công nghệ bảo hiểm Descartes Underwriting
trụ sở tại Pháp cũng đang lên kế hoạch mở văn phòng tại Singapore, sau khi đã kêu gọi được
khoản góp vốn trị giá 25,3 triệu SGD.
1.2. Các chính sách của Singapore
Thứ nhất, không phân biệt đối xử với đầu tư nước ngoài: Thay vì ban hành một luật riêng, hoạt
động đầu tư Singapore được điều chỉnh bởi các luật chung, chẳng hạn nluật chung về hợp
đồng, luật công ty các luật cụ thể theo ngành. Nhìn chung, không sự phân biệt đối xử
giữa đầu nước ngoài đầu tư trong nước, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt được quy
định bởi luật cụ thể. Singapore cũng đưa ra một loạt sáng kiến khuyến khích đầu đối với tất
cả các nhà đầu tư, không chỉ riêng đầu nước ngoài. dụ, Chương 10 của Luật Khuyến
khích mở rộng kinh tế cho phép khấu trừ thuế đối với chi tiêu vốn trong dự án được phê duyệt.
Ưu đãi này, bao gồm việc chỉ định các khoản đầu như các dự án được phê duyệt, do Hội
đồng Phát triển kinh tế (EDB) quản lý và dành cho các công ty trong và ngoài nước.
Thứ hai, bộ máy hành chính giải quyết việc cực nhanh chóng: Những năm qua, Singapore
nổi tiếng với bộ máy hành chính hoạt động rất trơn tru, nhanh chóng, với sự cộng tác hiệu quả
giữa các các cơ quan hữu quan để giúp doanh nghiệp hoạt động và phát triển dễ dàng. Các thủ
tục đăng ký hoạt động rất rõ ràng và nhất quán, cũng như cơ chế thuế ưu đãi và liên danh hiệu
quả cùng việc cho phép sở hữu nước ngoài 100%. Không chỉ có vậy, chính phủ Singapore còn
tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng về thị thực nhập cảnh và cư trú cho người nước ngoài muốn
hoạt động kinh doanh tại Singapore.
lOMoARcPSD| 58707906
Thứ ba, hệ thống thuế đơn giảnthân thiện: Một điểm mạnh khác nữa của Singapore chính
hệ thống thuế, được xem "đơn giản và thân thiện với nhà đầu tư". Mức thuế doanh nghiệp
cao nhất chỉ 17%. Đây là mức thuế doanh nghiệp thấp nhất thế giới. Bên cạnh đó, Singapore
đã kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần (DTA) với hơn 70 quốc gia trên thế giới, qua đó
góp phần quan trọng giảm gánh thuế cho doanh nghiệp nước ngoài. Mạng lưới DTA mở rộng,
cùng với thuế tăng vốn thu nhập cổ tức bằng 0, đã biến Singapore thành nơi hấp dẫn cho
đầu tư kinh doanh thông qua hình thức liên danh.
Thứ tư, hệ thống pháp luật minh bạch, công bằng và vô tư: Hệ thống luật pháp của Singapore
cũng hoạt động rất hiệu quả. Cơ sở pháp lý liên tục được cập nhật và đổi mới để phù hợp với
môi trường văn hóa, kinh tế và thương mại hiện hành. Thừa hưởng hệ thống pháp luật từ Anh
phát triển thành bản sắc riêng, hệ thống luật pháp của Singapore đến nay được đánh giá cao
nhờ tính hiệu quả nhất quán. Các doanh nghiệp Singapore không phải chứng kiến quá
trình thủ tục pháp lý chậm chạp, làm giảm sút hiệu quả hoạt động kinh doanh.
1.3. Bài học cho Việt Nam
- Cần thực hiện một số cải cách cấu cần thiết về hiệu quả hành chính, quy tắc quản trịdoanh
nghiệp, quy trình pháp lý cmột đội ngũ lao động trình độ cao trong nhiều lĩnh vực khác
nhau.
- Đưa ra các biện pháp khuyến khích hthống hơn để thu hút nhân tài nước ngoài vàoViệt
Nam, hoặc có các ưu đãi có mục tiêu để thu hút đầu tư vào các hoạt động cụ thể.
- Thu hút các khoản đầu tạo nhiều giá trị gia tăng. Thực tế cho thấy Việt Nam lẽ
đangđảm nhiệm phần có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu, đó là lắp ráp và
may sản phẩm. Việt Nam phải nghiêm túc xem lại năng lực quốc gia trong lĩnh vực R&D, hậu
cần hay marketing. Điều này đòi hỏi phải rà soát lại hệ thống giáo dục ở nhiều cấp độ.
- Các quan chức năng của Việt Nam thể tích cực theo đuổi chính sách xây dựng cáccụm
công nghiệp. Một thành công tương tự gần đây là cụm công nghiệp lắp ráp tai nghe của Apple
tại tỉnh Bắc Giang. Các công ty lắp ráp đã thu hút các nhà cung cấp linh kiện khác đặt trụ sở
sản xuất gần nhà máy của họ. Cuối cùng, cụm công nghiệp mới chớm nở này ththu hút
các nhà sản xuất tai nghe khác đến đây sẵn nguồn nhân lực có tay nghề cao về các bộ
phận âm thanh.
- Đòi hỏi sự thay đổi trong duy của các doanh nhân doanh nghiệp. Mọi người hiện
tậptrung quá nhiều vào các "tài sản hữu hình" như nhà máy, nhưng lại không tập trung đủ vào
"tài sản vô hình" như R&D, xây dựng danh tiếng, kiến thức hoặc kỹ năng thiết kế. Việc củng
cố năng lực kinh doanh trong các hạng mục này là thách thức thực sự đối với thế hệ lãnh đạo
doanh nghiệp hiện tại và tương lai.
2. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc
2.1 Các thành tựu của Trung Quốc

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58707906
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA ĐẦU TƯ BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ 1 ĐỀ TÀI:
NHẬN DIỆN CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA ĐẦU TƯ VIỆT NAM TRONG
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0. lOMoAR cPSD| 58707906 MỤC LỤC
PHẦN I: GIỚI THIỆU CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 3
1. Sự ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp 4.03
2. Định nghĩa của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 4
3. Đặc điểm của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 4
PHẦN II: NHẬN DIỆN CÁC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC 5
1. Thực tiễn tình hình đầu tư: 5
1.1 Thực tiễn các thị trường đầu tư tiêu biểu 5 2. Cơ hội:13 3. Thách thức: 14
3.1 Nhận thức và sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp về cuộc cách
mạngcông nghiệp còn hạn chế. 14
3.2 Rào cản từ chính sách và hành lang pháp lý. 14
3.3 Rào cản về đầu tư cơ sở hạ tầng và ứng dụng công nghệ thông tin. 14
3.4 Rào cản về chất lượng nguồn nhân lực: 15 4. Giải pháp: 16
PHẦN III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM 17
1. Bài học kinh nghiệm từ Singapore 17
2. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc 19
3. Bài học cho sinh viên Việt Nam: 21
PHẦN I: GIỚI THIỆU CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
1. Sự ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
"Cuộc cách mạng" có nghĩa là một sự thay đổi đột ngột và thay đổi mạnh mẽ khi các công
nghệ mới và phương pháp mới về nhận thức thế giới tạo ra một một sự biến chuyển sâu sắc lOMoAR cPSD| 58707906
trong các hệ thống kinh tế và kết cấu xã hội. Theo Klaus Schwab trong cuốn “Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư”, ông cho rằng “lấy lịch sử làm khung tham chiếu, những thay đổi đột ngột
này có thể mất nhiều năm để nhìn thấy”.
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên bắt đầu vào thế kỷ 18, xuất phát từ nước Anh rồi sau đó
lan tỏa ra toàn thế giới. Thông qua việc sử dụng năng lượng hơi nước và cơ giới hoá sản xuất,
con người đã cho ra đời những phương tiện di chuyển mới như tàu hơi nước hoặc đầu máy
chạy bằng hơi nước, điều này đã thay đổi lớn trong cách thức di chuyển của con người cũng
như vận chuyển hàng hóa.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu vào thế kỷ 19 thông qua việc phát hiện ra
động cơ đốt trong và dây chuyền sử dụng điện. Sự ra đời của năng lượng điện và động cơ đốt
trong là tiền đề để chuyển nền sản xuất cơ khí thành sản xuất điện - cơ khí, đưa nhân loại sang
giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất. Năm 1914, năm bắt đầu Thế chiến thứ nhất, giai
đoạn thứ hai này kết thúc.
Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bắt đầu khoảng những năm 1960, khi có các tiến bộ về hạ
tầng điện tử, máy tính và công nghệ kỹ thuật số trên nền tảng là sự phát triển của chất bán dẫn,
siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet. Kể từ khi làm chủ được các công nghệ này, nhân
loại có thể tự động hóa toàn bộ quy trình sản xuất mà không cần sự trợ giúp của con người.
Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra là bước đánh dấu giai đoạn thứ ba
kết thúc tuy vậy, nó đã làm biến đổi mọi mặt đời sống kinh tế và xã hội toàn cầu, tạo tiền đề
cho sự ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp mới.
Hiện nay, chúng ta đang ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cuộc
cách mạng lần này tập trung vào việc đưa công nghệ kỹ thuật số trước đây lên một cấp độ hoàn
toàn mới với sự trợ giúp của kết nối thông qua Internet vạn vật, truy cập dữ liệu thời gian thực
và giới thiệu các hệ thống vật lý không gian mạng. Nó cho phép các nhà máy thông minh, sản
phẩm thông minh và chuỗi cung ứng cũng thông minh, và làm cho các hệ thống sản xuất và
dịch vụ trở nên linh hoạt và đáp ứng ngày càng nhiều các nhu cầu của nhân loại hơn. Tuy mới
chỉ là giai đoạn đầu của cuộc cách mạng nhưng đã hàng loạt các sản phẩm ra đời phục con
người như: smartphone; laptop; máy tính cá nhân; ... trong tương lai gần có thể kể đến như lOMoAR cPSD| 58707906
smarthome, ... Trong tương lai, cuộc cách mạng lần này dự kiến sẽ còn phát triển mạnh mẽ
hơn nữa và do đó các doanh nghiệp cần sẵn sàng để chuẩn bị cho một sự đổi mình liên tục thể
cập nhật các xu hướng hiện đại sắp tới.
2. Định nghĩa của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Khái niệm “cách mạng công nghiệp lần thứ tư” lần đầu tiên được sử dụng bởi một nhóm nhà
khoa học người Đức đang phát triển một chiến lược kỹ thuật cao cho Chính phủ Đức năm
2011, có thể coi Đức chính là nước khởi nguồn cho cuộc cách mạng này.
Klaus Schwab, chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới, đã giới thiệu khái niệm này cho
nhiều người hơn tại một bài báo năm 2015 được xuất bản tại báo Foreign Affairs. Trong đó,
ông tuyên bố rằng thế giới có nên có sự hiểu biết toàn diện và chia sẻ toàn cầu về cách công
nghệ thay đổi đáng kể xã hội, kinh tế, sinh thái, ngoài ra Schwab cũng xác nhận rằng, trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tác động xã hội của những thay đổi công nghệ đối với
các ngành kinh tế, thị trường lao động, sản xuất và đổi mới được hiểu rõ hơn so với các cuộc
cách mạng công nghiệp trước đây. Trong cuốn “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” ra mắt
một năm sau đó, Klaus Schwab cho rằng kỷ nguyên này được đánh dấu bởi những đột phá
trong những kỹ thuật nổi bật trong những lĩnh vực như công nghệ nano, trí thông minh nhân
tạo AI, Internet vạn vật IoT, bitcoin, blockchain, ....
3. Đặc điểm của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
• Khả năng tương tác: khả năng giao tiếp, tương tác giữa các yếu tố công nghệ như: trí
tuệnhân tạo AI, điện toán đám mây hay Internet vạn vật (IoT) và con người.
• Phân cấp: năng lực lập trình, thiết kế các quy trình tự trị với các yếu tố trí thông minh
nhântạo giúp máy móc có khả năng đưa ra quyết định một cách tự chủ.
• Phân tích thời gian thực: khả năng thu thập và phân tích lượng dữ liệu khổng lồ(Big
Data)cho phép giám sát, kiểm soát và tối ưu hóa các quy trình ngay lập tức và tại mọi thời điểm.
• Ảo hóa: bằng cách thu thập dữ liệu và mô hình hóa các quy trình công nghiệp (vật lý), cóthể
tạo ra một bản sao ảo các mô hình nhà máy hay thậm trí là cả một thế giới ảo.
• Định hướng dịch vụ: mở ra cho những nhà kinh doanh mô hình kinh doanh mới, đột phá
vàcải tiến hơn như datamining , khách hàng sẽ có những cách tiếp cận mô hình dịch vụ mới,
chưa từng xuất hiện như AR
• Tính module và khả năng mở rộng: tính linh hoạt và độ co giãn để thích ứng với nhu cầucủa
ngành công nghiệp và kinh doanh mọi lúc, với khả năng mở rộng năng lực kỹ thuật của hệ
thống theo yêu cầu của sự phát triển của nhu cầu kinh doanh trong từng trường hợp. lOMoAR cPSD| 58707906
PHẦN II: NHẬN DIỆN CÁC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
1. Thực tiễn tình hình đầu tư:
Theo báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2020. Tính đến 20/12/2020, tổng vốn đăng
ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt 28,53 tỷ USD, bằng
75% so với cùng kỳ năm 2019. Vốn thực hiện của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 19,98
tỷ USD, bằng 98% so với cùng kỳ năm 2019. Tính lũy kế đến ngày 20/12/2020, cả nước có 33.070
dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 384 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài ước đạt 231,86 tỷ USD, bằng 60,4% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Do tác động của đại dịch Covid-19, hoạt động sản xuất, kinh doanh bị ảnh hưởng, vốn đầu tư thực
hiện của các dự án ĐTNN trong năm 2020 tuy giảm so với năm 2019 song mức độ giảm đã được
cải thiện (giảm 2% so với năm 2019). Nhiều doanh nghiệp ĐTNN đang dần hồi phục và duy trì tốt
hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng dự án. Điểm nhấn trong năm 2020 là vốn đầu tư điều
chỉnh tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2019. Cùng với việc kiểm soát tốt đại dịch Covid ở Việt
Nam, số dự án cấp mới và điều chỉnh vốn đều tăng lên trong các tháng cuối năm (Số dự án cấp
mới trong Quý IV năm 2020 tăng 9% so với Quý III năm 2020. Số dự án điều chỉnh vốn cũng tăng
lần lượt 26%, 18% và 45% so với các Quý III, Quý II và Quý I năm 2020). Xét trong bối cảnh đầu
tư toàn cầu suy giảm rất mạnh do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 thì kết quả này tốt hơn nhiều
quốc gia khác, thể hiện sức hấp dẫn của Việt Nam trong mắt giới đầu tư quốc tế.
Tình hình giải ngân vốn: theo báo cáo của Bộ Tài chính, tình hình thực hiện giải ngân 8 tháng năm
2021 đạt 183.320 tỷ đồng, đạt 39,74% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao là 461.300 tỷ đồng. Dự
kiến giải ngân đến 30/9/2021 là 218.550 tỷ đồng, đạt 47,38% kế hoạch; trong đó, vốn trong nước
đạt 51,74%, vốn nước ngoài đạt 12,69%. Do vậy, tỷ lệ giải ngân thời gian này là thấp hơn so với cùng kỳ năm 2020.
Tuy nhiên, ước tính 9 tháng năm 2021, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành đạt
1.868,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt
459,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,6% tổng vốn và giảm 4,7% so với cùng kỳ năm trước; khu vực
ngoài Nhà nước đạt 1.100,5 nghìn tỷ đồng, bằng 58,9% và tăng 3,9%; khu vực có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài đạt 308,1 nghìn tỷ đồng, bằng 16,5% và giảm 3,4%. Có thể thấy đây cũng là con
số ấn tượng trong thời buổi các nước đều hứng chịu ảnh hưởng của dịch.
1.1 Thực tiễn các thị trường đầu tư tiêu biểu
1.1.1 Thị trường Fintech
“Fintech” là một thuật ngữ được đặt ra từ hai thuật ngữ riêng biệt: “Financial" và
“Technology", thường được sử dụng để mô tả quá trình áp dụng các công nghệ mới để tự động
hóa nguồn ứng dụng và sử dụng các dịch vụ tài chính giúp nâng cao hiệu quả của các giao
dịch tài chính. Ngày nay, với sự bùng nổ của công nghệ mới dưới tác động của cách mạng lOMoAR cPSD| 58707906
công nghiệp 4.0, thuật ngữ Fintech đã ngày càng được phổ biến hơn trong cuộc sống, có thể
kể đến như: cho vay ngang hàng, thanh toán và chuyển khoản tự động, quản lý tài chính cá
nhân, quản lý đầu tư, bảo hiểm, quản lý rủi ro, ... giúp tăng số lượng khách hàng có thể truy
cập các dịch vụ tài chính.
Sự phát triển của Fintech dựa trên nền tảng công nghệ thông tin truyền thông mới đã làm thay
đổi cách sống, làm việc, tiêu thụ và sản xuất hàng hóa dịch vụ của người dân. Góp phần giảm
chi phí, gia tăng sức mạnh về tính toán, loại bỏ các trung gian thanh toán, quy trình kinh doanh
hợp lý và gia tăng tính hiệu quả bằng việc tiếp cức trên thời gian thực. Từ đó dẫn đến sự ra đời
của các dịch vụ tài chính dựa trên các công nghệ tài chính (Fintech) cải thiện hiệu quả của hệ
thống tài chính và đặt sở thích và trải nghiệm của khách là lên đầu là một trong những yếu tố
quan trọng khiến cho công nghệ tài chính được tiếp nhận nhanh và phát triển rộng khắp.
1.1.1.1 Thị trường Fintech trên thế giới
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (APAC) và Châu Mỹ chiếm phần lớn thị phần của thị
trường Fintech toàn cầu, với hơn 40%. Khu vực châu Âu, Trung Đông và châu Phi (EMEA)
chiếm thị phần nhỏ hơn đáng kể, với ít hơn 20% tổng thị phần.
Thị trường Fintech ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương được dự báo sẽ phát triển nhanh
nhất. Các ứng dụng tài chính đang nhanh chóng trở nên phổ biến ở khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương, có hơn 1230 ứng dụng Fintech có sẵn ở khu vực này. Các doanh nghiệp đã chi
244 triệu USD để có được người dùng mới chỉ trong năm 2020 và đã có tổng cộng 2,7 tỷ lượt
cài đặt các ứng dụng Fintech chỉ tính từ quý I năm 2019 đến quý I năm 2021. Tính riêng ba
thị trường Ấn Độ và Indonesia, cùng với Brazil đã chiếm gần một nửa số lượt tải xuống ứng dụng Fintech toàn cầu.
1.1.1.2 Thị trường Fintech trong nước
Xét về số lượng, các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam luôn tăng trưởng
theo từng năm. Nếu năm 2015 cả thị trường chỉ có 39 công ty (con số này lần lượt tăng lên 74
vào năm 2017, và 124 vào năm 2019) thì đến nay, ước tính đã có gần 200 công ty tham gia lOMoAR cPSD| 58707906
hoạt động trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam. Mặc dù phát triển vượt bậc nhưng so sánh
tương quan với các nước trong khu vực như Singapore (hơn 1.150 công ty), Indonesia (hơn
510 công ty), Malaysia (hơn 370 công ty), ... thì con số này vẫn còn khá khiêm tốn.
Tính đến tháng 9/2021, Việt Nam có 41 nhà cung cấp dịch vụ thanh toán được cấp phép, với
5 ví điện tử lớn nhất là: MoMo, Payoo, Moca, ZaloPay và ViettelPay. Mặc dù tỷ trọng các
công ty Fintech hoạt động trong lĩnh vực thanh toán đã giảm so với toàn thị trường nhưng với
việc chiếm tới 31% trên tổng số lượng doanh nghiệp hiện có, đây vẫn được coi là lĩnh vực chủ
đạo. Bên cạnh đó, các dịch vụ như quản lý tài sản, tài chính cá nhân, đầu tư, bảo hiểm … cũng
đã có những doanh nghiệp xuất hiện, đi vào hoạt động và được đánh giá sẽ là động lực tăng
trưởng mới của thị trường. Tuy nhiên ở thời điểm hiện tại, tỉ lệ doanh nghiệp Fintech hoạt
động trong mảng Đầu Tư & Quản Lý Tài Sản chỉ nằm ở mức 7.5%; vừa thể hiện "nguồn cung"
giải pháp công nghệ cho lĩnh vực này vẫn còn đang thiếu hụt, vừa là cơ hội để nhiều Startup nhập cuộc. lOMoAR cPSD| 58707906
Năm 2019 đến 2021, với diễn biến xấu của đại dịch COVID - 19, người dân hạn chế ra ngoài
từ đó việc mua sắm online trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Dựa vào thói quen mua sắm này,
các công ty Fintech kết nối với hệ thống sàn thương mại điện tử hỗ trợ thanh toán không tiền
mặt. Khách hàng chỉ cần qua ứng dụng: Zalo Pay, MoMo, ... để thanh toán trực tuyến cho cửa
hàng, chủ động và linh hoạt hơn rất nhiều. Từ đó, thúc đẩy thói quen sử dụng ứng dụng Fintech
của đông đảo người dùng. Nhờ vào bàn đạp từ thúc đẩy thói quen khách hàng, mặc cho sự tàn
phá của đại dịch COVID – 19, các công ty Fintech với những thế mạnh riêng vẫn đang phát
triển vượt trội: công ty cũ mở rộng được thị trường, các công ty khởi nghiệp tiếp tục tăng lên
với đa dạng dịch vụ: thanh toán, đầu tư, cho vay, nạp thẻ điện thoại, …
Theo báo cáo của IDC Financial Insights về lĩnh vực Fintech ở khu vực châu Á – Thái Bình
Dương, Việt Nam có 5 đại diện trong nhóm Fintech Fast 101 (101 công ty Fintech có tốc độ
tăng trưởng tốt nhất trong năm 2020) gồm Payoo, Momo, Moca, Tima và ZaloPay. Bốn trong
số năm công ty này sở hữu ví điện tử, trong đó Moca, Momo và ZaloPay chiếm tới 90% thị
phần ví điện tử tại thị trường Việt Nam.
1.1.1.3. Các lĩnh vực ứng dụng Fintech
Đóng vai trò là xu hướng tất yếu trong lĩnh vực tài chính, sự bùng nổ của Fintech đem lại nhiều
cơ hội cho các nhà đầu tư Việt ở cả hiện tại lẫn tương lai với những tiềm năng to lớn trong việc
tối ưu hóa phương thức đầu tư và đa dạng hóa các ngành đầu tư. 1.1.1.3.1. Insurtech lOMoAR cPSD| 58707906
Insurtech là một thuật ngữ được xây dựng nên bởi hai yếu tố: “Insurance” và “Technology”.
Từ khoảng năm 2016, với sự phát triển mạnh mẽ của Fintech, “Insurtech” lần đầu tiên được
đề cập tới và trở nên phổ biến ở Mỹ khi xuất hiện tại các hội thảo về công nghệ bảo hiểm.
Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, xu hướng chuyển đổi số được đẩy nhanh hơn
bao giờ hết trước những thách thức chưa từng có. Năm 2020, số tiền đầu tư vào Insurtech trên
toàn cầu lên tới 7,5 tỷ USD.
Tại Việt Nam, theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, tổng phí bảo hiểm các công ty bảo hiểm thu
trong năm 2020 đạt 160.000 tỷ đồng, tăng 20,5% so với cùng kỳ. Những năm sắp tới, thị
trường bảo hiểm được dự báo tiếp tục tăng trưởng mạnh và Insurtech sẽ bùng nổ vì chưa tới
10% dân số có bảo hiểm nhân thọ. Hiện nay, bên cạnh sự thâm nhập của các doanh nghiệp
nước ngoài, sự xuất hiện của các Startup InsurTech tại Việt Nam như INSO, SaveMoney,
MIIN, Papaya,... cho thấy tiềm năng đầu tư mạnh mẽ của lĩnh vực này.
1.1.1.3.2. Tiền kỹ thuật số
Hoạt động dựa trên nền tảng các thuật toán điện tử , tiền kỹ thuật số là loại đơn vị tiền tệ ở
dạng kỹ thuật số, cho phép các giao dịch được thực hiện một cách tức thời qua hệ thống
smartphone, máy tính và các thẻ thanh toán điện tử. Tiền kỹ thuật số đang dần được thử nghiệm
tại một số quốc gia như Trung Quốc, Campuchia,... với mục tiêu thay thế đồng tiền giấy truyền thống.
Tiền điện tử, tiền kỹ thuật số đang ngày càng tạo sức hút ngày càng mạnh mẽ trên toàn thế giới
cũng như ở Việt Nam. Theo thống kê, bên cạnh Bitcoin và những đồng tiền mã hóa truyền
thông tiêu biểu, thị trường hiện nay còn có hơn 5000 loại tiền mã hóa khác đang được lưu hành
dưới các hình thức khác nhau. Không đứng ngoài xu hướng phát triển chung của thế giới, mới
đây Chính phủ đã giao NHNN chủ trì nghiên cứu, xây dựng và thí điểm sử dụng tiền điện tử
dựa trên công nghệ blockchain trong giai đoạn 2021-2023. Đây được coi là một bước tiến lớn,
bắt nhịp với xu hướng nghiên cứu, phát triển và thí điểm CBDC đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu. 1.1.1.3.3. RegTech
Được viết tắt bởi cụm từ “Regulatory Technology”, thuật ngữ “Regtech” ra đời cùng với sự
phát triển của các giải pháp công nghệ mang trong mình sứ mệnh cải thiện tính minh bạch,
hiệu quả cũng như năng suất của hầu hết các dịch vụ tài chính (ngân hàng, nhà cung cấp bảo hiểm, v.v.).
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, sự tăng trưởng dự kiến của lĩnh vực này song song với
bối cảnh fintech đang bùng nổ trong khu vực, đặc biệt là ở Đông Nam Á, nơi chứng kiến các
khoản đầu tư trị giá 1 tỷ đô la Mỹ vào năm 2019 theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới. Tại
Hồng Kông, Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông (HKMA) đã mở rộng sáng kiến Banking Made Easy
để tạo điều kiện cho các phát triển Regtech tập trung vào các công nghệ giám sát chống rửa
tiền (AML) và chống tài trợ khủng bố (CTF) nhằm quản lý rủi ro an toàn và tuân thủ và nghiên cứu về các quy định. lOMoAR cPSD| 58707906
Tại Việt Nam tiêu biểu phải kể đến là Nexus Frontier Tech thành lập năm 2015 - một công ty
ứng dụng RegTech, tuyên bố vừa kêu gọi thành công 3,8 triệu USD cho thúc đẩy nghiên cứu,
phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh toàn cầu. Ngày 28/10/2021, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam phối hợp với Cơ quan Xúc tiến thương mại và đầu tư (Ireland) tổ chức Tọa đàm:
“Kinh nghiệm triển khai RegTech (công nghệ quy định - là một công nghệ mới sử dụng công
nghệ thông tin để tăng cường các quy trình quản lý), SupTech (công nghệ giám sát) và các
khuyến nghị đối với Việt Nam”. 1.1.1.3.4. Ví điện tử
Ví điện tử được xem là giải pháp số trong công cuộc thay đổi thói quen dùng tiền mặt trong
chi tiêu tài chính hiện nay. Vậy ví điện tử là gì? Ví điện tử hay còn gọi là ví tiền online có tính
năng thanh toán trực tuyến các hoá đơn, dịch vụ phổ biến hiện nay qua số điện thoại một cách
nhanh chóng, tiện lợi và tiết kiệm. Để sử dụng ví điện tử, ta phải liên kết ví với tài khoản ngân
hàng sau đó nạp tiền và thực hiện thanh toán các giao dịch.
Theo Công ty Juniper Research đưa ra trong báo cáo nghiên cứu mới đây tổng số người dùng
ví điện tử ở Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam sẽ tăng trưởng
311% lên gần 400 triệu người vào năm 2025. Điều này cũng là dấu hiệu phản ánh sự bùng nổ
thương mại điện tử mạnh mẽ ở khu vực.
Tại Việt Nam, số liệu mới nhất của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, trong những tháng đầu năm
2021 có hơn 200 triệu giao dịch được thực hiện thông qua ví điện tử, với giá trị khoảng 77,7
nghìn tỷ đồng. Thực tế cũng cho thấy, trong những năm vừa qua, tại thị trường Việt Nam, các
công ty công nghệ tài chính (Fintech) đã cạnh tranh quyết liệt giành thị phần béo bở này khi
cho ra mắt hàng loạt các loại ví điện tử có thương hiệu như Momo, Samsung Pay, VTC Pay,
Bankplus, Payoo, ZaloPay, 1Pay, Bảo Kim, Vimo, Mobivi, eDong, Ví FPT, eMonkey, Pay365,
TopPay, Ngân Lượng, AirPay,…
1.1.1.3.5. Giải pháp cho vay ngang hàng P2P
Cho vay ngang hàng (tiếng Anh là Peer-to-peer Lending, viết tắt là P2P Lending hoặc cho vay
P2P), là mô hình kết nối trực tiếp giữa người có vốn và người cần vốn thông qua nền tảng trực tuyến.
Trên thế giới, với tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm là 17,8%, giá trị giao dịch toàn cầu của thị
trường cho vay ngang hàng được dự đoán sẽ đạt mức 290 tỷ USD vào năm 2023. Số lượng
tăng trưởng kép hằng năm của khoản vay toàn cầu cũng đạt 8,2%, dự đoán sẽ đạt 51 triệu khoản vay vào năm 2023.
Tại Việt Nam, với lượng người dân không được tiếp cận với các dịch vụ tài chính chính thức
khá cao (khoảng 79% theo số liệu từ Ngân hàng Thế giới), trong khi tỷ lệ sử dụng internet và
Smartphone gia tăng cùng với thu nhập và tiêu dùng gia tăng đã thúc đẩy tốc độ phát triển của
thị trường P2P. NHNN đang phối hợp với các bộ, ngành hoàn thiện Báo cáo cơ chế thí điểm
hoạt động cho vay ngang hàng để trình Chính phủ, dự kiến đưa lĩnh vực cho vay ngang hàng
vào Đề án cơ chế quản lý thử nghiệm hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng (Regulatory Sandbox). lOMoAR cPSD| 58707906 1.1.2 Agritech
Agritech ( Agricultural Technology) là những sản phẩm của công nghệ được sử dụng nhằm
nâng cao hiệu quả về năng suất, chất lượng, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội và
đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp. Ngày nay ứng dụng của công nghệ
4.0 đã được tích hợp trong cách lĩnh vực: công nghiệp hóa nông nghiệp (cơ giới hóa các khâu
của quá trình sản xuất, thu hoạch, sơ chế, chế biến...), tự động hóa, công nghệ thông tin, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học; các giống cây trồng, vật nuôi năng suất, chất lượng
cao...; các quy trình canh tác tiên tiến, canh tác hữu cơ ... cho hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị sản xuất.
1.1.2.1. Thị trường Agritech nước ngoài
Ngày nay, những nền nông nghiệp lớn nhất thế giới luôn đi kèm với công nghệ nông nghiệp
phát triển vượt bậc, hoàn toàn không phụ thuộc vào diện tích tự nhiên của đất nước đó lớn hay
nhỏ. Trong số các gia tăng về trồng trọt toàn cầu dự kiến vào năm 2030, 87% dự kiến đến từ
tăng năng suất, trong khi 6% đến từ việc mở rộng sử dụng đất và 7% do tăng thâm canh. Tương
tự, một phần lớn mở rộng về chăn nuôi và thủy sản được kỳ vọng là do tăng năng suất. Tuy
nhiên, việc mở rộng đàn gia súc cũng được cho là sẽ góp phần đáng kể vào tăng trưởng sản
xuất chăn nuôi ở các nền kinh tế mới nổi và các nước có thu nhập thấp Ví dụ: Mỹ là một trong
những nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới. Tuy chỉ có 0.7% lực lượng lao động
trong ngành và chiếm 1% GDP. Mấu chốt ở chỗ nông dân Mỹ làm nông nghiệp như các nhà
khoa học làm nghiên cứu - chia lô thử nghiệm giống, thử nghiệm phân bón, lên công thức
chính xác cho tưới tiêu, áp dụng máy móc hiện đại - hệ thống tưới tiêu, máy bay bón phân …
Hiện nay, các nước chú trọng vào phát triển nông nghiệp sử dụng công nghệ cao. Covid 19
cũng chính là 1 lý do để các nước nhìn nhận vai trò của sản xuất nông nghiệp. Ở Châu Á, nông
nghiệp Thái Lan thu hút khoảng 40% lực lượng lao động và đóng góp gần 10% GDP. Năm
2015, đầu tư cho công nghệ thông tin đã chiếm 7% GDP của Thái Lan.
1.1.2.2. Thị trường Agritech trong nước.
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, trong những năm gần đây, nông nghiệp Việt Nam có bước
phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu đáng kể về năng suất, sản lượng, đa dạng sản
phẩm và quy mô sản xuất đã tạo ra khối lượng sản phẩm khá lớn đảm bảo tiêu dùng trong
nước và phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên, ở nước ta vấn đề về ô nhiễm môi trường, ngộ độc thực
phẩm, suy giảm đa dạng sinh học, bùng phát sâu bệnh, dịch bệnh... vẫn là xuất hiện ở nhiều
nơi. Do đó, chỉ có sản xuất hữu cơ hay sản xuất theo VietGAP mới có thể khắc phục những hạn chế trên.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) nhân định xu hướng chuyển đổi từ nền
nông nghiệp hóa chất sang nền nông nghiệp hữu cơ (Nông nghiệp xanh) là xu hướng tất yếu
trước nhu cầu sử dụng thực phẩm sạch của người tiêu dùng hiện nay. Mặc dù đi sau so với
nhiều quốc gia trên thế giới về các sản phẩm hữu cơ nhưng sự nỗ lực của nhiều doanh nghiệp
cũng như nông dân, đã đưa Việt Nam vào danh sách 170 quốc gia tham gia sản xuất sản phẩm
nông nghiệp hữu cơ. Đến thời điểm này, nhiều loại sản phẩm cây trồng hữu cơ đã chính thức lOMoAR cPSD| 58707906
đặt chân đến nhiều thị trường thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc… như gạo Hoa
Sữa của Công ty Viễn Phú Organic & Healthy Food (Cà Mau); lúa gạo với thương hiệu Tâm
Việt của nông dân 9x Võ Văn Tiếng ở tỉnh Đồng Tháp.
Đến nay, hệ thống DN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã hình thành với trên
50 nghìn DN, bao gồm sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, vật tư nông nghiệp, nông sản, các
dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp, trong đó, khoảng 10.200 DN trực tiếp đầu tư phát triển
sản xuất nông, lâm, thủy sản. Tuy vậy, nhiều chuyên gia kinh tế lưu ý, số DN đầu tư trong lĩnh
vực nông nghiệp hiện chỉ chiếm 8% tổng số DN trên cả nước và 96% trong số này là DN nhỏ và
siêu nhỏ. Điều đó cho thấy, cộng đồng DN chưa mặn mà đầu tư vào lĩnh vực trọng yếu của đất
nước. Thế nhưng trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản tăng 2,68%, đóng góp 13,5% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu
vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,98%, đóng góp 53%; khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp
33,5%.-> Đầu tư đối với ngành còn thấp so với những gì nó đóng góp cho GDP.
1.1.3. Thị trường Edtech
EdTech (Education Technology) là ứng dụng công nghệ ngành giáo dục. Nó bao gồm tất cả
các khía cạnh khác nhau của giáo dục từ việc dạy và học, quản lý giáo dục, truyền thông giáo
dục. EdTech cực kỳ phát triển trong vài năm trở lại đây, nó xuất hiện như mở ra một cuộc cách
mạng về dạy và học, trở thành một xu thế phát triển tất yếu của thời đại. Sự phát triển của các
phần mềm đã giải phóng các giáo viên khỏi công việc đứng lớp truyền thống để chuyển sang
vai trò là những người hướng dẫn và đồng hành cùng mỗi học viên, học sinh. Vì sự an toàn,
người dân có xu hướng chuyển sang học trực tuyến trong Covid-19. Báo cáo của Do Ventures,
một quỹ đầu tư mạo hiểm tập trung vào lĩnh vực công nghệ tại Việt Nam và Đông Nam Á, cho
rằng Việt Nam là điểm đầu tư hấp dẫn nhất trong khu vực, và thời gian tới, các nhà đầu tư sẽ
tập trung vào ba lĩnh vực chính là giáo dục, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ tài chính.
1.1.3.1. Thị trường EdTech trên thế giới
Đầu tư cho ngành công nghệ giáo dục toàn cầu năm 2015 ước tính chỉ đạt khoảng 45 tỷ GBP.
Nhưng đến năm 2020, do ảnh hưởng dịch Covid-19 cùng sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị
trường công nghệ giáo dục trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, con số này đã tăng vọt lên 129 tỷ GBP. lOMoAR cPSD| 58707906
So với thế giới, Châu Á hiện nay đang là thị trường tiềm năng nhất của lĩnh vực Edtech với
tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Bên cạnh Trung Quốc và Ấn Độ, Đông Nam Á cũng là một khu
vực sở hữu những yếu tố thuận lợi thúc đẩy ngành Edtech phát triển, chẳng hạn như: dân số
trẻ, tốc độ phát triển kinh tế cao, nhiều quốc gia trong khu vực có đến hàng tỷ người sử dụng
smartphone, khả năng kết nối với Internet lớn và mức lương cạnh tranh. Theo Tech Crunch,
đến năm 2020, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sẽ chiếm 54% thị trường EdTech. Đây là
minh chứng cho sự phát triển và lan rộng của xu hướng giáo dục trên toàn cầu hiện nay: Sự
phát triển của công nghệ đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của ngành giáo dục, giúp nâng
cao hiệu quả giảng dạy, mang lại trải nghiệm mới cho cả giáo viên, học sinh. Giá trị của các
startup về EdTech (công ty công nghệ chuyên về giáo dục) toàn cầu cũng được ước tính hơn
190 tỷ USD vào năm 2018 và dự kiến vượt 300 tỷ USD vào năm 2025.
1.1.3.2. Thị trường EdTech trong nước
Theo Công ty Tư vấn Quản lý OCD, hiện nay lĩnh vực Edtech tại Việt Nam là một trong những
lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài đang “xếp hàng” để chờ cơ hội gia nhập thị trường.
Các chuyên gia tại OCD dẫn báo cáo từ tổ chức Ken Research dự báo, quy mô thị trường giáo
dục trực tuyến của Việt Nam sẽ đạt 3 tỷ USD vào năm 2023 với tốc độ tăng trưởng kép hàng
năm (CAGR) đạt khoảng 20,2% trong giai đoạn 2019 – 2023. Việt Nam cũng thuộc top 10 thị
trường có mức tăng trưởng E-learning lớn nhất thế giới trong năm 2019 (44,3%), trở thành thị
trường hấp dẫn đối với các startup và các nhà đầu tư.
Theo những báo cáo của Do Ventures, lĩnh vực Edtech hiện nay là lĩnh vực đang được đầu tư
nhiều thứ 3 tại Việt Nam. Tổng vốn đầu tư mạo hiểm vào lĩnh vực giai đoạn 2019-2020 này là
103 triệu USD, chỉ xếp sau lĩnh vực thanh toán (462 triệu USD) và bán lẻ (416 triệu USD).
Trong khi đó, một báo cáo của Viện nghiên cứu Topica Founder Việt Nam năm 2016 cũng
nhận định Edtech là lĩnh vực có tổng số tiền đầu tư vào khởi nghiệp cao thứ ba trên cả nước
(20,2 triệu USD), chỉ đứng sau E-commerce (34,7 triệu USD) và Fintech (129,1 triệu USD). lOMoAR cPSD| 58707906
Đến năm 2019, thị trường Edtech Việt Nam đón nhận khoảng 55 triệu USD đầu tư từ nhiều
đơn vị nước ngoài. Trong tương lai phần lớn nguồn tài trợ và đầu tư vào các Edtech startup
Việt được dự đoán sẽ tiếp tục đến từ các nhà đầu tư nước ngoài với mức đầu tư hàng năm dự
kiến tăng trưởng đến 50% nhờ tiềm năng phát triển của thị trường trong nước.
Từ năm 2019 đến 2021, do diễn biến phức tạp khó lường của dịch Covid, Việt Nam đã ghi
nhận gần 80% học sinh học trực tuyến, xếp thứ 17/200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam
là điểm sáng cho việc học sinh dễ dàng tiếp cận với công nghệ của giáo dục. Theo báo cáo
Digital 2020 của We Are Social, Việt Nam là đất nước có tỉ lệ cao sở hữu và sử dụng công
nghệ đang nằm trong top 20 nước có số người sử dụng internet cao nhất thế giới với 49 triệu
người kết nối internet, 55% người Việt sở hữu điện thoại thông minh, 46% người Việt sở hữu
máy tính cá nhân. Theo Google APAC, vào năm 2020 cứ 10 người Việt sẽ có 8 người dùng
điện thoại di động. Đây đều là những điều kiện tất yếu và bắt buộc để Edtech phát triển. 2. Cơ hội:
Tính đến nay, nước ta vẫn là một nước có nền công nghiệp trẻ, lạc hậu với chỉ hơn 60 năm
thành lập nước và 30 năm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. CMCN 4.0 mở ra một cơ hội để
nước ta có thể tiếp cận với công nghệ mới, có thể rút ngắn được khoảng cách kinh tế- xã hội
với các nước phát triển. Từ những thực tế được nhóm em thu thập trong phần trước, có thể rút
ra một số những cơ hội cho ngành đầu tư Việt Nam như sau:
Thứ nhất, với trợ lực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ngành đầu tư là động lực để tạo
ra các ngành sản xuất, dịch vụ mới và thay đổi tư duy sản xuất, phương thức kinh doanh của
các doanh nghiệp trong nước.
Trong giai đoạn 2019-2021, thị trường Việt Nam nhanh chóng đổi mới với sự gia tăng đầu tư
chuyển đổi số của các lĩnh vực truyền thống (như Tài chính - Ngân hàng, Nông nghiệp, Giáo
dục,...), các ngành dịch vụ mới phát triển này sẽ có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế bởi tính
linh hoạt, tiện lợi phù hợp với mọi đối tượng khách hàng. Không chỉ giúp các doanh nghiệp
lớn tối ưu hóa các hoạt động của mình (như BIDV, TP bank với nghiệp vụ phân tích rủi ro
bằng AI) mà còn giúp những nhà đầu tư cá nhân gia tăng danh mục đầu tư của mình một cách
hiệu quả. Từ các tác động như vậy, khu vực đầu tư tư nhân được dự báo sẽ gia tăng, các mặt
đời sống kinh tế- xã hội của nước ta được cải thiện.
Thứ hai, cơ hội có hoạt động đầu tư hiệu quả hơn thông qua cuộc cách mạng về thể chế, thay
đổi mô hình quản lý, mô hình kinh doanh với ứng dụng công nghệ mới.
Hiện nay, dù nhà nước đã có rất nhiều cố gắng trong cải thiện tốc độ xử lý, kiểm soát, phê
duyệt các đơn từ hành chính nhưng nhìn chung hệ thống vẫn còn rườm rà gây khó khăn cho
người dân và doanh nghiệp. Với CMCN 4.0, chính phủ đẩy mạnh phát triển hệ thống “chính
phủ điện tử” với mục tiêu chuyển đổi số tối đa các dịch vụ công, nghiệp vụ hành chính, đề cao
năng suất xử lý, phê duyệt và tiêu giảm chi phí duy trì nhân lực, vật lực của cả nhà nước và lOMoAR cPSD| 58707906
người dân, doanh nghiệp. Về phía nội bộ doanh nghiệp, CMCN 4.0 mang đến sự cải thiện rõ
rệt trong năng suất làm việc, không chỉ là tối đa hóa năng lực sản xuất bằng dây chuyền hiện
đại mà các mô hình quản lý cũng được chuyển đổi sang hệ thống đa chiều, đề cao tính minh
bạch, rõ ràng trong thông tin doanh nghiệp và dễ dàng cho các hoạt động kiểm soát của nhà nước.
Thứ ba, cơ hội để gia tăng hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao sức cạnh tranh thương
mại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội trong nước.
Khi công nghệ phát triển, chi phí cho giao thông và thông tin sẽ giảm xuống, dịch vụ hậu cần
và chuỗi cung ứng sẽ trở nên hiệu quả hơn và các chi phí thương mại sẽ giảm bớt. Điều này
giúp các xí nghiệp và doanh nghiệp bớt ngần ngại hơn khi gia nhập thị trường xuất khẩu hàng hóa. 3. Thách thức:
3.1 Nhận thức và sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp về cuộc cách mạng công nghiệpcòn hạn chế.
Theo số liệu khảo sát của Bộ Công Thương, hiện nay, có 61% DN Việt Nam còn đứng ngoài cuộc
CMCN 4.0 và 21% DN mới bắt đầu có các hoạt động chuẩn bị. Điểm trung bình toàn ngành Công
Thương là 0,53 điểm (so với mức 5 điểm), tương đương với mức sẵn sàng đầu tiên hay là chưa
có sự chuẩn bị nào. 5 ngành có số điểm đánh giá tính sẵn sàng cao nhất là: Dầu khí, sản phẩm
điện tử, sản xuất xe có động cơ, điện, khí đốt, nước và hóa chất. Đáng lưu ý, 3 ngành chủ lực của
ngành Công Thương là: Cơ khí, dệt, may và da giày là những ngành có điểm đánh giá thấp nhất.
Tuy nhiên, trừ các DN ngành Dầu khí có sự bứt phá so với các ngành khác, sự khác biệt giữa các
ngành nêu trên và các ngành còn lại không lớn và cả 17 nhóm ngành ưu tiên khảo sát đều thuộc
nhóm đứng ngoài cuộc CMCN 4.0.
3.2 Rào cản từ chính sách và hành lang pháp lý.
Hoạch định chính sách trước những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là thách
thức phổ biến với hầu hết các quốc gia, không chỉ riêng Việt Nam. Hai yếu tố quan trọng trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần này là internet và công nghệ số cho phép tạo ra những giá trị
số hóa, phương thức giao dịch chưa từng có trong lịch sử (chẳng hạn như quản lý như thế nào
đối với tiền điện tử Bitcoin, dịch vụ vận chuyển Uber…).
Thực tế này cho thấy, chính sách và pháp luật đã không theo kịp với sự phát triển của công
nghệ. Những tài sản “mới” xuất hiện giờ đây không thể được quản lý theo phương thức truyền
thống mà cần có những chính sách và hành lang pháp lý mới. Nếu các khuôn khổ pháp lý
không hoàn thiện và không thể bắt kịp với sự phát triển nhanh của công nghệ số nói riêng và
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nói chung, thì không chỉ ảnh hưởng đến sự sáng tạo và phát lOMoAR cPSD| 58707906
triển của cộng đồng DN mà còn gây ra sự thất thoát, lãng phí, sự “lách luật” tác động tiêu cực
lên những chỉ số chung của nền kinh tế.
3.3 Rào cản về đầu tư cơ sở hạ tầng và ứng dụng công nghệ thông tin.
Trong những năm qua, dù cộng đồng DN đã nỗ lực đầu tư hạ tầng và ứng dụng công nghệ
thông tin vào hoạt động sản xuất kinh doanh, song thực tế vẫn chưa được như kỳ vọng.
Trong những năm qua, dù cộng đồng DN đã nỗ lực đầu tư hạ tầng và ứng dụng công nghệ
thông tin vào hoạt động sản xuất kinh doanh, song thực tế vẫn chưa được như kỳ vọng. Khảo
sát mới đây của Viện Đánh giá khoa học và Định giá công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ)
cho biết, chỉ có 23% số các DN được điều tra có hoạt động đổi mới, cải tiến công nghệ.
Nguyên nhân là do nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, cơ chế tài chính hỗ trợ cho DN vay vốn,
bảo lãnh vốn vay và các hỗ trợ khác chưa tạo điều kiện để Doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
Các tổ chức làm nhiệm vụ môi giới để kết nối giữa nguồn cung và cầu công nghệ còn hạn chế,
lý giải một phần nguyên nhân vì sao các nhà khoa học chưa thuyết phục được nhiều doanh
nghiệp thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.
Cùng với đó, theo khảo sát của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc và Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung Ương, tỷ lệ nhập khẩu công nghệ của Việt Nam hiện chi ở mức 10% (
thấp hơn nhiều so với số trung bình 40% của các nước đang phát triển). Trong đó, nhiều công
nghệ thuộc thập niên 80-90 của thế kỷ trước và 75% máy móc đã hết khấu hao.
Hơn nữa, có thể thấy hạ tầng công nghệ nước ta còn yếu kém, chưa có đủ khả năng để tạo ra
một môi trường số thật sự lành mạnh, hiệu quả, công bằng. Tuy ứng dụng công nghệ 4.0 hứa
hẹn những lợi ích lớn lao trong dài hạn, nhưng trong tầm nhìn ngắn hạn vẫn tồn tại những mặt
trái mà khó có thể khắc phục được.
Một là, nguy cơ bảo mật cá nhân. Trong tương lai, ở thời kỳ cách mạng 4.0 đi sâu vào đời
sống, sẽ xuất hiện những “hệ sinh thái” công nghệ thông tin liên kết tất cả những phương tiện,
những đầu mối dịch vụ xung quanh con người. Ở đó, chỉ với một điểm chạm, bạn có thể dễ
dàng trả các chi phí thông qua phần mềm quản lý sinh hoạt liên kết giữa bạn - ngân hàng nơi
cung cấp dịch vụ (trường học, siêu thị,..vv). Vì thế thông tin cá nhân dùng để nhận diện cho
các tài khoản xã hội ( tài khoản ngân hàng, tài khoản app,..)sẽ ngày càng giá trị hơn. Nếu
những thông tin đó bị đánh cắp hoặc bị tiết lộ bởi một thế lực nào đó thì sẽ làm xáo trộn cuộc
sống, có thể bạn sẽ bị trộm rút mất khoản tiền dành dụm trong tài khoản, hay một kẻ lạ mặt
bỗng dưng gọi điện đến và uy hiếp bạn bằng những thông tin riêng tư từ tài khoản cá nhân,..vv.
Hai là, nguy cơ bị hacker can thiệp vào hệ thống sản xuất, điều hành của DN. Cách mạng công
nghiệp 4.0 sử dụng công nghệ để kết nối mọi thứ, đây cũng chính là điểm yếu dễ bị khai thác
nhất. Các hacker có thể tấn công vào phần mềm, mạng lưới quản lý để can thiệp vào hệ thống lOMoAR cPSD| 58707906
sản xuất. Thậm chí chúng có thể chiếm quyền điều khiển cả hệ thống công ty, doanh nghiệp
gây thiệt hại lớn về kinh tế.
3.4. Rào cản về chất lượng nguồn nhân lực:
Ở Việt Nam, từ trước đến nay, nền kinh tế vẫn dựa nhiều vào các ngành sử dụng lao động giá
rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên, trình độ của người lao động nói riêng và của cả nền
kinh tế nước ta nói chung còn thấp.
Theo ước tính của Tổ chức Lao động quốc tế, có đến 86% số lao động trong các ngành dệt
may và giày dép của Việt Nam có nguy cơ cao mất việc làm trong vòng 15 năm tới. Bên cạnh
việc mất dần những ngành nghề truyền thống sử dụng nhiều lao động, cuộc CMCN 4.0 cũng
xuất hiện nhiều ngành nghề mới, gắn với đặc trưng của cuộc cách mạng này như: ngành điện
tử, viễn thông, số hóa, kỹ thuật viên máy tính, an ninh mạng, in 3D… Trong tương lai, những
lao động bị mất việc làm do sự phát triển của robot và công nghệ tự động hóa sẽ dịch chuyển
sang những ngành mới này. Tuy nhiên, không phải dễ dàng khi chuyển đổi ngành nghề, nhất
là những ngành mới đòi hỏi nhiều tri thức.
Yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng cấp thiết, trong khi đó, nguồn nhân lực
chất lượng cao của Việt Nam hiện nay lại thiếu hụt cả về số lượng và kỹ năng tay nghề. CMCN
4.0 là cuộc cách mạng số nhưng nhân lực chất lượng cao trong các ngành công nghệ thông tin,
kỹ thuật máy tính, tự động hóa… của Việt Nam đang còn quá ít. Theo tính toán của các chuyên
gia, nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin tăng thêm 47% mỗi năm, trong khi đó số sinh viên
ngành công nghệ thông tin ra trường lại chỉ tăng 8%/năm. Trong số nhân lực ấy, không phải
tất cả đều có chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Một nghiên cứu mới
đây cho thấy, có tới 72% số sinh viên ngành công nghệ thông tin không có kinh nghiệm thực
hành, 42% số sinh viên thiếu kỹ năng làm việc nhóm. Đây là một trong những thách thức lớn
nhất trong cuộc Cách mạng công nghiêp (CMCN 4.0).̣
3.5. Tác động tiêu cực đến môi trường
Do nhiều dự án FDI đưa vào dây chuyền công nghệ lạc hậu nên có tác động tiêu cực đến môi
trường Việt Nam, điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng đời sống của người
dân, nếu tình trạng không kiểm soát này tiếp tục diễn ra thì sẽ làm dao động niềm tin của người
dân với chính phủ, doanh nghiệp khiến ấn tượng của người dẫn về nguồn vốn FDI trở nên tồi
tệ, bất lợi cho việc phát triển. Tàn phá môi trường chỉ là chuyện trong ngắn hạn, nhưng để hồi
phục phải mất đến hàng thập kỷ, chúng ta phải ý thức rõ ràng về sự phát triển, phải kiểm định
và chọn lọc nguồn vốn FDI “sạch”.
Bên cạnh việc phá hoại môi trường là việc khai thác cạn kiệt tài nguyên. Trong thời gian vừa
qua (giai đoạn trải thảm đỏ đón nhà đầu tư), đã có rất nhiều dự án đầu tư khai thác tài nguyên
khoáng sản không tái tạo được một cách bừa bãi thiếu quy hoạch gây ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn lực quốc gia.
3.6 Các DN vẫn hoạt động rời rạc, riêng lẻ chưa đáp ứng được các yêu cầu cho sự phát triển
Hiện mới chỉ có khoảng 300 DN Việt Nam đủ tiêu chuẩn đáp ứng được các tiêu chí về sản
xuất công nghiệp hỗ trợ cho các tập đoàn nước ngoài, còn lại vẫn phải phụ thuộc vào khu vực lOMoAR cPSD| 58707906
FDI. Điều này là rào cản rất lớn cho mục tiêu gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu của nước ta,
bởi với quy mô nhỏ, nguồn lực phân tán thì không thể đáp ứng được các đơn hàng lớn từ các đơn vị quốc tế. 4. Giải pháp:
4.1 Về các vấn đề nhận thức, giáo dục:
- Nâng cao đầu tư cho giáo dục mọi độ tuổi và chú trọng phát triển các nền tảng học tập, đàotạo trực tuyến.
Trước bối cảnh nền kinh tế số biến đổi không ngừng, việc học tập, nâng cao khả năng không
chỉ là vấn đề cấp thiết cua lứa tuổi học sinh mà còn là vấn đề quan trọng đối với người trưởng
thành. Bởi theo như dự đoán, trong tương lai không xa, 70% công việc hiện tại sẽ biến mất, bị
thay thế bởi máy móc, nên người dân phải nhanh chóng tự trang bị cho mình những biện pháp
dự phòng. Các công cụ học tập từ xa, học online đảm bảo chất lượng đào tạo cũng càng ngày
phát triển để trở thành trợ lực tuyệt hảo cho nâng cao kiến thức với chi phí rẻ và quỹ thời gian tối thiểu.
- Tuyên truyền, thông tin, phổ biến để người dân và DN hiểu, nhận thức đúng về cuộcCMCN
4.0 và tự chuẩn bị trước cho tương lai.
Có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về CMCN 4.0 là rất quan trọng với người dân, DN. Chỉ khi
hiểu biết rõ và nhận thức được tác động của nó đến đời sống, người dân và DN mới có thể chủ
động trù bị cho tương lai. Mỗi cá nhân, đơn vị như vậy thì các mặt kinh tế - xã hội đều được phát triển.
4.2 Về các vấn đề khác:
- Điều quan trọng nhất là các ban ngành phải phối hợp chặt chẽ với nhau, vừa thử nghiệmứng
dụng mới, bám sát các bước chuyển của công nghệ vừa kịp thời bổ sung các chính sách, chế
tài, điều luật để bảo đảm các quyền lợi. Và phải học hỏi các kinh nghiệm của nước khác trong
xử lý rủi ro và tránh lặp lại sai lầm của họ.
- Tăng cường đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng bằng các hình thức gọi vốn khác nhau:
hợptác công -tư, gọi vốn FDI,...
- Khuyến khích các dự án NCKH phát triển nguồn lực trong nước. Nhưng lấy thương mạihóa
các sản phẩm sáng chế là trọng tâm trong chương trình đổi mới quốc gia.
- Thành lập các liên minh, liên kết, các tổ chức hợp tác chiến lược giữa các đơn vị
doanhnghiệp cùng ngành trong nước để tập trung các nguồn lực, gia tăng quy mô. Kết hợp với
cơ cấu lại các tổ chức DN định hướng chuyên môn hóa cao các hoạt động sản xuất để tăng
năng lực cạnh tranh với các nước khác trong ngành công nghiệp chế tạo, chế biến. lOMoAR cPSD| 58707906
- Đưa ra các tiêu chuẩn kiểm định quản lý & vận hành dự án mới, chặt chẽ, nghiêm khắc
hơnđể đảm bảo phát triển bền vững.
PHẦN III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Bài học kinh nghiệm từ Singapore
1.1 Các thành tựu của Singapore
Chỉ tính riêng nửa đầu năm 2020, Singapore đã thu hút được khoảng 14,3 tỷ SGD các nguồn
đầu tư vào tài sản cố định – tương đương với 95% tổng lượng đầu tư cam kết cho cả năm 2019.
Con số 15,2 tỷ SGD Singapore đã thu hút được trong năm 2019 là mức cao nhất trong 7 năm qua.
Phó Chủ tịch điều hành của Ủy ban Phát triển Kinh tế Singapore Kiran Kumar cho rằng nhờ
có môi trường kinh doanh thân thiện, tuân thủ chặt chẽ pháp luật và có sự liên kết sâu rộng,
Singapore tiếp tục là địa điểm để nhiều công ty nước ngoài gia tăng đầu tư và hoạt động. Một
số các công ty tuyên bố sẽ đầu tư vào Singapore trong năm nay gồm Paypal, Rakuten, Kajima,
Johnson Controls, Twitter và Zoom. Công ty công nghệ bảo hiểm Descartes Underwriting có
trụ sở tại Pháp cũng đang lên kế hoạch mở văn phòng tại Singapore, sau khi đã kêu gọi được
khoản góp vốn trị giá 25,3 triệu SGD.
1.2. Các chính sách của Singapore
Thứ nhất, không phân biệt đối xử với đầu tư nước ngoài: Thay vì ban hành một luật riêng, hoạt
động đầu tư ở Singapore được điều chỉnh bởi các luật chung, chẳng hạn như luật chung về hợp
đồng, luật công ty và các luật cụ thể theo ngành. Nhìn chung, không có sự phân biệt đối xử
giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt được quy
định bởi luật cụ thể. Singapore cũng đưa ra một loạt sáng kiến khuyến khích đầu tư đối với tất
cả các nhà đầu tư, không chỉ riêng đầu tư nước ngoài. Ví dụ, Chương 10 của Luật Khuyến
khích mở rộng kinh tế cho phép khấu trừ thuế đối với chi tiêu vốn trong dự án được phê duyệt.
Ưu đãi này, bao gồm việc chỉ định các khoản đầu tư như các dự án được phê duyệt, do Hội
đồng Phát triển kinh tế (EDB) quản lý và dành cho các công ty trong và ngoài nước.
Thứ hai, bộ máy hành chính giải quyết việc cực kì nhanh chóng: Những năm qua, Singapore
nổi tiếng với bộ máy hành chính hoạt động rất trơn tru, nhanh chóng, với sự cộng tác hiệu quả
giữa các các cơ quan hữu quan để giúp doanh nghiệp hoạt động và phát triển dễ dàng. Các thủ
tục đăng ký hoạt động rất rõ ràng và nhất quán, cũng như cơ chế thuế ưu đãi và liên danh hiệu
quả cùng việc cho phép sở hữu nước ngoài 100%. Không chỉ có vậy, chính phủ Singapore còn
tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng về thị thực nhập cảnh và cư trú cho người nước ngoài muốn
hoạt động kinh doanh tại Singapore. lOMoAR cPSD| 58707906
Thứ ba, hệ thống thuế đơn giản và thân thiện: Một điểm mạnh khác nữa của Singapore chính
là hệ thống thuế, được xem là "đơn giản và thân thiện với nhà đầu tư". Mức thuế doanh nghiệp
cao nhất chỉ là 17%. Đây là mức thuế doanh nghiệp thấp nhất thế giới. Bên cạnh đó, Singapore
đã ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần (DTA) với hơn 70 quốc gia trên thế giới, qua đó
góp phần quan trọng giảm gánh thuế cho doanh nghiệp nước ngoài. Mạng lưới DTA mở rộng,
cùng với thuế tăng vốn và thu nhập cổ tức bằng 0, đã biến Singapore thành nơi hấp dẫn cho
đầu tư kinh doanh thông qua hình thức liên danh.
Thứ tư, hệ thống pháp luật minh bạch, công bằng và vô tư: Hệ thống luật pháp của Singapore
cũng hoạt động rất hiệu quả. Cơ sở pháp lý liên tục được cập nhật và đổi mới để phù hợp với
môi trường văn hóa, kinh tế và thương mại hiện hành. Thừa hưởng hệ thống pháp luật từ Anh
và phát triển thành bản sắc riêng, hệ thống luật pháp của Singapore đến nay được đánh giá cao
nhờ tính hiệu quả và nhất quán. Các doanh nghiệp ở Singapore không phải chứng kiến quá
trình thủ tục pháp lý chậm chạp, làm giảm sút hiệu quả hoạt động kinh doanh.
1.3. Bài học cho Việt Nam
- Cần thực hiện một số cải cách cơ cấu cần thiết về hiệu quả hành chính, quy tắc quản trịdoanh
nghiệp, quy trình pháp lý và cả một đội ngũ lao động trình độ cao trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Đưa ra các biện pháp khuyến khích có hệ thống hơn để thu hút nhân tài nước ngoài vàoViệt
Nam, hoặc có các ưu đãi có mục tiêu để thu hút đầu tư vào các hoạt động cụ thể.
- Thu hút các khoản đầu tư tạo nhiều giá trị gia tăng. Thực tế cho thấy Việt Nam có lẽ
đangđảm nhiệm phần có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu, đó là lắp ráp và
may sản phẩm. Việt Nam phải nghiêm túc xem lại năng lực quốc gia trong lĩnh vực R&D, hậu
cần hay marketing. Điều này đòi hỏi phải rà soát lại hệ thống giáo dục ở nhiều cấp độ.
- Các cơ quan chức năng của Việt Nam có thể tích cực theo đuổi chính sách xây dựng cáccụm
công nghiệp. Một thành công tương tự gần đây là cụm công nghiệp lắp ráp tai nghe của Apple
tại tỉnh Bắc Giang. Các công ty lắp ráp đã thu hút các nhà cung cấp linh kiện khác đặt trụ sở
sản xuất gần nhà máy của họ. Cuối cùng, cụm công nghiệp mới chớm nở này có thể thu hút
các nhà sản xuất tai nghe khác đến đây vì có sẵn nguồn nhân lực có tay nghề cao về các bộ phận âm thanh.
- Đòi hỏi sự thay đổi trong tư duy của các doanh nhân và doanh nghiệp. Mọi người hiện
tậptrung quá nhiều vào các "tài sản hữu hình" như nhà máy, nhưng lại không tập trung đủ vào
"tài sản vô hình" như R&D, xây dựng danh tiếng, kiến thức hoặc kỹ năng thiết kế. Việc củng
cố năng lực kinh doanh trong các hạng mục này là thách thức thực sự đối với thế hệ lãnh đạo
doanh nghiệp hiện tại và tương lai.
2. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc
2.1 Các thành tựu của Trung Quốc