













Preview text:
Công ước CMR
2.1. Phạm vi áp dụng
Các điều được dẫn chiếu từ Công ước Điều 1
1. Công ước này sẽ áp dụng cho mọi hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ, khi
địa điểm tiếp nhận hàng hóa và địa điểm được chỉ định để giao hàng (đã được chỉ định rõ
trong hợp đồng) nằm ở hai quốc gia khác nhau, trong đó ít nhất một quốc gia là Quốc gia
ký kết, không phân biệt nơi cư trú và quốc tịch của các bên.
2. Theo mục đích của Công ước này, "phương tiện" có nghĩa là phương tiện có động cơ,
phương tiện có khớp nối, rơ moóc và sơ mi rơ moóc theo định nghĩa tại Điều 4 của Công
ước về Giao thông Đường bộ ngày 19 tháng 9 năm 1949.
3. Công ước này cũng sẽ được áp dụng khi việc chuyên chở đến trong phạm vi của nó
được thực hiện bởi quốc gia hoặc bởi các cơ quan hoặc tổ chức chính phủ.
4. Công ước này sẽ không áp dụng:
Đối với vận chuyển được thực hiện theo các điều khoản của bất kỳ công ước bưu chính
quốc tế nào; Đối với các chuyến hàng ký gửi liên quan đến tang lễ; Đối với loại bỏ đồ nội thất.
5. Các bên trong hợp đồng ký kết đồng ý không thay đổi bất kỳ điều khoản nào của Công
ước này bằng thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều người trong số họ, ngoại trừ việc khiến nó
không thể áp dụng được cho giao thông trên biên giới của họ hoặc việc cho phép sử dụng
trong các hoạt động vận tải hoàn toàn giới hạn trong lãnh thổ của họ đối với đơn hàng ký
gửi đại diện cho quyền sở hữu đối với hàng hóa. Điều 2
Khi phương tiện chở hàng hóa được chuyên chở trên một phần hành trình bằng đường
thủy, đường sắt, đường thủy nội địa hoặc đường hàng không, và trừ khi các quy định của
Điều l4 được áp dụng, hàng hóa chưa được dỡ khỏi phương tiện, thì Công ước này vẫn sẽ
áp dụng đối với toàn bộ toa tàu. Với điều kiện là trong chừng mực chứng minh được rằng
mọi mất mát, hư hỏng hoặc chậm giao hàng xảy ra trong quá trình vận chuyển bằng các
phương tiện vận tải khác không phải do hành động hoặc sự sai sót của người vận chuyển
bằng đường bộ, nhưng do một sự kiện nào đó có thể gây ra chỉ xảy ra trong quá trình và
do lý do vận chuyển bằng phương tiện vận tải đó, trách nhiệm của người vận chuyển
bằng đường bộ sẽ không được xác định theo Công ước này nhưng theo cách xử lý trách
nhiệm của người vận chuyển bằng các phương tiện khác vận chuyển sẽ được xác định
nếu một hợp đồng vận chuyển hang hóa đã được thực hiện bởi người gửi với người vận
chuyển bằng phương tiện vận tải khác phù hợp với điều kiện quy định của pháp luật về
việc vận chuyển hàng hóa bằng phương tiện vận tải đó. Tuy nhiên, nếu không có các điều
kiện quy định như vậy thì trách nhiệm của người vận chuyển đường bộ sẽ do Công ước này xác định.
2. Nếu người vận chuyển đường bộ cũng đồng thời là người vận chuyển bằng phương
tiện vận tải khác, thì trách nhiệm của người đó cũng được xác định theo quy định tại
khoản 1 điều này, nhưng với tư cách là người vận chuyển đường bộ và người vận chuyển
bằng phương tiện giao thông khác, họ là hai người riêng biệt. Điều 3
Vì mục đích của Công ước này, người vận chuyển phải chịu trách nhiệm về các hành vi
và thiếu sót của các đại lý và người làm công của mình và của bất kỳ người nào khác mà
người vận chuyển sử dụng dịch vụ của họ để thực hiện việc vận chuyển, khi các đại lý,
người làm công hoặc những người khác đó hành động trong phạm vi công việc của họ,
như thể là những hành vi hoặc thiếu sót đó là của chính anh ta. Công ước CMR áp dụng
cho mọi hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng đường bộ khi địa điểm nhận hàng và địa
điểm giao hàng được chỉ định rõ ràng trong hợp đồng, tại hai quốc gia khác nhau. Một
trong hai quốc gia phải là Quốc gia ký kết công ước CMR; quốc tịch cũng như nơi cư trú
của người gửi hoặc người chuyên chở có liên quan khi nói đến khía cạnh áp dụng Công
ước CMR (Điều 1 Công ước CMR). Hầu như tất cả các quốc gia châu Âu và một
số quốc gia ở Trung Đông là các Quốc gia ký kết Công ước CMR. Công ước CMR được
áp dụng trong trường hợp các điều kiện của Điều 1 được đáp ứng; các bên không thể
chọn tham gia hay không tham gia Công ước này.
Điều 2 Công ước CMR đề cập đến việc áp dụng công ước này trong trường hợp phương
tiện vận tải được thay đổi từ đường bộ sang đường biển, đường sắt hoặc đường hàng
không. Nếu phương tiện chứa hàng hóa được vận chuyển trên một phần tuyến đường
bằng đường sắt, đường biển, đường thủy nội địa hoặc đường hàng không và hàng hóa
chưa được dỡ khỏi phương tiện đường bộ, thì CMR sẽ tiếp tục áp dụng cho toàn bộ quá
trình vận chuyển. Tuy nhiên, nếu hàng hóa bị mất, hư hỏng hoặc chậm trễ trong khi
phương tiện đang được vận chuyển bằng phương thức vận tải khác, bởi một sự kiện chỉ
có thể xảy ra khi sử dụng phương thức vận tải khác đó, thì trách nhiệm của người vận
chuyển đường bộ sẽ được xác định bởi luật bắt buộc của quốc gia hoặc quốc tế áp dụng
cho phương thức vận tải khác đó. Nếu không có luật bắt buộc, các điều khoản của Công
ước CMR sẽ tiếp tục được áp dụng.
Địa điểm tiếp nhận hàng hóa: nơi người mua nhận hàng nhưng chưa chắc là nơi rủi ro được chuyển giao
Địa điểm được chỉ định để giao hàng: nơi rủi ro được chuyển giao từ người bán sang người mua
Tóm tắt các điều kiện để áp dụng Công ước CMR:
1. Phải có ít nhất một quốc gia (quốc gia của người gửi hàng hoặc người nhận hàng) là
thành viên ký kết của Công ước
2. Địa điểm tiếp nhận hàng hóa và địa điểm được chỉ định để giao hàng (đã được chỉ
định rõ trong hợp đồng) nằm ở hai quốc gia khác nhau
3. Việc vận chuyển hàng hóa phải được thực hiện vì mục đích tài chính
4. Ít nhất phải có một phần trong quá trình vận chuyển được diễn ra bằng đường bộ
Những trường hợp không thể áp dụng Công ước CMR: 1. Bưu chính quốc tế;
2. Chuyến hàng liên quan đến tang lễ; người chết;
3. Đồ nội thất bị bỏ đi.
Những đơn vận chuyển này không thể áp dụng Công ước CMR là vì giá trị của đơn hàng
không thể xác định được để có thể tính toán trách nhiệm của người vận chuyển.
Câu hỏi: Vận chuyển hàng hóa giữa hai nơi trong cùng một quốc gia có được áp dụng
Công ước CMR hay không nếu quá trình vận chuyển có liên quan đến một quốc gia khác
(Ví dụ: vận chuyển hàng hóa giữa hai vùng của nước Nga có đi sang vùng Kaliningrad
nằm ngoài lãnh thổ của nước Nga)
Trả lời: Không, bởi vì địa điểm tiếp nhận hàng hóa và địa điểm được chỉ định để giao
hang nằm trong cùng một quốc gia. Luật được áp dụng sẽ là luật của nước sở tại.
Nếu việc vận chuyển hàng hóa bao gồm những phương tiện vận chuyển khác (tàu hỏa),
phạm vi áp dụng của CMR được chia thành hai trường hợp:
Trường hợp 1: Nếu hàng hóa vẫn được đặt ở trên cùng một phương tiện trong suốt quá
trình vận chuyển bất kể phương thức vận chuyển nào, khi đó, CMR sẽ được áp dụng cho
toàn bộ quá trình vận chuyển: xe tải trên tàu thuyền (ro-ro), xe tải trên tàu hỏa
(ferroutage),. .Tuy nhiên, nếu thiệt hại xảy ra đối với hàng hóa trong quá trình vận
chuyển ngoại trừ quá trình vận chuyển bằng đường bộ, trách nhiệm của người vận
chuyển bằng đường bộ sẽ không được áp dụng bởi CMR mà là luật gắn liền với phương
tiện vận tải liên quan. Người vận chuyển bằng đường bộ có thể tự thỏa thuận với người
vận chuyển bằng đường thủy, đường sắt, đường hang không về trách nhiệm khi thiệt hại xảy ra.
Trường hợp 2: Nếu hàng hóa được dỡ khỏi phương tiện vận chuyển bằng đường bộ để
bốc lên phương tiện khác trong quá trình vận chuyển, CMR chỉ được áp dụng đối với
phần được vận chuyển bằng phương tiện đường bộ.
2.2. Phiếu gửi hàng
Các điều được dẫn chiếu từ Công ước Điều 4
Hợp đồng vận chuyển được xác nhận bằng việc tạo lập một phiếu gửi hàng. Những sự
thiếu, không đúng quy cách hoặc mất mát của phiếu gửi hàng sẽ không ảnh hưởng đến sự
tồn tại hoặc hiệu lực của hợp đồng vận chuyển mà vẫn phải tuân theo các quy định của Công ước này. Điều 5
1. Phiếu gửi hàng được lập thành ba bản chính có chữ ký của người gửi hàng và người
chuyên chở. Các chữ ký này có thể được in hoặc thay thế bằng con dấu của người gửi và
người chuyên chở nếu pháp luật của nước nơi phiếu gửi hàng được lập cho phép như vậy.
Bản sao đầu tiên sẽ được trao cho người gửi, bản thứ hai đi cùng hàng và bản thứ ba do người vận chuyển giữ
2. Khi hàng hóa vận chuyển phải xếp trên các phương tiện khác nhau, hoặc khác loại
hoặc được chia thành nhiều lô khác nhau thì người gửi hoặc người chuyên chở có quyền
yêu cầu lập phiếu gửi hàng riêng cho từng phương tiện được sử dụng, hoặc cho từng loạị hoặc từng lô hàng hóa. Điều 6
1. Phiếu gửi hàng phải có các nội dung sau:
(a) Ngày và nơi lập phiếu gửi hàng;
(b) Tên và địa chỉ của người gửi;
(c) Tên và địa chỉ của người chuyên chở;
(d) Địa điểm, ngày nhận hàng và địa điểm giao hàng được chỉ định;
(e) Tên, địa chỉ của người nhận hàng;
(f) Mô tả thông dụng về bản chất của hàng hóa và phương pháp đóng gói. Trong
trường hợp hàng hóa nguy hiểm, thường sẽ được nhận ra thông qua phần mô tả chung.
(g) Số lượng kiện hàng, nhãn mác đặc biệt và số hiệu của chúng;
(h) Trọng lượng cả bì của hàng hóa hoặc số lượng thể hiện khác của hàng hóa;
(i) Các khoản phí liên quan đến việc chuyên chở (phí chuyên chở, phí bổ sung, thuế hải
quan và các chi phí khác phát sinh từ khi kí hợp đồng đến thời điểm giao hàng);
(j) Các hướng dẫn cần thiết về thủ tục Hải quan và các thủ tục khác;
(k) Một tuyên bố rằng việc vận chuyển phải tuân theo, bất kể có bất kỳ điều khoản nào
ngược lại đối với quy định của Công ước này.
2. Trong trường hợp áp dụng, phiếu gửi hàng cũng phải có các nội dung sau:
(a) Quy định không cho phép chuyển tải;
(b) Chi phí mà người gửi hàng phải trả;
(c) Cước phí của "thanh toán khi nhận hàng";
(d) Tờ khai trị giá hàng hóa và số tiền thể hiện lợi ích đặc biệt vào lúc giao hàng;
(e) Chỉ thị của người gửi hàng tới người chuyên chở về bảo hiểm hàng hóa;
(f) Thời hạn vận chuyển đã thỏa thuận mà người chuyên chở phải thực hiện;
(g) Bản kê các chứng từ phải giao cho người chuyên chở.
3. Các bên có thể thêm vào phiếu gửi hàng bất kỳ chi tiết nào khác mà họ cho là hữu ích.
Điều 4 công ước CMR quy định: Hợp đồng vận chuyển được xác nhận bằng một Phiếu
gửi hàng (Consignment note). Phiếu gửi hàng là một văn bản được chuẩn hóa và thường
được viết bằng hai ngôn ngữ. Về nguyên tắc, phiếu gửi hàng là một chứng từ không
chuyển nhượng được, được lập thành ba bản gốc do người gửi hàng, người chuyên chở
ký. Bản thứ nhất giao cho người gửi hàng (màu đỏ) để chứng minh người gửi hàng đã
giao hàng cho người chuyên chở. Bản thứ hai đi kèm theo hàng (màu xanh dương) để
thông báo cho người nhận hàng số lượng hàng hóa đã được giao cho người chuyên chở.
Bản thứ ba do người chuyên chở giữ (màu xanh lá) là văn bản xác nhận hàng đã được giao cho người nhận.
Nếu không có quy định khác, bao bì hàng hóa và số lượng hàng hóa tuân theo các chi tiết
được nêu trong Phiếu gửi hàng tại thời điểm người vận chuyển nhận hàng.
Về nguyên tắc, phiếu gửi hàng là bằng chứng hiển nhiên của việc ký kết hợp đồng
chuyên chở, của các điều kiện, điều khoản của hợp đồng vận chuyển và việc nhận hàng
của người chuyên chở. Phiếu gửi hàng là bằng chứng hiển nhiên của việc ký kết hợp
đồng chuyên chở hàng hóa, các điều kiện, điều khoản của hợp đồng và của việc nhận
hàng của người chuyên chở. Nếu trên phiếu gửi hàng không có ghi chú, bảo lưu của
người chuyên chở thì suy đoán, trừ phi chứng minh ngược lại rằng hàng hóa và bao bì ở
trong điều kiện tốt khi người chuyên chở nhận hàng và số kiện, ký mã hiệu, số hiệu của
hàng hóa là phù hợp với lời ghi trong phiếu gửi hàng.
Việc thiếu, không có hoặc mất phiếu gửi hàng sẽ không ảnh hưởng đến sự tồn tại hoặc
hiệu lực của hợp đồng vận chuyển. Trong trường hợp này sẽ căn cứ vào các điều khoản của Công ước.
Phiếu gửi hàng bao gồm một số nội dung sau:
- Ngày và nơi lập phiếu gửi hàng;
- Tên và địa chỉ của người gửi hàng;
- Tên và địa chỉ của người nhận;
- Tên và địa chỉ của người chở hàng;
- Ngày và nơi nhận hàng để chở, nơi dự định giao hàng;
- Tên và địa chỉ của người nhận hàng;
- Mô tả về tính chất của hàng hóa, phương pháp đóng gói và tính chất nguy hiểm của hàng hóa, nếu có;. .
- Số lượng kiện hàng, ký hiệu
- Chi phí liên quan (chi phí thông quan, chi phí hỗ trợ,. .)
Việc tất cả các nội dung trên có được đề cập hay không không ảnh hưởng đến tính hiệu
lực của giấy gửi hàng miễn là giấy gửi hàng được ký bởi người vận chuyển hoặc người gửi hàng.
Mục đích của phiếu gửi hàng:
Văn kiện chứng minh (Cấp độ công dân)
Chứng từ kiểm soát (Cấp độ hành chính): Đặc biệt trong vận chuyển ven biển, phiếu gửi
hang có thể được yêu cầu
2.3. Người vận chuyển kiểm tra và nghiệm thu hàng hóa
Các điều được dẫn chiếu từ Công ước Điều 8
1. Khi nhận hàng hóa, người vận chuyển sẽ kiểm tra:
(a) Tính chính xác của Phiếu gửi hàng về số lượng, ký hiệu
(b) Điều kiện của hàng hóa
2. Nếu người vận chuyển không có đủ khả năng kiểm tra tính chính xác của Phiếu gửi
hang theo Điều 1(a), người vận chuyển sẽ đề cập đến điều kiện hạn chế của mình kèm lý
do trong Phiếu gửi hàng. Điều kiện hạn chế trên sẽ không ràng buộc người gửi hàng trừ
khi người gửi hàng đồng ý bị ràng buộc trong Phiếu gửi hàng.
3. Người gửi hàng có nghĩa vụ yêu cầu người vận chuyển kiểm tra khối lượng hoặc số
lượng của hàng hóa và cả thành phần của kiện hàng. Người vận chuyển có thể yêu cầu
chi phí kiểm tra và kết quả kiểm tra sẽ được đề cập trong Phiếu gửi hàng.
Điều 8 Công ước CMR quy định rằng tại thời điểm tiếp nhận hàng hóa để giao cho người
nhận hàng, người vận chuyển phải kiểm tra tính chính xác của các tuyên bố trong vận
đơn gửi hàng về số lượng kiện hàng, ký hiệu và số hiệu của chúng. Người vận chuyển
cũng cần kiểm tra tình trạng bên ngoài của hàng hóa và bao bì của chúng.
Trong trường hợp người vận chuyển không có phương tiện hợp lý để kiểm tra tính chính
xác của các tuyên bố trong vận đơn gửi hàng về số lượng kiện hàng, ký hiệu và số hiệu
của chúng, thì người chuyên chở sẽ ghi các bảo lưu của mình vào vận đơn gửi hàng cùng
với các căn cứ làm cơ sở cho các bảo lưu đó.
Người vận chuyển phải nêu rõ cơ sở cho bất kỳ bảo lưu nào mà họ đưa ra liên quan đến
tình trạng bên ngoài của hàng hóa và bao bì của chúng. Những bảo lưu này sẽ không ràng
buộc người gửi trừ khi người gửi đã đồng ý rõ ràng ràng buộc với họ trong vận đơn gửi hàng.
Người gửi có quyền yêu cầu người vận chuyển kiểm tra trọng lượng cả bì của hàng hoá
hoặc lượng thể hiện khác. Người gửi cũng có thể yêu cầu kiểm tra nội dung của các gói
hàng. Những người chuyên chở có quyền đòi chi phí kiểm tra đó. Kết quả kiểm tra sẽ
được nhập vào phiếu gửi hàng.
2.4. Người gửi bàn giao hàng hóa
Các điều được dẫn chiếu từ Công ước Điều 9
1. Vận đơn hàng hóa là bằng chứng hiển nhiên về việc giao kết hợp đồng vận chuyển, các
điều kiện của hợp đồng và việc người vận chuyển đã nhận hàng.
2. Nếu vận đơn gửi hàng không có bảo lưu cụ thể của người vận chuyển, thì người vận
chuyển sẽ coi là, trừ khi chứng minh được điều ngược lại, rằng hàng hóa và bao bì của
chúng dường như ở tình trạng tốt khi người vận chuyển tiếp nhận chúng và số lượng kiện
hàng, nhãn hiệu và số của chúng tương ứng với các tuyên bố trong vận đơn gửi hàng
Người gửi có quyền yêu cầu người vận chuyển kiểm tra trọng lượng cả bì của hàng hóa
hoặc số lượng của hàng hóa nếu có biểu hiện khác. Người gửi cũng có thể yêu cầu kiểm
tra nội dung của các gói. Người chuyên chở có quyền đòi chi phí kiểm tra. Kết quả kiểm
tra sẽ được ghi vào phiếu gửi hàng.
Điều 9 Công ước CMR mở ra khả năng cho người gửi, trong trường hợp anh ta không có
phương tiện kiểm tra hợp lý, để tự bảo vệ mình bằng cách ghi chú các bảo lưu trên vận
đơn gửi hàng. Người gửi cũng nên ghi chú bất kỳ điều gì có vẻ nghi ngờ về hàng hóa.
Nếu người vận chuyển không thực hiện việc đặt trước đó, thì sẽ được coi là, trừ khi thực
tế chứng minh được điều ngược lại, rằng số lượng kiện hàng đã được ghi chính xác và
hàng hóa có vẻ ở trong tình trạng tốt.
2.5. Trách nhiệm và quyền lợi của các bên trong hợp đồng vận chuyển, quy định theo Công ước CMR
a) Đối với đơn vị vận chuyển
Bên vận chuyển sẽ chịu trách nhiệm với tất cả hành vi và thiếu sót của cơ quan đại diện,
người của dịch vụ hay bất kì người nào khác sử dụng dịch vụ của bên vận chuyển (chiếu
theo Công ước). Ngoài ra, còn phải chịu trách nhiệm về sự cố phương tiện và kiểm tra
tính chính xác của các chi tiết trong đơn hàng như số lượng, nhãn hiệu, số hiệu và tình
trạng bên ngoài của chúng. Trường hợp không thể kiểm tra hàng hóa chính xác thì phải
ghi chú vào đơn hàng. Nếu không còn sai sót gì thì người vận chuyển phải có trách nhiệm
xác nhận hàng hóa đầy đủ và trong tình trạng tốt (điều 8, điều 9)
Bên vận chuyển có quyền thu thêm phụ phí phát sinh khi vận chuyển hàng theo yêu cầu
chỉ dẫn của bên có quyền định đoạt hàng hóa và sẽ có có quyền bán nếu bên có quyền
định đoạt hàng hóa không nhận hoặc không có phản hồi thông tin về hàng hóa (điều 16).
Ngoài ra tại điều 7, bên vận chuyển sẽ phải chịu mọi trách nhiệm về tổn thất hư hại hoặc
các trách nhiệm khác nếu phiếu gửi hàng hóa không có nội dung được quy định tại điều 6 khoản 1.
Sẽ chịu trách nhiệm tổn thất toàn bộ hoặc một phần vào thời điểm xảy ra giữa lúc nhận
hang và giao hàng. Trường hợp những mất mát hư hỏng đã xuất hiện từ trước bởi bên gửi
hoặc bên có liên quan tới hàng hóa thì bên vận vận chuyển sẽ được miễn trách nhiệm (điều 17,18).
Tuy nhiên, bên vận chuyển cần có trách nhiệm chứng minh được rằng rủi ro tổn thất
trong trường hợp hàng hóa bị mất mát, hư hỏng hay chậm trễ không thuộc về hành động
của bên vận chuyển. Nếu như không chứng minh, bên nhận hàng có quyền định đoạt sẽ
được quyền buộc tội bên vận chuyển và đòi bồi thường được tính toán dựa trên các điều
khoản của Công ước hoặc theo luật pháp của các nước sở tại (điều 18, 20, 21, 23, 25, 26, 27).
Bên vận chuyển cũng không được quyền sử dụng các quy định của các điều mục trong
hoặc ngoài Công ước để đổ lỗi, chối bỏ nghĩa vụ và chuyển giao trách nhiệm của bản
thân, nếu đó là hành vi sai trái xuất phát từ bên vận chuyển. Nếu không tuân theo, sẽ
được xem là hành vi sai trái cố ý theo luật pháp (điều 29).
Nếu việc vận chuyển được thực hiện có một hợp đồng duy nhất, được thực hiện bởi
những người vận chuyển đường bộ liên tiếp, thì mỗi người trong số họ phải chịu trách
nhiệm về việc thực hiện toàn bộ hoạt động. Người vận chuyển thứ hai và mỗi người vận
chuyển kế tiếp trở thành một đối tác vận chuyển khác của hợp đồng vận chuyển, theo các
điều khoản của lô hang (điều 34, 35).
Khi bên vận chuyển sau nhận hàng của bên vận chuyển trước thì phải giao cho người vận
chuyển sau một biên lai ghi ngày tháng và có chữ ký. Người vận vận chuyển sau sẽ điền
tên và địa chỉ của mình vào bản sao thứ hai của phiếu gửi hàng. Nếu có thể, người vận
chuyển sau sẽ ghi vào bản sao thứ hai của vận đơn và trên biên lai đặt trước được quy
định tại Điều 8, khoản 2. Các điều khoản của Điều 9 sẽ được sáp dụng cho những người
vận chuyển kế tiếp hoặc các bên vận chuyển sẽ được tự do thỏa thuận với nhau về các
điều khoản khác, căn cứ theo những điều khoản quy định tại điều 37 và điều 38.
b) Đối với các bên còn lại:
Người gửi và người nhận đều có những nghĩa vụ hoặc các yêu cầu, được giưới hạn trong
phạm vi cho phép của hợp đồng vận chuyển, căn cứ theo Công ước CMR.
Người gửi có quyền định đoạt và yêu cầu bên cận chuyển hàng hóa, bao gồm việc thay
đổi thời gian vận chuyển, chuyển giao quyền định đoạt… (điều 8, điều 12). Ngoài ra,
người gửi cũng sẽ phải chịu mọi chi phí về tổn thất thiệt hại về người, thiết bị và các loại
hàng hóa thay cho người vận chuyển bởi các nguyên do không chính xác và không đầy
đủ theo các quy định tại hợp đồng (điều 7, điều 10) và có nghĩa vụ phải đính kèm các tài
liệu cần thiết cho bên vận chuyển theo yêu cầu của thủ tục Hải quan (điều 11).
Người nhận hàng sẽ có quyền định đoạt hàng hóa kể từ khi ký vào đơn gửi hàng hóa, nếu
người gửi ghi vào phiếu hàng (điều 12, điều 13).
Công ước CMR còn quy định thêm, khi nhận hàng mà không có thông báo tổn thất từ
người nhận hàng, thì coi như hàng hóa được giao đúng với các điều khoản của đơn hàng đường bộ (điều 30).
2.6. Trách nhiệm của người vận chuyển
Các điều được dẫn chiếu từ Công ước Điều 17
1. Bên vận chuyển phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoặc một phần thiệt hại của hàng
hoá và thiệt hại theo đó xảy ra giữa thời gian khi anh ta tiếp quản hàng hóa và thời gian
giao hàng, cũng như cho bất kỳ sự chậm trễ trong khi vận chuyển.
2. Tuy nhiên, bên vận chuyển sẽ được miễn trách nhiệm nếu mất mát, hư hỏng hoặc
chậm trễ do hành động sai hoặc bỏ bê của người yêu cầu bồi thường, bởi các hướng dẫn
của họ được đưa ra nếu không thì là kết quả của một hành động sai trái hoặc bỏ bê của
người vận chuyển, bởi phó vốn có của hàng hóa hoặc thông qua các trường hợp mà người
vận chuyển không thể tránh và hậu quả mà ông đã không thể ngăn chặn.
3. Người vận chuyển không được miễn trách nhiệm vì phương tiện vận chuyển bị lỗi,
hoặc do sai sót của người cho thuê phương tiện hoặc các bên liên quan
4. Theo quy định tại Điều 18, đoạn 2 đến 5, bên vận chuyển sẽ được miễn trách nhiệm
khi mất mát hoặc thiệt hại phát sinh từ những rủi ro đặc biệt vốn có trong một trong những trường hợp sau:
(a) Việc sử dụng các phương tiện mở không có vỏ bọc, khi việc này đã được đồng ý rõ
ràng và được quy định trong phiếu gửi hàng;
(b) Việc thiếu, hoặc bị tình trạng đóng gói lỗi trong trường hợp của hàng hóa mà bản
chất rất dễ bị hư hỏng khi không được đóng gói hợp lý;
(c) Xử lý, chất hàng, xếp dỡ hàng hóa của người gửi, người nhận hàng hoặc người đại
diện người gửi hoặc người nhận hàng;
(d) Một số loại hàng hóa nhất định có tính chất dễ bị hư hại một phần hoặc hoàn toàn,
đặc biệt là do vỡ, rỉ sét, phân rã, hút ẩm, rò rỉ, hao hụt, hoặc tác động của mối mọt.
(e) Thiếu hoặc không đầy đủ nhãn hiệu trên các gói hàng;
(f) Vận chuyển vật nuôi.
5. Theo điều này, người vận chuyển không chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào đối với
các yếu tố gây ra thiệt hại, hư hỏng, chậm trễ, họ sẽ chỉ phải chịu trách nhiệm về mức độ
mà mình đang chịu trách nhiệm theo điều này đã góp phần vào mất mát, thiệt hại hoặc chậm trễ. Điều 18
1. Trách nhiệm chứng minh rằng mất mát, hư hỏng hoặc chậm trễ là do một trong
những nguyên nhân được quy định tại điều khoản 17, đoạn 2, thuộc về bên vận chuyển.
2. Khi hãng vận chuyển khẳng định rằng trong các trường hợp xảy ra, tổn thất hoặc
thiệt hại có thể là do một hoặc nhiều rủi ro đặc biệt được nêu tại điều 17, đoạn 4, nó sẽ
được giả định rằng nó đã được gây ra. Tuy nhiên, nguyên đơn có quyền chứng minh rằng
tổn thất hoặc thiệt hại trên thực tế không phải là do toàn bộ hoặc một phần là những rủi ro này.
3. Giả định này sẽ không được áp dụng trong các trường hợp quy định tại điều 17, đoạn
4 (a), nếu có sự thiếu hụt bất thường hoặc mất mát gói hàng.
4. Nếu việc vận chuyển được thực hiện trong xe được trang bị đặc biệt để bảo vệ hàng
hóa khỏi những ảnh hưởng của nhiệt độ, khí lạnh, biến đổi nhiệt độ hoặc độ ẩm của
không khí, người vận chuyển sẽ không được quyền yêu cầu bồi thường quyền lợi của
điều 17, đoạn 4 (d), trừ khi họ chứng minh được rằng tất cả các giai đoạn thuộc trách nhiệm của họ trong các
trường hợp liên quan đến việc lựa chọn, bảo trì và sử dụng các thiết bị đã được thực hiện
và họ đã tuân thủ với tất cả những chỉ thị đặc biệt được giao.
5. Bên vận chuyển sẽ không được quyền yêu cầu bồi thường lợi ích của điều 17, đoạn 4
(f), trừ khi họ chứng minh rằng tất cả các giai đoạn thuộc trách nhiệm của họ với anh ta
trong trường hợp đã được thực hiện và họ đã tuân thủ với tất cả những chỉ thị đặc biệt được giao.
Theo điều 17 được quy định trong Công ước CMR, bên vận chuyển phải chịu trách
nhiệm đối với tổn thất toàn bộ hoặc một phần của hàng hóa và thiệt hại xảy ra trong
khoảng thời gian từ khi nhận hàng đến khi giao hàng, cũng như đối với bất kỳ sự chậm
trễ nào trong việc giao hàng. Tuy nhiên, người vận chuyển sẽ được miễn trách nhiệm nếu
mất mát, hư hỏng hoặc chậm trễ là do lỗi hoặc sơ suất của người gửi hoặc người nhận
(hoặc một bên khác đại diện cho họ), theo chỉ thị của một trong số họ. không phải là kết
quả do lỗi hoặc sơ suất của người vận chuyển, do khuyết điểm vốn có của hàng hóa hoặc
do những trường hợp mà người vận chuyển không thể tránh khỏi và hậu quả của việc đó
là điều tất yếu. Bên vận chuyển sẽ không được miễn trừ trách nhiệm do tình trạng hư
hỏng của phương tiện mà người vận chuyển sử dụng để thực hiện việc vận chuyển, hoặc
do lỗi hay sơ suất của người mà bên vận chuyển thuê phương tiện hoặc của người vận
chuyển. đại lý hoặc bên dịch vụ. Người vận chuyển sẽ được miễn trách nhiệm khi tổn thất
hoặc thiệt hại phát sinh từ những rủi ro đặc biệt cố hữu trong một hoặc nhiều trường hợp
sau: việc sử dụng các phương tiện không có mui, khi việc sử dụng chúng đã được thỏa
thuận rõ ràng và được ghi rõ trong vận đơn gửi hàng, nơi thiếu điều kiện đóng gói trong
trường hợp hàng hóa, về bản chất, có khả năng hư hỏng khi không được đóng gói hoặc
đóng gói không đúng cách, vận chuyển gia súc và trong trường hợp xử lý, bốc hàng, xếp
hoặc dỡ hàng hóa bởi người gửi, người nhận hàng hoặc người đại diện cho người gửi hay
người nhận hàng. Công ước CMR chương 17 quy định thêm các trường hợp trong đó
người chuyên chở hoặc người gửi phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đối với hàng hóa.
Công ước CMR chương 18 đặt ra các quy tắc chứng minh trong những vấn đề như thế này.
2.7. Tiền bồi thường được trả bởi người vận chuyển
Các điều được dẫn chiếu từ Công ước Điều 23
1. Theo các quy định của Công ước CMR, khi người vận chuyển phải chịu trách nhiệm
bồi thường đối với tổn thất cho toàn bộ hoặc một phần hàng hóa thì khoản bồi thường đó
được tính theo giá trị của hàng hóa tại địa điểm và thời điểm hàng hóa được chấp nhận vận chuyển.
2. Giá trị của hàng hóa được ấn định theo giá trao đổi hàng hóa, hoặc nếu không có giá
như vậy thì theo giá thị trường hiện hành, còn nếu không có cả giá trao đổi hàng hóa hoặc
giá thị trường hiện hành thì quy về giá trị thông thường của hàng hóa cùng loại và chất lượng.
3. Tuy nhiên, tiền bồi thường không được vượt quá 25 franc cho mỗi kilogam tổng trọng
lượng hàng hoá cả bì thiếu hụt. "Franc" có nghĩa là đồng franc vàng với trọng lượng
10/31 gam và có độ tinh khiết là 90%.
4. Ngoài ra, phí vận chuyển, thuế hải quan và các khoản phí phát sinh khác đối với việc
vận chuyển hàng hóa sẽ được hoàn trả đầy đủ trong trường hợp tổn thất toàn bộ và tương
ứng với tổn thất phải chịu nếu mất một phần nhưng không phải bồi thường thiệt hại thêm.
5. Trong trường hợp chậm trễ, nếu người khiếu nại chứng minh được có thiệt hại xảy ra
thì người vận chuyển phải bồi thường thiệt hại đó nhưng không vượt quá mức cước phí vận chuyển.
6. Chỉ có thể yêu cầu bồi thường cao hơn khi giá trị của hàng hóa hoặc quyền lợi đặc biệt
trong việc giao hàng đã được quy định tại điều 24 và 26.
Dưới Công ước CMR, nghĩa vụ của người vận chuyển được xác định bằng hai cách. Dựa
trên dữ liệu được đề cập trong Phiếu gửi hàng hoặc trong hợp đồng vận chuyển, hoặc
nếu không có đề cập, trách nhiệm của người vận chuyển sẽ được xác định theo Điều 23 của Công ước CMR.
Theo Điều 23 được quy định tại Công ước CMR, khi người vận chuyển phải chịu trách
nhiệm bồi thường đối với tổn thất cho toàn bộ hoặc một phần hàng hóa thì khoản bồi
thường đó được tính theo giá trị của hàng hóa tại địa điểm và thời điểm hàng hóa được
chấp nhận vận chuyển. Giá trị của hàng hóa được ấn định theo giá trao đổi hàng hóa,
hoặc nếu không có giá như vậy thì theo giá thị trường hiện hành, còn nếu không có cả giá
trao đổi hàng hóa hoặc giá thị trường hiện hành thì quy về giá trị thông thường của hàng
hóa cùng loại và chất lượng. Trên thực tế, phần giá trị này của hàng hóa có mối liên hệ
với trọng lượng của hàng hóa: khoản bồi thường €11 cho mỗi kilogram hàng hóa bị mất
hoặc hư hỏng là một mức hợp lý trong hầu hết các trường hợp. Khoản bồi thường sẽ
không vượt quá 25 francs (GF) mỗi kilogram hàng hóa bị mất hoặc hư hỏng. Năm 1978,
Bản dự thảo thay thế franc bằng Quyền rút vốn đặc biệt (Special Drawing Rights) của IMF.
Trách nhiệm bồi thường của người vận chuyển phát sinh khi người vận chuyển nhận
hàng từ người gửi hàng và kết thúc khi hàng được giao cho người nhận hàng. Trách
nhiệm của người vận chuyển được miễn nếu thiệt hại hay thất thoát của hàng hóa là do
sai phạm của một cá nhân hoặc do những trường hợp bất khả kháng nằm ngoài tầm kiểm
soát của người vận chuyển. Người vận chuyển sẽ có trách nhiệm khi phương tiện di
chuyển bị hỏng hóc hoặc do hành động sai phạm của người được người vận chuyển thuê
để chở hàng. Những trường hợp trách nhiệm của người vận chuyển được miễn:
- Trách nhiệm giữ hàng, bốc hàng, dỡ hàng thuộc về người gửi hoặc người nhận
- Đặc tính của hàng hóa là dễ hỏng hóc, giảm chất lượng,. .
- Vận chuyển động vật còn sống
- Số hiệu, ký hiệu của hàng hóa không đủ và không chính xác
Trong trường hợp hàng hóa có giá trị (ví dụ: chip máy tính hoặc bộ TV LCD đắt tiền)
được vận chuyển, khoản bồi thường này sẽ cao hơn và bên nguyên đơn có lý do khác để
dựa vào Điều 29 của Công ước CMR. Điều 29 Công ước CMR quy định người vận
chuyển sẽ không có quyền lợi dụng các quy định ở chương này để loại trừ hay giới hạn
trách nhiệm của mình, hoặc thay đổi nghĩa vụ chứng minh nếu thiệt hại là do hành vi sai
trái cố ý của người đó gây ra hoặc do lỗi đó từ phía người vận chuyển, theo quy định
pháp luật của tòa án hoặc hội đồng xét xử thụ lý vụ án, được coi là tương đương với hành
vi sai trái cố ý. Điều khoản tương tự sẽ được áp dụng nếu hành vi sai trái cố ý hoặc vi
phạm của các đại lý hoặc người làm công của người vận chuyển hoặc bởi bất kỳ người
nào khác mà người đó sử dụng dịch vụ của họ để thực hiện việc vận chuyển, khi các đại
lý, người làm công hoặc những người khác đó thực hiện trong phạm vi công việc của họ.
2.8. Áp dụng ở container
Các điều được dẫn chiếu từ Công ước Điều 29
1. Người vận chuyển sẽ không có quyền lợi dụng các quy định ở chương này để loại trừ
hay giới hạn trách nhiệm của mình, hoặc thay đổi nghĩa vụ chứng minh nếu thiệt hại là do
hành vi sai trái cố ý của người đó gây ra hoặc do lỗi đó từ phía người vận chuyển, theo
quy định pháp luật của tòa án hoặc hội đồng xét xử thụ lý vụ án, được coi là tương đương
với hành vi sai trái cố ý.
2. Điều khoản tương tự sẽ được áp dụng nếu hành vi sai trái cố ý hoặc vi phạm của các
đại lý hoặc người làm công của người vận chuyển hoặc bởi bất kỳ người nào khác mà
người đó sử dụng dịch vụ của họ để thực hiện việc vận chuyển, khi các đại lý, người làm
công hoặc những người khác đó thực hiện trong phạm vi công việc của họ. Hơn nữa,
trong trường hợp như vậy, các đại lý, người làm công hoặc những người khác sẽ không
được quyền lợi dụng, liên quan đến trách nhiệm cá nhân của họ, đối với các quy định của
chương này được đề cập ở khoản 1.
Công ước CMR áp dụng cho việc vận chuyển bằng đường bộ trên các phương tiện.
'Phương tiện' ở đây bao gồm xe có cơ giới, xe có khớp nối, xe có đầu kéo và xe kéo móc
nhưng không phải container. ISO container dùng để tập kết 'hàng hóa' chứ không phải là
một phương tiện vận chuyển, và CMR không phải lúc nào cũng áp dụng cho chuyển động
của container. Nếu container vẫn 'trên bánh xe' trong suốt quá trình vận chuyển, Công
ước CMR sẽ được áp dụng, nhưng nếu container được dỡ xuống tại cảng hoặc nhà ga
đường sắt và được chuyên chở riêng bằng đường sắt hoặc đường biển, điều này sẽ phá vỡ
mối liên hệ với Công ước CMR. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng ngay cả khi Công ước CMR
không được áp dụng theo luật, các bên có thể đồng ý áp dụng các điều khoản của nó theo
hợp đồng và điều này được thực hiện bởi một số người vận hành.
3. Quyền xét xử dưới Công ước CMR và dưới Quy định EEX
Các điều được dẫn chiếu từ Công ước Điều 31:
1. Trong các vụ kiện vượt ra khỏi phạm vi của Công ước này, bị cáo có thể sử dụng tòa
án đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Hoặc tòa án được đặt tại
- Quốc gia của bị đơn hoặc quốc gia có trụ sở chính hoặc chi nhánh của công ty liên
quan đến hợp đồng vận chuyển của bị đơn
- Phiên tòa diễn ra tại nơi hàng hóa được giao cho người vận chuyển
- Phiên tòa diễn ra tại nơi hàng hóa được giao
2. Khi nơi được đề cập ở trên chưa có hiệu lực chính thức và vụ kiện vẫn đang chờ được
giải quyết, hoặc khi phán quyết đã được đưa ra bởi tòa án, hoặc không có vụ kiện nào sẽ
diễn ra trừ khi phán quyết của tòa từ trong vụ kiện đầu tiên không có hiệu lực tại quốc gia
mà vụ kiện đầu tiên diễn ra.
3. Khi một phán quyết có hiệu lực tại một trong các quốc gia được đề cập ở khoản 1, nó
sẽ có hiệu lực tại các nước ký kết hợp đồng miễn là các thủ tục yêu cầu tại các quốc gia
đó được tuân theo. Các thủ tục đó sẽ không cho phép vụ kiện được mở lại.
4. Khoản 3 sẽ áp dụng cho phán quyết sau phiên tòa, phán quyết mặc định và các thỏa
thuận được xác nhận trong quá trình phiên tòa diễn ra, nhưng không được áp dụng cho
các phán quyết tạm thời hoặc yêu cầu bồi thường hoặc yêu cầu bồi thường án phí.
Điều 31, Công ước CMR chỉ ra những sự lựa chọn, quy tắc về quyền hạn của tòa án và
việc thi hành các phán quyết trong trường hợp có những xung đột pháp luật diễn ra ngoài
phạm vi của Hợp đồng vận chuyển dưới Công ước CMR.
Dưới Công ước CMR, nguyên đơn có nhiều sự lựa chọn cho phiên tòa:
- Các bên trong một phiên tòa đã thỏa thuận trong hợp đồng vận chuyển
- Phiên tòa diễn ra tại nơi sinh sống của bị cáo
- Phiên tòa diễn ra tại nơi hàng hóa được giao cho người vận chuyển
- Phiên tòa diễn ra tại nơi hàng hóa được giao
Mặc dù có rất nhiều sự lựa chọn, các bên phải thống nhất một điều luật. Trong trường
hợp tòa án đã đưa ra phán quyết dựa trên luật pháp của quốc gia đó, bản phán quyết có
hiệu lực tại mọi nước ký kết hợp đồng.
Trong trường hợp quốc gia đó đã ký Công ước CMR, và cũng là thành viên của EC, nơi
đó phải tuân theo EEX Regulation thay vì công ước CMR.
4. Công ước CMR và luật áp dụng theo Hiệp ước ECO
Các điều được dẫn chiếu từ Công ước Điều 3 Tự do lựa chọn
1. Hợp đồng được điều chỉnh bởi luật được lựa chọn bởi các bên. Sự lựa chọn phải
được thể hiện hoặc được chứng minh một cách chắc chắn hợp lý bằng các điều khoản của
hợp đồng hoặc trong hoàn cảnh của sự việc. Bằng lựa chọn của mình, các bên có thể chọn
ra luật áp dụng cho toàn bộ hoặc chỉ một phần của hợp đồng
2. Vào bất cứ lúc nào, các bên đều có thể đồng ý áp dụng một luật khác với luật trước
đây trong hợp đồng mà nó tuân theo, cho dù đó là kết quả của một sự lựa chọn trước đó
theo Điều này hoặc theo các quy định khác của Công ước. Bất kỳ sự thay đổi nào của các
bên trong luật áp dụng được thực hiện sau khi ký kết hợp đồng sẽ không gây thiệt hại đến
hiệu lực về hình thức của nó theo Điều 9 hoặc ảnh hưởng bất lợi đến những quyền lợi của bên thứ ba.
3. Việc các bên lựa chọn luật nước ngoài, cho dù có hoặc không kèm theo việc lựa chọn
tòa án nước ngoài cũng sẽ không ảnh hưởng đến tất cả các yếu tố khác liên quan đến tình
huống tại thời điểm lựa chọn có liên quan đến chỉ một quốc gia, gây bất lợi đến việc áp
dụng các quy tắc pháp luật tại quốc gia không thể bị hủy bỏ bởi hợp đồng, sau đây được
gọi là “các quy tắc bắt buộc”.
4. Sự tồn tại cũng như hiệu lực của sự đồng thuận giữa các bên trong việc lựa chọn luật
áp dụng sẽ được xác định theo quy định của Điều 8, 9 và 11. Điều 4
Luật áp dụng trong trường hợp không có sự lựa chọn
1. Trong phạm vi mà luật áp dụng cho hợp đồng không được lựa chọn phù hợp với Điều
3, hợp đồng sẽ được quản lý bởi luật pháp của quốc gia mà nó có mối liên hệ gần gũi
nhất. Tuy nhiên, một phần có thể tách rời của hợp đồng có mối liên hệ gần gũi hơn với
một quốc gia khác có thể được thông qua ngoại lệ bị quản lý bởi luật của quốc gia khác đó.
2. Căn cứ quy định tại khoản 5 Điều này, điều khoản sẽ được coi là hợp đồng được kết
nối chặt chẽ nhất với quốc gia nơi bên ký kết ảnh hưởng đến việc nghĩa vụ đặc trưng của
hợp đồng có, tại thời điểm ký kết hợp đồng, nơi thường trú của anh ta hoặc, trong trường
hợp của một công ty pháp nhân hoặc tổ chức không có tư cách pháp nhân, cơ quan quản
trị. Tuy nhiên, nếu hợp đồng được ký kết trong quá trình buôn bán của bên đó thì quốc
gia đó sẽ là quốc gia có hoạt động kinh doanh chính hoặc là nơi thực hiện các điều khoản
của hợp đồng, việc thực hiện sẽ được thực hiện thông qua một địa điểm của doanh nghiệp
chứ không phải là địa điểm kinh doanh chính, quốc gia mà địa điểm kinh doanh khác đó tọa lạc.
3. Mặc dù có quy định tại khoản 2 của Điều này, trong trường hợp đối tượng của hợp
đồng là quyền đối với bất động sản hoặc quyền sử dụng bất động sản thì hợp đồng được
coi là có mối liên hệ chặt chẽ nhất với quốc gia nơi bất động sản tọa lạc.
4. Hợp đồng vận chuyển hàng hoá không phụ thuộc vào giả định tại khoản 2. Trong
trường hợp nếu tại quốc gia mà vào thời điểm ký kết hợp đồng, người vận chuyển có trụ
sở kinh doanh chính cũng là quốc gia nơi có địa điểm bốc hàng hoặc địa điểm dỡ hàng
hoặc địa điểm kinh doanh chính của người gửi hàng, được coi là hợp đồng có mối liên hệ
chặt chẽ nhất với quốc gia đó. Khi áp dụng khoản này, các hợp đồng thuê một chuyến và
các hợp đồng khác có mục đích chính là chuyên chở hàng hóa sẽ được coi là hợp đồng vận chuyển hàng hóa.
5. Khoản 2 sẽ không được áp dụng nếu không thể xác định được nghĩa vụ đặc trưng, và
các giả định trong khoản 2, 3 và 4 sẽ bị bỏ qua nếu nó xuất hiện từ những hoàn cảnh mà
xét về tổng thể, hợp đồng có mối liên hệ chặt chẽ hơn với một quốc gia khác.
Trong trường hợp hợp đồng vận chuyển đáp ứng các yêu cầu của Điều 1 Công ước CMR,
Công ước CMR đặt ra các quy tắc được sử dụng để giải quyết xung đột đã phát sinh giữa
người gửi, người chuyên chở và/hoặc người nhận hàng.
Trong trường hợp Công ước CMR không cung cấp cho các bên giải pháp, thì luật áp
dụng cho hợp đồng vận chuyển theo Hiệp ước ECO phải được thiết lập. Người gửi và
người chuyên chở có thể chọn luật áp dụng cho hợp đồng theo Điều 3 ECO, tốt nhất là bằng văn bản.
Trong trường hợp công ước CMR không cung cấp cho các bên một giải pháp và không
có luật nào được lựa chọn theo Điều 3 ECO, các bên phải sử dụng đến Điều 4 ECO.
Nghĩa vụ đặc trưng theo Điều 4 Khoản 2 ECO thì được thực hiện bởi người chuyên chở;
pháp luật của quốc gia nơi mà người chuyên chở cư trú được áp dụng đối với hợp đồng
vận chuyển. Luật này được áp dụng ngay cả khi nơi cư trú của người chuyên chở trùng
với quốc gia nơi chứa địa điểm mà người chuyên chở đã nhận hàng (theo Điều 4 Khoản 4 ECO).