lOMoARcPSD| 61458992
lOMoARcPSD| 61458992
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1.1. Xuất phát từ bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay
Hiện nay, giáo dục Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ theo định hướng phát
triển năng lực và phẩm chất người học. Việc thay đổi này đòi hỏi sự điều chỉnh không
chỉ ở cấp độ chương trình mà còn cách tiếp cận lý luận dạy học. Theo tài liệu “Dạy
học tích hợp phát triển năng lực học sinh” [1][2], đnâng cao hiệu quả của dạy học
tích hợp và phát triển năng lực, người giáo viên cần xây dựng môi trường học tập cho
phép học sinh chủ động, tích cực và sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức – điều
này hoàn toàn tương thích với các nguyên lý của thuyết kiến tạo.
Trên thực tế, nhiều giáo viên vẫn còn gặp khó khăn trong việc hiểu đúng và vận
dụng các nguyên tắc kiến tạo vào hoạt động giảng dạy. Việc học sinh “làm việc” chưa
chắc đồng nghĩa với việc học sinh “kiến tạo”, nếu không nắm đặc điểm chế
học tập trong thuyết này, quá trình dạy học rất dễ trở nên hình thức. Do đó, việc
nghiên cứu sâu về cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo là cần thiết, vừa để hiểu bản chất
học tập hiện đại, vừa để có cơ sở lý luận vững chắc cho việc xây dựng các chiến lược
dạy học hiệu quả.
1.2. Xuất phát từ đặc điểm của thuyết kiến tạo
Thuyết kiến tạo cho rằng tri thức không tồn tại sẵn để truyền đạt, được người
học tự xây dựng thông qua trải nghiệm, tương tác phản tư. Việc học diễn ra như một
quá trình cá nhân hóa xã hội hóa, trong đó người học đóng vai trò chủ thể, còn giáo
viên là người tổ chức, hỗ trợ, hướng dẫn. Từ góc độ này, học tập là một quá trình kiến
tạo liên tục, không ngừng mở rộng tái cấu trúc tri thức đã có, phù hợp với các nguyên
lý của chương trình giáo dục mới [1][2].
Ngoài ra, thuyết kiến tạo không chỉ đưa ra quan điểm mới về bản chất học tập,
còn gợi mở các phương pháp dạy học hiệu quả: học qua dự án, học theo tình huống,
học qua trải nghiệm hợp tác. Những phương pháp này đang ngày càng phổ biến
trong dạy học tích hợp, thể hiện tính gắn kết chặt chẽ giữa lý luận kiến tạo và yêu cầu
lOMoARcPSD| 61458992
đổi mới giáo dục. Chính vì vậy, phân tích đặc điểm cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo
không chỉ ý nghĩa luận còn giá trị thực tiễn sâu sắc trong hoạt động dạy
học hiện nay.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở khoa học
Việc phân tích đặc điểm của chế học tập theo thuyết kiến tạo cần được đặt
trên nền tảng luận vững chắc sự đối chiếu với thực tiễn giáo dục hiện nay.
Trước hết, về mặt luận, thuyết kiến tạo xuất phát từ quan niệm rằng tri thức không
tồn tại sẵn trong các bài giảng hay giáo trình, được người học tích cực kiến tạo
thông qua quá trình tương tác với môi trường, trải nghiệm nhân và phản tư. Jean
Piaget người sáng lập thuyết kiến tạo nhân cho rằng việc học một tiến trình
phát triển nhận thức thông qua các hoạt động đồng hóa điều chỉnh để hình thành các
cấu trúc tri thức mới. Bên cạnh đó, Lev Vygotsky – đại diện cho thuyết kiến tạo xã hội
nhấn mạnh vai tcủa ngôn ngữ, văn hóa đặc biệt vùng phát triển gần (ZPD)
trong việc thúc đẩy người học kiến tạo tri thức dưới sự hỗ trợ của người khác. Những
quan điểm này tạo ra cơ sở khoa học lý giải bản chất của học tập như một quá trình cá
nhân hóa trong ngữ cảnh xã hội, trong đó người học đóng vai trò trung tâm và có khả
năng chủ động xây dựng hệ thống hiểu biết của riêng mình.
Bổ sung cho nền tảng lý thuyết nêu trên là các cơ sở pháp lý và chính sách giáo
dục quốc gia. Luật Giáo dục Việt Nam (2005) đã khẳng định rằng phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh,
đồng thời rèn luyện kỹ năng tự học, làm việc nhóm vận dụng kiến thức o thực
tiễn. Tinh thần này tiếp tục được cụ thể hóa trong Chương trình Giáo dục phổ thông
2018, trong đó coi phát triển năng lực là trục xuyên suốt trong thiết kế chương trình
tổ chức hoạt động học tập. Các định hướng này về bản sự hiện thực hóa các
nguyên cốt lõi của thuyết kiến tạo, đặc biệt trong việc tchức môi trường học tập
mở, giàu tính trải nghiệm và khuyến khích học sinh tự mình khám phá, đặt câu hỏi và
giải quyết vấn đề.
lOMoARcPSD| 61458992
Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm trong giáo dục phổ thông
đã minh chứng cho tính hiệu quả của việc vận dụng thuyết kiến tạo vào dạy học. Tiêu
biểu luận án tiến “Vận dụng lý thuyết kiến tạo để nâng cao chất lượng dạy học Di
truyền học lớp 12” (Nguyễn Thị Minh Thủy, 2015), trong đó tác giả xây dựng mô
hình dạy học dựa trên nguyên kiến tạo, áp dụng vào môn Sinh học ghi nhận những
chuyển biến tích cực rệt về hứng thú học tập, khả năng thọc mức độ hiểu sâu
của học sinh. Các nghiên cứu khác trong lĩnh vực Vật Hóa học phổ thông cũng
ghi nhận những kết quả tương tự khi tổ chức dạy học theo mô hình kiến tạo: học sinh
chủ động, hợp tác tích cực, nâng cao năng lực duy giải quyết vấn đề. Những minh
chứng thực nghiệm này củng cố thêm cho tính khả thi và hiệu quả của cơ chế học tập
theo thuyết kiến tạo, không chỉ trong lĩnh vực khoa học tự nhiên còn thể mở
rộng ra các môn học khác, trong đó có khoa học xã hội và giáo dục tích hợp.
Ngoài ra, việc vận dụng thuyết kiến tạo trong dạy học tích hợp – như được trình
bày trong hai tập tài liệu Dạy học tích hợp phát triển năng lực học sinh của nhóm tác
giả Đỗ Hương Trà và cộng sự (2016) – cho thấy rằng những nguyên lý kiến tạo có thể
làm nền tảng lý luận cho việc thiết kế các hoạt động học đa dạng, hướng tới phát triển
toàn diện năng lực học sinh. Theo đó, người học cần được đặt vào các tình huống thực
tiễn, vấn đề, đòi hỏi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết; quá trình học tập
trở thành một chuỗi trải nghiệm có chủ đích, thúc đẩy học sinh tự kiến tạo hiểu biết và
năng lực hành động. hình dạy học này cho thấy sự phù hợp sâu sắc giữa chế học
tập của lý thuyết kiến tạo và yêu cầu phát triển năng lực toàn diện trong giáo dục hiện
đại.
Từ các phân tích trên thể khẳng định rằng thuyết kiến tạo không chỉ cung cấp
một mô hình lý luận mạnh mẽ để lý giải bản chất học tập của con người, mà còn mang
đến những định hướng thực tiễn hữu ích cho đổi mới giáo dục. Việc phân tích đặc điểm
chế học tập theo thuyết kiến tạo thế gtrị cả về mặt luận lẫn ứng dụng, góp
phần định hình tư duy và phương pháp tổ chức dạy học theo hướng hiện đại, lấy người
học làm trung tâm, phù hợp với tinh thần đổi mới giáo dục trong thế kỷ XXI.
lOMoARcPSD| 61458992
2.2. Bản chất
Thuyết kiến tạo (Constructivism) là một lý thuyết học tập nhấn mạnh rằng tri thức
không được truyền đạt một cách thụ động từ giáo viên sang học sinh, kết quả của
quá trình người học tự kiến tạo thông qua hoạt động cá nhân, sự trải nghiệm và tương
tác hội. Theo quan điểm này, học tập không đơn thuần là tiếp thu thông tin
quá trình học sinh tái cấu trúc hiểu biết nhân dựa trên nền tảng của những kinh
nghiệm đã có và trong sự tương tác với môi trường học tập. Tài liệu Dạy học tích hợp
phát triển năng lực học sinh Quyển 1: Khoa học Tự nhiên (2016) chỉ rõ rằng: “Quá
trình học tập theo tiếp cận kiến tạo quá trình người học chủ động xây dựng tổ
chức lại tri thức thông qua các hoạt động nhận thức thực tiễn, chứ không phải quá
trình sao chép hoặc ghi nhớ đơn thuần” [1]. Đây sự khác biệt căn bản giữa quan
niệm dạy học truyền thống – vốn thiên vtruyền đạt kiến thức – quan niệm dạy học
hiện đại – nhấn mạnh việc người học tự hình thành tri thức.
Bản chất của thuyết kiến tạo còn thể hiện việc tri thức luôn được hình thành trong
một ngữ cảnh cụ thể, liên hệ mật thiết với môi trường hội, văn hóa các hoạt
động thực tiễn. Tài liệu Dạy học tích hợp phát triển năng lực học sinh Quyển 2: Khoa
học hội (2016) cho rằng: “Tri thức chỉ ý nghĩa thực sự khi nó gắn liền với đời
sống và có thể vận dụng vào giải quyết các tình huống thực tiễn. Do đó, quá trình học
cần đặt trong bối cảnh cụ thể, giàu tính hội, nơi người học thể tương tác, phản
hồi và cộng tác để kiến tạo hiểu biết” [2]. Điều này đồng nghĩa với việc học tập không
tách rời khỏi thực tiễn mà cần được đặt trong mối liên hệ giữa người học – người dạy
– môi trường – nhiệm vụ học tập.
Một khía cạnh quan trọng khác của thuyết kiến tạo là tôn trọng vai trò chủ thể của
người học. Người học không phải “bình chứa” tri thức, người tham gia o
quá trình khám phá, đặt câu hỏi, kiểm chứng xây dựng ý nghĩa. Việc học vậy
mang tính chất cá nhân hóa, dựa trên vốn hiểu biết sẵn có và tiến trình điều chỉnh nhận
thức khi đối mặt với những tình huống mới. Giáo viên trong hình này không còn
là người “truyền dạy” đơn thuần, mà trở thành người thiết kế, tổ chức, định hướng
hỗ trợ hoạt động học để học sinh có thể phát triển tối đa năng lực tự học và tự kiến tạo.
lOMoARcPSD| 61458992
Đây cũng quan điểm xuyên suốt trong định hướng dạy học tích hợp hai tài liệu
của Đỗ Hương Tcộng snhấn mạnh, đặc biệt trong việc phát triển năng lực tự
chủ và giải quyết vấn đề cho người học.
Tóm lại, bản chất của thuyết kiến tạo không chỉ dừng lại ở một mô hình lý thuyết
về cách con người học tập, còn nền tảng triết giáo dục định hướng cho việc
thiết kế các hoạt động dạy học trong nhà trường phổ thông hiện đại. Việc hiểu
vận dụng đúng bản chất của thuyết này là cơ sở để đổi mới phương pháp dạy học, góp
phần chuyển từ dạy học theo nội dung sang dạy học phát triển năng lực – một yêu cầu
then chốt trong chương trình giáo dục phổ thông mới.
2.3. Đặc điểm
chế học tập trong thuyết kiến tạo phản ánh một cách nhìn mới về quá trình
học tập, trong đó tri thức không được thụ đắc một cách bị động mà là kết quả của quá
trình người học tích cực kiến tạo thông qua trải nghiệm nhân và tương tác với môi
trường. Các đặc điểm của chế học tập này thể hiện ở bốn phương diện bản: vai
trò chủ thể của người học, tính ngữ cảnh và môi trường học tập, vai trò hướng dẫn của
giáo viên, và sự tham gia của cộng đồng học tập.
2.3.1. Người học là chủ thể tích cực kiến tạo tri thức
Đặc điểm quan trọng nhất của chế học tập theo thuyết kiến tạo sự khẳng
định vai trò trung tâm và chủ thể của người học. Hc sinh không còn là đối tượng tiếp
nhận tri thức từ giáo viên một cách thụ động, trở thành người tích cực tham gia vào
quá trình khám phá, đặt câu hỏi, thử nghiệm, sai lầm và rút ra kiến thức. Tài liệu Dạy
học tích hợp phát triển năng lực học sinh Quyển 1 nhấn mạnh rằng: “Người học đóng
vai trò trung tâm, chủ thể của hoạt động học, tự tổ chức quá trình học tập, tự lựa
chọn chiến lược học tập phù hợp để kiến tạo hiểu biết” [1, tr. 43]. Cơ chế học tập ở đây
là quá trình tđiều chỉnh – trong đó người học huy động vốn tri thức sẵn có, đối chiếu
với tình huống mới, phát hiện mâu thuẫn nhận thức hình thành tri thức mới thông
qua hoạt động chủ động và có mục đích.
lOMoARcPSD| 61458992
2.3.2. Học tập gắn với ngữ cảnh và tình huống có ý nghĩa
Trong thuyết kiến tạo, việc học không diễn ra trong môi trường tách biệt hay
trừu ợng, gắn chặt với các tình huống thực tiễn, có ý nghĩa đối với người học.
Kiến thức chỉ thực sự có giá trị khi người học có thể “định vị” nó trong đời sống thực
tế hoặc trong một vấn đề cụ thể cần giải quyết. Tài liệu Dạy học tích hợp phát triển
năng lực học sinh Quyển 2 chỉ ra: “Hoạt động học ý nghĩa khi người học được đặt
vào tình huống có vấn đề, trong đó việc học là nhu cầu thực tế và thiết thực nhằm giải
quyết vấn đề đặt ra” [2, tr. 55]. vậy, cơ chế học tập theo hướng kiến tạo đòi hỏi việc
xây dựng các nhiệm vụ học tập tính thực tiễn, gắn với cuộc sống, khơi dậy hứng
thú, sự tò mò và nhu cầu khám phá tri thức của người học. Đây là nền tảng quan trọng
cho dạy học tích hợp – nơi tri thức không còn bị chia cắt theo môn học, mà được gắn
kết theo các chủ đề có nghĩa.
2.3.3. Vai trò tổ chức, định hướng và hỗ trợ của giáo viên
Trong cơ chế học tập kiến tạo, giáo viên không còn là người truyền đạt tri thức,
givai trò thiết kế môi trường học tập, tổ chức hoạt động, định hướng duy và hỗ
trợ người học trong quá trình kiến tạo tri thức. Theo tài liệu [1], giáo viên cần “xây
dựng được các tình huống học tập mở, gợi vấn đề, tạo ra không gian để học sinh đưa
ra các giả thuyết, giải, thảo luận, phản biện và tự điều chỉnh hiểu biết” [1, tr. 47].
Điều này cho thấy giáo viên là người thúc đẩy quá trình học chứ không can thiệp trực
tiếp vào việc học, nhằm đảm bảo người học giữ được vai trò chủ thể, từ đó hình thành
năng lực tự học, tư duy phản biện và khả năng giải quyết vấn đề một cách độc lập.
2.3.4. Học tập là quá trình xã hội hóa – cộng tác
Thuyết kiến tạo, đặc biệt trong hướng tiếp cận của Vygotsky, đề cao vai trò của
tương tác xã hội trong quá trình học tập. Việc học không chỉ là hoạt động nhân mà
diễn ra trong sự cộng tác với người khác bạn học, thầy cô, i trường văn hóa.
Trong tài liệu [2], nhóm tác giả nhấn mạnh rằng: “Học tập là một quá trình xã hội hóa,
trong đó người học được hỗ trợ thông qua trao đổi, hợp tác phản biện nhằm mở rộng
vùng phát triển gần (ZPD)” [2, tr. 59]. Điều này cho thấy việc tổ chức các hình thức
lOMoARcPSD| 61458992
học tập như học nhóm, thảo luận lớp, dự án hợp tác, không chỉ vai trò tăng hiệu quả
hoạt động mà còn giúp học sinh phát triển các năng lực xã hội và củng cố hiểu biết cá
nhân thông qua việc lắng nghe và phân tích các góc nhìn khác nhau.
Tựu trung lại, chế học tập theo thuyết kiến tạo một tiến trình phức hợp,
trong đó người học chủ động kiến tạo tri thức trong môi trường học tập ý nghĩa,
dưới sự hỗ trợ chiến lược từ giáo viên, thông qua scộng tác với những người
khác. Các đặc điểm này không chỉ phù hợp với triết giáo dục hiện đại còn là nền
tảng luận vững chắc cho việc triển khai các hình dạy học tích hợp phát triển năng
lực – nơi tri thức không còn là mục tiêu cuối cùng, mà trở thành công cụ để người học
phát triển bản thân và thích ứng sáng tạo với đời sống thực tiễn.
2.4. Ví dụ minh họa
2.4.1. Thiết kế bài học lịch sử lớp 5: Chiến thắng Điện Biên Phủ theo thuyết kiến
tạo
Một minh chứng sinh động cho hiệu quả của cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo
việc vận dụng thuyết này trong thiết kế bài học Lịch sử lớp 5 với chủ đề “Chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ”. Đây là bài học được thiết kế theo mô hình học tập kiến
tạo gồm bốn pha: phán đoán khám phá khái quát vận dụng, trong đó học sinh
được tổ chức hoạt động theo nhóm, khai thác liệu, tương tác đa chiều tự mình rút
ra kiến thức lịch sử thay vì tiếp thu thụ động từ giáo viên.
Trong pha đầu tiên phán đoán tìm i học sinh làm việc tại thư viện hoặc
phòng máy để thu thập liệu về chiến dịch Điện Biên Phủ thông qua các hình ảnh, tài
liệu lịch sử, video liệu. Nhiệm vụ được phân công ràng giữa các nhóm: một nhóm
tìm hiểu bối cảnh sự chuẩn bị của quân dân ta; nhóm khác nghiên cứu các sự kiện
chính; nhóm còn lại khám phá các tấm gương anh hùng liệt sĩ. Sản phẩm của hoạt động
này là hệ thống tư liệu được học sinh tổ chức dưới dạng tập dữ liệu, tranh ảnh, poster
– thể hiện năng lực xử lý thông tin và khả năng tái hiện tri thức bằng phương tiện trực
quan.
lOMoARcPSD| 61458992
Pha thứ hai khám phá kiểm nghiệm cho phép học sinh trình bày kết quả
nghiên cứu của nhóm, thảo luận và phân tích dữ liệu thu thập được. Giáo viên không
truyền đạt kiến thức có sẵn mà gợi mở bằng các câu hỏi định hướng, yêu cầu học sinh
xác định các mốc sự kiện trên lược đồ, phân tích hình ảnh đoàn quân kéo pháo, từ đó
cảm nhận về quyết tâm và sức mạnh toàn dân tộc trong chiến dịch.
Tiếp theo, ở pha khái quát, học sinh cùng giáo viên tổng hợp các sự kiện đã khám
phá, khẳng định các kết luận then chốt về nguyên nhân thành công của chiến dịch và ý
nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ. Cuối cùng, trong pha vận dụng, học sinh
thảo luận trình bày cảm tưởng nhân, rút ra bài học về lòng yêu nước, tinh thần
chiến đấu trách nhiệm công dân; đồng thời đề xuất những hành động cụ thể để tri
ân người công với đất nước như: tham gia lễ tưởng niệm, viết cảm nhận, vẽ tranh
cổ động…
Quy trình học tập này thể hiện các nguyên của thuyết kiến tạo: học sinh
chủ thể tích cực, học trong môi trường ngữ cảnh ý nghĩa, dưới sự định hướng linh
hoạt của giáo viên, thông qua tương tác hội để hình thành hiểu biết nhân.
Không chỉ tiếp thu kiến thức lịch sử, học sinh còn phát triển năng lực làm việc nhóm,
tìm kiếm xử lý thông tin, tư duy phản biện năng lực trình bày – những phẩm chất
cốt lõi trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Như vậy, bài hc lịch sử nói trên
không chỉ dụ điển hình về chế học tập kiến tạo còn minh họa ràng cho
khả năng chuyển hóa lý thuyết thành thực tiễn dạy học hiệu quả, hấp dẫn và mang tính
giáo dục toàn diện.
2.4.2. Thiết kế bài học Vật lí 10 – chương "Chất rắn, cht lỏng và sự chuyển thể"
theo thuyết kiến tạo:
Một minh chứng rõ nét cho hiệu quả của chế học tập theo thuyết kiến tạo
việc vận dụng thuyết này trong thiết kế bài học Vật lí lớp 10 với chủ đề “Chất rắn,
chất lỏng và sự chuyển thể”. Bài học được xây dựng theo tiến trình học tập kiến tạo
gồm ba pha: kích thích duy khám phá thực nghiệm khái quát vận dụng,
trong đó học sinh không tiếp thu tri thức một cách thụ động mà chủ động quan sát, thí
lOMoARcPSD| 61458992
nghiệm, thảo luận và tự rút ra kết luận thông qua sự định hướng của giáo viên hệ
thống phiếu học tập.
Ở pha đầu tiên - kích thích tư duy, giáo viên tổ chức hoạt động nhóm nhằm gợi
mở khơi dậy kiến thức nền của học sinh về các trạng thái vật chất. Học sinh được
giao nhiệm vụ đưa ra phán đoán về sự chuyển thể của nước, nêu dụ về hiện tượng
trong thực tế (băng tan, nước bốc hơi…), từ đó hình thành giả thuyết ban đầu. Đây là
bước quan trọng để học sinh chủ động đặt câu hỏi và xác định nội dung cần khám p
trong bài học.
Tiếp đến pha khám phá thực nghiệm, nơi học sinh tiến hành các tnghiệm
như làm tan băng, quan sát nước sôi, đo nhiệt độ các giai đoạn chuyển thể. Dữ liệu
thu thập được được ghi chép vào phiếu học tập, thảo luận nhóm và trình bày ới nhiều
hình thức nbiểu đồ, đồ duy, bảng so sánh. Giáo viên không giảng giải trực tiếp
đóng vai trò hướng dẫn, nêu câu hỏi định hướng như: “Tại sao nhiệt độ nước không
thay đổi khi đang sôi?”, “Có thể áp dụng hiện tượng này vào đời sống như thế nào?”
từ đó khuyến khích học sinh tư duy phản biện và diễn giải hiện tượng bằng ngôn ngữ
của chính mình.
pha cuối - khái quát vận dụng, học sinh tổng hợp kết quả thí nghiệm, đối
chiếu với giả thuyết ban đầu xây dựng các khái niệm khoa học như: nhiệt nóng chảy,
nhiệt hóa hơi, sự chuyển thể đẳng nhiệt. Sau đó, các em được giao nhiệm vụ vận dụng
kiến thức để giải thích hiện tượng thực tiễn như bảo quản thực phẩm bằng đá khô, sự
ngưng tụ hơi nước trong đời sống, hoặc thiết kế các bài trình bày (poster, clip ngắn)
nhằm truyền thông kiến thức đã học cho người khác.
Quy trình học tập này thể hiện đầy đủ tinh thần của lý thuyết kiến tạo: học sinh
chủ thtích cực trong việc xây dựng tri thức, học trong môi trường ngữ cảnh thực
tiễn được khuyến khích tương tác hội để hình thành hiểu biết nhân. Thay
ghi nhớ thụ động các định luật vật lí, học sinh được rèn luyện năng lực quan sát, đặt
câu hỏi, xử thông tin, làm việc nhóm trình bày kết quả những phẩm chất then
chốt của người học trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Bài học này không chỉ
lOMoARcPSD| 61458992
minh họa sinh động cho cơ chế học tập kiến tạo, mà còn khẳng định khả năng chuyển
hóa lý thuyết giáo dục thành thực tiễn sư phạm hiệu quả và gần gũi.
2.5. Kết luận sư phạm.
Như vậy, thuyết kiến tạo nhấn mạnh vai ttrung tâm của người học trong quá
trình nhận thức. Học sinh không còn là đối tượng tiếp nhận tri thức một chiều, mà trở
thành chủ thể tích cực kiến tạo tri thức thông qua hoạt động trải nghiệm, giải quyết vấn
đề, trao đổi với bạn học và phản nhân. Điều này đòi hỏi sự thay đổi căn bản trong
cách tổ chức dạy học từ việc giảng giải, minh họa sang thiết kế các tình huống học
tập mở, giàu tính khám phá và gắn với thực tiễn cuộc sống.
Bên cạnh đó, cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo cũng đặt ra yêu cầu đổi mới vai
trò của giáo viên. Giáo viên không còn người truyền đạt tri thức tuyệt đối,
người tổ chức, định hướng, tạo điều kiện khơi gợi hoạt động duy của học sinh.
Vai trò này đòi hỏi giáo viên có năng lực phạm linh hoạt, khả năng thiết kế hoạt
động học phù hợp với trình độ và nhu cầu của người học, cũng như khả năng đánh giá
tiến trình học tập theo hướng phát triển năng lực.
Cuối cùng, việc áp dụng chế học tập kiến tạo vào thực tiễn không chỉ giúp
nâng cao hiệu quả dạy học còn góp phần phát triển toàn diện năng lực học sinh,
bao gồm duy phản biện, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp hợp tác,
năng lực tự học thích ứng. Những phẩm chất năng lực này phù hợp với định
hướng giáo dục hiện đại sở để người học chủ động hội nhập trong hội tri
thức. Do đó, việc nghiên cứu vận dụng thuyết kiến tạo vào thực tiễn dạy học
một hướng đi tất yếu cần thiết trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
Việt Nam hiện nay.
3. KẾT LUẬN
thuyết kiến tạo là một trong những tiếp cận có ảnh hưởng sâu rộng trong lĩnh
vực giáo dục hiện đại, bởi làm thay đổi căn bản cách hiểu về quá trình học tập
phương pháp dạy học. Trong khuôn khổi tiểu luận này, việc phân tích các đặc điểm
lOMoARcPSD| 61458992
của cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo đã cho thấy rõ rằng tri thức không phải là một
thực thể khách quan được truyền đạt từ giáo viên sang học sinh, mà là kết quả của quá
trình học sinh tự kiến tạo thông qua các hoạt động nhận thức ý nghĩa, gắn với trải
nghiệm cá nhân, sự tương tác xã hội và bối cảnh cụ thể.
Các đặc điểm như: học tập quá trình kiến tạo chủ động; tri thức gắn với tình
huống thực tiễn; tương tác đóng vai trò thiết yếu; phản tư là trung tâm của nhận thức;
và vai trò mới của giáo viên như người tổ chức, hướng dẫn, đã khẳng định cơ chế học
tập theo thuyết kiến tạo thể tạo nên sthay đổi toàn diện trong tổ chức dạy học
chuyển từ dạy học truyền thống sang dạy học phát triển năng lực. Bằng việc minh họa
qua các dụ thực tiễn trong dạy học, đặc biệt là môn Khoa học Tự nhiên Lịch
sử, bài viết cũng cho thấy tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng lý thuyết này vào
lớp học.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng việc thấu hiểu và áp dụng đúng
các đặc điểm ca cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo sẽ góp phần nâng cao chất lượng
dạy học, đồng thời phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay Việt Nam nơi
mà người học không chỉ cần nắm vững kiến thức, mà còn phải có năng lực vận dụng,
phản biện, sáng tạo thích ứng trong một thế giới không ngừng biến đổi. Đây cũng
chính là con đường để giáo dục phát triển bền vững nhân văn hơn trong thế kỷ XXI.
4. DANH MỤCI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Hương Trà, Trần Khánh Ngọc, Trần Trung Ninh, Trần Thị Thu Thủy,Nguyễn
Công Khanh, Nguyễn Vũ Bích Hiền (2016), Dạy học tích hợp phát triển năng lực học
sinh, Quyển 1-Khoa học tự nhiên, NXB Đại học Sư phạm.
[2] Trần Thị Thanh Thủy (Chủ biên), Nguyễn Công Khanh & Nguyễn nNinh.
(2016). Dạy học tích hợp phát triển năng lực học sinh Quyển 2: Khoa học hội.
NXB Đại học Sư phạm.
[3] Nguyễn Thị Minh Thủy (2015), Luận án tiến sĩ “Vận dụng lý thuyết kiến tạo để
nâng cao chất lượng dạy học Di truyền học ở lớp 12”.
lOMoARcPSD| 61458992
[4] Nguyễn Thị Phương Nhung, Nguyễn Thị Thiên Chung (2018), Vận dụng lý
thuyết kiến tạo trong thiết kế bài học Lịch sử lớp 4, 5, Tạp chí Khoa học – Trường Đại
học Vinh, Tập 47, Số 4B.
[5] Nguyễn Hữu Thái Nghị (2016). Vận dụng lý thuyết kiến tạo vào dạy học chương
“Chất rắn và chất lỏng – Sự chuyển thể” Vật lý 10 [Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học
Sư phạm, Đại học Huế.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61458992 lOMoAR cPSD| 61458992
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1.1. Xuất phát từ bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay
Hiện nay, giáo dục Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ theo định hướng phát
triển năng lực và phẩm chất người học. Việc thay đổi này đòi hỏi sự điều chỉnh không
chỉ ở cấp độ chương trình mà còn ở cách tiếp cận lý luận dạy học. Theo tài liệu “Dạy
học tích hợp phát triển năng lực học sinh” [1][2], để nâng cao hiệu quả của dạy học
tích hợp và phát triển năng lực, người giáo viên cần xây dựng môi trường học tập cho
phép học sinh chủ động, tích cực và sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức – điều
này hoàn toàn tương thích với các nguyên lý của thuyết kiến tạo.
Trên thực tế, nhiều giáo viên vẫn còn gặp khó khăn trong việc hiểu đúng và vận
dụng các nguyên tắc kiến tạo vào hoạt động giảng dạy. Việc học sinh “làm việc” chưa
chắc đồng nghĩa với việc học sinh “kiến tạo”, và nếu không nắm rõ đặc điểm cơ chế
học tập trong lý thuyết này, quá trình dạy học rất dễ trở nên hình thức. Do đó, việc
nghiên cứu sâu về cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo là cần thiết, vừa để hiểu bản chất
học tập hiện đại, vừa để có cơ sở lý luận vững chắc cho việc xây dựng các chiến lược dạy học hiệu quả.
1.2. Xuất phát từ đặc điểm của thuyết kiến tạo
Thuyết kiến tạo cho rằng tri thức không tồn tại sẵn để truyền đạt, mà được người
học tự xây dựng thông qua trải nghiệm, tương tác và phản tư. Việc học diễn ra như một
quá trình cá nhân hóa – xã hội hóa, trong đó người học đóng vai trò chủ thể, còn giáo
viên là người tổ chức, hỗ trợ, hướng dẫn. Từ góc độ này, học tập là một quá trình kiến
tạo liên tục, không ngừng mở rộng và tái cấu trúc tri thức đã có, phù hợp với các nguyên
lý của chương trình giáo dục mới [1][2].
Ngoài ra, thuyết kiến tạo không chỉ đưa ra quan điểm mới về bản chất học tập,
mà còn gợi mở các phương pháp dạy học hiệu quả: học qua dự án, học theo tình huống,
học qua trải nghiệm và hợp tác. Những phương pháp này đang ngày càng phổ biến
trong dạy học tích hợp, thể hiện tính gắn kết chặt chẽ giữa lý luận kiến tạo và yêu cầu lOMoAR cPSD| 61458992
đổi mới giáo dục. Chính vì vậy, phân tích đặc điểm cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo
không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc trong hoạt động dạy học hiện nay. 2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở khoa học
Việc phân tích đặc điểm của cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo cần được đặt
trên nền tảng lý luận vững chắc và có sự đối chiếu với thực tiễn giáo dục hiện nay.
Trước hết, về mặt lý luận, thuyết kiến tạo xuất phát từ quan niệm rằng tri thức không
tồn tại sẵn trong các bài giảng hay giáo trình, mà được người học tích cực kiến tạo
thông qua quá trình tương tác với môi trường, trải nghiệm cá nhân và phản tư. Jean
Piaget – người sáng lập thuyết kiến tạo cá nhân – cho rằng việc học là một tiến trình
phát triển nhận thức thông qua các hoạt động đồng hóa và điều chỉnh để hình thành các
cấu trúc tri thức mới. Bên cạnh đó, Lev Vygotsky – đại diện cho thuyết kiến tạo xã hội
– nhấn mạnh vai trò của ngôn ngữ, văn hóa và đặc biệt là vùng phát triển gần (ZPD)
trong việc thúc đẩy người học kiến tạo tri thức dưới sự hỗ trợ của người khác. Những
quan điểm này tạo ra cơ sở khoa học lý giải bản chất của học tập như một quá trình cá
nhân hóa trong ngữ cảnh xã hội, trong đó người học đóng vai trò trung tâm và có khả
năng chủ động xây dựng hệ thống hiểu biết của riêng mình.
Bổ sung cho nền tảng lý thuyết nêu trên là các cơ sở pháp lý và chính sách giáo
dục quốc gia. Luật Giáo dục Việt Nam (2005) đã khẳng định rõ rằng phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh,
đồng thời rèn luyện kỹ năng tự học, làm việc nhóm và vận dụng kiến thức vào thực
tiễn. Tinh thần này tiếp tục được cụ thể hóa trong Chương trình Giáo dục phổ thông
2018, trong đó coi phát triển năng lực là trục xuyên suốt trong thiết kế chương trình và
tổ chức hoạt động học tập. Các định hướng này về cơ bản là sự hiện thực hóa các
nguyên lý cốt lõi của thuyết kiến tạo, đặc biệt trong việc tổ chức môi trường học tập
mở, giàu tính trải nghiệm và khuyến khích học sinh tự mình khám phá, đặt câu hỏi và giải quyết vấn đề. lOMoAR cPSD| 61458992
Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm trong giáo dục phổ thông
đã minh chứng cho tính hiệu quả của việc vận dụng thuyết kiến tạo vào dạy học. Tiêu
biểu là luận án tiến sĩ “Vận dụng lý thuyết kiến tạo để nâng cao chất lượng dạy học Di
truyền học ở lớp 12” (Nguyễn Thị Minh Thủy, 2015), trong đó tác giả xây dựng mô
hình dạy học dựa trên nguyên lý kiến tạo, áp dụng vào môn Sinh học và ghi nhận những
chuyển biến tích cực rõ rệt về hứng thú học tập, khả năng tự học và mức độ hiểu sâu
của học sinh. Các nghiên cứu khác trong lĩnh vực Vật lý và Hóa học phổ thông cũng
ghi nhận những kết quả tương tự khi tổ chức dạy học theo mô hình kiến tạo: học sinh
chủ động, hợp tác tích cực, nâng cao năng lực tư duy và giải quyết vấn đề. Những minh
chứng thực nghiệm này củng cố thêm cho tính khả thi và hiệu quả của cơ chế học tập
theo thuyết kiến tạo, không chỉ trong lĩnh vực khoa học tự nhiên mà còn có thể mở
rộng ra các môn học khác, trong đó có khoa học xã hội và giáo dục tích hợp.
Ngoài ra, việc vận dụng thuyết kiến tạo trong dạy học tích hợp – như được trình
bày trong hai tập tài liệu Dạy học tích hợp phát triển năng lực học sinh của nhóm tác
giả Đỗ Hương Trà và cộng sự (2016) – cho thấy rằng những nguyên lý kiến tạo có thể
làm nền tảng lý luận cho việc thiết kế các hoạt động học đa dạng, hướng tới phát triển
toàn diện năng lực học sinh. Theo đó, người học cần được đặt vào các tình huống thực
tiễn, có vấn đề, đòi hỏi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết; quá trình học tập
trở thành một chuỗi trải nghiệm có chủ đích, thúc đẩy học sinh tự kiến tạo hiểu biết và
năng lực hành động. Mô hình dạy học này cho thấy sự phù hợp sâu sắc giữa cơ chế học
tập của lý thuyết kiến tạo và yêu cầu phát triển năng lực toàn diện trong giáo dục hiện đại.
Từ các phân tích trên có thể khẳng định rằng thuyết kiến tạo không chỉ cung cấp
một mô hình lý luận mạnh mẽ để lý giải bản chất học tập của con người, mà còn mang
đến những định hướng thực tiễn hữu ích cho đổi mới giáo dục. Việc phân tích đặc điểm
cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo vì thế có giá trị cả về mặt lý luận lẫn ứng dụng, góp
phần định hình tư duy và phương pháp tổ chức dạy học theo hướng hiện đại, lấy người
học làm trung tâm, phù hợp với tinh thần đổi mới giáo dục trong thế kỷ XXI. lOMoAR cPSD| 61458992 2.2. Bản chất
Thuyết kiến tạo (Constructivism) là một lý thuyết học tập nhấn mạnh rằng tri thức
không được truyền đạt một cách thụ động từ giáo viên sang học sinh, mà là kết quả của
quá trình người học tự kiến tạo thông qua hoạt động cá nhân, sự trải nghiệm và tương
tác xã hội. Theo quan điểm này, học tập không đơn thuần là tiếp thu thông tin mà là
quá trình học sinh tái cấu trúc hiểu biết cá nhân dựa trên nền tảng của những kinh
nghiệm đã có và trong sự tương tác với môi trường học tập. Tài liệu Dạy học tích hợp
phát triển năng lực học sinh – Quyển 1: Khoa học Tự nhiên (2016) chỉ rõ rằng: “Quá
trình học tập theo tiếp cận kiến tạo là quá trình người học chủ động xây dựng và tổ
chức lại tri thức thông qua các hoạt động nhận thức và thực tiễn, chứ không phải là quá
trình sao chép hoặc ghi nhớ đơn thuần” [1]. Đây là sự khác biệt căn bản giữa quan
niệm dạy học truyền thống – vốn thiên về truyền đạt kiến thức – và quan niệm dạy học
hiện đại – nhấn mạnh việc người học tự hình thành tri thức.
Bản chất của thuyết kiến tạo còn thể hiện ở việc tri thức luôn được hình thành trong
một ngữ cảnh cụ thể, có liên hệ mật thiết với môi trường xã hội, văn hóa và các hoạt
động thực tiễn. Tài liệu Dạy học tích hợp phát triển năng lực học sinh – Quyển 2: Khoa
học Xã hội (2016) cho rằng: “Tri thức chỉ có ý nghĩa thực sự khi nó gắn liền với đời
sống và có thể vận dụng vào giải quyết các tình huống thực tiễn. Do đó, quá trình học
cần đặt trong bối cảnh cụ thể, giàu tính xã hội, nơi người học có thể tương tác, phản
hồi và cộng tác để kiến tạo hiểu biết” [2]. Điều này đồng nghĩa với việc học tập không
tách rời khỏi thực tiễn mà cần được đặt trong mối liên hệ giữa người học – người dạy
– môi trường – nhiệm vụ học tập.
Một khía cạnh quan trọng khác của thuyết kiến tạo là tôn trọng vai trò chủ thể của
người học. Người học không phải là “bình chứa” tri thức, mà là người tham gia vào
quá trình khám phá, đặt câu hỏi, kiểm chứng và xây dựng ý nghĩa. Việc học vì vậy
mang tính chất cá nhân hóa, dựa trên vốn hiểu biết sẵn có và tiến trình điều chỉnh nhận
thức khi đối mặt với những tình huống mới. Giáo viên trong mô hình này không còn
là người “truyền dạy” đơn thuần, mà trở thành người thiết kế, tổ chức, định hướng và
hỗ trợ hoạt động học để học sinh có thể phát triển tối đa năng lực tự học và tự kiến tạo. lOMoAR cPSD| 61458992
Đây cũng là quan điểm xuyên suốt trong định hướng dạy học tích hợp mà hai tài liệu
của Đỗ Hương Trà và cộng sự nhấn mạnh, đặc biệt trong việc phát triển năng lực tự
chủ và giải quyết vấn đề cho người học.
Tóm lại, bản chất của thuyết kiến tạo không chỉ dừng lại ở một mô hình lý thuyết
về cách con người học tập, mà còn là nền tảng triết lý giáo dục định hướng cho việc
thiết kế các hoạt động dạy học trong nhà trường phổ thông hiện đại. Việc hiểu rõ và
vận dụng đúng bản chất của thuyết này là cơ sở để đổi mới phương pháp dạy học, góp
phần chuyển từ dạy học theo nội dung sang dạy học phát triển năng lực – một yêu cầu
then chốt trong chương trình giáo dục phổ thông mới. 2.3. Đặc điểm
Cơ chế học tập trong thuyết kiến tạo phản ánh một cách nhìn mới về quá trình
học tập, trong đó tri thức không được thụ đắc một cách bị động mà là kết quả của quá
trình người học tích cực kiến tạo thông qua trải nghiệm cá nhân và tương tác với môi
trường. Các đặc điểm của cơ chế học tập này thể hiện ở bốn phương diện cơ bản: vai
trò chủ thể của người học, tính ngữ cảnh và môi trường học tập, vai trò hướng dẫn của
giáo viên, và sự tham gia của cộng đồng học tập.
2.3.1. Người học là chủ thể tích cực kiến tạo tri thức
Đặc điểm quan trọng nhất của cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo là sự khẳng
định vai trò trung tâm và chủ thể của người học. Học sinh không còn là đối tượng tiếp
nhận tri thức từ giáo viên một cách thụ động, mà trở thành người tích cực tham gia vào
quá trình khám phá, đặt câu hỏi, thử nghiệm, sai lầm và rút ra kiến thức. Tài liệu Dạy
học tích hợp phát triển năng lực học sinh – Quyển 1 nhấn mạnh rằng: “Người học đóng
vai trò trung tâm, là chủ thể của hoạt động học, tự tổ chức quá trình học tập, tự lựa
chọn chiến lược học tập phù hợp để kiến tạo hiểu biết” [1, tr. 43]. Cơ chế học tập ở đây
là quá trình tự điều chỉnh – trong đó người học huy động vốn tri thức sẵn có, đối chiếu
với tình huống mới, phát hiện mâu thuẫn nhận thức và hình thành tri thức mới thông
qua hoạt động chủ động và có mục đích. lOMoAR cPSD| 61458992
2.3.2. Học tập gắn với ngữ cảnh và tình huống có ý nghĩa
Trong thuyết kiến tạo, việc học không diễn ra trong môi trường tách biệt hay
trừu tượng, mà gắn chặt với các tình huống thực tiễn, có ý nghĩa đối với người học.
Kiến thức chỉ thực sự có giá trị khi người học có thể “định vị” nó trong đời sống thực
tế hoặc trong một vấn đề cụ thể cần giải quyết. Tài liệu Dạy học tích hợp phát triển
năng lực học sinh – Quyển 2 chỉ ra: “Hoạt động học có ý nghĩa khi người học được đặt
vào tình huống có vấn đề, trong đó việc học là nhu cầu thực tế và thiết thực nhằm giải
quyết vấn đề đặt ra” [2, tr. 55]. Vì vậy, cơ chế học tập theo hướng kiến tạo đòi hỏi việc
xây dựng các nhiệm vụ học tập có tính thực tiễn, gắn với cuộc sống, khơi dậy hứng
thú, sự tò mò và nhu cầu khám phá tri thức của người học. Đây là nền tảng quan trọng
cho dạy học tích hợp – nơi tri thức không còn bị chia cắt theo môn học, mà được gắn
kết theo các chủ đề có nghĩa.
2.3.3. Vai trò tổ chức, định hướng và hỗ trợ của giáo viên
Trong cơ chế học tập kiến tạo, giáo viên không còn là người truyền đạt tri thức,
mà giữ vai trò thiết kế môi trường học tập, tổ chức hoạt động, định hướng tư duy và hỗ
trợ người học trong quá trình kiến tạo tri thức. Theo tài liệu [1], giáo viên cần “xây
dựng được các tình huống học tập mở, gợi vấn đề, tạo ra không gian để học sinh đưa
ra các giả thuyết, lý giải, thảo luận, phản biện và tự điều chỉnh hiểu biết” [1, tr. 47].
Điều này cho thấy giáo viên là người thúc đẩy quá trình học chứ không can thiệp trực
tiếp vào việc học, nhằm đảm bảo người học giữ được vai trò chủ thể, từ đó hình thành
năng lực tự học, tư duy phản biện và khả năng giải quyết vấn đề một cách độc lập.
2.3.4. Học tập là quá trình xã hội hóa – cộng tác
Thuyết kiến tạo, đặc biệt trong hướng tiếp cận của Vygotsky, đề cao vai trò của
tương tác xã hội trong quá trình học tập. Việc học không chỉ là hoạt động cá nhân mà
diễn ra trong sự cộng tác với người khác – bạn học, thầy cô, và môi trường văn hóa.
Trong tài liệu [2], nhóm tác giả nhấn mạnh rằng: “Học tập là một quá trình xã hội hóa,
trong đó người học được hỗ trợ thông qua trao đổi, hợp tác và phản biện nhằm mở rộng
vùng phát triển gần (ZPD)” [2, tr. 59]. Điều này cho thấy việc tổ chức các hình thức lOMoAR cPSD| 61458992
học tập như học nhóm, thảo luận lớp, dự án hợp tác, không chỉ có vai trò tăng hiệu quả
hoạt động mà còn giúp học sinh phát triển các năng lực xã hội và củng cố hiểu biết cá
nhân thông qua việc lắng nghe và phân tích các góc nhìn khác nhau.
Tựu trung lại, cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo là một tiến trình phức hợp,
trong đó người học chủ động kiến tạo tri thức trong môi trường học tập có ý nghĩa,
dưới sự hỗ trợ có chiến lược từ giáo viên, và thông qua sự cộng tác với những người
khác. Các đặc điểm này không chỉ phù hợp với triết lý giáo dục hiện đại mà còn là nền
tảng lý luận vững chắc cho việc triển khai các mô hình dạy học tích hợp phát triển năng
lực – nơi tri thức không còn là mục tiêu cuối cùng, mà trở thành công cụ để người học
phát triển bản thân và thích ứng sáng tạo với đời sống thực tiễn.
2.4. Ví dụ minh họa
2.4.1. Thiết kế bài học lịch sử lớp 5: Chiến thắng Điện Biên Phủ theo thuyết kiến tạo
Một minh chứng sinh động cho hiệu quả của cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo là
việc vận dụng lý thuyết này trong thiết kế bài học Lịch sử lớp 5 với chủ đề “Chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ”. Đây là bài học được thiết kế theo mô hình học tập kiến
tạo gồm bốn pha: phán đoán – khám phá – khái quát – vận dụng, trong đó học sinh
được tổ chức hoạt động theo nhóm, khai thác tư liệu, tương tác đa chiều và tự mình rút
ra kiến thức lịch sử thay vì tiếp thu thụ động từ giáo viên.
Trong pha đầu tiên – phán đoán và tìm tòi – học sinh làm việc tại thư viện hoặc
phòng máy để thu thập tư liệu về chiến dịch Điện Biên Phủ thông qua các hình ảnh, tài
liệu lịch sử, video tư liệu. Nhiệm vụ được phân công rõ ràng giữa các nhóm: một nhóm
tìm hiểu bối cảnh và sự chuẩn bị của quân dân ta; nhóm khác nghiên cứu các sự kiện
chính; nhóm còn lại khám phá các tấm gương anh hùng liệt sĩ. Sản phẩm của hoạt động
này là hệ thống tư liệu được học sinh tổ chức dưới dạng tập dữ liệu, tranh ảnh, poster
– thể hiện năng lực xử lý thông tin và khả năng tái hiện tri thức bằng phương tiện trực quan. lOMoAR cPSD| 61458992
Pha thứ hai – khám phá và kiểm nghiệm – cho phép học sinh trình bày kết quả
nghiên cứu của nhóm, thảo luận và phân tích dữ liệu thu thập được. Giáo viên không
truyền đạt kiến thức có sẵn mà gợi mở bằng các câu hỏi định hướng, yêu cầu học sinh
xác định các mốc sự kiện trên lược đồ, phân tích hình ảnh đoàn quân kéo pháo, từ đó
cảm nhận về quyết tâm và sức mạnh toàn dân tộc trong chiến dịch.
Tiếp theo, ở pha khái quát, học sinh cùng giáo viên tổng hợp các sự kiện đã khám
phá, khẳng định các kết luận then chốt về nguyên nhân thành công của chiến dịch và ý
nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ. Cuối cùng, trong pha vận dụng, học sinh
thảo luận và trình bày cảm tưởng cá nhân, rút ra bài học về lòng yêu nước, tinh thần
chiến đấu và trách nhiệm công dân; đồng thời đề xuất những hành động cụ thể để tri
ân người có công với đất nước như: tham gia lễ tưởng niệm, viết cảm nhận, vẽ tranh cổ động…
Quy trình học tập này thể hiện rõ các nguyên lý của thuyết kiến tạo: học sinh là
chủ thể tích cực, học trong môi trường có ngữ cảnh ý nghĩa, dưới sự định hướng linh
hoạt của giáo viên, và thông qua tương tác xã hội để hình thành hiểu biết cá nhân.
Không chỉ tiếp thu kiến thức lịch sử, học sinh còn phát triển năng lực làm việc nhóm,
tìm kiếm và xử lý thông tin, tư duy phản biện và năng lực trình bày – những phẩm chất
cốt lõi trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Như vậy, bài học lịch sử nói trên
không chỉ là ví dụ điển hình về cơ chế học tập kiến tạo mà còn minh họa rõ ràng cho
khả năng chuyển hóa lý thuyết thành thực tiễn dạy học hiệu quả, hấp dẫn và mang tính giáo dục toàn diện.
2.4.2. Thiết kế bài học Vật lí 10 – chương "Chất rắn, chất lỏng và sự chuyển thể"
theo thuyết kiến tạo:
Một minh chứng rõ nét cho hiệu quả của cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo là
việc vận dụng lý thuyết này trong thiết kế bài học Vật lí lớp 10 với chủ đề “Chất rắn,
chất lỏng và sự chuyển thể”. Bài học được xây dựng theo tiến trình học tập kiến tạo
gồm ba pha: kích thích tư duy – khám phá và thực nghiệm – khái quát và vận dụng,
trong đó học sinh không tiếp thu tri thức một cách thụ động mà chủ động quan sát, thí lOMoAR cPSD| 61458992
nghiệm, thảo luận và tự rút ra kết luận thông qua sự định hướng của giáo viên và hệ thống phiếu học tập.
Ở pha đầu tiên - kích thích tư duy, giáo viên tổ chức hoạt động nhóm nhằm gợi
mở và khơi dậy kiến thức nền của học sinh về các trạng thái vật chất. Học sinh được
giao nhiệm vụ đưa ra phán đoán về sự chuyển thể của nước, nêu ví dụ về hiện tượng
trong thực tế (băng tan, nước bốc hơi…), từ đó hình thành giả thuyết ban đầu. Đây là
bước quan trọng để học sinh chủ động đặt câu hỏi và xác định nội dung cần khám phá trong bài học.
Tiếp đến là pha khám phá và thực nghiệm, nơi học sinh tiến hành các thí nghiệm
như làm tan băng, quan sát nước sôi, đo nhiệt độ ở các giai đoạn chuyển thể. Dữ liệu
thu thập được được ghi chép vào phiếu học tập, thảo luận nhóm và trình bày dưới nhiều
hình thức như biểu đồ, sơ đồ tư duy, bảng so sánh. Giáo viên không giảng giải trực tiếp
mà đóng vai trò hướng dẫn, nêu câu hỏi định hướng như: “Tại sao nhiệt độ nước không
thay đổi khi đang sôi?”, “Có thể áp dụng hiện tượng này vào đời sống như thế nào?” –
từ đó khuyến khích học sinh tư duy phản biện và diễn giải hiện tượng bằng ngôn ngữ của chính mình.
Ở pha cuối - khái quát và vận dụng, học sinh tổng hợp kết quả thí nghiệm, đối
chiếu với giả thuyết ban đầu và xây dựng các khái niệm khoa học như: nhiệt nóng chảy,
nhiệt hóa hơi, sự chuyển thể đẳng nhiệt. Sau đó, các em được giao nhiệm vụ vận dụng
kiến thức để giải thích hiện tượng thực tiễn như bảo quản thực phẩm bằng đá khô, sự
ngưng tụ hơi nước trong đời sống, hoặc thiết kế các bài trình bày (poster, clip ngắn)
nhằm truyền thông kiến thức đã học cho người khác.
Quy trình học tập này thể hiện đầy đủ tinh thần của lý thuyết kiến tạo: học sinh
là chủ thể tích cực trong việc xây dựng tri thức, học trong môi trường có ngữ cảnh thực
tiễn và được khuyến khích tương tác xã hội để hình thành hiểu biết cá nhân. Thay vì
ghi nhớ thụ động các định luật vật lí, học sinh được rèn luyện năng lực quan sát, đặt
câu hỏi, xử lí thông tin, làm việc nhóm và trình bày kết quả – những phẩm chất then
chốt của người học trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Bài học này không chỉ lOMoAR cPSD| 61458992
minh họa sinh động cho cơ chế học tập kiến tạo, mà còn khẳng định khả năng chuyển
hóa lý thuyết giáo dục thành thực tiễn sư phạm hiệu quả và gần gũi.
2.5. Kết luận sư phạm.
Như vậy, thuyết kiến tạo nhấn mạnh vai trò trung tâm của người học trong quá
trình nhận thức. Học sinh không còn là đối tượng tiếp nhận tri thức một chiều, mà trở
thành chủ thể tích cực kiến tạo tri thức thông qua hoạt động trải nghiệm, giải quyết vấn
đề, trao đổi với bạn học và phản tư cá nhân. Điều này đòi hỏi sự thay đổi căn bản trong
cách tổ chức dạy học – từ việc giảng giải, minh họa sang thiết kế các tình huống học
tập mở, giàu tính khám phá và gắn với thực tiễn cuộc sống.
Bên cạnh đó, cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo cũng đặt ra yêu cầu đổi mới vai
trò của giáo viên. Giáo viên không còn là người truyền đạt tri thức tuyệt đối, mà là
người tổ chức, định hướng, tạo điều kiện và khơi gợi hoạt động tư duy của học sinh.
Vai trò này đòi hỏi giáo viên có năng lực sư phạm linh hoạt, khả năng thiết kế hoạt
động học phù hợp với trình độ và nhu cầu của người học, cũng như khả năng đánh giá
tiến trình học tập theo hướng phát triển năng lực.
Cuối cùng, việc áp dụng cơ chế học tập kiến tạo vào thực tiễn không chỉ giúp
nâng cao hiệu quả dạy học mà còn góp phần phát triển toàn diện năng lực học sinh,
bao gồm tư duy phản biện, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp và hợp tác,
năng lực tự học và thích ứng. Những phẩm chất và năng lực này phù hợp với định
hướng giáo dục hiện đại và là cơ sở để người học chủ động hội nhập trong xã hội tri
thức. Do đó, việc nghiên cứu và vận dụng lý thuyết kiến tạo vào thực tiễn dạy học là
một hướng đi tất yếu và cần thiết trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay. 3. KẾT LUẬN
Lý thuyết kiến tạo là một trong những tiếp cận có ảnh hưởng sâu rộng trong lĩnh
vực giáo dục hiện đại, bởi nó làm thay đổi căn bản cách hiểu về quá trình học tập và
phương pháp dạy học. Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, việc phân tích các đặc điểm lOMoAR cPSD| 61458992
của cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo đã cho thấy rõ rằng tri thức không phải là một
thực thể khách quan được truyền đạt từ giáo viên sang học sinh, mà là kết quả của quá
trình học sinh tự kiến tạo thông qua các hoạt động nhận thức có ý nghĩa, gắn với trải
nghiệm cá nhân, sự tương tác xã hội và bối cảnh cụ thể.
Các đặc điểm như: học tập là quá trình kiến tạo chủ động; tri thức gắn với tình
huống thực tiễn; tương tác đóng vai trò thiết yếu; phản tư là trung tâm của nhận thức;
và vai trò mới của giáo viên như người tổ chức, hướng dẫn, đã khẳng định cơ chế học
tập theo thuyết kiến tạo có thể tạo nên sự thay đổi toàn diện trong tổ chức dạy học –
chuyển từ dạy học truyền thống sang dạy học phát triển năng lực. Bằng việc minh họa
qua các ví dụ thực tiễn trong dạy học, đặc biệt là ở môn Khoa học Tự nhiên và Lịch
sử, bài viết cũng cho thấy tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng lý thuyết này vào lớp học.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng việc thấu hiểu và áp dụng đúng
các đặc điểm của cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo sẽ góp phần nâng cao chất lượng
dạy học, đồng thời phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay ở Việt Nam – nơi
mà người học không chỉ cần nắm vững kiến thức, mà còn phải có năng lực vận dụng,
phản biện, sáng tạo và thích ứng trong một thế giới không ngừng biến đổi. Đây cũng
chính là con đường để giáo dục phát triển bền vững và nhân văn hơn trong thế kỷ XXI.
4. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Hương Trà, Trần Khánh Ngọc, Trần Trung Ninh, Trần Thị Thu Thủy,Nguyễn
Công Khanh, Nguyễn Vũ Bích Hiền (2016), Dạy học tích hợp phát triển năng lực học
sinh, Quyển 1-Khoa học tự nhiên, NXB Đại học Sư phạm.
[2] Trần Thị Thanh Thủy (Chủ biên), Nguyễn Công Khanh & Nguyễn VănNinh.
(2016). Dạy học tích hợp phát triển năng lực học sinh – Quyển 2: Khoa học xã hội. NXB Đại học Sư phạm.
[3] Nguyễn Thị Minh Thủy (2015), Luận án tiến sĩ “Vận dụng lý thuyết kiến tạo để
nâng cao chất lượng dạy học Di truyền học ở lớp 12”. lOMoAR cPSD| 61458992
[4] Nguyễn Thị Phương Nhung, Nguyễn Thị Thiên Chung (2018), Vận dụng lý
thuyết kiến tạo trong thiết kế bài học Lịch sử lớp 4, 5, Tạp chí Khoa học – Trường Đại
học Vinh, Tập 47, Số 4B.
[5] Nguyễn Hữu Thái Nghị (2016). Vận dụng lý thuyết kiến tạo vào dạy học chương
“Chất rắn và chất lỏng – Sự chuyển thể” Vật lý 10 [Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học
Sư phạm, Đại học Huế.