những loại hình thức lỗi nào trong luật hình
sự Việt Nam
1.Lỗi cố ý trực tiếp
Lỗi cố ý trực tiếp lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
hội, nhận thức hành vi của mình tính nguy hiểm cho hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó mong muốn hậu quả xảy ra. Như vậy, về
trí, đối với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ, đầy đủ tính nguy
hiểm cho hội của hành vi cũng như thấy trước hậu quả sẽ xảy ra nếu thực
hiện hành vi đó. Đó sự nhận thức các tình tiết khách quan, tạo n tính
nguy hiểm cho hội của hành vi. Việc thấy hậu quả sự dự kiến của người
phạm tội về sự phát triển của nh vi. Đối với c tội phạm cấu thành tội
phạm vật chất, hậu qu của tội phạm dấu hiệu bắt buộc. vậy, sự dự kiến
này thể là dự kiến hậu quả tất nhiên sẽ xảy ra. Trong trường hợp các tội
phạm cấu thành tội phạm hình thức thì vấn đề thấy trước hay không thấy
trước hậu quả không được đặt ra. Nếu hậu qu là tình tiết định khung trong
cấu thành tội phạm tăng nặng thì việc khẳng định người phạm tội phạm lỗi cố
ý trực tiếp cũng phải đòi hỏi người phạm tội thấy trước được hậu quả. Về ý
chí, người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh. Hậu quả được thấy hoàn
toàn phù hợp với mục đích sự mong muốn ban đầu của người phạm tội.
các tội phạm cấu thành tội phạm vật chất thì việc kiểm tra ý chí của người
phạm tội đối với hậu quả đã thấy trước cần thiết để c định người đó
phạm lỗi cố ý trực tiếp. c tội phạm cấu thành tội phạm hình thức thì
hậu quả nguy hiểm cho hội không dấu hiệu bắt buộc nên việc c định ý
chí đối với hậu quả không cần thiết. Muốn xác định người đó phạm lỗi cố ý
trực tiếp ch cần xác định người đó đã nhận thức được tính nguy hiểm cho
hội của hành vi vẫn thực hiện hành vi đó. Nếu hậu quả của tội phạm là
tình tiết định khung trong cấu thành tội phạm hoặc tình tiết tăng nặng thì
việc xác định lỗi cố ý trực tiếp cũng cần xác định ý chí đối với hậu quả đã thấy
trước.
2.Lỗi cố ý gián tiếp
Lỗi cố ý gián tiếp lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
hội nhận thức tính nguy hiểm cho hội của hành vi của mình, thấy trước
hậu quả của hành vi đó thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng ý thức
để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Về trí, người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp
cũng ý thức được tính nguy hiểm cho hội của hành vi, thấy trước được
hậu quả thể xảy ra. Việc xảy ra hậu quả không ý nghĩa gì. Hậu quả xảy
ra hay không người phạm tội vẫn chấp nhận. Về ý chí, người phạm tội không
mong muốn hậu quả nguy hiểm cho hội xảy ra nhưng ý thức bỏ mặc
cho hậu quả đã được thấy trước, do hành vi mình gây ra thể xảy ra. Khi
thực hiện hành vi, người phạm tội nhằm vào một mục đích khác chấp
nhận cả những hậu quả nguy hiểm cho hội do hành vi mình gây ra thể
xảy ra để đạt mục đích mà mình đã đặt ra. Xét sâu hơn về phương diện lý trí,
người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp chỉ tồn tại trường hợp nhận thức được
hậu quả thể xảy ra. Nếu người phạm tội nhận thức được hậu quả tất yếu
sẽ xảy ra thì không thể ý chí để mặc cho hậu quả xảy ra (như lỗi cố ý trực
tiếp). Như vậy, nếu trong khi thực hiện hành vi, người phạm tội không
mong muốn hậu quả xảy ra do hành vi của mình nhưng khi đó trong ý thức
nhận thấy rằng hậu quả tất yếu xảy ra thì đó trường hợp lỗi cố ý trực tiếp.
Dựa vào nhận thức của can phạm thấy trước hậu quả “tất yếu” xảy ra so
với khả năng “có thể” xảy ra tội phạm lỗi cố ý trực tiếp sẽ nguy hiểm
hơn tội phạm lỗi cố ý gián tiếp.
Ngoài ra, trong luận Luật hình sự, một số nhà nghiên cứu còn cách phân
loại lỗi cố ý khác như: cố ý dự mưu cố ý đột xuất, cố ý xác định cố ý
không c định. Nếu giữa việc xuất hiện ý định phạm tội việc thực hiện ý
định đó trong thực tế một khoảng thời gian nhất định thì đó cố ý dự
mưu. Trong khoảng thời gian đó, người phạm tội củng cố quyết m thực hiện
tội phạm, lựa chọn phương pháp, phương tiện thực hiện tội phạm, xây dựng
kế hoạch thực hiện tội phạm…Đối với cố ý đột xuất, chủ thể thực hiện ý định
phạm tội của mình ngay tức khắc hoặc sau một khoản thời gian không đáng
kể, sau khi nảy sinh ý định phạm tội. Cố ý xác định điểm đặc trưng là
người phạm tội sự hiểu biết về lượng chất của thiệt hại do hành vi
phạm tội của mình gây ra. Ngược lại, cố ý không xác định khi người phạm tội
không một hiểu biết mang tính thể, chỉ quan niệm khái quát về
các thuộc tính khách quan của hành vi. Ví dụ, khi dùng chân đá vào bụng
người khác, người thực hiện hành vi nhận thức được thể bằng nh vi của
mình sẽ gây thương tích cho người khác nhưng không nhận thức được mức
độ tổn hại.
3.Lỗi ý quá tự tin
Lỗi ý quá tự tin lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi
của mình thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho hội nhưng cho rằng hậu
quả đó sẽ không xảy ra hoặc thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện
đã y ra hậu quả nguy hiểm cho hội. Về trí, người phạm tội nhận thức
được tính nguy hiểm cho hội của hành vi mình, nhận thức được hậu quả
từ hành vi của mình thể xảy ra, tuy nhiên, họ tin rằng hậu quả nguy hiểm
đó sẽ không xảy ra tương ứng với hành vi h thực hiện (theo nhận thức của
họ). Thực tế, hành vi họ thực hiện nguy hiểm hơn nhiều so với sự nhận
thức của họ về hành vi của chính mình. điểm này, chúng ta dễ dàng thấy
được sự khác nhau giữa lỗi ý quá tự tin với lỗi cố ý gián tiếp. Mặc cả
hai đều trường hợp người phạm tội thấy trước được hậu qu thể xảy ra
nhưng lỗi ý quá tự tin, người phạm tội tin rằng hậu quả sẽ không xảy
ra. Điều đó nghĩa là, sự nhận thức của người phạm tội trong trường hợp
ý quá tự tin không đầy đủ về sự phát sinh hậu quả đó. So với lỗi cố ý
gián tiếp, quá trình t lỗi ý quá tự tin phần giống cả hai đều
nhận thức được tính nguy hiểm cho hội của hành vi của mình nhưng khác
nhau chỗ lỗi ý quá tự tin q trình nhận thức các tình tiết khách
quan chưa đầy đủ nên đã cho rằng hậu quả không xảy ra. Về phương diện ý
chí, người phạm tội không mong muốn hành vi của mình gây ra hậu quả nguy
hiểm cho hội. Sự không mong muốn hậu quả xảy ra thể hiện chỗ người
phạm tội loại trừ kh năng xảy ra hậu quả dựa trên sở sự tự tin vào những
điều kiện khách quan chủ quan nhất định. Những sở đó, theo ý thức
chủ quan của người phạm tội sở nhưng thực tế là những sở
không vững chắc. dụ, một bác biết thuốc đã quá hạn sử dụng thể
nguy hiểm đến tính mạng nhưng vẫn tin vào kinh nghiệm của mình rằng
thuốc quá hạn nhưng vẫn không ảnh hưởng đến sức khoẻ bệnh nhân, do đó
bác đã phát thuốc cho bệnh nhân bệnh nhân đã bị ngộ độc. Xét
phương diện ý chí, trường hợp lỗi ý quá tự tin lỗi cố ý gián tiếp sự
khác nhau. lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội tuy không mong muốn hậu
quả xảy ra nhưng ý thức để mặc cho xảy ra chấp nhận hậu quả đó.
lỗi ý quá tự tin, người phạm tội đã loại trừ khả năng hậu quả sẽ xảy ra
nên đã thực hiện hành vi, nếu họ ý thức được hậu quả thực tế thể xảy ra
thì họ không thực hiện hành vi. Đó yếu tố khiến lỗi cố ý gián tiếp tính
nguy hiểm cao hơn lỗi ý quá tự tin.
4.Lỗi ý do cẩu thả
Lỗi ý do cẩu thả lỗi trong trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả
nguy hiểm cho hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước được kh năng
gây ra hậu quả đó mặc điều kiện khách quan buộc họ phải thấy trước
thể thấy trước hậu quả đó. Đây trường hợp người phạm tội không
thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho hội do hành vi của mình gây ra.
thể xảy ra hai trường hợp người phạm tội không nhận thức trước được
hậu quả. Trường hợp thứ nhất, người phạm tội không nhận thức được mặt
thực tế của hành vi của mình cũng không nhận thức được hậu quả sẽ xảy
ra. dụ, thủ kho đưa nhầm chìa khoá dẫn đến kho bị mất trộm. Trường
hợp th hai, người phạm tội tuy thấy được mặt thực tế của hành vi nhưng
không ý thức được hậu quả sẽ phát sinh từ hành vi. Chẳng hạn, một người
ném cục đá to ra cửa sổ khi đường vắng nhưng không may người đi nên
bị trúng. Dấu hiệu kế tiếp đ xác định lỗi ý do cẩu thả người phạm tội bị
buộc phải thể thấy trước được tính nguy hiểm cho hội của hành vi
mình kh năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho hội của hành vi đó. Điều
này nghĩa là, người phạm tội nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả đó. Hay
nói đúng hơn, trong những điều kiện khách quan chủ quan cụ thể, bất kỳ
một người bình thường nào cũng thể thấy trước được hậu quả người
phạm tội đã không thấy được. Tóm lại, hai dấu hiệu để xác định lỗi ý do
cẩu thả là: - Người phạm tội không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho
hội của hành vi mình; - Người phạm tội phải thấy trước thể thấy
trước hậu quả đó. Như vậy, điểm khác bản giữa lỗi ý do cẩu thả với
các lỗi khác chỗ người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hiểm
cho hội của nh vi mình. vậy, lỗi ý do cẩu thả tính nguy hiểm
thấp nhất trong tất cả các loại lỗi hình sự khác.
5. Một số trường hợp đặc biệt về lỗi
Trường hợp hỗn hợp lỗi: Trường hợp hỗn hợp lỗi trường hợp trong cùng
một cấu thành tội phạm hai loại lỗi (c ý ý) đối với những nh tiết
khách quan khác nhau. Lỗi biểu hiện của mặt chủ quan, lỗi luôn lỗi của
tất cả các tình tiết khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm
bản. Không những lỗi khác nhau đối với cùng các tình tiết khách quan
được tả trong một cấu thành tội phạm bản. Không thể nào trường
hợp cố ý đối với hành vi ý đối với hậu quả, bởi vì trong trường hợp này,
lỗi của người phạm tội lỗi ý quá tự tin hoặc do cẩu thả. Ngược lại,
cũng không thể trường hợp ý đối với hành vi cố ý đối với hậu qu
khi thực hiện hành vi với lỗi ý, người phạm tội không thể nhận thức tính
nguy hiểm cho hội của hành vi thì làm sao thể hình dung được khả
năng gây ra nguy hiểm thấy được tính nguy hiểm xảy ra cho hội. Cấu
thành tội phạm bản chỉ lỗi cố ý hoặc ý. Hỗn hợp lỗi chỉ xảy ra trong
trường hợp cấu thành tội phạm tăng nặng của các tội phạm cố ý với tình
tiết định khung tăng nặng hậu quả nguy hiểm cho hội. dụ, khoản 4
Điều 104 về tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người. Hậu quả “chết
người” tình tiết định khung tăng nặng, hậu quả này do lỗi ý của người
phạm tội, hành vi gây thương tích (tình tiết khách quan quy định trong cấu
thành tội phạm bản) được thực hiện với lỗi cố ý. Cần phân biệt “hỗn hợp
lỗi” với “lỗi hỗn hợp”. Lỗi hỗn hợp trường hợp hành vi gây thiệt hại
nhưng đó kết quả của nhiều bên lỗi, thể lỗi của người phạm tội,
người bị hại hoặc của những người thứ ba. Chẳng hạn, tai nạn giao thông
xảy ra, thể do lỗi của người lái xe, người bị hại bất cẩn, hoặc một người
nào đó gây ra chướng ngại.
Sự kiện bất ngờ: Theo quy định của Điều 11 Bộ luật hình sự thì, “Người thực
hiện hành vi gây hậu qu nguy hại cho hội do sự kiện bất ngờ, tức trong
trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả
của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. Trong sự kiện bất
ngờ, hành vi vẫn gây ra thiệt hại cho hội nhưng người hành vi nguy
hiểm đó không lỗi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự. Người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho hội đây không bị buộc phải thấy trước hoặc
không thể thấy trước hậu qu nguy hiểm cho hội gây ra từ hành vi của
mình. dụ, một người muốn tự tử nên đã đâm đầu vào xe tải, người lái xe
tải ràng không nghĩa vụ phải thấy trước việc mình lái xe trên đường
sẽ gây nguy hiểm cho hội.
Trường hợp sự kiện bất ngờ lỗi ý do cẩu thả những điểm giống nhau
về phương diện ý thức chủ thể đều không thể thấy trước hậu qu nguy
hiểm cho hội của hành vi của mình, về phương diện ý chí, chủ thể cũng
không mong muốn hậu quả nguy hiểm xảy ra. Tuy nhiên, lỗi ý do cẩu thả,
chủ thể nghĩa vụ điều kiện đ thấy trước hậu quả nguy hiểm của
hành vi mình. Trong khi, trường hợp sự kiện bất ngờ thì chủ thể không
nghĩa vụ hoặc không điều kiện để thấy trước hậu quả của hành vi mình.
Cần phân biệt trường hợp sự kiện bất ngờ trường hợp tình thế cấp thiết
(Điều 16 Bộ luật hình sự). Trong tình thế cấp thiết, chủ thể thấy trước được
hậu quả của hành vi mình nhưng không thể không thực hiện hành vi muốn
ngăn chặn một hậu quả khác lớn hơn (sẽ đề cập sau trong bài “Những tình
tiết loại trừ tính nguy hiểm cho hội của hành vi”)

Preview text:

Có những loại hình thức lỗi nào trong luật hình sự Việt Nam 1.Lỗi cố ý trực tiếp
Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Như vậy, về lý
trí, đối với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ, đầy đủ tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi cũng như thấy trước hậu quả sẽ xảy ra nếu thực
hiện hành vi đó. Đó là sự nhận thức các tình tiết khách quan, tạo nên tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Việc thấy hậu quả là sự dự kiến của người
phạm tội về sự phát triển của hành vi. Đối với các tội phạm có cấu thành tội
phạm vật chất, hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc. Vì vậy, sự dự kiến
này có thể là dự kiến hậu quả tất nhiên sẽ xảy ra. Trong trường hợp các tội
phạm có cấu thành tội phạm hình thức thì vấn đề thấy trước hay không thấy
trước hậu quả không được đặt ra. Nếu hậu quả là tình tiết định khung trong
cấu thành tội phạm tăng nặng thì việc khẳng định người phạm tội phạm lỗi cố
ý trực tiếp cũng phải đòi hỏi người phạm tội thấy trước được hậu quả. Về ý
chí, người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh. Hậu quả được thấy hoàn
toàn phù hợp với mục đích và sự mong muốn ban đầu của người phạm tội. Ở
các tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất thì việc kiểm tra ý chí của người
phạm tội đối với hậu quả đã thấy trước là cần thiết để xác định người đó
phạm lỗi cố ý trực tiếp. Ở các tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức thì
hậu quả nguy hiểm cho xã hội không là dấu hiệu bắt buộc nên việc xác định ý
chí đối với hậu quả là không cần thiết. Muốn xác định người đó phạm lỗi cố ý
trực tiếp chỉ cần xác định người đó đã nhận thức được tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi mà vẫn thực hiện hành vi đó. Nếu hậu quả của tội phạm là
tình tiết định khung trong cấu thành tội phạm hoặc là tình tiết tăng nặng thì
việc xác định lỗi cố ý trực tiếp cũng cần xác định ý chí đối với hậu quả đã thấy trước.
2.Lỗi cố ý gián tiếp
Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước
hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng có ý thức
để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Về lý trí, người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp
cũng ý thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thấy trước được
hậu quả có thể xảy ra. Việc xảy ra hậu quả không có ý nghĩa gì. Hậu quả xảy
ra hay không người phạm tội vẫn chấp nhận. Về ý chí, người phạm tội không
mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc
cho hậu quả đã được thấy trước, do hành vi mình gây ra có thể xảy ra. Khi
thực hiện hành vi, người phạm tội nhằm vào một mục đích khác và chấp
nhận cả những hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi mình gây ra có thể
xảy ra để đạt mục đích mà mình đã đặt ra. Xét sâu hơn về phương diện lý trí,
người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp chỉ tồn tại trường hợp nhận thức được
hậu quả có thể xảy ra. Nếu người phạm tội nhận thức được hậu quả tất yếu
sẽ xảy ra thì không thể có ý chí để mặc cho hậu quả xảy ra (như lỗi cố ý trực
tiếp). Như vậy, nếu trong khi thực hiện hành vi, người phạm tội dù không
mong muốn hậu quả xảy ra do hành vi của mình nhưng khi đó trong ý thức
nhận thấy rằng hậu quả tất yếu xảy ra thì đó là trường hợp lỗi cố ý trực tiếp.
Dựa vào nhận thức của can phạm là thấy trước hậu quả “tất yếu” xảy ra so
với khả năng “có thể” xảy ra mà tội phạm có lỗi cố ý trực tiếp sẽ nguy hiểm
hơn tội phạm có lỗi cố ý gián tiếp.
Ngoài ra, trong lý luận Luật hình sự, một số nhà nghiên cứu còn có cách phân
loại lỗi cố ý khác như: cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất, cố ý xác định và cố ý
không xác định. Nếu giữa việc xuất hiện ý định phạm tội và việc thực hiện ý
định đó trong thực tế có một khoảng thời gian nhất định thì đó là cố ý có dự
mưu. Trong khoảng thời gian đó, người phạm tội củng cố quyết tâm thực hiện
tội phạm, lựa chọn phương pháp, phương tiện thực hiện tội phạm, xây dựng
kế hoạch thực hiện tội phạm…Đối với cố ý đột xuất, chủ thể thực hiện ý định
phạm tội của mình ngay tức khắc hoặc sau một khoản thời gian không đáng
kể, sau khi nảy sinh ý định phạm tội. Cố ý xác định có điểm đặc trưng là
người phạm tội có sự hiểu biết về lượng và chất của thiệt hại do hành vi
phạm tội của mình gây ra. Ngược lại, cố ý không xác định khi người phạm tội
không có một hiểu biết mang tính cá thể, mà chỉ có quan niệm khái quát về
các thuộc tính khách quan của hành vi. Ví dụ, khi dùng chân đá vào bụng
người khác, người thực hiện hành vi nhận thức được có thể bằng hành vi của
mình sẽ gây thương tích cho người khác nhưng không nhận thức được mức độ tổn hại.
3.Lỗi vô ý vì quá tự tin
Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi
của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu
quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện và
đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Về lý trí, người phạm tội nhận thức
được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình, nhận thức được hậu quả
từ hành vi của mình có thể xảy ra, tuy nhiên, họ tin rằng hậu quả nguy hiểm
đó sẽ không xảy ra tương ứng với hành vi họ thực hiện (theo nhận thức của
họ). Thực tế, hành vi mà họ thực hiện nguy hiểm hơn nhiều so với sự nhận
thức của họ về hành vi của chính mình. Ở điểm này, chúng ta dễ dàng thấy
được sự khác nhau giữa lỗi vô ý vì quá tự tin với lỗi cố ý gián tiếp. Mặc dù cả
hai đều là trường hợp người phạm tội thấy trước được hậu quả có thể xảy ra
nhưng ở lỗi vô ý vì quá tự tin, người phạm tội tin rằng hậu quả sẽ không xảy
ra. Điều đó có nghĩa là, sự nhận thức của người phạm tội trong trường hợp
vô ý vì quá tự tin không đầy đủ về sự phát sinh hậu quả đó. So với lỗi cố ý
gián tiếp, quá trình lý trí ở lỗi vô ý vì quá tự tin có phần giống vì cả hai đều
nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhưng khác
nhau ở chỗ là lỗi vô ý vì quá tự tin quá trình nhận thức các tình tiết khách
quan chưa đầy đủ nên đã cho rằng hậu quả không xảy ra. Về phương diện ý
chí, người phạm tội không mong muốn hành vi của mình gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội. Sự không mong muốn hậu quả xảy ra thể hiện ở chỗ người
phạm tội loại trừ khả năng xảy ra hậu quả dựa trên cơ sở sự tự tin vào những
điều kiện khách quan và chủ quan nhất định. Những cơ sở đó, theo ý thức
chủ quan của người phạm tội là có cơ sở nhưng thực tế là những cơ sở
không vững chắc. Ví dụ, một bác sĩ biết thuốc đã quá hạn sử dụng có thể
nguy hiểm đến tính mạng nhưng vẫn tin vào kinh nghiệm của mình rằng dù
thuốc quá hạn nhưng vẫn không ảnh hưởng đến sức khoẻ bệnh nhân, do đó
bác sĩ đã phát thuốc cho bệnh nhân và bệnh nhân đã bị ngộ độc. Xét ở
phương diện ý chí, trường hợp lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi cố ý gián tiếp có sự
khác nhau. Ở lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội tuy không mong muốn hậu
quả xảy ra nhưng có ý thức để mặc cho nó xảy ra và chấp nhận hậu quả đó.
Ở lỗi vô ý vì quá tự tin, người phạm tội đã loại trừ khả năng hậu quả sẽ xảy ra
nên đã thực hiện hành vi, nếu họ ý thức được hậu quả thực tế có thể xảy ra
thì họ không thực hiện hành vi. Đó là yếu tố khiến lỗi cố ý gián tiếp có tính
nguy hiểm cao hơn lỗi vô ý vì quá tự tin.
4.Lỗi vô ý do cẩu thả
Lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi trong trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước được khả năng
gây ra hậu quả đó mặc dù điều kiện khách quan buộc họ phải thấy trước và
có thể thấy trước hậu quả đó. Đây là trường hợp mà người phạm tội không
thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra.
Có thể xảy ra hai trường hợp người phạm tội không nhận thức trước được
hậu quả. Trường hợp thứ nhất, người phạm tội không nhận thức được mặt
thực tế của hành vi của mình và cũng không nhận thức được hậu quả sẽ xảy
ra. Ví dụ, thủ kho đưa nhầm chìa khoá và dẫn đến kho bị mất trộm. Trường
hợp thứ hai, người phạm tội tuy thấy được mặt thực tế của hành vi nhưng
không ý thức được hậu quả sẽ phát sinh từ hành vi. Chẳng hạn, một người
ném cục đá to ra cửa sổ khi đường vắng nhưng không may có người đi nên
bị trúng. Dấu hiệu kế tiếp để xác định lỗi vô ý do cẩu thả là người phạm tội bị
buộc phải và có thể thấy trước được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
mình và khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Điều
này có nghĩa là, người phạm tội có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả đó. Hay
nói đúng hơn, trong những điều kiện khách quan và chủ quan cụ thể, bất kỳ
một người bình thường nào cũng có thể thấy trước được hậu quả mà người
phạm tội đã không thấy được. Tóm lại, có hai dấu hiệu để xác định lỗi vô ý do
cẩu thả là: - Người phạm tội không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của hành vi mình; - Người phạm tội phải thấy trước và có thể thấy
trước hậu quả đó. Như vậy, điểm khác cơ bản giữa lỗi vô ý do cẩu thả với
các lỗi khác là ở chỗ người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của hành vi mình. Vì vậy, lỗi vô ý do cẩu thả có tính nguy hiểm
thấp nhất trong tất cả các loại lỗi hình sự khác.
5. Một số trường hợp đặc biệt về lỗi
Trường hợp hỗn hợp lỗi: Trường hợp hỗn hợp lỗi là trường hợp trong cùng
một cấu thành tội phạm có hai loại lỗi (cố ý và vô ý) đối với những tình tiết
khách quan khác nhau. Lỗi là biểu hiện của mặt chủ quan, lỗi luôn là lỗi của
tất cả các tình tiết khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ
bản. Không có những lỗi khác nhau đối với cùng các tình tiết khách quan
được mô tả trong một cấu thành tội phạm cơ bản. Không thể nào có trường
hợp cố ý đối với hành vi mà vô ý đối với hậu quả, bởi vì trong trường hợp này,
lỗi của người phạm tội là lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc do cẩu thả. Ngược lại,
cũng không thể có trường hợp vô ý đối với hành vi mà cố ý đối với hậu quả vì
khi thực hiện hành vi với lỗi vô ý, người phạm tội không thể nhận thức tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi thì làm sao có thể hình dung được khả
năng gây ra nguy hiểm và thấy được tính nguy hiểm xảy ra cho xã hội. Cấu
thành tội phạm cơ bản chỉ có lỗi cố ý hoặc vô ý. Hỗn hợp lỗi chỉ xảy ra trong
trường hợp có cấu thành tội phạm tăng nặng của các tội phạm cố ý với tình
tiết định khung tăng nặng là hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ, khoản 4
Điều 104 về tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người. Hậu quả “chết
người” là tình tiết định khung tăng nặng, hậu quả này do lỗi vô ý của người
phạm tội, và hành vi gây thương tích (tình tiết khách quan quy định trong cấu
thành tội phạm cơ bản) được thực hiện với lỗi cố ý. Cần phân biệt “hỗn hợp
lỗi” với “lỗi hỗn hợp”. Lỗi hỗn hợp là trường hợp có hành vi gây thiệt hại
nhưng đó là kết quả của nhiều bên có lỗi, có thể có lỗi của người phạm tội,
người bị hại hoặc của những người thứ ba. Chẳng hạn, tai nạn giao thông
xảy ra, có thể do lỗi của người lái xe, người bị hại bất cẩn, hoặc có một người
nào đó gây ra chướng ngại.
Sự kiện bất ngờ: Theo quy định của Điều 11 Bộ luật hình sự thì, “Người thực
hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong
trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả
của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. Trong sự kiện bất
ngờ, hành vi vẫn có gây ra thiệt hại cho xã hội nhưng người có hành vi nguy
hiểm đó không có lỗi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự. Người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ở đây không bị buộc phải thấy trước hoặc
không thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội gây ra từ hành vi của
mình. Ví dụ, một người vì muốn tự tử nên đã đâm đầu vào xe tải, người lái xe
tải rõ ràng là không có nghĩa vụ phải thấy trước việc mình lái xe trên đường
sẽ gây nguy hiểm cho xã hội.
Trường hợp sự kiện bất ngờ và lỗi vô ý do cẩu thả có những điểm giống nhau
về phương diện ý thức là chủ thể đều không thể thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội của hành vi của mình, về phương diện ý chí, chủ thể cũng
không mong muốn hậu quả nguy hiểm xảy ra. Tuy nhiên, lỗi vô ý do cẩu thả,
chủ thể có nghĩa vụ và có điều kiện để thấy trước hậu quả nguy hiểm của
hành vi mình. Trong khi, trường hợp sự kiện bất ngờ thì chủ thể không có
nghĩa vụ hoặc không có điều kiện để thấy trước hậu quả của hành vi mình.
Cần phân biệt trường hợp sự kiện bất ngờ và trường hợp tình thế cấp thiết
(Điều 16 Bộ luật hình sự). Trong tình thế cấp thiết, chủ thể thấy trước được
hậu quả của hành vi mình nhưng không thể không thực hiện hành vi vì muốn
ngăn chặn một hậu quả khác lớn hơn (sẽ đề cập sau trong bài “Những tình
tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi”)
Document Outline

  • Có những loại hình thức lỗi nào trong luật hình sự
    • 1.Lỗi cố ý trực tiếp
    • 2.Lỗi cố ý gián tiếp
    • 3.Lỗi vô ý vì quá tự tin
    • 4.Lỗi vô ý do cẩu thả
    • 5. Một số trường hợp đặc biệt về lỗi