Cuộc cách mạng khoa học tự nhiên - Giáo dục quốc phòng | Trường Đại học Tôn Đức Thắng

Trước những năm 1895 hầu như tất cả mọi người đều luôn có nhận thức chung làvất chất có trước và vật chất quyết định ý thức. Không những thế họ còn sử dụngphương pháp luận siêu hình để đánh giá mọi vật chất với quan điểm cở bản là mọisự vật và hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại cô lập lẫn nhau. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem! 

Trường:

Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu

Thông tin:
4 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Cuộc cách mạng khoa học tự nhiên - Giáo dục quốc phòng | Trường Đại học Tôn Đức Thắng

Trước những năm 1895 hầu như tất cả mọi người đều luôn có nhận thức chung làvất chất có trước và vật chất quyết định ý thức. Không những thế họ còn sử dụngphương pháp luận siêu hình để đánh giá mọi vật chất với quan điểm cở bản là mọisự vật và hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại cô lập lẫn nhau. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem! 

7 4 lượt tải Tải xuống
*Cuộc cách mạng khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX sự phá sản của các quan điểm duy
vật siêu hình về vật chất.
I: Quan niệm về chủ nghĩa duy vật siêu hình.
-Trước những năm 1895 hầu như tất cả mọi người đều luôn nhận thức chung
vất chất trước vật chất quyết định ý thức. Không những thế họ còn sử dụng
phương pháp luận siêu hình để đánh giá mọi vật chất với quan điểm cở bản mọi
sự vật hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại lập lẫn nhau, cái này bên
cạnh cái kia và luôn trong trạng thái tĩnh không vận động phát triển. Tuy nhiên
một điều họ thừa nhận vật chất thay đổi đó sự tăng giảm số lượng,
thì đây cũng chỉ về hình thức còn bản thì chất của sự vật vẫn như vậy không
thay đổi.
II: Những phát hiện khoa học và sự lung lây của chủ nghĩa duy vật
siêu hình.
-Nhưng vào năm 1895, đã có một sự bùng nổ về khoa học tự nhiên mà trước đó
chưa có ai phát hiện cũng như phát minh ra được.
*Những phát minh vĩ đại đã làm thay đổi tư duy của con người về
chủ nghĩa duy vật siêu hình
Năm 1895 Wihelm Rontgen phát hiện ra tia X
- Tối ngày 8 tháng 11 năm 1895, Wilhelm Röntgen đang kiểm tra xem liệu
tia cathode (tia âm cực) thể đi xuyên qua kính hay không thì bất ngờ
nhận thấy một ánh sáng phát ra từ một tấm được phủ hóa chất gần đó.
Ông gọi những tia tạo ra ánh sáng này tia X, bản chất chưa của
chúng.
Năm 1896 Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của
nguyên tố Urani.
- Năm 1896, khi nghiên cứu hợp chất lân quang, nhà bác học Beccơren đã
tình cờ phát hiện miếng urani sunfat đã phát ra một loại bức xạ không
nhìn thấy, nhưng tác dụng mạnh lên các tấm kính ảnh bọc trong giấy
đen dày. Ông gọi hiện tượng này là sự phóng xạ.
Năm 1897 Tômxơn phát hiện ra điện từ.
- Vào ngày này năm 1897, nhà vật người Anh J.J. Thomson tuyên bố
khám phá rằng nguyên tử được tạo nên từ các thành phần nhỏ hơn. Phát
hiện này đã cách mạng hóa cách mà các nhà khoa học nghĩ về nguyên tử,
đồng thời tạo ra sự phân nhánh lớn trong ngành vật lý. Mặc dù Thompson
gọi chúng “hạt” (corpuscle), những ông tìm thấy ngày nay thường
được gọi là điện tử (electron).
Năm 1901 Kaufman chứng minh khối lượng biên đổi theo vận
tốc của điện tử.
- Kaufmann người đầu tiên xác nhận bằng thực nghiệm rằng sự phụ
thuộc của khối lượng hạt mangđiện vào tốc độ. Vào năm 1901,
Kaufmann đã tiến hành những thí nghiệm đo độ lệch của tia cathode
trong từtrường . Khi đó thuyết tương đối vẫn chưa ra đời, và đương nhiên
trong những tính toán kết quả thực nghiệm của mình, Kaufmann đã sử
dụng biểu thức động lượngvà động năng trong học cổ điển. Những
tính toán của Kaufmann dẫn đến công thức từ đó thể suy rarằng
điện tích riêng e/m của electron giảm theo tốc độ,và bởi vì điện tích e của
electron không đổi, nênKaufmann đã đưa ra kết luận rằng khối lượng
electrontăng lên cùng với tốc độ của nó. Ông cũng cho rằng những thí
nghiệm với tia cathode cũng xác nhận không khối lượng học
chỉ khối lượng điện từ, hay theo nghĩa khác khối lượng của mọi vật
thể đềucó nguồn gốc điện từ.
Năm 1905-1916 A.Anhxtanh cho ra thuyết tương đối hẹp
tương đối rộng.
- Albert Einstein lần đầu tiên đề xuất ra thuyết tương đối hẹp vào năm
1905 trong bài báo "Về điện động lực của các vật thể chuyển
động".Sự không phù hợp giữa học Newton với các phương trình
Maxwell của điện từ học thiếu bằng chứng thực nghiệm xác nhận
giả thuyết tồn tại môi trường ête siêu sáng đã dẫn tới sự phát triển
thuyết tương đối hẹp, thuyết đã miêu tả đúng lại học trong
những tình huống chuyển động bằng vài phần tốc độ ánh sáng (còn
gọi vận tốc tương đối tính). Ngày nay thuyết tương đối hẹp
thuyết miêu tả chính xác nhất chuyển động của vật thể ở tốc độ bất kỳ
khi có thể bỏ qua ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Tuy vậy, cơ học Newton
vẫn được sử dụng (do tính đơn giản độ chính xác cao) khi chuyển
động của vật thể khá nhỏ so với tốc độ ánh sáng.
*Điều đã làm thay đổi tư duy về chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Hầu hết ở các phát hiện khoa học trên đều được ứng dụng vào mục đích tìm kiếm
cái mới của con người và sử dụng nó vào cuộc sống, nhưng hầu như vào thời điểm
đó sự hiểu biết của con người nói chung các nhà khoa học nói riêng thì những
thứ đó thứ đầu tiên họ tiếp cận, đến cả những nhà khoa học thời đó vẫn còn
mong lung về những thứ họ phát hiện ra thì những con người bình thường chắc
chắn sẽ có một cái nhìn khác về vật chất cũng như thay đổi tư duy.
-Ở thời kỳ cổ đại cho đến cận đại tất cả mọi người đều cho rằng nguyên tử cái
nhỏ nhất, nguyên tử không thể phân chia được giới hạn của vật chất. Tuy nhiên
chính nhờ vào sự phát triển của khoa học tự nhiên nói chung đặc biệt là vậthọc.
Thì họ biết một thứ còn nhỏ hơn cả nguyên tử đó điện tử, từ sự phát hiện này
cho đến nhiền phát hiện khác. Điều này làm cho phương pháp siêu hình không thể
giải thích được các phát minh này, chính không thể giải thích được những phát
hiện đó nên đây tiền đề làm cho chủ nghĩ duy tâm của mỗi người dần dần xuất
hiện.
III:Sự sụp đổ của chủ nghĩa duy vật siêu hình và sự đi lên của chủ
nghĩa duy tâm
Không ít nhà khoa học và triết học đã hoang mang, hoài nghi về tính đúng đắn của
chủ nghĩa duy vật → Nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất, mà có thể bị phân
chia, tan rã, bị mất đi; có hiện tượng không có khối lượng cơ học, hạt chuyển thành
trường, cũng có nghĩ là vật chất chỉ còn là năng lượng, sóng phi vật chất...
→Khách thể biến mất, chủ thể trở thành cái trước, cái còn lại cảm giác cùng
tư duy của chúng ta để tổ chức những cảm giác đó.
→Một số nhà khoa học tự nhiên từ chủ nghĩa duy vật siêu hình sang chủ nghĩa
tương đối và rồi rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
→Nhân hội một số nhà khoa học triết học đang hoài nghi về của nghĩ duy
vật, nên một số nhà khoa học, triết học duy tâm đã phủ nhận quan niệm về vật chất
của chủ nghĩa duy vật.
*Trong bối cảnh như vậy: V.I.Leenin đã phân tích tình hình phức
tạp đó và chỉ rõ:
Vật học không bị khủng hoảng, đó dấu hiệu của một cuộc cách
mạng trong khoa học tự nhiên.
Cái bị tiêu tan không phải nguyên tử, không phải vật chất tiêu tan chỉ
có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan.
Những phát hiện, phát minh giá trto lớn của vật học không hề bác bỏ
vật chất mà chỉ làm rõ hơn hiểu biết còn hạn chết của con người về vật chất.
→Những giới hạn vượt quá tầm hiểu biết của con người không thể giải thích được
bằng phương pháp luận duy vật siêu hình thì cần phải thay đổi sang một phương
pháp duy mới trong triết học khoa học tự nhiên khoa học nói chung đó
biện chứng duy vật.
| 1/4

Preview text:

*Cuộc cách mạng khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX và sự phá sản của các quan điểm duy
vật siêu hình về vật chất.
I: Quan niệm về chủ nghĩa duy vật siêu hình.
-Trước những năm 1895 hầu như tất cả mọi người đều luôn có nhận thức chung là
vất chất có trước và vật chất quyết định ý thức. Không những thế họ còn sử dụng
phương pháp luận siêu hình để đánh giá mọi vật chất với quan điểm cở bản là mọi
sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại cô lập lẫn nhau, cái này bên
cạnh cái kia và luôn trong trạng thái tĩnh không vận động và phát triển. Tuy nhiên
có một điều mà họ thừa nhận là vật chất có thay đổi đó là sự tăng giảm số lượng,
thì đây cũng chỉ là về hình thức còn cơ bản thì chất của sự vật vẫn như vậy không thay đổi.
II: Những phát hiện khoa học và sự lung lây của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
-Nhưng vào năm 1895, đã có một sự bùng nổ về khoa học tự nhiên mà trước đó
chưa có ai phát hiện cũng như phát minh ra được.
*Những phát minh vĩ đại đã làm thay đổi tư duy của con người về
chủ nghĩa duy vật siêu hình

Năm 1895 Wihelm Rontgen phát hiện ra tia X
- Tối ngày 8 tháng 11 năm 1895, Wilhelm Röntgen đang kiểm tra xem liệu
tia cathode (tia âm cực) có thể đi xuyên qua kính hay không thì bất ngờ
nhận thấy một ánh sáng phát ra từ một tấm được phủ hóa chất gần đó.
Ông gọi những tia tạo ra ánh sáng này là tia X, vì bản chất chưa rõ của chúng.
Năm 1896 Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani.
-
Năm 1896, khi nghiên cứu hợp chất lân quang, nhà bác học Beccơren đã
tình cờ phát hiện miếng urani sunfat đã phát ra một loại bức xạ không
nhìn thấy, nhưng tác dụng mạnh lên các tấm kính ảnh bọc kĩ trong giấy
đen dày. Ông gọi hiện tượng này là sự phóng xạ.
Năm 1897 Tômxơn phát hiện ra điện từ.
- Vào ngày này năm 1897, nhà vật lý người Anh J.J. Thomson tuyên bố
khám phá rằng nguyên tử được tạo nên từ các thành phần nhỏ hơn. Phát
hiện này đã cách mạng hóa cách mà các nhà khoa học nghĩ về nguyên tử,
đồng thời tạo ra sự phân nhánh lớn trong ngành vật lý. Mặc dù Thompson
gọi chúng là “hạt” (corpuscle), những gì ông tìm thấy ngày nay thường
được gọi là điện tử (electron).
Năm 1901 Kaufman chứng minh khối lượng biên đổi theo vận tốc của điện tử.
-
Kaufmann là người đầu tiên xác nhận bằng thực nghiệm rằng có sự phụ
thuộc của khối lượng hạt mangđiện vào tốc độ. Vào năm 1901,
Kaufmann đã tiến hành những thí nghiệm đo độ lệch của tia cathode
trong từtrường . Khi đó thuyết tương đối vẫn chưa ra đời, và đương nhiên
trong những tính toán kết quả thực nghiệm của mình, Kaufmann đã sử
dụng biểu thức động lượngvà động năng trong cơ học cổ điển. Những
tính toán của Kaufmann dẫn đến công thức mà từ đó có thể suy rarằng
điện tích riêng e/m của electron giảm theo tốc độ,và bởi vì điện tích e của
electron không đổi, nênKaufmann đã đưa ra kết luận rằng khối lượng
electrontăng lên cùng với tốc độ của nó. Ông cũng cho rằng những thí
nghiệm với tia cathode cũng xác nhận là không có khối lượng cơ học mà
chỉ có khối lượng điện từ, hay theo nghĩa khác khối lượng của mọi vật
thể đềucó nguồn gốc điện từ.
Năm 1905-1916 A.Anhxtanh cho ra thuyết tương đối hẹp và tương đối rộng.
- Albert Einstein lần đầu tiên đề xuất ra thuyết tương đối hẹp vào năm
1905 trong bài báo "Về điện động lực của các vật thể chuyển
động".Sự không phù hợp giữa cơ học Newton với các phương trình
Maxwell của điện từ học và thiếu bằng chứng thực nghiệm xác nhận
giả thuyết tồn tại môi trường ête siêu sáng đã dẫn tới sự phát triển
thuyết tương đối hẹp, lý thuyết đã miêu tả đúng lại cơ học trong
những tình huống chuyển động bằng vài phần tốc độ ánh sáng (còn
gọi là vận tốc tương đối tính). Ngày nay thuyết tương đối hẹp là lý
thuyết miêu tả chính xác nhất chuyển động của vật thể ở tốc độ bất kỳ
khi có thể bỏ qua ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Tuy vậy, cơ học Newton
vẫn được sử dụng (do tính đơn giản và độ chính xác cao) khi chuyển
động của vật thể khá nhỏ so với tốc độ ánh sáng.
*Điều đã làm thay đổi tư duy về chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Hầu hết ở các phát hiện khoa học trên đều được ứng dụng vào mục đích tìm kiếm
cái mới của con người và sử dụng nó vào cuộc sống, nhưng hầu như vào thời điểm
đó sự hiểu biết của con người nói chung và các nhà khoa học nói riêng thì những
thứ đó là thứ đầu tiên họ tiếp cận, đến cả những nhà khoa học thời đó vẫn còn
mong lung về những thứ họ phát hiện ra thì những con người bình thường chắc
chắn sẽ có một cái nhìn khác về vật chất cũng như thay đổi tư duy.
-Ở thời kỳ cổ đại cho đến cận đại tất cả mọi người đều cho rằng nguyên tử là cái
nhỏ nhất, nguyên tử không thể phân chia được và giới hạn của vật chất. Tuy nhiên
chính nhờ vào sự phát triển của khoa học tự nhiên nói chung đặc biệt là vật lý học.
Thì họ biết một thứ còn nhỏ hơn cả nguyên tử đó là điện tử, từ sự phát hiện này
cho đến nhiền phát hiện khác. Điều này làm cho phương pháp siêu hình không thể
giải thích được các phát minh này, chính vì không thể giải thích được những phát
hiện đó nên đây là tiền đề làm cho chủ nghĩ duy tâm của mỗi người dần dần xuất hiện.
III:Sự sụp đổ của chủ nghĩa duy vật siêu hình và sự đi lên của chủ nghĩa duy tâm
Không ít nhà khoa học và triết học đã hoang mang, hoài nghi về tính đúng đắn của
chủ nghĩa duy vật → Nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất, mà có thể bị phân
chia, tan rã, bị mất đi; có hiện tượng không có khối lượng cơ học, hạt chuyển thành
trường, cũng có nghĩ là vật chất chỉ còn là năng lượng, sóng phi vật chất...
→Khách thể biến mất, chủ thể trở thành cái có trước, cái còn lại là cảm giác cùng
tư duy của chúng ta để tổ chức những cảm giác đó.
→Một số nhà khoa học tự nhiên từ chủ nghĩa duy vật siêu hình sang chủ nghĩa
tương đối và rồi rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
→Nhân cơ hội một số nhà khoa học và triết học đang hoài nghi về của nghĩ duy
vật, nên một số nhà khoa học, triết học duy tâm đã phủ nhận quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật.
*Trong bối cảnh như vậy: V.I.Leenin đã phân tích tình hình phức tạp đó và chỉ rõ:
 Vật lý học không bị khủng hoảng, mà đó là dấu hiệu của một cuộc cách
mạng trong khoa học tự nhiên.
 Cái bị tiêu tan không phải là nguyên tử, không phải vật chất tiêu tan mà chỉ
có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan.
 Những phát hiện, phát minh có giá trị to lớn của vật lý học không hề bác bỏ
vật chất mà chỉ làm rõ hơn hiểu biết còn hạn chết của con người về vật chất.
→Những giới hạn vượt quá tầm hiểu biết của con người không thể giải thích được
bằng phương pháp luận duy vật siêu hình thì cần phải thay đổi sang một phương
pháp tư duy mới trong triết học và khoa học tự nhiên và khoa học nói chung đó là biện chứng duy vật.