Cùng tìm hiểu về đề cương Lý luận dạy học new | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Cùng tìm hiểu về đề cương Lý luận dạy học new | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

ĐỀ CƯƠNG LLDH NĂM HỌC 2021 - 2022
Câu 1. Khái niệm và bản chất của quá trình dạy học.
Khái niệm:
Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của người dạy, người học
tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình
nhằm thực hiện tốt mục đích dạy học, qua đó, phát triển nhân cách.
- Ví dụ: QTDH ở trường HNUE là hệ thống những hành động liên tiếp và thâm nhập vào nhau của
giáo viên và học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên, nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức, kỹ
năng và bước đầu hình thành kỹ xảo liên quan đến một nghề nhất định, qua đó góp phần hoàn thiện nhân
cách nói chung, hình thành và phát triển nhân cách nghề nghiệp nói riêng ở học sinh.
Bản chất của quá trình dạy học
a. Cơ sở xác định bản chất của quá trình dạy học
* Mối quan hệ giữa nhận thức và dạy học trong sự phát triển xã hội:
- Trong xã hội diễn ra hoạt động nhận thức của loài người và hoạt động dạy học cho thế hệ trẻ.
Trong đó, hoạt động nhận thức của loài người có trước hoạt động dạy học và là nhu cầu tất yếu của xã
hội. Tuy nhiên, hoạt động của người học trong dạy học diễn ra trong môi trường sư phạm đặc biệt và có sự
hướng dẫn, tổ chức, điều khiển của thầy.
* Mối quan hệ giữa dạy và học, thầy và trò:
- Dạy và học là hai hoạt động đặc trưng cơ bản của qua trình dạy học có mối quan hệ thống nhất
biện chứng với nhau. Xét cho cùng, mọi hoạt động giảng dạy của thầy và hoạt động học tập của trò là
nhằm thúc đẩy hoạt động nhận thức của người học chiếm lĩnh nội dung học tập được quy định trong
chương trình dạy học nhằm thực hiện tốt mục tiêu nhiệm vụ dạy học.
- Dạy là gi?
"Dạy là một hoạt động đặc trưng của người dạy nhằm tổ chức, điều khiển, tạo ra nhiều điều kiện và
cơ hội cho quá trình học diễn ra một cách thuận lợi và đạt mục đích". Hoạt động phải tổ chức, sắp xếp các
điều kiện, tạo ra các cơ hội thuận lợi và điều khiển, kiểm soát quá trình học nhằm làm tăng thêm lượng
kiến thức, kỹ năng và thay đổi thái độ, cách đánh giá hiện có của người học. Kết quả cuối cùng là tạo điều
kiện và thúc đẩy quá trình học diễn ra trong một môi trường thuận lợi nhất
- Học là gì?
"Học là một hoạt động tích cực (TC), tự lực và sáng tạo của người học nhằm tạo ra sự thay đổi
trong nhận thức, thái độ và kỹ năng trên cơ sở những kiến thức, thái độ và kỹ năng hiện có của bản thân".
Học chính là tạo ra sự thay đổi, nếu người học không thay đổi, điều có có nghĩa là chưa diễn ra quá
trình học. Tuy nhiên, sự thay đổi về mặt nhận thức sẽ là mục tiêu cuối cùng của quá trình học. Nhờ có
nhận thức, qua quá trình TC hoạt động, các hành vi, kỹ năng và thái độ của người học sẽ được điều chỉnh
theo hướng hoàn thiện hơn.
- Mối quan hệ giữa dạy và học:
+) Dạy và học là hai hoạt động thống nhất biện chứng (nhưng không đồng nhất) với nhau, phản
ánh tính hai mặt của QTDH và là một quy luật cơ bản của QTDH.
+) Trong lượng kiến thức mà người dạy cung cấp cho người học thì sẽ có một phần không được
người học tiếp nhận
+) Phần vòng tròn tượng trưng cho những kiến thức do người dạy cung cấp bao giờ cũng nhỏ hơn
những gì người học học được
+) Phần vòng tròn tượng trưng cho "những gì được học nhưng không được dạy" sẽ tác động đến
"những gì được dạy và được học".
b.Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức có tính chất độc đáo
của người học dưới sự tổ chức, định hướng, điều khiển của người giáo viên nhằm giúp người học
chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo trên cơ sở đó phát triển các phẩm chất và năng lực,
đáp ứng mục tiêu dạy học.
- Quá trình nhân thức của học sinh giống với các quá trình nhận thức khác (nhận
thức thông thường và nhận thức của nhà khoa học)
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người thông qua chủ thể – đó là sự phản
ánh tâm lý của con người bắt đầu từ cảm giác, tri giác đến tư duy, tưởng tượng. Sự học tập của học sinh
cũng là quá trình như vậy.Quá trình nhận thức của học sinh cũng diễn ra theo quy luật nhận thức chung
của loài người.
Trong quá trình nhận thức, con người muốn nhận thức đầy đủ một vấn đề, một sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan, cần phải huy động các thao tác tư duy ở mức độ cao nhất. Việc huy động các
thao tác tư duy cũng không theo một trình tự đơn thuần mà đó là một sự phối hợp sáng tạo tùy thuộc vào
mỗi cá nhân.
Kết quả nhận thức học sinh nói riêng và loài người nói chung đều có điểm chung
là làm cho vốn hiểu biết của chủ thể tăng lên. Sau mỗi một giai đoạn nhận thức, vốn
hiểu biết của chủ thể tăng lên nhờ sự tích lũy những tri thức, hình thành những kinh
nghiệm mới trong quá trình nhận thức của mình.
-Tính độc đáo quá trình nhận thức của học sinh trong quá trình học tập (điểm khác biệt với nhận
thức thông thường và nhận thức của nhà khoa học)
Trong dạy học, quá trình nhận thức của học sinh diễn ra trong điều kiện sư phạm
đặc biệt. Vì vậy, hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học được tối ưu hoá, chỉ trong thời gian học
tập ngắn, học sinh đã nắm vững được hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách hiệu quả.
Mục đích quá trình nhận thức của học sinh là nhận thức được cái mới đối với
bản thân mình, rút ra từ kho tàng hiểu biết chung của nhân loại. Những tri thức này rút
ra từ tri thức khoa học của các ngành khoa học tương ứng và được gia công về mặt sư
phạm thể hiện trong nội dung dạy học. Trong khi đó, mục đích quá trình nhận thức của
nhà khoa học là mang lại cái mới không chỉ cho nhà khoa học mà cho cả nhân loại về tri thức đó, một
chân lý mới làm sâu sắc và phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Kết quả quá trình nhận thức của học sinh là nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
hòa được những tri thức đó vào hệ thống vốn kinh nghiệm của bản thân mình, lưu trữ được bền vững, khi
cần có thể tái hiện và vận dụng được trong cuộc sống. Vì vậy những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo được hình
thành ở học sinh phải được kiểm tra, đánh giá một cách có kế hoạch và có hệ thống nhằm đảm bảo tính
vững chắc của tri thức thực hiện những yêu cầu về mặt dạy học và giáo dục. Trong quá trình nhận thức
của học sinh, phải có khâu kiểm tra và đánh giá, đảm bảo cho quá trình này hợp thành một chu trình kín.
Quá trình nhận thức của học sinh trong dạy học luôn mang ý nghĩa giáo dục, bởi
thông qua dạy học các môn học, người học lĩnh hội tri thức khoa học các môn học trên
cơ sở đó hình thành được cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan đúng đắn, phát
triển trí tuệ và những phẩm chất đạo đức của người công dân, người lao động mà xã hội
yêu cầu.
Kết luận sư phạm
- Cần dạy học phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo hoạt động học tập của học
sinh tham gia vào quá trình dạy học.
- Tổ chức, hướng dẫn hoạt động học tập của học sinh một cách khoa học dựa trên cơ sở quy luật
nhận thức, các lý thuyết hoạt động học tập nhằm thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ dạy học.
- Đảm bảo ý nghĩa giáo dục của dạy học , được thể hiện trong mọi hoạt động, mọi khâu, mọi thành
tố của quá trình dạ y học. Ví dụ: nội dung dạy học, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, mối quan hệ
giao tiếp ứng xử của giáo viên với học sinh…
- Không nên quá cường điệu những nét riêng biệt, độc đáo trong hoạt động học tập của
người học. Nếu như vậy sẽ rơi vào xu hướng sai lầm là chỉ chú trọng truyền đạt cho học sinh một số tri
thức có sẵn, quy trình hoạt động máy móc, mà coi nhẹ việc tổ chức cho học sinh độc lập nghiên cứu để
nắm lấy tri thức và rèn luyện phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu.
- Trong quá trình dạy học, bên cạnh việc trang bị cho học sinh những tri thức khoa học cơ
bản, tổ chức thực hành để hình thành kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống thì người giáo viên còn cần
chú ý sử dụng những phương pháp dạy học, đề xuất các bài tập nhận thức có tác dụng phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập, giúp họ tiếp cận với hoạt động nhận
thức của các nhà khoa học.
Câu 2. Các quy luật cơ bản của quá trình dạy học.
Khái niệm quá trình dạy học:
Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của người dạy, người học tự
giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình nhằm
thực hiện tốt mục đích dạy học, qua đó, phát triển nhân cách.
-Quy luật dạy học phản ánh mối quan hệ chủ yếu, tất yếu và bền vững giữa các thành tố trong cấu trúc của
quá trình dạy học (và giữa các yếu tố trong từng thành tố).
Các quy luật dạy học bao gồm:
- Quy luật về tính quy định của xã hội đối với quá trình dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy học và phát triển trí tuệ;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy học và giáo dục tư tưởng chính
trị, đạo đức;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa nội dung dạy học với phương pháp
và phương tiện dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa việc xây dựng kế hoạch, việc tổ
chức, việc điều chỉnh và việc kiểm tra hoạt động của học sinh trong tiến trình thực
hiện;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học với mục đích dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa phương pháp dạy học với phương
pháp khoa học. v.v...
Trong các quy luật nêu trên, lí luận dạy học coi quy luật về sự thống nhất biện
chứng giữa dạy và học là quy luật cơ bản của quá trình dạy học, bởi sự có mặt những
yếu tố dạy và học quy định sự tồn tại, phát triển của quá trình dạy học. Ở đây nói tới
sự dạy thì ở đó theo nó là sự học.
- Câu 3. Một số biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh.
Khái niệm động cơ học tập:
Động cơ học tập là sức thúc đẩy, định hướng hoạt động học tập, tức là học để làm gì. Động cơ học tập là
những nhân tố kích thích, thúc đẩy tính tích cực trong học tập của học sinh nhằm đạt kết quả nhận thức và
hình thành, phát triển nhân cách.
- Các loại động cơ học tập:
+ Động cơ học tập trong là động cơ liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập, do chính sự tồn tại của hoạt
động học: nhu cầu học, sự ham hiểu biết, hứng thú học, niềm vui và thử thách bản thân, sự thỏa mãn do
thành tựu học tập đem lại.
+ Động cơ học tập ngoài là động cơ rất ít liên quan trực tiếp tới hoạt động học tập mà thường là do kết quả
của hoạt động học tập mang lại: Lời khen, phần thưởng, sự trừng phạt, ý thức trách nhiệm v.v, tóm lại là
toàn bộ các phẩm chất tâm lí cá nhân, các trạng thái tâm lí (vui vẻ/ lo âu v.v) cá nhân và các yêu cầu, áp
lực từ bên ngoài khi tiến hành hoạt động đều có thể trở thành nguồn ở để tạo ra động lực thúc đẩy hoạt
động của cá nhân
- Khi được thúc đẩy từ động cơ trong, học sinh ít cần đến sự khuyến khích hay trừng phạt, bởi vì chính
hoạt động học và sản phẩm của nó là một phần thưởng cao quý. Học sinh học tập được thúc đẩy bởi động
cơ trong thường ít phải diễn ra sự “đấu tranh động cơ”giữa giá trị của những phần thưởng do việc học
mang lại với sự khó khăn, trở ngại do chính việc học nảy sinh. Còn khi hoạt động học được kích thích bởi
động cơ ngoài, thì học sinh không quan tâm đến bản thân hoạt động học, mà chỉ quan tâm qua hoạt động
đó ta sẽ được cái gì? được bằng cấp, phần thưởng hay tránh được sự trừng phạt từ phía nhà trường hay
gia đình v.v…
- Động cơ trong có tác dụng thúc đẩy và phát triển hoạt động học của học sinh và không làm suy giảm xu
thế tích cực của hoạt động học, vì những thành tựu mà học sinh đạt được trong quá trình học là nguồn vô
tận nuôi dưỡng và phát triển động cơ. Còn phần thưởng (động cơ ngoài) cũng kích thích tính tích cực hoạt
động học, nhưng về bản chất sẽ giảm xu thế tích cực của hoạt động, vì sức mạnh kích thích phụ thuộc vào
giá trị của phần thưởng và nhu cầu, sở thích của học sinh đối với phần thưởng đó.
Biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh:
* Các biện pháp kích thích từ bên trong:
- Hoàn thiện những yêu cầu cơ bản:
+ Cung cấp một môi trường lớp học có tổ chức.
+ Là một người giáo viên luôn quan tâm đến lớp học.
+ Giao những bài tập có thử thách nhưng không quá khó.
+ Làm cho bài tập trở nên có giá trị với học sinh.
- Xây dựng niềm tin và những kì vọng tích cực:
+ Bắt đầu công việc ở mức độ vừa sức của học sinh.
+ Làm cho mục tiêu học tập rõ ràng, cụ thể và có thể đạt tới được.
+ Nhấn mạnh vào sự tự so sánh hơn là cạnh tranh.
+ Thông báo cho học sinh thấy được rằng năng lực học thuật có thể được nâng cao.
+ Làm mẫu những mô hình giải quyết vấn đề tốt.
– Chỉ cho thấy giá trị của học tập:
+ Liên kết giữa bài học với nhu cầu của học sinh.
+ Gắn các hoạt động của lớp học với những nhu cầu, hứng thú của học sinh.
+ Kích thích tính tò mò, ham hiểu biết.
+ Làm cho bài học trở thành “niềm vui”.
+ Cung cấp sự khích lệ, phần thưởng nếu cần thiết.
– Giúp học sinh tập trung vào bài tập:
+ Cho học sinh cơ hội thường xuyên trả lời.
+ Cung cấp cơ hội cho học sinh để có thể tạo ra một sản phẩm cuối cùng nào đó.
+ Tránh việc nhấn mạnh quá mức vào việc tính điểm.
+ Giảm bớt rủi do khi thực hiện bài tập, không xem thường bài tập quá mức.
+ Xây dựng mô hình động cơ học tập.
+ Dạy những chiến thuật, kĩ thuật học tập.
* Các biện pháp kích thích từ bên ngoài:
- Khen thưởng:
• Biểu dương thành công từng phần. Trong mỗi việc nên tìm ra một cái gì đó đáng mừng để động viên.
Nếu xét kĩ lưỡng việc làm của học sinh, chắc chắn ta sẽ tìm ra điểm tốt của họ.
• Biểu dương cố gắng, tiến bộ và thành tích trong những việc làm đơn giản, cũng như những thành tích
hiển hiện. Quan tâm động viên thích đáng đến các học sinh có hoàn cảnh khó khăn, vẫn khắc phục vượt
qua.
- Trách phạt:
Tìm hiểu kĩ, chỉ trách phạt học sinh khi nào thật đáng trách; khi khen nên hào phóng còn khi chê
nên chặt chẽ.
Về nguyên tắc hạn chế việc chê, trách học sinh trước tập thể và trước người khác, nhất là đối với
học sinh lớn tuổi.
Không đột ngột quát tháo. Cần chỉnh lại chỗ sai của học sinh rồi giảng giải cho các em biết để sửa.
Không để tình cảm riêng xen vào; nên tỏ thái độ hi vọng vào sự tiến bộ khi trách phạt.
Không trách phạt với thái độ mỉa mai, miệt thị.
Chỉ phạt vì công việc, không xúc phạm nhân cách hoặc đưa việc khác vào.
Sau khi trách, nên có lời động viên, khích lệ để học sinh có niềm tin và cố gắng sửa.
=>Tóm lại, động cơ học tập không có sẵn, cũng không thể áp đặt mà được hình thành dần dần trong quá
trình người học đi sâu chiếm lĩnh đối tượng học tập. Nhà trường, gia đình, xã hội và nhất là thầy, cô giáo
trong giảng dạy, giáo dục cần có những tác động tích cực để giúp học sinh hình thành và phát triển động cơ
học tập phù hợp, đúng đắn. Giáo viên có thể thông qua nội dung bài giảng, sử dụng phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học… nhằm kích thích tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học viên để việc học trở
thành nhu cầu không thể thiếu của người học.
- Câu 4. Các nguyên tắc dạy học ở trường phổ thông.
- những luận điểm cơ bản tính quy luật của lí luận dạy học, chỉ đạo toàn bộ tiếnNguyên tắc dạy học
trình dạy và học nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ dạy học.
- Hệ thống các nguyên tắc dạy học ở trường phổ thông bao gồm:
1. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục:
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải vũ trang cho người học những tri thức khoa
học chân chính, phản ánh những thành tựu khoa học, công nghệ và văn hoá hiện đại, phải dần dần giúp
học sinh tiếp cận với những phương pháp học tập, nhận thức, thói quen suy nghĩ và làm việc một cách
khoa học. Thông qua đó mà dần dần hình thành cơ sở thế giới quan khoa học, tình cảm và những phẩm
chất đạo đức cao quý của con người hiện đại.
Chính vì vậy, để thực hiện nguyên tắc này cần phải:
- Vũ trang cho người học những tri thức khoa học chân chính, hiện đại nhằm giúp cho họ nắm
được quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy, có cách nhìn và thái độ hành động đúng đắn đối với
hiện thực.
- Cung cấp cho họ những hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên, xã hội, con người Việt Nam.Từ đó giáo
dục cho học sinh tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước trong học tập và tu dưỡng.
- Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực phân tích, biết phê phán một cách đúng mức những
thông tin đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, những quan niệm khác nhau về một vấn đề
- Vận dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học theo hướng giúp học sinh làm quen
với một số phương pháp nghiên cứu khoa học ở mức độ đơn giản nhằm dần dần tiếp cận với hoạt động
khoa học, rèn luyện những tác phong, phẩm chất của người nghiên cứu khoa học
2.Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học nắm vững tri thức, nắm vững cơ sở khoa học, kỹ
thuật, văn hoá khi kết hợp hai điều kiện: Thứ nhất tri thức là những điểm có hệ thống, quan trọng và then
chốt hơn cả. Thứ hai tri thức đó phải được vận dụng trong thực tiễn để cải tạo hiện thực, cải tạo bản thân.
Thông qua đó mà giúp họ ý thức rõ tác dụng của tri thức lý thuyết đối với đời sống, với thực tiễn, với công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, hình thành cho họ những kỹ năng vận dụng chúng ở những mức độ
khác nhau mà mức độ cao nhất là góp phần phát triển kinh tế xã hội và văn hoá khoa học của đất nước.
Để thực hiện nguyên tắc này cần phải:
- Khi xây dựng kế hoạch chương trình dạy học cần lựa chọn những môn học và những tri cơ bản,
phù hợp với những điều kiện thiên nhiên, với hoàn cảnh thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội
- Về nội dung dạy học phải làm cho người học nắm vững tri thức lý thuyết, thấy rõ nguồn gốc của
những tri thức đó và vai trò của tri thức khoa học đối với thực tiễn
- Về phương pháp dạy học cần khai thác vốn sống của người học để minh hoạ, để đặt ra và giải
quyết những vấn đề lý luận. Thông qua đó, bước đầu giúp học sinh làm quen với những phương pháp
nghiên cứu khoa học
- Về hình thức tổ chức dạy học thì cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học khác nhau
3.Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan và tính trừu tượng trong dạy học.
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học có thể cho học sinh tiếp xúc trực tiếp với sự vật,
hiện tượng hay hình tượng của chúng, từ đó hình thành những khái niệm, quy luật, lý thuyết; ngược lại, có
thể từ việc lĩnh hội những tri thức lý thuyết trước rồi xem xét những sự vật, hiện tượng cụ thể sau. Trong
việc vận dụng nguyên tắc này bao giờ cũng đảm bảo mối quan hệ qua lại giữa tư duy cụ thể và tư duy trừu
tượng.
Để thực hiện nguyên tắc này cần:
- Sử dụng phối hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách là phương tiện và nguồn
nhận thức.
- Kết hợp việc trình bày các phương tiện trực quan và lời nói sinh động, diễn cảm, nghĩa là kết hợp
hai hệ thống tín hiệu.
- Cần sử dụng lời nói giàu hình ảnh để giúp học sinh vận dụng những biểu tượng đã có để hình
thành những biểu tượng mới, qua đó mà hình thành những khái niệm, định luật mới.
- Cần vận dụng một trong những cách sử dụng trực quan nêu trên phù hợp với lứa tuổi, nội dung và
hoàn cảnh cụ thể nhằm hình thành và phát triển tư duy lý thuyết cho họ.
- Cần sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách hiệu quả.
- Đề ra cho học sinh những bài tập nhận thức đòi hỏi phải thiết lập được mối quan hệ giữa cái cụ
thể, cái trừu tượng và ngược lại.
4.Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững chắc của tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và tính
mềm dẻo của tư duy.
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi học sinh nắm chắc bản chất vấn đề trong sự hòa trộn với khinh nghiệm bản
thân. Mặt khác, học sinh cần phải nhớ lâu, nhớ nhiều, nhớ nhanh, nhớ chính xác kiến thức phù hợp nhằm
giải quyết có hiệu quả từng tình huống cụ thể.
Quá trình nắm kiến thức liên quan mật thiết đến các phẩm chất tư duy. Tư duy mềm dẻo, linh hoạt trong
lĩnh hội, đồng thời phải cơ động trong việc vận dụng giải quyết những tình huống quen thuộc và tình huống
mới.
Để thực hiện nguyên tắc này cần:
- Cần làm nổi bật cái cơ bản, bản chất của vấn đề.
- Học sinh phải biết sử dụng phối hợp các loại ghi nhớ: ghi nhớ chủ định, ghi nhớ không chủ định,
ghi nhơ máy móc, ghi nhớ có ý nghĩa. Tuy nhiên, ghi nhớ có chủ định có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó là
cơ sở của sự học thuộc và nhớ lâu.
- Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa, cần hướng dẫn các em biết cách sưu
tầm và tra cứu tài liệu tham khảo.
- Trong quá trình dạy học, chú ý ôn tập cho học sinh. Song, trong ôn tập phải yêu cầu học sinh nắm
được tính hệ thống của kiến thức, thấy được cái mới, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh vận dụng kiến
thức vào nhiều tình huống thực tiễn khác nhau. Điều đó có tác dụng làm cho học sinh vừa nắm chắc kiến
thức, vừa rèn luyện phẩm chất linh hoạt trong tư duy.
5.Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính tuần tự trong dạy học
Nguyên tắc này đòi hỏi phải giúp người học lĩnh hội hay nói cách khác là nhận thức được trình tự hệ
thống logic, phải cho người học biết hệ thống những kiến thức khoa học hiện đại. Trong lịch sử khoa học,
sự nhận thức những vật thể và hiện tượng phức tạp hơn thường đi trước sự nhận thức những thành phần
của nó, trong quá trình dạy học ở trường phổ thông khi muốn giới thiệu về tế bào của động, thực vật thì
cần phải giới thiệu những thực vật, động vật trước hay việc trình bày các hợp chất trước tiên phải nghiên
cứu các phân tử, nguyên tử,… Chính vì thế hệ thống hợp lý về mặt lý luận dạy học của những giáo trình
phải được xây dựng trên sự nghiên cứu cẩn thận logic của khoa học và sự phát triển của những khái niệm,
định luật trong lịch sử khoa học và trong ý thức của người học sinh.
Để thực hiện nguyên tắc dạy học này, về mặt nội dung dạy học cần:
- Xây dựng hệ thống dạy học cần phải phụ thuộc vào lý thuyết làm cơ sở cho việc giảng dạy, với tính
tuần tự như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi để phát triển tư duy lý luận cho học sinh.
6.Thống nhất vai trò chủ đạo của người dạy và vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo độc lập của
học sinh trong dạy học
Trong dạy học, phải đảm bảo mối quan hệ thuận lợi nhất giữa sự chỉ đạo sư phạm của thầy giáo và lao
động tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh
- Tính tự giác nhận thức thể hiện ở chỗ người học phải tự nhận thức đầy đủ mục đích của việc học này,
nhiệm vụ của mình cần phải làm gì.
- Tính tích cực nhận thức ở đây được hiểu là người học có thái độ tích cực trọng việc học, có sự tương
tác cao trong việc dạy và học của hai.
- Tính sáng tạo độc lập ở đây được hiểu là học sinh tự độc lập trong việc giải quyết các vấn đề, cần
sáng tạo trong lúc cần thiết điều này cần phải linh động từ ý thức tới hành động
Để thực hiện nguyên tắc này, trong quá trình dạy học cần:
- Hoạt động dạy học phải hướng vào người học sinh, phải phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng
tạo của học sinh, tạo điều kiện cho họ có thể học tập bằng chính hoạt động của mình.
- Giáo dục cho học sinh ý thức đầy đủ, sâu sắc về mục đích, nhiệm vụ học tập, từ đó có động cơ, thái độ
học tập đúng đắn.
- Phát huy tư duy ngôn ngữ cho học sinh, khéo léo dẫn dắt học sinh vào các tình huống có vấn đề, giải
các bài tập có tính độc lập.
- Bồi dưỡng cho các em năng lực tự học, tự nghiên cứu, óc hoài nghi khoa học…
- Trong giảng dạy, giáo viên phải thu được thông tin ngược chiều từ phía học sinh để điều chỉnh và hoàn
thiện hơn công tác dạy và học.
8.Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá biệt và tính
tập thể của việc dạy học
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học, khi lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học phải không ngừng nâng cao mức độ khó khăn trong học tập, gây nên sự căng thẳng về trí
lực, thể lực một cách cần thiết, nói cách khác, dạy học vừa sức có nghĩa là trong dạy học phải tạo nên khó
khăn vừa sức, những yêu cầu và nhiệm vụ học tập đề ra phải tương ứng với giới hạn cao nhất của vùng
phát triển trí tuệ gần nhất.
Để đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới những đặc điểm cá biệt trong điều kiện tiến hành dạy và học
với cả tập thể cần:
- Xác định mức độ tính chất khó khăn trong quá trình dạy học để thiết lập những cách thức chủ yếu tạo
nên động lực học tập, mở rộng khả năng nhận thức của học sinh, suy nghĩ những biện pháp tiến hành
chung với cả lớp và với từng học sinh.
- Phối hợp hình thức lên lớp, hình thức độc lập công tác của học sinh và hình thức học tập nhóm tại lớp,
trước tập thể lớp, giáo viên đề ra nhiệm vụ chung và dưới sự chỉ đạo của giáo viên, từng cá nhân suy nghĩ
cách giải quyết và trong thời gian đó, giáo viên giúp đỡ những học sinh yếu kém.
- Cách tiến hành dạy học như vậy không chỉ giáo dục tinh thần tập thể cho học sinh, mà từng học sinh
giúp đỡ lẫn nhau nên nhiệm vụ học tập đề ra trở nên vừa sức mỗi người.
Để tổ chức hoạt động dạy học trong nhà trường phổ thông cần có đầy đủ các thành tố khác cùng tham gia
trong sự tương thích với nhau, bao gồm: mục tiêu, nhiệm vụ dạy học; nội dung, phương pháp, phương tiện,
hình thức tổ chức dạy học, môi trường dạy học.
- Câu 5. Khái niệm và chức năng của mục tiêu dạy học
Khái niệm:
●Mục tiêu dạy học kết quả về sự phát triển nhân cách của người học cần đạt được sau khi kết thúc một
giai đoạn hay một quá trình dạy học.
●Mục tiêu dạy học của quá trình dạy học hiện đại luôn hướng tới những công việc hay những hành động mà
người học có thể làm được sau khi kết thúc khóa học, năm học, học kỳ hay một môn học.
Ví dụ: Từ một thanh niên (hoặc quân nhân) trúng tuyển vào trường sỹ quan, sau 4 năm đào tạo trở
thành một sỹ quan quân đội có trình độ cử nhân quân sự và là 1 đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.Trạng
thái phát triển nhân cách của người được đào tạo thể hiện ở phẩm chất vànăng lực hoàn thành nhiệm vụ
sau khi tốt nghiệp mà trước khi được đào tạo họ khôngthể làm được. Như vậy, hiểu một cách cụ thể hơn:
Mục tiêu dạy học là những nhiệm vụ, công việc mà học viên phải làm được sau một quá trình học
tập mà trước đó họ chưa làm đựơc.
Quá trình đào tạo trong nhà trường là tổng hoà của nhiều hoạt động khác nhau:quá trình dạy học; quá
trình giáo dục (hiểu theo nghĩa hẹp); quá trình rèn luyện…Quá trình dạy học có thể là quá trình dạy học
toàn khoá, một môn học, một bài học. Như vậy, mục tiêu dạy học xác định những kết quả cần đạt đựơc ở
người học. Nó không phải là bản liệt kê hay mô tả nội dung dạy học.
Chức năng của mục tiêu dạy học
Chức năng định hướng: Giáo viên căn cứ vào mục tiêu dạy học để thiết kế nội dung, lựa chọn phương
pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm mang lại hiệu quả tối ưu cho hoạt động dạy
học. Còn học sinh, trên cơ sở ý thức được mục tiêu dạy học sẽ có ý thức, hành vi điều chỉnh hoạt động học
tập của bản thân để hoàn thành tốt các nhiệm vụ dạy học.
Chức năng kiểm tra - đánh giá: Mục tiêu dạy học như là những thước đo mà giáo viên căn cứ vào đó để
đánh giá kết quả học tập của học sinh, cũng như tự đánh giá hiệu quả hoạt động dạy học của bản thân.
- Câu 6. Khái niệm và cấu trúc nội dung dạy học phổ thông
Khái niệm:
Nội dung dạy học là hệ thống những tri thức, kinh nghiệm thực hiện những cách thức hoạt động đã biết,
kinh nghiệm hoạt động sáng tạo và kinh nghiệm về thái độ đối với thế giới, con người, được xử lí về mặt sư
phạm và được định hướng về mặt chính trị, mà người giáo viên cần tổ chức cho học sinh lĩnh hội để đảm
bảo hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo mục tiêu dạy học đã định.
Đặc trưng của NDDH là: (Thêm vào nếu hỏi)
- NDDH là một hệ thống bao gồm đầy đủ các yếu tố của cấu trúc kinh nghiệm xã hội cần truyền đạt cho thế
hệ trẻ
- NDDH được lựa chọn và xây dựng từ kinh nghiệm xã hội của loài người theo một định hướng chính trị
nhất định. Điều đó nói lên tính lịch sử, tính giai cấp của nội dung dạy học.
-NDDH đã được xử lí về mặt sư phạm để phù hợp với đặc điểm tâm lí – sinh lí của học sinh ở từng lứa tuổi,
từng cấp học, bậc học
Cấu trúc nội dung dạy học có 4 thành phần:
Thứ nhất: Tri thức về nhiều lĩnh vực khác nhau (tự nhiên, hội, duy, thuật, phương pháp…). Sự
lĩnh hội các tri thức này sẽ giúp cho học sinh có vốn hiểu biết phong phú, có công cụ để hình thành thế giới
quan khoa học.
●Thứ hai: Kinh nghiệm tiến hành các phương thức hoạt động đã biết (KN, KX chung chuyên biệt,
phương pháp, quy trình…). Nắm vững yếu tố này giúp học sinh vận dụng tri thức để giải quyết vấn đề cụ
thể.
●Thứ ba: Kinh nghiệm tiến hành các hoạt động sáng tạo (vận dụng tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp và
các thao tác tư duy trong những tình huống mới, không giống mẫu). Nhờ có yếu tố này mà học sinh có năng
lực giải quyết vấn đề mới, cải tạo hiện thực, thực hành nghiên cứu khoa học
●Thứ tư: Kinh nghiệm về thái độ cảm xúc đánh giá đối với thế giới, đối với con người. Thành phần này thể
hiện tính giáo dục của nội dung dạy học.
Đây là các tri thức, thái độ và hành vi trong các quan hệ theo những chuẩn mực xã hội. Lĩnh hội yếu tố này
sẽ tạo nên niềm tin, lí tưởng, hình thành hệ thống giá trị đúng đắn ở học sinh.
- Câu 7. Mối quan hệ giữa các thành phần của nội dung dạy học
Cấu trúc nội dung dạy học có 4 thành phần:
● Thứ nhất: Tri thức về nhiều lĩnh vực khác nhau (tự nhiên, xã hội, tư duy, kĩ thuật, phương pháp…).
●Thứ hai: Kinh nghiệm tiến hành các phương thức hoạt động đã biết (KN, KX chung chuyên biệt,
phương pháp, quy trình…).
●Thứ ba: Kinh nghiệm tiến hành các hoạt động sáng tạo (vận dụng tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp và
các thao tác tư duy trong những tình huống mới, không giống mẫu).
●Thứ tư: Kinh nghiệm về thái độ cảm xúc đánh giá đối với thế giới, đối với con người.
- Bốn thành phần trên của nội dung dạy học liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau:
- sở hình thành năng ,kĩ xảo. Tri thức KN, KX lại sở để tạo ra kinh nghiệm hoạtTri thức
động sáng tạo. Không có tri thức thì không thể có KN, KX và cũng không thể có hoạt động sáng tạo.
- Hoạt động sáng tạo bắt nguồn từ những cái đã biết, trên cơ sở đó mới có những thay đổi, chỉnh sửa thích
hợp. Song, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo không phải tỉ lệ thuận với khối lượng tri thức mà phụ thuộc vào
cách thức lĩnh hội và vận dụng tri thức đó. Đến lượt mình, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo lại tạo điều kịện
để lĩnh hội tri thức, KN, KX nhanh hơn, tốt hơn, sâu sắc hơn. Nắm vững các thành phần trên giúp học sinh
có thái độ đánh giá đúng đắn với TN, XH con người. Còn thái độ tác động trở lại tạo ra sự tích cực hay
không tích cực trong việc lĩnh hội tri thức, KN, KX và hoạt động sáng tạo.
- Bốn thành phần này không thể thiếu trong nội dung dạy học để giáo dục nên con người phát triển toàn
diện, cho nên không được coi nhẹ bất cứ thành phần nào.
- Câu 8. Một số kĩ thuật và phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học.
Khái niệm phương pháp dạy học:
| 1/36

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG LLDH NĂM HỌC 2021 - 2022
Câu 1. Khái niệm và bản chất của quá trình dạy học. Khái niệm:
Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của người dạy, người học
tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình
nhằm thực hiện tốt mục đích dạy học, qua đó, phát triển nhân cách.
- Ví dụ: QTDH ở trường HNUE là hệ thống những hành động liên tiếp và thâm nhập vào nhau của
giáo viên và học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên, nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức, kỹ
năng và bước đầu hình thành kỹ xảo liên quan đến một nghề nhất định, qua đó góp phần hoàn thiện nhân
cách nói chung, hình thành và phát triển nhân cách nghề nghiệp nói riêng ở học sinh.
Bản chất của quá trình dạy học
a. Cơ sở xác định bản chất của quá trình dạy học
* Mối quan hệ giữa nhận thức và dạy học trong sự phát triển xã hội:
- Trong xã hội diễn ra hoạt động nhận thức của loài người và hoạt động dạy học cho thế hệ trẻ.
Trong đó, hoạt động nhận thức của loài người có trước hoạt động dạy học và là nhu cầu tất yếu của xã
hội. Tuy nhiên, hoạt động của người học trong dạy học diễn ra trong môi trường sư phạm đặc biệt và có sự
hướng dẫn, tổ chức, điều khiển của thầy.
* Mối quan hệ giữa dạy và học, thầy và trò:
- Dạy và học là hai hoạt động đặc trưng cơ bản của qua trình dạy học có mối quan hệ thống nhất
biện chứng với nhau. Xét cho cùng, mọi hoạt động giảng dạy của thầy và hoạt động học tập của trò là
nhằm thúc đẩy hoạt động nhận thức của người học chiếm lĩnh nội dung học tập được quy định trong
chương trình dạy học nhằm thực hiện tốt mục tiêu nhiệm vụ dạy học. - Dạy là gi?
"Dạy là một hoạt động đặc trưng của người dạy nhằm tổ chức, điều khiển, tạo ra nhiều điều kiện và
cơ hội cho quá trình học diễn ra một cách thuận lợi và đạt mục đích". Hoạt động phải tổ chức, sắp xếp các
điều kiện, tạo ra các cơ hội thuận lợi và điều khiển, kiểm soát quá trình học nhằm làm tăng thêm lượng
kiến thức, kỹ năng và thay đổi thái độ, cách đánh giá hiện có của người học. Kết quả cuối cùng là tạo điều
kiện và thúc đẩy quá trình học diễn ra trong một môi trường thuận lợi nhất - Học là gì?
"Học là một hoạt động tích cực (TC), tự lực và sáng tạo của người học nhằm tạo ra sự thay đổi
trong nhận thức, thái độ và kỹ năng trên cơ sở những kiến thức, thái độ và kỹ năng hiện có của bản thân".
Học chính là tạo ra sự thay đổi, nếu người học không thay đổi, điều có có nghĩa là chưa diễn ra quá
trình học. Tuy nhiên, sự thay đổi về mặt nhận thức sẽ là mục tiêu cuối cùng của quá trình học. Nhờ có
nhận thức, qua quá trình TC hoạt động, các hành vi, kỹ năng và thái độ của người học sẽ được điều chỉnh
theo hướng hoàn thiện hơn.
- Mối quan hệ giữa dạy và học:
+) Dạy và học là hai hoạt động thống nhất biện chứng (nhưng không đồng nhất) với nhau, phản
ánh tính hai mặt của QTDH và là một quy luật cơ bản của QTDH.
+) Trong lượng kiến thức mà người dạy cung cấp cho người học thì sẽ có một phần không được người học tiếp nhận
+) Phần vòng tròn tượng trưng cho những kiến thức do người dạy cung cấp bao giờ cũng nhỏ hơn
những gì người học học được
+) Phần vòng tròn tượng trưng cho "những gì được học nhưng không được dạy" sẽ tác động đến
"những gì được dạy và được học".
b.Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức có tính chất độc đáo
của người học dưới sự tổ chức, định hướng, điều khiển của người giáo viên nhằm giúp người học
chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo trên cơ sở đó phát triển các phẩm chất và năng lực,
đáp ứng mục tiêu dạy học.
- Quá trình nhân thức của học sinh giống với các quá trình nhận thức khác (nhận
thức thông thường và nhận thức của nhà khoa học)
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người thông qua chủ thể – đó là sự phản
ánh tâm lý của con người bắt đầu từ cảm giác, tri giác đến tư duy, tưởng tượng. Sự học tập của học sinh
cũng là quá trình như vậy.Quá trình nhận thức của học sinh cũng diễn ra theo quy luật nhận thức chung của loài người.
Trong quá trình nhận thức, con người muốn nhận thức đầy đủ một vấn đề, một sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan, cần phải huy động các thao tác tư duy ở mức độ cao nhất. Việc huy động các
thao tác tư duy cũng không theo một trình tự đơn thuần mà đó là một sự phối hợp sáng tạo tùy thuộc vào mỗi cá nhân.
Kết quả nhận thức học sinh nói riêng và loài người nói chung đều có điểm chung
là làm cho vốn hiểu biết của chủ thể tăng lên. Sau mỗi một giai đoạn nhận thức, vốn
hiểu biết của chủ thể tăng lên nhờ sự tích lũy những tri thức, hình thành những kinh
nghiệm mới trong quá trình nhận thức của mình.
-Tính độc đáo quá trình nhận thức của học sinh trong quá trình học
tập (điểm khác biệt với nhận
thức thông thường và nhận thức của nhà khoa học)
Trong dạy học, quá trình nhận thức của học sinh diễn ra trong điều kiện sư phạm
đặc biệt. Vì vậy, hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học được tối ưu hoá, chỉ trong thời gian học
tập ngắn, học sinh đã nắm vững được hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách hiệu quả.
Mục đích quá trình nhận thức của học sinh là nhận thức được cái mới đối với
bản thân mình, rút ra từ kho tàng hiểu biết chung của nhân loại. Những tri thức này rút
ra từ tri thức khoa học của các ngành khoa học tương ứng và được gia công về mặt sư
phạm thể hiện trong nội dung dạy học. Trong khi đó, mục đích quá trình nhận thức của
nhà khoa học là mang lại cái mới không chỉ cho nhà khoa học mà cho cả nhân loại về tri thức đó, một
chân lý mới làm sâu sắc và phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Kết quả quá trình nhận thức của học sinh là nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
hòa được những tri thức đó vào hệ thống vốn kinh nghiệm của bản thân mình, lưu trữ được bền vững, khi
cần có thể tái hiện và vận dụng được trong cuộc sống. Vì vậy những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo được hình
thành ở học sinh phải được kiểm tra, đánh giá một cách có kế hoạch và có hệ thống nhằm đảm bảo tính
vững chắc của tri thức thực hiện những yêu cầu về mặt dạy học và giáo dục. Trong quá trình nhận thức
của học sinh, phải có khâu kiểm tra và đánh giá, đảm bảo cho quá trình này hợp thành một chu trình kín.
Quá trình nhận thức của học sinh trong dạy học luôn mang ý nghĩa giáo dục, bởi
thông qua dạy học các môn học, người học lĩnh hội tri thức khoa học các môn học trên
cơ sở đó hình thành được cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan đúng đắn, phát
triển trí tuệ và những phẩm chất đạo đức của người công dân, người lao động mà xã hội yêu cầu.
Kết luận sư phạm
- Cần dạy học phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo hoạt động học tập của học
sinh tham gia vào quá trình dạy học.
- Tổ chức, hướng dẫn hoạt động học tập của học sinh một cách khoa học dựa trên cơ sở quy luật
nhận thức, các lý thuyết hoạt động học tập nhằm thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ dạy học.
- Đảm bảo ý nghĩa giáo dục của dạy học , được thể hiện trong mọi hoạt động, mọi khâu, mọi thành
tố của quá trình dạ y học. Ví dụ: nội dung dạy học, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, mối quan hệ
giao tiếp ứng xử của giáo viên với học sinh…
- Không nên quá cường điệu những nét riêng biệt, độc đáo trong hoạt động học tập của
người học. Nếu như vậy sẽ rơi vào xu hướng sai lầm là chỉ chú trọng truyền đạt cho học sinh một số tri
thức có sẵn, quy trình hoạt động máy móc, mà coi nhẹ việc tổ chức cho học sinh độc lập nghiên cứu để
nắm lấy tri thức và rèn luyện phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu.
- Trong quá trình dạy học, bên cạnh việc trang bị cho học sinh những tri thức khoa học cơ
bản, tổ chức thực hành để hình thành kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống thì người giáo viên còn cần
chú ý sử dụng những phương pháp dạy học, đề xuất các bài tập nhận thức có tác dụng phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập, giúp họ tiếp cận với hoạt động nhận
thức của các nhà khoa học.
Câu 2. Các quy luật cơ bản của quá trình dạy học.
Khái niệm quá trình dạy học:
Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của người dạy, người học tự
giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình nhằm
thực hiện tốt mục đích dạy học, qua đó, phát triển nhân cách.
-Quy luật dạy học phản ánh mối quan hệ chủ yếu, tất yếu và bền vững giữa các thành tố trong cấu trúc của
quá trình dạy học (và giữa các yếu tố trong từng thành tố).
Các quy luật dạy học bao gồm:
- Quy luật về tính quy định của xã hội đối với quá trình dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy học và phát triển trí tuệ;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy học và giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa nội dung dạy học với phương pháp
và phương tiện dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa việc xây dựng kế hoạch, việc tổ
chức, việc điều chỉnh và việc kiểm tra hoạt động của học sinh trong tiến trình thực hiện;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học với mục đích dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa phương pháp dạy học với phương pháp khoa học. v.v...
Trong các quy luật nêu trên, lí luận dạy học coi quy luật về sự thống nhất biện
chứng giữa dạy và học là quy luật cơ bản của quá trình dạy học, bởi sự có mặt những
yếu tố dạy và học quy định sự tồn tại, phát triển của quá trình dạy học. Ở đây nói tới
sự dạy thì ở đó theo nó là sự học.
- Câu 3. Một số biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh.
Khái niệm động cơ học tập:
Động cơ học tập là sức thúc đẩy, định hướng hoạt động học tập, tức là học để làm gì. Động cơ học tập là
những nhân tố kích thích, thúc đẩy tính tích cực trong học tập của học sinh nhằm đạt kết quả nhận thức và
hình thành, phát triển nhân cách.
- Các loại động cơ học tập:
+ Động cơ học tập trong là động cơ liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập, do chính sự tồn tại của hoạt
động học: nhu cầu học, sự ham hiểu biết, hứng thú học, niềm vui và thử thách bản thân, sự thỏa mãn do
thành tựu học tập đem lại.
+ Động cơ học tập ngoài là động cơ rất ít liên quan trực tiếp tới hoạt động học tập mà thường là do kết quả
của hoạt động học tập mang lại: Lời khen, phần thưởng, sự trừng phạt, ý thức trách nhiệm v.v, tóm lại là
toàn bộ các phẩm chất tâm lí cá nhân, các trạng thái tâm lí (vui vẻ/ lo âu v.v) cá nhân và các yêu cầu, áp
lực từ bên ngoài khi tiến hành hoạt động đều có thể trở thành nguồn ở để tạo ra động lực thúc đẩy hoạt động của cá nhân
- Khi được thúc đẩy từ động cơ trong, học sinh ít cần đến sự khuyến khích hay trừng phạt, bởi vì chính
hoạt động học và sản phẩm của nó là một phần thưởng cao quý. Học sinh học tập được thúc đẩy bởi động
cơ trong thường ít phải diễn ra sự “đấu tranh động cơ”giữa giá trị của những phần thưởng do việc học
mang lại với sự khó khăn, trở ngại do chính việc học nảy sinh. Còn khi hoạt động học được kích thích bởi
động cơ ngoài, thì học sinh không quan tâm đến bản thân hoạt động học, mà chỉ quan tâm qua hoạt động
đó ta sẽ được cái gì? được bằng cấp, phần thưởng hay tránh được sự trừng phạt từ phía nhà trường hay gia đình v.v…
- Động cơ trong có tác dụng thúc đẩy và phát triển hoạt động học của học sinh và không làm suy giảm xu
thế tích cực của hoạt động học, vì những thành tựu mà học sinh đạt được trong quá trình học là nguồn vô
tận nuôi dưỡng và phát triển động cơ. Còn phần thưởng (động cơ ngoài) cũng kích thích tính tích cực hoạt
động học, nhưng về bản chất sẽ giảm xu thế tích cực của hoạt động, vì sức mạnh kích thích phụ thuộc vào
giá trị của phần thưởng và nhu cầu, sở thích của học sinh đối với phần thưởng đó.
Biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh:
* Các biện pháp kích thích từ bên trong:
- Hoàn thiện những yêu cầu cơ bản:
+ Cung cấp một môi trường lớp học có tổ chức.
+ Là một người giáo viên luôn quan tâm đến lớp học.
+ Giao những bài tập có thử thách nhưng không quá khó.
+ Làm cho bài tập trở nên có giá trị với học sinh.
- Xây dựng niềm tin và những kì vọng tích cực:
+ Bắt đầu công việc ở mức độ vừa sức của học sinh.
+ Làm cho mục tiêu học tập rõ ràng, cụ thể và có thể đạt tới được.
+ Nhấn mạnh vào sự tự so sánh hơn là cạnh tranh.
+ Thông báo cho học sinh thấy được rằng năng lực học thuật có thể được nâng cao.
+ Làm mẫu những mô hình giải quyết vấn đề tốt.
– Chỉ cho thấy giá trị của học tập:
+ Liên kết giữa bài học với nhu cầu của học sinh.
+ Gắn các hoạt động của lớp học với những nhu cầu, hứng thú của học sinh.
+ Kích thích tính tò mò, ham hiểu biết.
+ Làm cho bài học trở thành “niềm vui”.
+ Cung cấp sự khích lệ, phần thưởng nếu cần thiết.
– Giúp học sinh tập trung vào bài tập:
+ Cho học sinh cơ hội thường xuyên trả lời.
+ Cung cấp cơ hội cho học sinh để có thể tạo ra một sản phẩm cuối cùng nào đó.
+ Tránh việc nhấn mạnh quá mức vào việc tính điểm.
+ Giảm bớt rủi do khi thực hiện bài tập, không xem thường bài tập quá mức.
+ Xây dựng mô hình động cơ học tập.
+ Dạy những chiến thuật, kĩ thuật học tập.
* Các biện pháp kích thích từ bên ngoài: - Khen thưởng:
• Biểu dương thành công từng phần. Trong mỗi việc nên tìm ra một cái gì đó đáng mừng để động viên.
Nếu xét kĩ lưỡng việc làm của học sinh, chắc chắn ta sẽ tìm ra điểm tốt của họ.
• Biểu dương cố gắng, tiến bộ và thành tích trong những việc làm đơn giản, cũng như những thành tích
hiển hiện. Quan tâm động viên thích đáng đến các học sinh có hoàn cảnh khó khăn, vẫn khắc phục vượt qua. - Trách phạt: •
Tìm hiểu kĩ, chỉ trách phạt học sinh khi nào thật đáng trách; khi khen nên hào phóng còn khi chê nên chặt chẽ. •
Về nguyên tắc hạn chế việc chê, trách học sinh trước tập thể và trước người khác, nhất là đối với học sinh lớn tuổi. •
Không đột ngột quát tháo. Cần chỉnh lại chỗ sai của học sinh rồi giảng giải cho các em biết để sửa. •
Không để tình cảm riêng xen vào; nên tỏ thái độ hi vọng vào sự tiến bộ khi trách phạt. •
Không trách phạt với thái độ mỉa mai, miệt thị. •
Chỉ phạt vì công việc, không xúc phạm nhân cách hoặc đưa việc khác vào. •
Sau khi trách, nên có lời động viên, khích lệ để học sinh có niềm tin và cố gắng sửa.
=>Tóm lại, động cơ học tập không có sẵn, cũng không thể áp đặt mà được hình thành dần dần trong quá
trình người học đi sâu chiếm lĩnh đối tượng học tập. Nhà trường, gia đình, xã hội và nhất là thầy, cô giáo
trong giảng dạy, giáo dục cần có những tác động tích cực để giúp học sinh hình thành và phát triển động cơ
học tập phù hợp, đúng đắn. Giáo viên có thể thông qua nội dung bài giảng, sử dụng phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học… nhằm kích thích tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học viên để việc học trở
thành nhu cầu không thể thiếu của người học.
- Câu 4. Các nguyên tắc dạy học ở trường phổ thông.
- Nguyên tắc dạy học là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lí luận dạy học, chỉ đạo toàn bộ tiến
trình dạy và học nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ dạy học.
- Hệ thống các nguyên tắc dạy học ở trường phổ thông bao gồm:
1. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục: Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải vũ trang cho người học những tri thức khoa
học chân chính, phản ánh những thành tựu khoa học, công nghệ và văn hoá hiện đại, phải dần dần giúp
học sinh tiếp cận với những phương pháp học tập, nhận thức, thói quen suy nghĩ và làm việc một cách
khoa học. Thông qua đó mà dần dần hình thành cơ sở thế giới quan khoa học, tình cảm và những phẩm
chất đạo đức cao quý của con người hiện đại.
Chính vì vậy, để thực hiện nguyên tắc này cần phải:
- Vũ trang cho người học những tri thức khoa học chân chính, hiện đại nhằm giúp cho họ nắm
được quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy, có cách nhìn và thái độ hành động đúng đắn đối với hiện thực.
- Cung cấp cho họ những hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên, xã hội, con người Việt Nam.Từ đó giáo
dục cho học sinh tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước trong học tập và tu dưỡng.
- Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực phân tích, biết phê phán một cách đúng mức những
thông tin đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, những quan niệm khác nhau về một vấn đề
- Vận dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học theo hướng giúp học sinh làm quen
với một số phương pháp nghiên cứu khoa học ở mức độ đơn giản nhằm dần dần tiếp cận với hoạt động
khoa học, rèn luyện những tác phong, phẩm chất của người nghiên cứu khoa học
2.Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học nắm vững tri thức, nắm vững cơ sở khoa học, kỹ
thuật, văn hoá khi kết hợp hai điều kiện: Thứ nhất tri thức là những điểm có hệ thống, quan trọng và then
chốt hơn cả. Thứ hai tri thức đó phải được vận dụng trong thực tiễn để cải tạo hiện thực, cải tạo bản thân.
Thông qua đó mà giúp họ ý thức rõ tác dụng của tri thức lý thuyết đối với đời sống, với thực tiễn, với công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, hình thành cho họ những kỹ năng vận dụng chúng ở những mức độ
khác nhau mà mức độ cao nhất là góp phần phát triển kinh tế xã hội và văn hoá khoa học của đất nước.
Để thực hiện nguyên tắc này cần phải: -
Khi xây dựng kế hoạch chương trình dạy học cần lựa chọn những môn học và những tri cơ bản,
phù hợp với những điều kiện thiên nhiên, với hoàn cảnh thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội -
Về nội dung dạy học phải làm cho người học nắm vững tri thức lý thuyết, thấy rõ nguồn gốc của
những tri thức đó và vai trò của tri thức khoa học đối với thực tiễn -
Về phương pháp dạy học cần khai thác vốn sống của người học để minh hoạ, để đặt ra và giải
quyết những vấn đề lý luận. Thông qua đó, bước đầu giúp học sinh làm quen với những phương pháp nghiên cứu khoa học -
Về hình thức tổ chức dạy học thì cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học khác nhau
3.Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan và tính trừu tượng trong dạy học. Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học có thể cho học sinh tiếp xúc trực tiếp với sự vật,
hiện tượng hay hình tượng của chúng, từ đó hình thành những khái niệm, quy luật, lý thuyết; ngược lại, có
thể từ việc lĩnh hội những tri thức lý thuyết trước rồi xem xét những sự vật, hiện tượng cụ thể sau. Trong
việc vận dụng nguyên tắc này bao giờ cũng đảm bảo mối quan hệ qua lại giữa tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng.
Để thực hiện nguyên tắc này cần: -
Sử dụng phối hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách là phương tiện và nguồn nhận thức. -
Kết hợp việc trình bày các phương tiện trực quan và lời nói sinh động, diễn cảm, nghĩa là kết hợp hai hệ thống tín hiệu. -
Cần sử dụng lời nói giàu hình ảnh để giúp học sinh vận dụng những biểu tượng đã có để hình
thành những biểu tượng mới, qua đó mà hình thành những khái niệm, định luật mới. -
Cần vận dụng một trong những cách sử dụng trực quan nêu trên phù hợp với lứa tuổi, nội dung và
hoàn cảnh cụ thể nhằm hình thành và phát triển tư duy lý thuyết cho họ. -
Cần sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách hiệu quả. -
Đề ra cho học sinh những bài tập nhận thức đòi hỏi phải thiết lập được mối quan hệ giữa cái cụ
thể, cái trừu tượng và ngược lại.
4.Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững chắc của tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và tính
mềm dẻo của tư duy. Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi học sinh nắm chắc bản chất vấn đề trong sự hòa trộn với khinh nghiệm bản
thân. Mặt khác, học sinh cần phải nhớ lâu, nhớ nhiều, nhớ nhanh, nhớ chính xác kiến thức phù hợp nhằm
giải quyết có hiệu quả từng tình huống cụ thể.
Quá trình nắm kiến thức liên quan mật thiết đến các phẩm chất tư duy. Tư duy mềm dẻo, linh hoạt trong
lĩnh hội, đồng thời phải cơ động trong việc vận dụng giải quyết những tình huống quen thuộc và tình huống mới.
Để thực hiện nguyên tắc này cần: -
Cần làm nổi bật cái cơ bản, bản chất của vấn đề. -
Học sinh phải biết sử dụng phối hợp các loại ghi nhớ: ghi nhớ chủ định, ghi nhớ không chủ định,
ghi nhơ máy móc, ghi nhớ có ý nghĩa. Tuy nhiên, ghi nhớ có chủ định có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó là
cơ sở của sự học thuộc và nhớ lâu. -
Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa, cần hướng dẫn các em biết cách sưu
tầm và tra cứu tài liệu tham khảo. -
Trong quá trình dạy học, chú ý ôn tập cho học sinh. Song, trong ôn tập phải yêu cầu học sinh nắm
được tính hệ thống của kiến thức, thấy được cái mới, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh vận dụng kiến
thức vào nhiều tình huống thực tiễn khác nhau. Điều đó có tác dụng làm cho học sinh vừa nắm chắc kiến
thức, vừa rèn luyện phẩm chất linh hoạt trong tư duy.
5.Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính tuần tự trong dạy học
Nguyên tắc này đòi hỏi phải giúp người học lĩnh hội hay nói cách khác là nhận thức được trình tự hệ
thống logic, phải cho người học biết hệ thống những kiến thức khoa học hiện đại. Trong lịch sử khoa học,
sự nhận thức những vật thể và hiện tượng phức tạp hơn thường đi trước sự nhận thức những thành phần
của nó, trong quá trình dạy học ở trường phổ thông khi muốn giới thiệu về tế bào của động, thực vật thì
cần phải giới thiệu những thực vật, động vật trước hay việc trình bày các hợp chất trước tiên phải nghiên
cứu các phân tử, nguyên tử,… Chính vì thế hệ thống hợp lý về mặt lý luận dạy học của những giáo trình
phải được xây dựng trên sự nghiên cứu cẩn thận logic của khoa học và sự phát triển của những khái niệm,
định luật trong lịch sử khoa học và trong ý thức của người học sinh.
Để thực hiện nguyên tắc dạy học này, về mặt nội dung dạy học cần:
- Xây dựng hệ thống dạy học cần phải phụ thuộc vào lý thuyết làm cơ sở cho việc giảng dạy, với tính
tuần tự như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi để phát triển tư duy lý luận cho học sinh.
6.Thống nhất vai trò chủ đạo của người dạy và vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo độc lập của
học sinh trong dạy học
Trong dạy học, phải đảm bảo mối quan hệ thuận lợi nhất giữa sự chỉ đạo sư phạm của thầy giáo và lao
động tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh
- Tính tự giác nhận thức thể hiện ở chỗ người học phải tự nhận thức đầy đủ mục đích của việc học này,
nhiệm vụ của mình cần phải làm gì.
- Tính tích cực nhận thức ở đây được hiểu là người học có thái độ tích cực trọng việc học, có sự tương
tác cao trong việc dạy và học của hai.
- Tính sáng tạo độc lập ở đây được hiểu là học sinh tự độc lập trong việc giải quyết các vấn đề, cần
sáng tạo trong lúc cần thiết điều này cần phải linh động từ ý thức tới hành động
Để thực hiện nguyên tắc này, trong quá trình dạy học cần:
- Hoạt động dạy học phải hướng vào người học sinh, phải phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng
tạo của học sinh, tạo điều kiện cho họ có thể học tập bằng chính hoạt động của mình.
- Giáo dục cho học sinh ý thức đầy đủ, sâu sắc về mục đích, nhiệm vụ học tập, từ đó có động cơ, thái độ học tập đúng đắn.
- Phát huy tư duy ngôn ngữ cho học sinh, khéo léo dẫn dắt học sinh vào các tình huống có vấn đề, giải
các bài tập có tính độc lập.
- Bồi dưỡng cho các em năng lực tự học, tự nghiên cứu, óc hoài nghi khoa học…
- Trong giảng dạy, giáo viên phải thu được thông tin ngược chiều từ phía học sinh để điều chỉnh và hoàn
thiện hơn công tác dạy và học.
8.Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá biệt và tính
tập thể của việc dạy học
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học, khi lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học phải không ngừng nâng cao mức độ khó khăn trong học tập, gây nên sự căng thẳng về trí
lực, thể lực một cách cần thiết, nói cách khác, dạy học vừa sức có nghĩa là trong dạy học phải tạo nên khó
khăn vừa sức, những yêu cầu và nhiệm vụ học tập đề ra phải tương ứng với giới hạn cao nhất của vùng
phát triển trí tuệ gần nhất.
Để đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới những đặc điểm cá biệt trong điều kiện tiến hành dạy và học với cả tập thể cần:
- Xác định mức độ tính chất khó khăn trong quá trình dạy học để thiết lập những cách thức chủ yếu tạo
nên động lực học tập, mở rộng khả năng nhận thức của học sinh, suy nghĩ những biện pháp tiến hành
chung với cả lớp và với từng học sinh.
- Phối hợp hình thức lên lớp, hình thức độc lập công tác của học sinh và hình thức học tập nhóm tại lớp,
trước tập thể lớp, giáo viên đề ra nhiệm vụ chung và dưới sự chỉ đạo của giáo viên, từng cá nhân suy nghĩ
cách giải quyết và trong thời gian đó, giáo viên giúp đỡ những học sinh yếu kém.
- Cách tiến hành dạy học như vậy không chỉ giáo dục tinh thần tập thể cho học sinh, mà từng học sinh
giúp đỡ lẫn nhau nên nhiệm vụ học tập đề ra trở nên vừa sức mỗi người.
Để tổ chức hoạt động dạy học trong nhà trường phổ thông cần có đầy đủ các thành tố khác cùng tham gia
trong sự tương thích với nhau, bao gồm: mục tiêu, nhiệm vụ dạy học; nội dung, phương pháp, phương tiện,
hình thức tổ chức dạy học, môi trường dạy học.
- Câu 5. Khái niệm và chức năng của mục tiêu dạy học Khái niệm:
●Mục tiêu dạy học là kết quả về sự phát triển nhân cách của người học cần đạt được sau khi kết thúc một
giai đoạn hay một quá trình dạy học.
●Mục tiêu dạy học của quá trình dạy học hiện đại luôn hướng tới những công việc hay những hành động mà
người học có thể làm được sau khi kết thúc khóa học, năm học, học kỳ hay một môn học.
Ví dụ: Từ một thanh niên (hoặc quân nhân) trúng tuyển vào trường sỹ quan, sau 4 năm đào tạo trở
thành một sỹ quan quân đội có trình độ cử nhân quân sự và là 1 đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.Trạng
thái phát triển nhân cách của người được đào tạo thể hiện ở phẩm chất vànăng lực hoàn thành nhiệm vụ
sau khi tốt nghiệp mà trước khi được đào tạo họ khôngthể làm được. Như vậy, hiểu một cách cụ thể hơn:
Mục tiêu dạy học là những nhiệm vụ, công việc mà học viên phải làm được sau một quá trình học
tập mà trước đó họ chưa làm đựơc.
Quá trình đào tạo trong nhà trường là tổng hoà của nhiều hoạt động khác nhau:quá trình dạy học; quá
trình giáo dục (hiểu theo nghĩa hẹp); quá trình rèn luyện…Quá trình dạy học có thể là quá trình dạy học
toàn khoá, một môn học, một bài học. Như vậy, mục tiêu dạy học xác định những kết quả cần đạt đựơc ở
người học. Nó không phải là bản liệt kê hay mô tả nội dung dạy học.
Chức năng của mục tiêu dạy học
Chức năng định hướng: Giáo viên căn cứ vào mục tiêu dạy học để thiết kế nội dung, lựa chọn phương
pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm mang lại hiệu quả tối ưu cho hoạt động dạy
học. Còn học sinh, trên cơ sở ý thức được mục tiêu dạy học sẽ có ý thức, hành vi điều chỉnh hoạt động học
tập của bản thân để hoàn thành tốt các nhiệm vụ dạy học.
Chức năng kiểm tra - đánh giá: Mục tiêu dạy học như là những thước đo mà giáo viên căn cứ vào đó để
đánh giá kết quả học tập của học sinh, cũng như tự đánh giá hiệu quả hoạt động dạy học của bản thân.
- Câu 6. Khái niệm và cấu trúc nội dung dạy học phổ thông Khái niệm:
Nội dung dạy học là hệ thống những tri thức, kinh nghiệm thực hiện những cách thức hoạt động đã biết,
kinh nghiệm hoạt động sáng tạo và kinh nghiệm về thái độ đối với thế giới, con người, được xử lí về mặt sư
phạm và được định hướng về mặt chính trị, mà người giáo viên cần tổ chức cho học sinh lĩnh hội để đảm
bảo hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo mục tiêu dạy học đã định.
Đặc trưng của NDDH là: (Thêm vào nếu hỏi)
- NDDH là một hệ thống bao gồm đầy đủ các yếu tố của cấu trúc kinh nghiệm xã hội cần truyền đạt cho thế hệ trẻ
- NDDH được lựa chọn và xây dựng từ kinh nghiệm xã hội của loài người theo một định hướng chính trị
nhất định. Điều đó nói lên tính lịch sử, tính giai cấp của nội dung dạy học.
-NDDH đã được xử lí về mặt sư phạm để phù hợp với đặc điểm tâm lí – sinh lí của học sinh ở từng lứa tuổi,
từng cấp học, bậc học
Cấu trúc nội dung dạy học có 4 thành phần:
● Thứ nhất: Tri thức về nhiều lĩnh vực khác nhau (tự nhiên, xã hội, tư duy, kĩ thuật, phương pháp…). Sự
lĩnh hội các tri thức này sẽ giúp cho học sinh có vốn hiểu biết phong phú, có công cụ để hình thành thế giới quan khoa học.
●Thứ hai: Kinh nghiệm tiến hành các phương thức hoạt động đã biết (KN, KX chung và chuyên biệt,
phương pháp, quy trình…). Nắm vững yếu tố này giúp học sinh vận dụng tri thức để giải quyết vấn đề cụ thể.
●Thứ ba: Kinh nghiệm tiến hành các hoạt động sáng tạo (vận dụng tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp và
các thao tác tư duy trong những tình huống mới, không giống mẫu). Nhờ có yếu tố này mà học sinh có năng
lực giải quyết vấn đề mới, cải tạo hiện thực, thực hành nghiên cứu khoa học
●Thứ tư: Kinh nghiệm về thái độ cảm xúc đánh giá đối với thế giới, đối với con người. Thành phần này thể
hiện tính giáo dục của nội dung dạy học.
Đây là các tri thức, thái độ và hành vi trong các quan hệ theo những chuẩn mực xã hội. Lĩnh hội yếu tố này
sẽ tạo nên niềm tin, lí tưởng, hình thành hệ thống giá trị đúng đắn ở học sinh.
- Câu 7. Mối quan hệ giữa các thành phần của nội dung dạy học
Cấu trúc nội dung dạy học có 4 thành phần:
● Thứ nhất: Tri thức về nhiều lĩnh vực khác nhau (tự nhiên, xã hội, tư duy, kĩ thuật, phương pháp…).
●Thứ hai: Kinh nghiệm tiến hành các phương thức hoạt động đã biết (KN, KX chung và chuyên biệt,
phương pháp, quy trình…).
●Thứ ba: Kinh nghiệm tiến hành các hoạt động sáng tạo (vận dụng tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp và
các thao tác tư duy trong những tình huống mới, không giống mẫu).
●Thứ tư: Kinh nghiệm về thái độ cảm xúc đánh giá đối với thế giới, đối với con người.
- Bốn thành phần trên của nội dung dạy học liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau:
- Tri thức là cơ sở hình thành kĩ năng ,kĩ xảo. Tri thức và KN, KX lại là cơ sở để tạo ra kinh nghiệm hoạt
động sáng tạo. Không có tri thức thì không thể có KN, KX và cũng không thể có hoạt động sáng tạo.
- Hoạt động sáng tạo bắt nguồn từ những cái đã biết, trên cơ sở đó mới có những thay đổi, chỉnh sửa thích
hợp. Song, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo không phải tỉ lệ thuận với khối lượng tri thức mà phụ thuộc vào
cách thức lĩnh hội và vận dụng tri thức đó. Đến lượt mình, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo lại tạo điều kịện
để lĩnh hội tri thức, KN, KX nhanh hơn, tốt hơn, sâu sắc hơn. Nắm vững các thành phần trên giúp học sinh
có thái độ đánh giá đúng đắn với TN, XH và con người. Còn thái độ tác động trở lại tạo ra sự tích cực hay
không tích cực trong việc lĩnh hội tri thức, KN, KX và hoạt động sáng tạo.
- Bốn thành phần này không thể thiếu trong nội dung dạy học để giáo dục nên con người phát triển toàn
diện, cho nên không được coi nhẹ bất cứ thành phần nào.
- Câu 8. Một số kĩ thuật và phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Khái niệm phương pháp dạy học: