Đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với Việt Nam hiện nay| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BÀI TẬP LỚN
Đề tài: “Đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Liên hệ với Việt Nam hiện nay.”
Họ tên sinh viên: Trần Thị Diệp Mã sinh viên: 11191049 Khóa: 61 Lớp: LLNL1107(220)_26
Hà Nội, tháng 2 năm 2021 Lời mở đầu
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, bất cứ quốc gia nào
đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua, kể cả các nước có nền kinh tế rất phát triển.
Tất nhiên, đối với các nước có nền kinh tế phát triển, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội có nhiều thuận lợi hơn, có thể diễn ra ngắn hơn so với các nước đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có nền kinh tế lạc hậu. Thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện từ xã hội cũ
thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội. Nó diễn ra từ khi giai cấp vô sản giành được
chính quyền bắt tay vào xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công
những cơ sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở
kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được quy định bởi đặc điểm của cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh tế, xã hội
của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Đặc điểm kinh tế thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và liên hệ với Việt Nam hiện nay” sẽ cung cấp cho ta
những thông tin vô cùng quý báu về đặc điểm kinh tế trong một giai đoạn quạn trọng
của đất nước để bước đầu hình thành cho mình những tư duy kinh tế. Qua đó giúp ta
hiểu được tình hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam hiện nay. 1
I, Lý luận chung về đặc điểm kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1, Khái niệm cơ bản về thơi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở học thuyết của C.Mác về phương thức sản xuất cộng sản chuer
nghĩa, V.I.Lenin đã đưa ra học thuyết về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong đó bộ phận
quan trọng của nó là lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lenin đã xác định
rõ: “Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt
để, toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra từ
khi cách mạng vô sản giảnh được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới
và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa về vật chất
kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Nói cách khác, kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây
dựng xong cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến
trúc thượng tầng xã hội xã hội chủ nghĩa”.
Lenin đã chỉ ra rằng, điều kiện tiên quyết để có thể thực hiện quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là phải thực hiện thành công cách mạng vô sản và giai cấp vô sản phải
giành được chính quyền. Nhưng khi đã giành được chính quyền không có nghĩa là
cuộc cách mạng vô sản đã kết thúc, mà nhiệm vụ cơ bản và lâu dài cuộc cách mạng
này là phải xây dựng được một xã hội mới một cách toàn diện. Quá trình xây dựng
này chính là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nó diễn ra trong một thời gian tương
đối lâu dài và bao gồm một loạt các bước quá độ nhưng các nước lạc hậu khi tiến
hành đi lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi thời kỳ quá độ càng phải kéo dài và càng chia làm nhiều bước.
2, Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đều đã khẳng định rằng cần phải
có một thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sở dĩ như vậy vì:
Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là hai xã hội khác nhau căn
bản. Nếu xã hội tư bản dựa trên chết độ tư hữu về tư liệu sản xuất, dựa trên sự phân
chia giai cấp và đối kháng giai cấp, là một chế độ áp bức, bóc lột, bất công thì xã hội
xã hội chủ nghĩa là xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không có sự
phân chia xã hội thành những giai cấp đối kháng, ở đó không có áp bức, bóc lột và
bất công. Vì vậy cần phải có một thời kỳ để chuyển từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang
xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội không tự phát ra đời trong lòng xã hội tư
bản, chủ nghĩa tư bản chỉ tạo ra những tiền đề vật chất cho sự ra đời của nó mà thôi.
Chủ nghĩa xã hội cũng không nảy sinh ngay lập tức sau cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là kết quả của một quá trình đấu tranh, cải tạo và xây
dựng lâu dài của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. 2
Thứ hai, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời
kỳ lâu dài, không thể ngay một lúc có thể hoàn thiện được. Để phát triển lực lượng
sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới cần phải có thời gian hay tất yếu phải có thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội chỉ là một giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản từ
chủ nghĩa tư bản phát triển lên. Vì vậy trên mọi phương diện kể cả đạo đức và tinh
thần vẫn còn mang những quan điểm, tư tưởng của xã hội cũ mà nó đã được sinh ra.
Do đó, cần phải có một thời gian dài mới có thể khắc phục được những tư tưởng,
quan điểm, tâm lý thói quen, tập quán, lối sống xũ lạc hậu.
Có thể nói, thời kỳ quá độ là thời kỳ bắt buộc đối với tất cả các nước phát triển
lên chủ nghĩa xã hội, chỉ khác nhau về độ dài, về mức độ khó khăn, phức tạp nhiều
hoặc ít mà thôi. Đặc biệt, đối với những nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa như nước ta thì chắc chắn thời kỳ quá độ sẽ dài hơn, gay go và phức tạp hơn.
3, Đặc điểm kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên chủ chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại nên kinh tế nhiều thành phần và tương tự với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp xã
hội khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp trong xã hội đã thay
đổi một cách sâu sắc. Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là khách quan và
lâu dài, có lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Theo Lenin,
mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn chủ nghĩa xã hội đã
giành thắng lợi nhưng còn non yếu với chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng vẫn
còn khả năng khôi phục. Vì vậy, thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh “ai
thắng ai’ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản quyết liệt, quanh co, khúc khuỷu
và phức tạp. Phân tích thực trạng nền kinh tế của nước Nga lúc đó, V.I.Lenin rút ra có
năm thành phần kinh tế là: thành phần kinh tế nông dân gia trưởng; thành phần kinh
tế sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, tiểu thủ công cá thể và tiểu thương; thành
phần kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước; thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.
4, Tính tất yếu và đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở
miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đã hoàn thành thắng lợi, đất nước đã hòa bình thống nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 3
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia
xây dựng chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp. Thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Bởi vì:
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật
khách quan của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội:
công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của
các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế - xã hội
sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế - xã hội trước nó. Sự biến đổi của các hình
thái kinh tế - xã hội nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa học,
công nghệ và thị trường, đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất định quan hệ
sản xuất để thích nghi với tình hình mới, nhưng không vượt ra khỏi những mâu thuẫn
vốn có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Mâu thuẫn này không những không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động làm cho các
tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phụ định chủ nghĩa tư
bản và sự ra đời của xã hội mới – chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là
tương lai của loài người. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu
thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng
dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ trước hết là để giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ… đồng thời
nó là tiền đề để “làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người
có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp logic cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm
cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
Đặc điểm kinh tế đặc trưng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là bỏ qua tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ quá độ còn nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế (hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá
độ, cơ cấu thành phần kinh tế bao gồm bốn thành phần: kinh tế Nhà nước; kinh tế tư
nhân; kinh tế tập thể và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), song sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa không chiếm vai trò 4
chủ đạo, thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức phân phối, ngoài phân phối theo lao
động vẫn là chủ đạo còn phân phối theo mức độ đóng góp và quỹ phúc lợi xã hội.
Thời kỳ quá độ vẫn còn quan hệ bóc lột và bị bóc lột, song quan hệ bóc lột tư bản chủ
nghĩa không giữ vai trò thống trị.
Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ với xuất phát điểm rất thấp nhưng hiện nay,
cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang phát triển với tốc độ như vũ bão và đem lại
những thành tựu rất to lớn. Điều này đã tạo điều kiện cho phép các nước kém phát
triển đi sau như Việt Nam có thể tiếp thu những thành tựu và kinh nghiệm mà nhân
loại đã đạt được và vận dụng chúng vào quá trình phát triển lực lượng sản xuất của
mình để rút ngắn thời gian. Đồng thời, xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra
ngày càng mạnh mẽ làm cho các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc chặt chẽ vào
nhau. Điều này một mặt có thể khiến các nước kém phát triển bị lệ thuộc nhiều mặt
vào các nước tư bản phát triển nhưng nó cũng tạo điều kiện để các nước đi sau có thể
tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý của các nước đi trước để có thể
rút ngắn thời gian phát triển. Ngoài ra, bản thân Việt Nam là một nước đông dân, với
nguồn lực dồi dào, tài nguyên đa dạng và có vị trí địa lý thuận lợi. Đây là những điều
kiện hết sức thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước quá độ thẳng lên chủ nghĩa
xã hội. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đồng lòng chiến đấu, hy sinh để giành lại độc lập
dân tộc và cùng nhau phấn đấu xây dựng một xã hội tốt đẹp trong đó mọi người đều
có cuộc sống ấm no, tư do và hạnh phúc.
II, Thực trạng nền kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1, Những thành tựu đã đạt được.
Sự phát triển kinh tế Việt Nam trong khoảng thời gian qua rất đáng ghi nhận.
Giai đoạn 2009 - 2019 nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng với nhiều biến động, trung
bình mỗi năm GDP Việt Năm tăng trung bình 6,23% - một tốc độ khá nhanh so với
các nước trên thế giới giúp Việt Nam tiến vào nhóm quốc gia có thu nhập trung bình
thấp. Do hậu ảnh hưởng của cuộc khung hoảng tài chính toàn cầu thế giới nên giai
đoạn này nền kinh tế không còn duy trì tốc độ như giai đoạn trước, nhưng tốc độ tăng
trưởng thấp nhất cũng là 5,25% (năm 2012) và tăng nhanh vào các năm sau, đến năm
2018 đạt mức cao nhất trong giai đoạn này là 7,08%. Nhìn chung thì tốc độ tăng
trưởng có biến động lên xuống trong giai đoạn này nhưng vẫn dao động xung quanh
ngưỡng 6 - 7%. Tăng trưởng GDP phục hồi rõ nét sau giai đoạn 2011-2015, duy trì 5
được tốc độ cao, đặc biệt là trong các năm 2017-2019 (với tốc độ tăng tương ứng đạt
6,81% và 7,08% năm 2017, 2018 và khoảng 7,1% năm 2019). Đến năm 2019 thì quy
mô GDP đã gấp 1,85 lần so với năm 2009. Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Sơ bộ 2019 GDP 2,02 2,15
2,292, 2,412, 2,543, 2,695, 2,875, 3,054, 3,262, 3,493, 3,738, (Tỷ 7,59 7,82 483 778 596 796 856 470 548 399 546 đồng) 1 8 g (%) 5.4 6.42 6.24 5.25 5.42 5.98 6.68 6.21 6.81 7.08 7.02
Nguồn: Số liệu theo Tổng cục thống kê
GDP Việt Nam tăng trưởng nhanh như vậy là nhờ sự đóng góp của các nhóm
ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ. Đặc biệt là ngành công nghiệp và xây dựng
tăng nhanh kéo theo tốc độ gia tăng của toàn bộ nền kinh tế. Nước ta đang thực hiện
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng thúc đẩy cơ cấu GDP thiên hướng tỷ
trọng về công nghiệp và dịch vụ, tập trung nguồn lực để phát triển trọng điểm. Khu
vực công nghiệp, xây dựng (CNXD) và khu vực dịch vụ là hai khu vực dẫn dắt tăng
trưởng chung, bù đắp cho sự giảm sút của khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản, do đối
mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là vào các năm 2016 và 2019. Đóng góp của khu
vực CNXD vào tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 đã tăng lên hơn 44% (so
với mức tương ứng 39,9% giai đoạn 2011 - 2015).
Ở giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam nhìn từ khía cạnh thu nhập bình quân
đầu người đã tăng nhanh và được cải thiện hơn rất nhiều. Trung bình mỗi năm GDP/
người của Việt Nam tăng 12,78% - một con số rất ấn tượng. Đến năm 2019, GDP/
người của Việt Nam đã đạt 32.574 triệu đồng tương đương 3000 USD tăng gấp gần
3,5 lần so với năm 2019. Cho dù tốc độ tăng GDP/ người ở Việt Nam có biến động
qua các năm, sự sụt giảm liên tục trong những năm 2010-2015 do ảnh hưởng của
khủng hoảng rồi phục hồi sau đó và đạt đến 9,96 (năm 2017) và 7,9 (năm 2019). 6
Nhìn từ góc độ nào của nền kinh tế, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng
tự hào và cộng nhận trong quá trình phát triển, đặc biệt là sự tăng trưởng kinh tế
nhanh về cả tốc độ và quy mô.
2, Những hạn chế và bất cập còn tồn tại.
Mặc dù đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng và nổi bật, nhưng quá trình
thực hiện đổi mới toàn diện, đưa nước ta quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn
tồn tại một số hạn chế và bất cập.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhìn chung thể hiện chủ yếu trong chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà chưa biến thành yếu tố nội sinh
trong hành động của các cấp, các ngành và doanh nghiệp.
Quá trình đổi mới ở trong nước, nhất là đổi mới, hoàn thiện thể chế, trước hết
là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện một cách đồng bộ,
chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu hội nhập và quá trình nâng cao năng lực cạnh
tranh. Mặt khác tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bộc lộ nhiều bất cập so với yêu cầu
bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, môi
trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Nền kinh tế vẫn mang tính gia công, chưa tạo ra các thương hiệu Việt Nam có
uy tín trên thị trường thế giới. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng chưa thực sự vững chắc,
chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và các sản phẩm chủ lực
còn thấp và chịu sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp và sản phẩm nước ngoài
ngay trên thị trường nội địa.
III, Những giải pháp và nhiệm vụ kinh tế cơ bản để thực hiện thắng lợi con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để thực hiện thắng lợi con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam phải
tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau: 7
Phát triển kinh tế nhanh và bền vững: tăng trưởng kinh tế cao hơn những năm
trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vi mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hô ƒi nhâ ƒp quốc tế gắn với
phát triển kinh tế tri thức theo định hướng xã hô ƒi chủ nghĩa. Nâng cao trình độ khoa
học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả
vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, công khai, minh bạch trong
quản lý kinh tế, năng lực quản lý của Nhà nước và năng lực quản trị doanh nghiệp.
Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khi
cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang bùng nổ mạnh mẽ, phát huy vai trò quốc sách
hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Sinh viên – thế hệ công dân trẻ của đất nước là lực lượng vô cùng quan trọng
trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy mà thế
hệ sinh viên cần có những thái độ và trách nhiệm rõ ràng như sau:
Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành
nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, luôn sáng tạo
ứng dụng kỹ thuật khoa học công nghệ trong học tập cũng như trong đời sống.
Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, phổ biến học tập chủ nghĩa Mác –
Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước. Tuyên truyền, vận động người lao động tích cự học tập, nâng cao trình 8
độ, kỹ năng nghề nghiệp để thích ứng với điều kiện lao động trong bối cảnh cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết luận 9
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Điều này chính là những bằng chứng sinh động và mang tính thực tiễn
cho thấy lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã vạch ra phương hướng và những hướng đi phù hợp, giúp các nước kém phát
triển đi sau có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa. Thực tế này cũng cho thấy sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng Sản
Việt Nam cùng với sự đấu tranh không biết mệt mỏi và sự hy sinh to lớn của nhân
dân Việt Nam đã giúp nước ta vượt qua mọi khó khăn, trở ngại tưởng chừng không
vượt qua được để nước ta có được ngày hôm nay. Tuy nhiên, cần luôn tâm niệm rằng
đây chỉ là những thành công ban đầu. Hơn nữa, tình hình thế giới đang có những thay
đổi nhanh chóng và toàn diện, thế giới đang phải đối diện với vô vàn khó khăn và thử
thách từ dịch bệnh cũng như thiên tai từ thiên nhiên mang lại. Vì vậy, Đảng và nhân
dân ta cần tiếp tục nỗ lực vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lenin, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc và dân chủ xẫ hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững để tiếp tục thu được những thành
công to lớn hơn, rực rỡ hơn trên con đường xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 10 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (Sử dụng trong các trường đại học – hệ không
chuyên lý luận chính trị). Hà Nội.2019
Số liệu theo trang Tổng cục thống kê thongke.gov.vn
Lưu Trinh – Sinh viên là lực lượng quan trọng trong xây dựng đất nước – Báo Tiền Phong.
Quỳnh Hoa – Đại hội XIII của Đảng: Niềm tin và khát vọng phát triển – Báo tin tức.
PGS.TS Lê Bộ Lĩnh – Một số vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam – Tạp
chí Tổ chức Nhà nước.
TS. Chử Văn Lâm - Chính phủ nhận diện hạn chế, yếu kém của nền kinh tế - Báo vneconomy.vn 11 Mục lục Trang Lời mở đầu 1
I, Lý luận chung về đặc điểm kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 2 hội.
1, Khái niệm cơ bản về thơi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 2
2, Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 2
3, Đặc điểm kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 3
4, Tính tất yếu và đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 3 ở Việt Nam.
II, Thực trạng nền kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt 5 Nam.
1, Những thành tựu đã đạt được. 5
2, Những hạn chế và bất cập còn tồn tại. 7
III, Những giải pháp và nhiệm vụ kinh tế cơ bản để thực hiện thắng 7
lợi con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Kết luận 10 TÀI LIỆU THAM KHẢO 11 12