












Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58707906   VĂN MINH ẤN ĐỘ  I.  CƠ SỞ HÌNH THÀNH 
1. Vị trí địa lý        lOMoAR cPSD| 58707906  
 Ấn Độ , Có hình một tam giác ngược, là một “tiểu lục địa” nằm ở miền Nam 
châu Á, hai mặt Đông Nam và Tây Nam giáp Ấn Độ Dương. Tây Bắc là vùng 
đồi núi thấp, giáp với Trung Á và Tây Nam Á. 
 Ấn Độ chia làm hai miền Nam, Bắc lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới. Miền Bắc 
Ấn Độ có hai con sông lớn là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). 
Sông Ấn chia làm 5 nhánh, nên đồng bằng lưu vực sông Ấn được gọi là vùng 
Pungiáp (vùng Năm sông). Tên nước Ấn Độ là gọi theo tên con sông này. Sông 
Hằng ở phía Đông được coi là một dòng sông thiêng. Từ xưa nhân dân Ấn Độ 
thường đến khúc sông ở thành phố Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ tắm mang 
tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông này đã bồi đắp thành hai đồng bằng màu mỡ 
ở miền Bắc Ấn Độ, vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh của đất 
nước này. Những đặc điểm nổi bật trên về mặt địa lý đã khiến cho Ấn Độ có một 
điều kiện tự nhiên thiên phú để xây dựng được nét văn minh đặc trưng bản địa 
của riêng mình. Đây là một trong những điều kiện hết sức quan trọng không thể 
không kể đến khi tìm hiểu nghiên cứu về Ấn Độ. Tuy nhiên nếu chỉ có như vậy 
sẽ chưa thấy hết được về mặt tự nhiên của Ấn Độ mà phải kể đến về mặt địa hình 
. Cấu trúc 3 phần phức tạp địa hình từ bắc xuống nam là dãy himalaya, đồng 
bằng Ấn- Hằng và cao nguyên decan.      lOMoAR cPSD| 58707906
o Phía Bắc là dãy Himalaya hùng vĩ án ngữ theo một vòng cung dài 2.600 km, 
trong đó có tới 40 ngọn núi cao trên 7.000m so với mặt biển, biên giới tự nhiên 
giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Theo trí tưởng tưởng của người Ấn Độ cổ thì đây là 
những ‘trụ trời” đã nâng vòm trời lên cho nhân gian sinh sống. 
o Himalaya theo tiếng Sanxkrít, có nghĩa là “nơi cư trú của tuyết” hay “xứ sở của 
tuyết”. Trong trí tưởng tưởng của người Ấn Độ thì Himalaya là nơi tiếp giáp giữa 
cõi trời và trần gian, là nơi trú ngụ và đi về của các thần linh nên nơi đây thường 
là chốn tu hành khổ luyện của những đạo sĩ muốn tĩnh tâm thiền định, chiêm 
nghiệm về bản chất của vũ trụ và nhân sinh, tìm con đường giải thoát cho chúng 
sinh khỏi cảnh lầm than, khổ ải của cuộc đời. 
Ấn Độ ngày nay là một nước có diện tích lớn vào hàng thứ 7 trên thế 
giới (3.280.483 km2) và có số dân đông thứ hai, sau Trung Quốc. Nhìn 
trên bản đồ, Ấn Độ gần như chiếm trọn cả vùng Nam Á. Thời cổ trung 
đại, lãnh thổ của Ấn Độ rộng lớn hơn, bao gồm cả các nước Pakixtan, 
Bănglađét, Nêpan ngày nay.  2. Thời gian 
Từ khi bước vào xã hội có nhà nước cho đến khi bị thực dân anh chinh phục 
lịch sử ấn độ có thể chia thành 4 thời kì lớn 
1) Thời kỳ văn minh lưu vực sông Ấn (từ đầu thiên kỷ III đến giữa thiên  kỷ II TCN):       lOMoAR cPSD| 58707906
còn gọi là thời kỳ văn hoá Haráppa và Môhenjô Đarô (do việc phát  
hiện ra hai thành phố Haráppa và Môhenjô Đarô bị chôn vùi dưới đất  
ở vùng lưu vực sông Ấn). Chủ nhân của nền văn minh này là người 
Đraviđa, qua nghiên cứu các hiện vật tìm được và tìm hiểu cấu trúc của 
hai thành phố này cho thấy: đây là thời kỳ xã hội người Đraviđa đã có  
sự phân hoá giai cấp, nhà nước đã hình thành   
( hình ảnh thành phố harappa cổ ) 
( hình ảnh thành phố harappa cổ )          lOMoAR cPSD| 58707906  
(tượng người đàn ông ngồi suy nghĩ) 
Từ khoảng đầu thiên kỷ III TCN, nhà nước Ấn Độ đã ra đời, nhưng cả giai 
đoạn từ đó cho đến khoảng giữa thiên kỷ II TCN, trước đây chưa được biết 
đến. Mãi đến năm 1920 và 1921,Các nhà khảo cổ đã tìm ra cái nôi đầu 
tiên của Ấn Độ tại lưu vực sông Ấn.nhờ việc phát hiện ra hai thành phố 
Harappa và Môhenjô Đarô cũng rất nhiều hiện vật bị chôn vùi dưới đất có 
niên đại từ 3.000 dến 1.800 trước công nguyên. Nó nằm ở trung tâm sông 
Ấn và các nhánh sông, và mở rộng tới lưu vực sông Ghaggar-Hakra, 
sông Ganges-Yamuna Doab, Gujarat, và phía Bắc Afghanistan 
Nền văn minh này nổi bật với việc xây dựng các thành phố bằng gạch, hệ 
thống cống rãnh thoát nước và những tòa nhà nhiều tầng. Giữa những khu 
định cư là những trung tâm đô thị lớn như Harappavà Mohenjo-daro, cũng 
như Dholavira, Ganweriwala, Lothal, Kalibangavà Rakhigarhi. Có giả 
thuyết cho rằng các xáo trộn địa chất cũng như những thay đổi về khí hậu 
mà hậu quả dẫn đến sự phá rừng chính là nguyên nhân dẫn đến sự suy 
sụp của nền văn minh này. Sự suy thoái của nền văn minh sông Ấn cũng 
bao gồm sự đổ vỡ của xã hội đô thị tại Ấn Độ, cũng như các đặc trưng của 
đô thị như sự sử dụng chữ viết và seals.   
 Những hiện vật khảo cổ học chỉ giúp người ta biết được tình hình 
phát triển của các ngành kinh tế và văn hóa, qua đó có thể suy ra 
đây là thời kỳ đã có nhà nước, chứ chưa biết được lịch sử cụ thể, 
vì vậy người ta gọi thời kỳ này là thời kỳ văn hóa  
Harappa hoặc thời kỳ văn minh lưu vực sông Ấn        lOMoAR cPSD| 58707906    
2) Thời kỳ Vêđa (từ giữa thiên kỷ II đến giữa thiên kỷ I TCN)   
Đây là thời kỳ văn minh Ấn Độ gắn với con sông Hằng và được phản ánh trong 
bộ kinh Veda. Vêđa vốn là những tác phẩm văn học, gồm có 4 tập là: Rich Vêđa, 
Xama Vêđa, Atácva Vêđa và Yagiva Vêđa, trong đó Rich Vêđa được sáng tác vào 
khoảng giữa thiên kỷ II đến cuối thiên kỷ II TCN, còn 3 tập Vêđa khác thì được 
sáng tác vào khoảng đầu thiên kỷ I TCN.        lOMoAR cPSD| 58707906  
Chủ nhân của thời kỳ Vêđa là người Arya (nghĩa là “Người cao quý”) mới di cư từ 
Trung á vào Ấn Độ. Địa bàn sinh sống của họ trong thời kỳ này chủ yếu là vùng lưu 
vực sông Hằng. Trong giai đoạn đầu của thời Vêđa, người Arya đang sống trong giai 
đoạn tan rã của xã hội nguyên thủy đến khoảng cuối thiên kỷ II TCN, họ mới tiến 
vào xã hội có nhà nước. Chính trong thời kỳ này, ở Ấn Độ đã xuất hiện hai vấn đề 
có ảnh hưởng rất quan trọng và lâu dài trong xã hội nước này, đó là chế độ đẳng cấp 
(varna) và đạo Bàlamôn. Vào khoảng những năm 600 TCN trên lãnh thổ Ấn Độ tồn 
tại nhiều quốc gia nhỏ, giữa chúng thường xuyên xảy ra những cuộc chiến tranh xâm 
lược, thâu tóm lẫn nhau. Đến thời kỳ này, còn lại 4 quốc gia lớn là Kashi, Koshala, 
Magadha và Vrijis, trong đó Magadha là quốc gia mạnh nhất.   
3) Ấn Độ từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ XII:   
 Các quốc gia ở miền Bắc Ấn Độ và sự xâm lược của Alêchxăngđrơ 
Makêđônia. Bắt đầu từ thế kỷ VI TCN, Ấn Độ mới có sử sách ghi chép về tình 
hình chính trị của đất nước mình. Lúc bấy giờ ở miền Bắc Ấn Độ có 16 nước, 
trong đó mạnh nhất là nước Magađa hạ lưu sông Hằng.Trong số các nước như 
ở Tây Bắc Ấn Độ, chỉ có nước Po là tương đối lớn. Năm 327 TCN,sau khi tiêu 
diệt Ba Tư, quân đội Makêđônia do Alêchxăngđrơ chỉ huy đã tấn công Ấn 
Độ.Quân đội của nước họ đã chiến đấu rất dũng cảm nhưng cuối cùng bị thất 
bại. Alêchxăngđrơ định tiến sang phía Đông tấn công nước 
Magađa nhưng quân sĩ đã quá mệt mỏi sau một cuộc trường trinh nhiều năm      lOMoAR cPSD| 58707906
nên phải rút lui, chỉ để lại một lực lượng chiếm đóng ở hai cứ điểm đã chiếm  được. 
 Đây là thời kỳ hình thành các quốc gia sơ kỳ. Đây cũng là thời kỳ các 
vương quốc ở Ấn Độ tranh giành quyền bá chủ ở lưu vực sông Hằng, 
trong đó vương quốc Magađa là vương quốc lớn mạnh nhất ở vùng  Bắc Ấn. 
 Ấn Độ từ thế kỷ IV đến thế kỷ II TCN: 
-Vương triều Môrya (321 – 187 TCN) do Sanđra Gúpta, biệt hiệu là Môrya (chim 
công) lập nên sau khi đánh thắng quân Makêđônia, giải phóng đất nước. Đây là 
triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại, đặc biệt giai đoạn cường 
thịnh là thời Asôca (273 – 236 TCN). Đạo Phật trở thành quốc giáo. 
 - Vương triều Môrya (321-187 TCN) 
Ngay sau khi Alêchxăngđrơ rút lui, ở Ấn Độ đã dấy lên phong trào đấu tranh giải 
phóng chống lại sự chiếm đóng của quân Makêđônia. Thủ lĩnh của phong trào này 
là Sanđragupta, biệt hiệu là Môrya (chim công). Quân Makêđônia bị đuổi khỏi Ấn 
Độ, Sanđragupta làm chủ được cả vùng Pungiáp. Tiếp đó, ông tiến quân về phía 
Đông giành được ngôi vua ở Magađa; lập nên một triều đại mới gọi là vương triều 
Môrya, triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại. Đến thời Axôca (273-
236 TCN), vương triều Môrya đạt đến giai đoạn cường thịnh nhất. Đạo Phật ra đời 
từ khoảng thế kỉ V TCN, đến thời kì này được phát triển nhanh chóng và trở thành 
quốc giáo. Sau khi Axôca chết, vương triều Môrya suy sụp nhanh chóng, nước 
Magađa thống nhất dần dần tan rã, đến năm 28 TCN thì diệt vong. Giai đoạn này 
phật trở thành quốc giáo 
* Ấn Độ từ thế kỷ II TCN đến thế kỷ IV sau công nguyên:      Nước Cusan 
Trong khi tình hình chia cắt ở Ấn Độ đang diễn ra trầm trọng thì vào thế kỉ I, 
tộc Cusan (cùng một huyết thống với người Tuốc) từ Trung Á tràn vào chiếm      lOMoAR cPSD| 58707906
được miền Tây Bắc Ấn Độ lập thành một nước tương đối lớn. Vua nước Cusan 
lúc bấy giờ là Canixca (78-123) cũng là một ng ời rất tôn sùng đạoƣ      lOMoAR cPSD| 58707906
Phật nên thời kì này Phật giáo cũng rất hưng thịnh. Sau khi Canixca chết,  
nước Cusan ngày càng suy yếu , lãnh thổ chỉ còn lại vùng Pungiáp và tồn tại 
đến thế kỉ V thì diệt vong. 
 Vương triều Gúp ta ( từ thế kỷ IV đến thế kỷ VI ) : 
   ( Tượng Sandra gupta ở New Delhi 
o Trong thế kỉ III, Ấn Độ lại bị chia cắt trầm trọng. Năm 320, vương 
triều Gupta được thành lập, miền Bắc và một phần miền Trung Ấn 
Độ tạm thời thống nhất một thời gian. Từ năm 500-528, phần lớn 
miền Bắc Ấn Độ bị người Eptalil xâm chiếm và thống trị, đến năm 
535 , triều Gupta diệt vong 
 Đây là thời kỳ xác lập chế độ phong kiến ở Ấn Độ. Giai đoạn này được 
xem là “Thời đại cổ điển” trong lịch sử Ấn Độ. Các phương diện chính 
trị - xã hội và nền văn hóa được định hình, trở thành bản sắc của Ấn Độ . 
 Vương triều Hác sa (thế kỷ VII đến thế kỷ XII) :        lOMoAR cPSD| 58707906
o là thời kỳ tồn tại chế độ phong kiến phân tán ở Ấn Độ . Trong thời 
kỳ này, có một giai đoạn dưới thời trị vì của Hác sa, Ấn Độ trở thành 
một vương quốc tương đối hùng mạnh ở miền Bắc Ấn Độ, đến năm  
648 , khi Hác sa chết, quốc gia do ông dựng lên cũng tan rã theo. 
Từ đó cho đến thế kỷ XII là thời kỳ Ấn Độ liên tiếp ngoại tộc xâm  
chiếm.  Đến năm 1200, toàn bộ miền Bắc Ấn Độ bị nhập vào  Ápganixtan. 
4) Ấn Độ từ thế kỉ XIII - XIX 
 Vương triều Hồi giáo Đêli (1206 – 1526)  ( di sản đỏ ở đelhi )          lOMoAR cPSD| 58707906    
Đây là thời kỳ thống trị của người Hồi giáo. Năm 1206, viên tổng đốc của 
Ápganixtan ở miền Bắc Ấn Độ đã tách miền Bắc Ấn Độ thành một nước riêng 
tự mình làm vua (xuntan), đóng đô ở Đêli, gọi là nước Xuntan Đêli (hay vương 
triều Hồi giáo Đêli). 
Năm 1206, viên Tổng đốc của Ápganixtan ở miền Bắc Ấn Độ đã tách miền Bắc 
Ấn Độ thành một nước riêng tự mình làm Xuntan (vua), đóng đô ở Đêli, gọi là 
nước Xuntan Đêli (vương quốc Hồi giáo Đêli). Từ đó đến năm 1526, ở miền Bắc 
Ấn Độ đã thay đổi đến 5 vương triều, nhưng đều do người ngoại tộc theo Hồi giáo 
thành lập, đồng thời đều đóng đô ở Đêli, nên thời kì này gọi là thời kì Xuntan 
Đêli (hay vương triều Hồi giáo Đêli). 
 Vương triều Môgôn (1526 – 1857)      lOMoAR cPSD| 58707906
 Là thời kỳ Ấn Độ bị Mông Cổ xâm lược và thống trị. Từ giữa thế kỷ XVIII, 
thực dân Anh bắt đầu chinh phục Ấn Độ, đến năm 1849, Ấn Độ hoàn toàn bị 
biến thành thuộc địa của Anh, vương triều Môgôn tồn tại đến năm 1857 thì bị  diệt vong. 
- Thời kì Môgôn (1526-1857) Nước Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn thành lập 
năm 1206. Sau khi Thành Cát Tư Hãn chết (1227), đế quốc Mông Cổ chia thành 
nhiều nước. Dòng dõi của người Mông Cổ ở Trung Á đều Tuốc hóa và đều theo 
đạo Hồi. Từ thế kỉ XIII, người Mông Cổ ở Trung Á nhiều lần tấn công Ấn Độ. 
Năm 1526, họ chiếm được Đêli, thành lập vương triều mới gọi là vương triều   
 Môgôn (Mông Cổ). Từ giữa thế kỉ XVIII, thực dân Anh bắt đầu chinh phục Ấn 
Độ. Đến năm 1849, Ấn Độ hoàn toàn biến thành thuộc địa của Anh, vương triều 
Môgôn đến năm 1857 bị diệt vong