Công ty nhân gì? dụ, đặc điểm công ty
nhân Việt Nam
1. Khái niệm về công ty nhân (doanh nghiệp nhân):
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, "doanh nghiệp" đơn vị kinh doanh được
thành lập nhằm mục đích ch yếu thực hiện các hoạt động kinh doanh của
những chủ sở hữu về một hay nhiều ngành, còn "tư nhân" một nhân hay
thuộc quyền của nhân. Như vậy doanh nghiệp nhân được hiểu một
đơn vị kinh doanh thuộc sở hữu của một nhân hoặc do một nhân thành
lập.
Từ điển Luật học đưa ra định nghĩa về doanh nghiệp nhân như sau:
"Doanh nghiệp nhân đơn vị kinh doanh mực vốn không
tấp hơn mức vốn pháp định, do một nhân làm ch tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động
của doanh nghiệp."
Một số quan điểm cho rằng: Doanh nghiệp nhân doanh nghiệp đại diện
cho sở hữu nhân hay còn gọi kinh tế nhân, theo đó, c doanh nghiệp
không thuộc sở hữu của Nhà nước thì đều thuộc phạm trù doanh nghiệm
nhân (do nhân quản lý, sở hữu định đoạt doanh nghiệp). Đây quan
điểm mang tính chất bao trùm, thực chất quan điểm này đã nhìn nhận, đánh
giá doanh nghiệp nhân chính là kinh tế tư nhân, trong đó bao gồm kinh tế
thể, tiểu chủ kinh tế tư bản nhân.
Một số ý kiến khác lại cho rằng, doanh nghiệp nhân thể hiện việc chủ
doanh nghiệp nhân, không thuộc sở hữu tập thể hay quan nào, theo
đó, doanh nghiệp chỉ được điều hành, quản bởi một nhân. Đây quan
điểm được đánh giá theo việc phân loại về loại hình doanh nghiệp, n cứ
vào c đặc điểm pháp bản của doanh nghiệp.
Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp nhân được quy định lần đầu tiên tại
Điều 2 Luật Doanh nghiệp nhân 1990 như sau:
"Doanh nghiệp nhân đơn vị kinh doanh mức vốn không
thấp hơn vốn pháp định do một nhân m chủ tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của
doanh nghiệp."
Đặc trưng về chủ thể kinh doanh chế độ tài sản của doanh nghiệp nhân
đã được đưa o khái niệm này cũng với đặc điểm về vốn pháp định. thời
điểm này, vốn pháp định được đặt ra với hầu hết c ngành nghề kinh doanh,
doanh nghiệp nhân phải đảm bảo vốn sở hữu của doanh nghiệp không
được thấp hơn số vốn pháp định trong suốt quá trình kinh doanh. Khái niệm
về vốn pháp định không được nhắc đến Luật doanh nghiệp nhân 1990
nhưng đã được quy định tại Luật công ty 1990. Theo đó, vốn pháp định
mức vốn tối thiểu phải để thể thành lập một doanh nghiệp do pháp luật
quy định đối với từng ngành, nghề. Như vậy, vốn pháp định một trong
những điều kiện tiên quyết để thành lập công ty/ doanh nghiệp trong một số
ngành, nghề nhất định, do đó việc đưa đặc điểm về vốn pháp định vào khái
niệm về doanh nghiệp nhân giai đoạn này không cần thiết doanh
nghiệp nhân vốn một loại hình doanh nghiệp, thế đặc điểm về vốn
pháp định đương nhiên.
Theo quan điểm pháp luật hiện hành, Điều 188 Luật doanh nghiệp năm
2020 quy định:
"Doanh nghiệp nhân doanh nghiệp do một nhân làm
chủ tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng
khoán nào.
Mỗi nhân ch được quyền thành lập một doanh nghiệp
nhân. Chủ doanh nghiệp nhân không được đồng thời chủ
hộ kinh doanh, thành viên hợp danh của công ty hợp danh.
Doanh nghiệp nhân không được quyền góp vốn thành lập
hoặc mua cổ phân, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công
ty trách nhiệm hữu hạn hoặc ng ty cổ phần."
Từ những khái niệm được nêu bên trên, thể định nghĩa doanh nghiệp
nhân như sau:
"Doanh nghiệp nhân một loại hình doanh nghiệp không cách
pháp nhân, do một nhân duy nhất làm chủ nhân này phải tự
chịu trách nhiệm bằng toàn b tài sản của mình về mọi hoạt động của
doanh nghiệp."
>> Xem thêm: Chế độ nghỉ phép m công ty nhân theo quy định
mới
2. Đặc điểm doanh nghiệp nhân:
Trước hết phải khẳng định, doanh nghiệp nhân một loại hình doanh
nghiệp thế mang đầy đủ các đặc điểm chung của một doanh nghiệp như:
tên riêng, con dấu riêng được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng
doanh nghiệp, thực hiện hoạt động kinh doanh thường xuyên, liên tục
nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận,... Ngoài ra, doanh nghiệp nhân ng
những đặc điểm riêng để nhận biết, phân biệt, cụ thể là:
2.1. Doanh nghiệp nhân không cách pháp nhân:
Doanh nghiệp nhân không phải pháp nhân. Theo quy định của Luật
doanh nghiệp năm 2020, doanh nghiệp nhân loại hình doanh nghiệp duy
nhất không cách pháp nhân. Trước đây, pháp luật về doanh nghiệp
không quy định cách pháp nhân cho doanh nghiệp nhân cũng như công
ty hợp danh với do xuất phát từ việc không ràng giữa quan hệ vốn góp
vào doanh nghiệp tài sản của chủ doanh nghiệp nhân.
Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của ch doanh nghiệp
nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp. Chính
đặc trưng pháp bản này không sự phân định giữa tài sản của
doanh nghiệp tài sản của ch sở hữu doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp
nhân không đáp ứng được điều kiện để cách pháp nhân theo quy
định tại điểm c Khoản 1 Điều 74 Bộ luật dân sự năm 2015:
"Có tài sản độc lập với nhân, pháp nhân khác tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình."
cũng xuất phát từ đặc điểm về tài sản này doanh nghiệp nhân
còn phải chịu nhiều hạn chế so với các loại hình doanh nghiệp khác như
không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào chủ doanh nghiệp
nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp nhân. Việc quy định mỗi
người chỉ được thành lập một doanh nghiệp nhân phù hợp, nhằm đảm
bảo cho hoạt động của từng doanh nghiệp nhân việc thanh toán nợ hay
thực hiện các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp nhân trong trường hợp
chủ doanh nghiệp nhân hay doanh nghiệp nhân lâm vào tình trạng khó
khăn.Khi đó, tài sản của các doanh nghiệp nhân cùng một chủ sở hữu
không độc lập với nhau không độc lập với chủ sở hữu, việc thực hiện các
thủ tục để thanh toán các nghĩa vụ tài sản sẽ rất phức tạp, vướng mắc giữa
các doanh nghiệp nhân cùng thuộc quyền sở hữu của một người.
2.2. Doanh nghiệp nhân doanh nghiệp do một nhân làm chủ:
Theo pháp luật của Việt Nam, doanh nghiệp nhân được xếp vào nhóm các
doanh nghiệp một chủ sở hữu.Từ đặc điểm này thể thấy, doanh nghiệp
nhân được sự góp vốn, đầu của một nhân, đây cũng dấu hiệu bản
cùng với một vài dấu hiệu khác để tạo nên sự khác biệt của doanh nghiệp
nhân.
Theo quy định trên của Luật doanh nghiệp về doanh nghiệp nhân, chủ sở
hữu doanh nghiệp nhân nhân không phân biệt công dân Việt Nam
hay người không quốc tịch Việt Nam. Việc tạo quy định mở như vậy nhằm
tạo điều kiện kêu gọi cho các chủ đầu nhỏ lẻ từ các quốc gia khác đầu
thành lập doanh nghiệp, xây dựng môi trường kinh doanh, góp phần vào
việc thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia.
Doanh nghiệp một chủ đầu duy nhất, hơn nữa, với việc chủ đầu lại
nhân nên quyền quyết mọi hoạt động của doanh nghiệp một ch
nhanh chóng, chỉ phụ thuộc vào ý chí nhân của mình. Chủ doanh nghiệp
nhân người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhân, quyền
quyết định toàn bộ đối với tài sản của doanh nghiệp cũng như quyết định việc
tổ chức hoạt động doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất.Tuy nhiên, tạo sự
linh động cho chủ doanh nghiệp nhân trong kinh doanh, việc quản doanh
nghiệp thể được thực hiện bởi chính chủ doanh nghiệp cũng thể
quản bởi người khác (theo ý chí mong muốn của chủ doanh nghiệp). Đây
cũng một trong những ưu điểm của loại hình doanh nghiệp nhân, chủ
doanh nghiệp nhân không phải chia sẻ hay phụ thuộc vào bất kỳ ai trong
việc định đoạt tài sản của doanh nghiệp, cũng như trong việc quyết định các
hoạt động doanh nghiệp.
Do doanh nghiệp nhân ch một chủ sở hữu nhân nên việc phân
chia lợi nhuận không đặt ra với loại hình doanh nghiệp này, toàn bộ lợi nhuận
từ hoạt động kinh doanh sẽ thuộc về một mình chủ doanh nghiệp sau khi đã
nộp thuế thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp
luật.Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc chủ doanh nghiệp nhân
sẽ tự mình chịu toàn bộ rủi ro trong quá trình kinh doanh nếu có.
2.3. Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm hạn v các khoản nợ các nghĩa
vụ khác của doanh nghiệp:
Trách nhiệm hạn nghĩa chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ i sản của mình về các nghĩa vụ của doanh nghiệp. Khi doanh
nghiệp nhân không khả năng thanh toán nợ đến hạn lâm vào nh
trạng p sản thì tất cả những tài sản thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp tư
nhân đều được mang ra để thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước
nghĩa vụ tài sản với các chủ thể khác.
Cũng chính chế độ trách nhiệm hạn của doanh nghiệp tư nhân pháp
luật đã quy định hạn chế quyền thành lập của ch doanh nghiệp nhân.
Theo đó, mỗi nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp nhân
chủ doanh nghiệp tư nhân cũng không được đồng thời chủ hộ kinh
doanh hay thành viên của công ty hợp danh. Với các quy định như vậy, Luật
doanh nghiệp đã đặt chủ doanh nghiệp nhân vào tình trạng khá bất lợi.
Trách nhiệm hạn bảo đảm an toàn pháp rất lớn đối với khách hàng,
chủ nợ của doanh nghiệp nhưng lại bất lợi không nhỏ đối với các nhân
chịu loại nghĩa vụ này. Trong doanh nghiệp nhân không sợ tách biệt tài
sản góp vào doanh nghiệp tài sản dân sự khác của ch sở hữu. Điều này
đã tạo ra áp lực, trở ngại làm kìm hãm các sáng kiến kinh doanh hoặc khả
năng chấp nhận đầu vào các lĩnh vực hệ số rủi ro. Bởi không an toàn
về mặt tài chính cho ch doanh nghiệp nhân.
Trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp nhân được xác định t thời
điểm doanh nghiệp nhân được cấp Giấy chứng nhận đăng kinh doanh
thời điểm bị áp dụng trách nhiệm hạn thời điểm doanh nghiệp tư
nhân bị tuyên bố phá sản.
2.4. Doanh nghiệp nhân không quyền phát hành các loại chứng khoản
nào:
Pháp luật về doanh nghiệp hiện hành hạn chế quyền phát hành tất cả các loại
chứng khoán đối với doanh nghiệp nhân. Chứng khoán bao gồm c loại:
1.
Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
2. Chứng quyền, chứng quyền bảo đảm, quyền mua cổ phần, chứng chỉ lưu
ký;
3.
Chứng khoán phái sinh (hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp
đồng kỳ hạn);
4. Các loại chứng khoán khác do Chính phủ quy định (Khoản 1 Điều 4 Luật
Chứng khoán năm 2019). Sở pháp luật quy định doanh nghiệp nhân
không được phát hành chứng khoán những nguyên nhân xuất phát từ
đặc điểm bản chất của doanh nghiệp nhân.
Như vậy, doanh nghiệp nhân muốn mở rộng phát triển vốn chỉ bằng cách
chủ doanh nghiệp tư nhân đầu tư thêm vốn o doanh nghiệp, đi vay tài
chính hoặc những khoản thu hút vốn đầu khác từ việc tặng cho, thừa kế
tài sản, nếu muốn huy động vốn từ những nhân, tổ chức khác thì doanh
nghiệp tư nhân bắt buộc phải thay đổi loại hình doanh nghiệp.
3. dụ về công ty nhân (doanh nghiệp nhân):
- Doanh nghiệp nhân Hướng Dương
số thuế; 0400793473
Người đại diện: Nguyễn Ngọc Thông
- Doanh nghiệp nhân Meisbest
số thuế: 2901962888
Người đại diện:Phạm Hữu Ước
- Doanh nghiệp nhân khí Tuấn Hoàng Anh
số thuế: 0200505294
Người đại diện: Trần Thế Anh

Preview text:

Công ty tư nhân là gì? Ví dụ, đặc điểm công ty tư nhân ở Việt Nam
1. Khái niệm về công ty tư nhân (doanh nghiệp tư nhân):
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, "doanh nghiệp" là đơn vị kinh doanh được
thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh của
những chủ sở hữu về một hay nhiều ngành, còn "tư nhân" là một cá nhân hay
thuộc quyền của cá nhân. Như vậy doanh nghiệp tư nhân được hiểu là một
đơn vị kinh doanh thuộc sở hữu của một cá nhân hoặc do một cá nhân thành lập.
Từ điển Luật học đưa ra định nghĩa về doanh nghiệp tư nhân như sau:
"Doanh nghiệp tư nhân là đơn vị kinh doanh có mực vốn không
tấp hơn mức vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp."

Một số quan điểm cho rằng: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp đại diện
cho sở hữu tư nhân hay còn gọi là kinh tế tư nhân, theo đó, các doanh nghiệp
không thuộc sở hữu của Nhà nước thì đều thuộc phạm trù là doanh nghiệm
tư nhân (do tư nhân quản lý, sở hữu và định đoạt doanh nghiệp). Đây là quan
điểm mang tính chất bao trùm, thực chất quan điểm này đã nhìn nhận, đánh
giá doanh nghiệp tư nhân chính là kinh tế tư nhân, trong đó bao gồm kinh tế
cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Một số ý kiến khác lại cho rằng, doanh nghiệp tư nhân là thể hiện việc chủ
doanh nghiệp là cá nhân, không thuộc sở hữu tập thể hay cơ quan nào, theo
đó, doanh nghiệp chỉ được điều hành, quản lý bởi một cá nhân. Đây là quan
điểm được đánh giá theo việc phân loại về loại hình doanh nghiệp, căn cứ
vào các đặc điểm pháp lý cơ bản của doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp tư nhân được quy định lần đầu tiên tại
Điều 2 Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 như sau:
"Doanh nghiệp tư nhân là đơn vị kinh doanh có mức vốn không
thấp hơn vốn pháp định do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp."

Đặc trưng về chủ thể kinh doanh và chế độ tài sản của doanh nghiệp tư nhân
đã được đưa vào khái niệm này cũng với đặc điểm về vốn pháp định. Ở thời
điểm này, vốn pháp định được đặt ra với hầu hết các ngành nghề kinh doanh,
doanh nghiệp tư nhân phải đảm bảo vốn sở hữu của doanh nghiệp không
được thấp hơn số vốn pháp định trong suốt quá trình kinh doanh. Khái niệm
về vốn pháp định không được nhắc đến ở Luật doanh nghiệp tư nhân 1990
nhưng đã được quy định tại Luật công ty 1990. Theo đó, vốn pháp định là
mức vốn tối thiểu phải có để có thể thành lập một doanh nghiệp do pháp luật
quy định đối với từng ngành, nghề. Như vậy, vốn pháp định là một trong
những điều kiện tiên quyết để thành lập công ty/ doanh nghiệp trong một số
ngành, nghề nhất định, do đó việc đưa đặc điểm về vốn pháp định vào khái
niệm về doanh nghiệp tư nhân ở giai đoạn này là không cần thiết vì doanh
nghiệp tư nhân vốn dĩ là một loại hình doanh nghiệp, vì thế đặc điểm về vốn
pháp định là đương nhiên.
Theo quan điểm pháp luật hiện hành, Điều 188 Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định:
"Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm
chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư
nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ
hộ kinh doanh, thành viên hợp danh của công ty hợp danh.
Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập
hoặc mua cổ phân, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công
ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần."

Từ những khái niệm được nêu bên trên, có thể định nghĩa doanh nghiệp tư nhân như sau:
"Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh nghiệp không có tư cách
pháp nhân, do một cá nhân duy nhất làm chủ và cá nhân này phải tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp."
>> Xem thêm: Chế độ nghỉ phép năm ở công ty tư nhân theo quy định mới
2. Đặc điểm doanh nghiệp tư nhân:
Trước hết phải khẳng định, doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh
nghiệp vì thế nó mang đầy đủ các đặc điểm chung của một doanh nghiệp như:
có tên riêng, có con dấu riêng được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp, thực hiện hoạt động kinh doanh thường xuyên, liên tục
nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận,.. Ngoài ra, doanh nghiệp tư nhân cũng
có những đặc điểm riêng để nhận biết, phân biệt, cụ thể là:
2.1. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân:
Doanh nghiệp tư nhân không phải là pháp nhân. Theo quy định của Luật
doanh nghiệp năm 2020, doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp duy
nhất không có tư cách pháp nhân. Trước đây, pháp luật về doanh nghiệp
không quy định tư cách pháp nhân cho doanh nghiệp tư nhân cũng như công
ty hợp danh với lý do xuất phát từ việc không rõ ràng giữa quan hệ vốn góp
vào doanh nghiệp và tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư
nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp. Chính
vì đặc trưng pháp lý cơ bản này mà không có sự phân định giữa tài sản của
doanh nghiệp và tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp
tư nhân không đáp ứng được điều kiện để có tư cách pháp nhân theo quy
định tại điểm c Khoản 1 Điều 74 Bộ luật dân sự năm 2015:
"Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình."

Và cũng vì xuất phát từ đặc điểm về tài sản này mà doanh nghiệp tư nhân
còn phải chịu nhiều hạn chế so với các loại hình doanh nghiệp khác như
không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào và chủ doanh nghiệp
tư nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Việc quy định mỗi
người chỉ được thành lập một doanh nghiệp tư nhân là phù hợp, nhằm đảm
bảo cho hoạt động của từng doanh nghiệp tư nhân và việc thanh toán nợ hay
thực hiện các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp tư nhân trong trường hợp
chủ doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp tư nhân lâm vào tình trạng khó
khăn.Khi đó, tài sản của các doanh nghiệp tư nhân cùng một chủ sở hữu
không độc lập với nhau và không độc lập với chủ sở hữu, việc thực hiện các
thủ tục để thanh toán các nghĩa vụ tài sản sẽ rất phức tạp, vướng mắc giữa
các doanh nghiệp tư nhân cùng thuộc quyền sở hữu của một người.
2.2. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ:
Theo pháp luật của Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân được xếp vào nhóm các
doanh nghiệp một chủ sở hữu.Từ đặc điểm này có thể thấy, doanh nghiệp tư
nhân được sự góp vốn, đầu tư của một cá nhân, đây cũng là dấu hiệu cơ bản
cùng với một vài dấu hiệu khác để tạo nên sự khác biệt của doanh nghiệp tư nhân.
Theo quy định trên của Luật doanh nghiệp về doanh nghiệp tư nhân, chủ sở
hữu doanh nghiệp tư nhân là cá nhân không phân biệt là công dân Việt Nam
hay người không có quốc tịch Việt Nam. Việc tạo quy định mở như vậy nhằm
tạo điều kiện và kêu gọi cho các chủ đầu tư nhỏ lẻ từ các quốc gia khác đầu
tư thành lập doanh nghiệp, xây dựng môi trường kinh doanh, góp phần vào
việc thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia.
Doanh nghiệp có một chủ đầu tư duy nhất, hơn nữa, với việc chủ đầu tư lại là
cá nhân nên có quyền quyết mọi hoạt động của doanh nghiệp một cách
nhanh chóng, chỉ phụ thuộc vào ý chí cá nhân của mình. Chủ doanh nghiệp
tư nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân, có quyền
quyết định toàn bộ đối với tài sản của doanh nghiệp cũng như quyết định việc
tổ chức hoạt động doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất.Tuy nhiên, tạo sự
linh động cho chủ doanh nghiệp tư nhân trong kinh doanh, việc quản lý doanh
nghiệp có thể được thực hiện bởi chính chủ doanh nghiệp mà cũng có thể
quản lý bởi người khác (theo ý chí mong muốn của chủ doanh nghiệp). Đây
cũng là một trong những ưu điểm của loại hình doanh nghiệp tư nhân, chủ
doanh nghiệp tư nhân không phải chia sẻ hay phụ thuộc vào bất kỳ ai trong
việc định đoạt tài sản của doanh nghiệp, cũng như trong việc quyết định các hoạt động doanh nghiệp.
Do doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ sở hữu là cá nhân nên việc phân
chia lợi nhuận không đặt ra với loại hình doanh nghiệp này, toàn bộ lợi nhuận
từ hoạt động kinh doanh sẽ thuộc về một mình chủ doanh nghiệp sau khi đã
nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp
luật.Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc chủ doanh nghiệp tư nhân
sẽ tự mình chịu toàn bộ rủi ro trong quá trình kinh doanh nếu có.
2.3. Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và các nghĩa
vụ khác của doanh nghiệp:
Trách nhiệm vô hạn có nghĩa là chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của doanh nghiệp. Khi doanh
nghiệp tư nhân không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và lâm vào tình
trạng phá sản thì tất cả những tài sản thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp tư
nhân đều được mang ra để thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước và
nghĩa vụ tài sản với các chủ thể khác.
Cũng chính vì chế độ trách nhiệm vô hạn của doanh nghiệp tư nhân mà pháp
luật đã có quy định hạn chế quyền thành lập của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Theo đó, mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân
và chủ doanh nghiệp tư nhân cũng không được đồng thời là chủ hộ kinh
doanh hay thành viên của công ty hợp danh. Với các quy định như vậy, Luật
doanh nghiệp đã đặt chủ doanh nghiệp tư nhân vào tình trạng khá bất lợi.
Trách nhiệm vô hạn là bảo đảm an toàn pháp lý rất lớn đối với khách hàng,
chủ nợ của doanh nghiệp nhưng lại là bất lợi không nhỏ đối với các cá nhân
chịu loại nghĩa vụ này. Trong doanh nghiệp tư nhân không có sợ tách biệt tài
sản góp vào doanh nghiệp và tài sản dân sự khác của chủ sở hữu. Điều này
đã tạo ra áp lực, trở ngại và làm kìm hãm các sáng kiến kinh doanh hoặc khả
năng chấp nhận đầu tư vào các lĩnh vực có hệ số rủi ro. Bởi không có an toàn
về mặt tài chính cho chủ doanh nghiệp tư nhân.
Trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân được xác định từ thời
điểm doanh nghiệp tư nhân được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
và thời điểm bị áp dụng trách nhiệm vô hạn là thời điểm doanh nghiệp tư
nhân bị tuyên bố phá sản.
2.4. Doanh nghiệp tư nhân không có quyền phát hành các loại chứng khoản nào:
Pháp luật về doanh nghiệp hiện hành hạn chế quyền phát hành tất cả các loại
chứng khoán đối với doanh nghiệp tư nhân. Chứng khoán bao gồm các loại:
1. Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
2. Chứng quyền, chứng quyền có bảo đảm, quyền mua cổ phần, chứng chỉ lưu ký;
3. Chứng khoán phái sinh (hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn);
4. Các loại chứng khoán khác do Chính phủ quy định (Khoản 1 Điều 4 Luật
Chứng khoán năm 2019). Sở dĩ pháp luật quy định doanh nghiệp tư nhân
không được phát hành chứng khoán là vì những nguyên nhân xuất phát từ
đặc điểm và bản chất của doanh nghiệp tư nhân.
Như vậy, doanh nghiệp tư nhân muốn mở rộng phát triển vốn chỉ bằng cách
chủ doanh nghiệp tư nhân đầu tư thêm vốn vào doanh nghiệp, đi vay tài
chính hoặc có những khoản thu hút vốn đầu tư khác từ việc tặng cho, thừa kế
tài sản, nếu muốn huy động vốn từ những cá nhân, tổ chức khác thì doanh
nghiệp tư nhân bắt buộc phải thay đổi loại hình doanh nghiệp.
3. Ví dụ về công ty tư nhân (doanh nghiệp tư nhân):
- Doanh nghiệp tư nhân Hướng Dương Mã số thuế; 0400793473
Người đại diện: Nguyễn Ngọc Thông
- Doanh nghiệp tư nhân Meisbest Mã số thuế: 2901962888
Người đại diện:Phạm Hữu Ước
- Doanh nghiệp tư nhân cơ khí Tuấn Hoàng Anh Mã số thuế: 0200505294
Người đại diện: Trần Thế Anh
Document Outline

  • Công ty tư nhân là gì? Ví dụ, đặc điểm công ty tư
    • 1. Khái niệm về công ty tư nhân (doanh nghiệp tư n
    • 2. Đặc điểm doanh nghiệp tư nhân:
      • 2.1. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nh
      • 2.2. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một c
      • 2.3. Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn về c
      • 2.4. Doanh nghiệp tư nhân không có quyền phát hành
    • 3. Ví dụ về công ty tư nhân (doanh nghiệp tư nhân)