TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
KHOA MỸ THUẬT THIẾT KẾ
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI ĐẶC SẢN MIỀN NAM
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PHAN THỊ HỒNG HÀ
SINH VIÊN THỰC HIỆN: ĐOÀN LÊ ANH QUÂN
MSSV: 2275801080129
LỚP: 231_71CULT20222_11
1
MỤC LỤC
Chương I. Mở đầu..............................................................................................4
I.1. Giới thiệu chủ đề.........................................................................................4
I.2. Lịch sử ẩm thực Việt Nam..........................................................................4
I.2.1. Văn hóa ẩm thực phát triển dựa trên hoàn cảnh sống...........................4
I.2.2. Văn hóa ẩm thực phát triển từ chiến tranh............................................6
I.2.3 Ẩm thực Việt Nam phát triển qua những diễn biến lịch sử của dân tộc 7
I.3 Lịch sử ẩm thực miền Nam..........................................................................7
Chương II. Các yếu tố tác động đến sự phát triển ẩm thực miền Nam.......10
II.1. Sự ảnh hưởng từ vị trí địa lý....................................................................10
II.2. Sự ảnh hưởng từ khí hậu..........................................................................11
II.3. Sự ảnh hưởng từ sự hòa trộn văn hóa......................................................12
Chương III. Phân tích thực đơn 5 món ăn tiêu biểu trong 1 ngày miền
Nam....................................................................................................................14
III.1. Cơm tấm (Buổi sáng).............................................................................14
III.1.1. Nguồn gốc........................................................................................14
III.1.2. Thưởng thức.....................................................................................15
III.1.3. Thông tin thú vị................................................................................16
III.2. Bánh xèo (Buổi trưa)..............................................................................17
III.2.1. Nguồn gốc........................................................................................17
III.2.2. Thưởng thức.....................................................................................18
III.2.3. Thông tin thú vị................................................................................19
III.3. Chè bà ba (Buổi xế)................................................................................20
III.3.1. Nguồn gốc........................................................................................20
III.3.2. Thưởng thức.....................................................................................20
III.3.3. Thông tin thú vị................................................................................21
III.4. Lẩu mắm cá linh (Buổi tối).....................................................................22
III.4.1. Nguồn gốc........................................................................................22
III.4.2. Thưởng thức.....................................................................................23
2
III.4.3. Thông tin thú vị................................................................................23
III.5. Kẹo dừa (Tráng miệng)..........................................................................24
III.5.1. Nguồn gốc........................................................................................24
III.5.2. Thưởng thức.....................................................................................25
III.5.3. Thông tin thú vị................................................................................26
Chương IV. Kết luận........................................................................................28
Chương V. Tài liệu tham khảo........................................................................29
3
CHỦ ĐỀ KHAI THÁC:
MÓN ĂN ĐẶC SẢN MIỀN NAM
Chương I. Mở đầu
I.1. Giới thiệu chủ đề
Miền Nam Việt Nam một vùng đất đa dạng văn hóa với những nét đặc trưng
nét trong ẩm thực. Trải qua hàng thế kỷ phát triển tương tác văn hóa, ẩm
thực miền Nam không chỉ một phần quan trọng của đời sống hàng ngày
còn là biểu tượng của sự đa dạng và sự phong phú trong ẩm thực Việt Nam.
Trong chủ đề về "Món ăn đặc sản miền Nam", chúng ta sẽ khám phá về sự độc
đáo đặc trưng của các món ăn ngon miền Nam, từ những món đặc sản nổi
tiếng đến những món ăn thông thường tại các vùng miền Nam khác nhau. Với
đặc điểm địa lý, khí hậu nguồn nguyên liệu phong phú, ẩm thực miền Nam
đã hình thành phát triển một cách đặc biệt, mang trong đó những hương vị
độc đáo, phong phú và có sức hấp dẫn khó cưỡng.
Ngoài việc giới thiệu về các món ăn, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu về nguồn gốc,
lịch sử hình thành cũng như tầm quan trọng văn hóa, xã hội của chúng trong đời
sống người dân miền Nam.
Các món ăn đặc sản không chỉ những bữa ăn ngon còn chứa đựng những
giá trị văn hóa sâu sắc, từ cách chế biến, cách dùng đồ ăn đến các nghi lễ, tập
tục liên quan. Qua việc khám phá về ẩm thực đặc sản miền Nam, chúng ta
thể thấy rõ sự phong phú, đa dạng và sức sống của văn hóa Việt Nam.
Bài tiểu luận này sẽ đưa người đọc đi sâu vào thế giới ẩm thực độc đáo của
miền Nam, từ những món ăn quen thuộc hàng ngày đến những món đặc biệt đầy
sức hút, giúp người đọc hiểu hơn về vẻ đẹp văn hóa độc đáo của vùng đất
này.
I.2. Lịch sử ẩm thực Việt Nam
4
I.2.1. Văn hóa ẩm thực phát triển dựa trên hoàn cảnh sống
Sống trong cảnh thường xuyên đói nghèo nên người Việt luôn phải tằn tiện, tiết
kiệm trong ăn uốngluôn tìm ra các giải pháp hợp lí để tận dụng và khai thác
các tài nguyên tự nhiên sẵn hoặc du nhập từ bên ngoài để chế biến thành
những sản phẩm ẩm thực hữu dụng và có giá trị cho mình.
Cho mãi đến những năm gần đây, sau những cải cách về hội áp dụng
nhiều tiến bộ khoa học cộng với một chương trình dân số phát triển hợp lí,
đất nước ta mới dần dần rút ra khỏi cảnh nghèo nàn túng thiếu trong việc lo cái
ăn hàng ngày. Có người nghĩ: đã đói nghèo, ăn không đủ no thì làm gì nghệ
thuật ẩm thực? Thực tế lại không như vậy. Trong cái gian khó ấy, người Việt đã
sáng tạo tìm ra hướng giải quyết riêng của mình. Cũng từ đó, nghệ thuật ẩm
thực độc đáo đã nảy sinh và phát triển.
Lương thực chính của người Việt lúa gạo, thế nhưng khi mất mùa, thóc cao
gạo kém thì người Việt ra sức sản xuất những hoa màu khác để hỗ trợ cho
nguồn lương thực chính bị thiếu hụt. Ngô, khoai, sắn đều không phải những
cây truyền thống của người Việt. Chúng nguồn gốc tận Nam Trung
nhưng chúng được người Việt sẵn sàng chấp nhận và sử dụng triệt để trong cuộc
sống của mình. Cơm gạo thiếu thì sẵn sàng ăn độn ngô, độn khoai, độn sắn. Để
dễ ăn, để các thứ cây ngoại nhập d phù hợp với lối ăn truyền thống của mình,
người Việt luôn sáng tạo ra những kiểu ăn riêng không đâu từ những
nguyên liệu ngoại nhập. Ngô được xay ra làm bánh đúc, bánh đa, chế biến thành
tương ngô và có lẽ cầu kì và đặc sắc hơn cả là món xôi lúa được làm ra để chiều
dân lao động thị thành trong các bữa ăn lót dạ. Có lẽ không đâu trên trái đất này
kiểu chế biến ngô đặc biệt như thế ngoại trừ vùng Tương Mai gần kề cửa ô
Hà Nội xưa.
Từ củ sắn, củ khoai người Việt đã chế tạo ra biết bao loại bánh độc đáo. Rất
nhiều thứ bánh quan trọng trong sưu tập các loại bánh nổi tiếng ở cố đô Huế đã
được chế biến từ bột sắn, thứ bột tinh khiết được tinh chế rất công phu của
khu vực miền Trung đất Việt. Bánh đa khoai, bỏng nếp món cháo loãng
những thứ không thể thiếu trong ngày rằm tháng bảy “xá tội vong nhân”. Người
sống lo cả cho những hương hồn phiêu diêu dưới cõi âm những thức ăn thật
giản dị nhưng chế biến cũng không kém cầu kì.
Trong đời sống thường nhật, người Việt luôn một chế độ ăn tiết kiệm nhưng
vẫn có tương đối đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Đất thiếu không đủ để
phát triển những vườn rau nên rau trong bữa ăn thường chủ yếu dựa vào rau
muống trong ao nhà, đám mùng tơi lan trên hàng rào, giàn bầu giàn bí hay giàn
5
thiên mọc trước sân một loạt các loại rau mọc t nhiên quanh bờ ao, bờ
ruộng hay bãi cỏ chân đê. Việc hình thành các vườn rau chuyên canh nông
thôn cũng như miền núi Việt Nam mới chỉ được phát triển trong vòng vài chục
năm gần đây. Xưa kia, các vườn chuyên canh rau chỉ quanh đô thị, người
dân quê thường chỉ trồng tạm đủ ăn những mảnh đất quanh vườn hay ao
nhà và tận dụng các sản vật sẵn có ngoài đồng như con tôm con tép, xâu cua mớ
ốc hay con con lươn, xâu ếch xâu nhái tự lượm được trong những buổi làm
đồng về. Từ những thứ thực phẩm sẵn trong tự nhiên ấy, người Việt đã sáng
tạo ra một kiểu ăn tận dụng đến tối đa hiệu quả về thẩm cũng như dinh
dưỡng. Bát riêu cua đồng chan bánh đúc, mẹt bún ốc góc chợ, hàng chả nhái
thơm lừng với những miếng chả nóng hổi vừa được vớt lên trong chảo mỡ sôi
xèo xèo của bán hàng ngồi cửa chợ cùng nhiều loại bánh gói như bánh
nếp, bánh tẻ, bánh gai, bánh khoai sọ,… những món quà đặc biệt làm từ
những nguyên liệu tự nhiên sẵn trong các chợ quê của người nông dân
nghèo.
thiếu thốn nên ý thức tiết kiệm lại càng được đề cao trở thành đạo đức
trong văn hoá của người Việt. Lúa gạo luôn được coi trọng. Một hạt thóc là một
hạt vàng.
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
I.2.2. Văn hóa ẩm thực phát triển từ chiến tranh
Cho đến nay, hầu như chưa mấy ai chú ý tìm hiểu ảnh hưởng của chiến tranh
đến văn hoá ẩm thực của chúng ta nhưng khả năng chiến tranh đã ảnh
hưởng rất lớn đến văn hoá ẩm thực người Việt này.Không biết xưa kia ra trận,
người chiến ta ăn uống ra sao. một số loại lương thực thực phẩm
người ta cho rằng từ xửa từ xưa được sáng tạo ra để phục vụ cho binh lính
khi hành quân đường dài làm lương khô như món chè lam, bỏng rang, gạo rang,
… Sử sách có chỗ này chỗ khác nói đến những bữa tiệc khao quân của các danh
tướng mừng thắng trận cũng như những bữa đồng cam cộng khổ của tướng lĩnh
cùng binh sĩ ngoài trận mạc.
Xưa kia, mở quân thần tốc ra Bắc để giành đại thắng quân Thanh, Quang Trung
đã tổ chức vừa đi vừa nấu cơm cho binh sĩ. Nhiều hội thi vừa đi vừa vo gạo,
thổi cơm diễn ra nhiều hội làng ngày nay đa phần đều liên quan đến các sự
tích diễn ra khi quân ta hành quân vừa đi đường vừa nấu cơm.
6
Trong hai cuộc chiến tranh lâu dài gian khổ chống Pháp chống vừa
qua cũng đã xuất hiện biết bao kiểu ăn, lối ăn thời chiến nhưng đã mấy ai tổng
kết. Ẩm thực thời chiến đã đi vào thơ ca, âm nhạc. Hình ảnh chị nuôi với bát
canh chua, nắm rau rừng, măng vắt cơm bếp Hoàng Cầm đã ăn sâu vào
nhiều thế hệ những người lính Cụ Hồ. Một lối sống, lối ăn tập thể thời chiến,
thời bao cấp đã được hình thành tồn tại khá lâu dài trên đất nước ta chắc
chắn nó vẫn còn để lại dấu ấn trong đời sống của mỗi chúng ta. Sự đổi thay quá
nhanh trong đời sống kinh tế thời bình, trong cơn lốc của kinh tế thị trường đã
làm cho những kỉ niệm về ẩm thực thời chiến dường như nhanh chóng nhạt
nhoà trong cuộc sống hôm nay.
I.2.3 Ẩm thực Việt Nam phát triển qua những diễn biến lịch sử của dân tộc
Chúng ta đã trải qua cả nghìn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm đô hộ của chủ
nghĩa thực dân. Mặc dầu vậy, người Việt vẫn ăn theo kiểu Việt. Cơm Việt vẫn
khác hẳn cơm Tây và cũng khác hẳn cơm Tàu. Có lcâu thơ của Tố Hữu “Bốn
nghìn năm ta lại là ta”hoàn toàn đúng với tiến trình tồn tại phát triển của
văn hoá ẩm thực Việt Nam. Sở trong ẩm thực, người Việt không bị đồng hoá
chính người Việt vốn một bản sắc văn hoá sâu đậm một bản lĩnh văn
hoá vững vàng.
May thay, tổ tiên chúng ta qua nhiều thế hệ đã một cái nhìn nhân ái một
lối ứng xử khoan dung trong bình diện văn hoá ẩm thực nên chúng ta mới
một văn hoá ẩm thực phong phú như ngày nay. Đu đủ đem vào từ châu ư?
Vâng từ châu Mĩ. Ăn được rất ngon. rốt đem vào từ châu Âu ư? Không
sao, cũng rất ngon. Lạc mang vào từ châuchăng? Phải, ngon bùi lắm. Ớt
nhập vào từ Chi lê, cay lắm nhưng ăn thử xem sao. Và cuối cùng từ những thứ
ấy người Việt làm ra món nộm đu đủ. Khi ăn tiệc cùng người Âu, người Mĩ, hay
người Trung Hoa hầu như nhiều người đều ưa thích món “sa lát nộm” này
cũng như nhiều món khác họ chưa từng được thưởng thức bao giờ mới chỉ
được biết đến khi tới Việt Nam.
Người Việt chẳng những đã không chối bỏ những sản phẩm ẩm thực của các
nền văn minh khác cũng không chối bỏ một cách cực đoan văn hoá ẩm thực
của kẻ thù của mình mà chúng ta đã biết sử dụng, tận dụng những yếu tốsẵn
trong các nền văn hoá ẩm thực khác trực tiếp đưa thẳng vào đời sống của mình.
Hoặc, sử dụng những nguyên liệu nguồn gốc từ bên ngoài chế biến một
cách sáng tạo cho phù hợp với lối thưởng thức, lối sống của Việt Nam. Có hàng
trăm, hàng ngàn các dụ về các món ăn, kiểu ăn của người Việt được học hỏi
7
từ nước ngoài hay được sáng tạo hoàn toàn trên nền tảng của các nguyên liệu du
nhập phát triển Việt Nam qua mỗi bữa ăn của người Việt chúng ta. Nếu
như chịu khó tìm hiểu cặn kẽ một chút thôi, chúng ta sẽ thấy rõ ngay điều bí mật
này trong từng bữa ăn của người Việt từ nông thôn đến thành thị.
I.3 Lịch sử ẩm thực miền Nam
Nói đến tính hoang tính sáng tạo trong văn hóa ẩm thực Nam Bộ nói
đến đặc tính ăn uống của người Nam Bộ thể hiện trong việc ăn các món
nhiều nguồn gốc từ tự nhiên và sự chế biến các món ăn từ tự nhiên đó thành các
món khác nhau. Nói đến vùng đất Nam Bộ, người ta hay nói đến sự trù phú của
vùng đất này về các nguồn lợi tự nhiên, vùng đất “làm chơi ăn thiệt”.
Đại để là, thiên nhiên đây ưu đãi cho con người, con người không phải làm
lụng nhiều vẫn cái ăn, cái mặc. Nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh
rằng, không phải lúc nào vùng đất này cũng ưu ái con người, khoản đãi cho con
người nhiều nguồn lợi tự nhiên. trái lại, ngay từ buổi đầu khai phá, những
lưu dân đã chiến đấu một cách hết sức gian khổ để khắc phục rất nhiều khó
khăn do tự nhiên gây ra.
Phần lớn đất đai Nam Bộ vào các thế kỷ XVII- XVIII rừng hoang cỏ rậm,
trũng thấp sình lầy, nên người lưu dân ngoài việc đương đầu với sự khắc nghiệt
của thiên nhiên còn phải lo chống lại các loại thú dữ, sấu, muỗi mòng, rắn
rết,cùng nhiều thứ bệnh tật hiểm ác…
Đại bộ phận đất đai còn trong tình trạng sình lầy, bị ngập úng vào mùa mưa,
thiếu nước ngọt vào mùa khô, nhiều vùng phèn, mặn nghiêm trọng, chính là môi
trường để cho nhiều loại chuột bọ, sâu bệnh phá hoại mùa màng phát triển”.
Nhiều câu ca dao, chuyện kể đã nói lên nỗi lo sợ của người lưu dân thời bấy giờ
trước một khung cảnh thiên nhiên vô cùng lạ lẫm, bí hiểm và đầy đe dọa :
Chèo ghe sợ sấu cắn “chưn”
Xuống sông sợ đỉa lên rừng sợ ma.
Buổi đầu, khi những lưu dân đặt chân lên vùng đất này thì thiên nhiên ở đây còn
rất hoang sơ, rừng hoang cỏ rậm, thú dữ hoành hành. Con người cảm thấy lạ
lẫm trước một cảnh quan thiêng nhiên nơi quê cha đất tổ họ chưa hề gặp
phải. Vì vậy, để sinh tồn, phương diện ăn uống, họ không thể nào ăn các món
ăn truyền thống nơi quê nhà, bởi nguyên vật liệu, các nguồn lương thực họ chưa
hề quen biết, nên lúc đầu gặp ăn nấy, từ những cây cỏ trên bờ, con dưới
8
sông, con chim trên trời… cho đến các loài sinh vật khác. Tính hoang trong
văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ đã định hình từ lúc này.
Điều dễ nhận thấy nhất nh hoang này người Nam Bộ ăn rất nhiều
rau.Đây loại thức ăn sẵn ao hồ, vườn ruộng, rất dễ tìm, không cần thiết
phải chế biến, chỉ cần hái vào rửa sạch ăn được. Người ta thể ăn đủ các
loại rau, từ rau đắng, rau dềnh, rau răm, rau thơm, cải trời, tía tô, hành, hẹ, ngò
gai, ngò rí… đến các loại cây, đọt cây, các loại bông, như: bông điên điển,
nèo, đọt vừng, xoài, lá cách… Trong danh mục này, có thứ dùng để ăn sống,
thứ dùng để nấu canh, thứ luộc lên chấm với kho, thịt kho, hay nước
chấm.
“Hồi ấy, chưa đủ thời giờ để nuôi gà, vịt, heo. Việc chăn nuôi đòi hỏi nhà cửa ổn
định, cũng như ta chưa nghĩ đến việc trồng rau tươi, hoặc chăng vài cây ớt,
bụi sả. Bởi vậy, người đồng bằng Sài Gòn ăn đủ thứ rau. Rau nào cũng ăn,
“không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc” gọi cho gọn “rau rừng”. Ăn cho vui
miệng, miễn không chết. Nào đọt bần, trái bần chín, đọt chùm ruột, bông
súng, bông điên điển, bồn bồn, rau dừa, rau ngổ, kèo nèo, lục bình, đọt xoài, trái
xoài non, đọt ổi, đọt cơm nguội, đọt chiếc, ổi chua, thậm chí trái dừa non cũng
xắt ra làm rau”.
Đối với các loài thủy hải sản, ngoài các loại cá, tôm bắt ao, đìa, người ta còn
ăn cả các loài mang tính hoang dã, như: con còng, con cua, ba khía, chuột, cóc,
nhái, ếch, rùa, rắn, lươn, le le, dơi… và thậm chí người ta còn ăn cả một số loài
côn trùng như: cào cào, dế... Nhưng nổi bật hơn hết trong tính hoang này
chính là môi trường của việc ăn uống.
Người Nam Bộ thường thói quen chế biến món ăn ăn ngay tại chỗ, nên
tính hoang đây thể hiện việc các món ăn gắn với không gian của một
khoảnh vườn, đám ruộng, bờ ao. Món cá lóc nướng trui là một minh chứng cho
điều này, hoặc một nồi canh chua cá lóc được nấu ngay sau buổi tát đìa cũng thể
hiện điều đó. Bởi vì, mọi thứ đều là cây nhà lá vườn, không phải ra chợ mua.
9
Chương II. Các yếu tố tác động đến sự phát triển ẩm thực
miền Nam
II.1. Sự ảnh hưởng từ vị trí địa lý
Miền Nam bao gồm 19 tỉnh từ Bình Phước trở xuống phía Nam. hai thành
phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Cần Thơ.
Nam bộ được mệnh danh xứ sở của những dòng sông, nơi khoảng 54.000
km chiều dài sông, rạch, nơi nào cũng kênh rạch phong phú nhiều lung, hồ,
láng..., không nơi nào không cá, tôm, cua, ếch... Bên cạnh đó, còn cả
rừng già, rừng thưa, đầy dẫy các loại động vật lớn, nhỏ. Chính yếu tố kênh rạch
chằng chịt cùng với hệ thống sông lớn đầy ắp phù sa đã tạo cho vùng Nam Bộ
nguồn thủy hải sản phong phú để phục vụ cho đời sống của người dân nơi đây.
Nam Bộ gồm 2 tiểu vùng gồm Đông Nam Bộ (6 tỉnh) Tây Nam Bộ (hay
Đồng bằng Sông Cửu Long) (13 tỉnh).
Đông Nam Bộ (6 tỉnh) các sông lớn như hệ thống sông Đồng Nai,
sông Sài Gòn:
Phía Bắc và Tây giáp với Campuchia.
Phía Nam và Tây Nam giáp với Đồng bằng sông Cửu Long.
Phía Đông Bắc giáp với Tây Nguyên.
Phía Đông và Đông Nam giáp với Nam Trung Bộ và biển Đông.
Tây Nam Bộ (Đồng bằng sông Cửu Long) (13 tỉnh) một bộ phận của
châu thổ sông Kông diện tích 39.734km². Vị trí nằm liền kề với
vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam vịnh
Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông.
Đây vùng khí hậu cận xích đạo, nên thuận lợi phát triển
ngành nông nghiệp (mưa nhiều, nắng nóng) đặc biệt phát triển
trồng lúa nước và cây lương thực.
Lúa trồng nhiều nhất các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An,
Đồng Tháp, Sóc Trăng, Tiền Giang. Diện tích sản lượng thu
hoạch chiếm hơn 50% so với cả nước. Nhờ vậy nên Đồng bằng
sông Cửu Long nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả đất nước.
Ngoài ra vùng này còn trồng mía, rau đậu, xoài, dừa, sầu riêng,
cam, bưởi...
10
Ngoài ra, nghề chăn nuôi cũng khá phát triển như trâu, bò, vịt…
Gia súc nuôiđây không được nhiềucũng tỉnh bình
quân nuôi thấp nhất cả nước.
Do bờ biển dài sông Kông chia thành nhiều nhánh
sông, khí hậu thuận lợi cho hải sản, kênh rạch chằng chịt, nhiều
sông ngòi, đem lại nguồn thủy sản thức ăn cho cá, nhiều
nước ngọt nước lợ nên thích hợp cho việc nuôi trồng đánh
bắt thủy sản, nên sản lượng thủy sản chiếm 50% nhiều nhất các
tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, An Giang.
Nam bộ được mệnh danh đất rộng sông dài, thiên nhiên ưu đãi. Nên nơi nào
cũng kênh rạch chằng chịt cùng với hệ thống sông lớn đầy ắp phù sa đã tạo cho
vùng Nam Bộ nguồn thủy hải sản phong phú để phục vụ cho đời sống của người
dân nơi đây.
Đặc biệt tại nơi đây cũng được thiên nhiên ưu ái cung cấp cho một số nguyên
liệu nổi tiếng như:linh, cá lóc, cá bông lau, chuột đồng, bông điên điển, cây
cỏ xước, bông súng trắng,...
II.2. Sự ảnh hưởng từ khí hậu
Khác với miền Bắc có bốn mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Miền Nam vì nằm
cận đường xích đạo nên đã gộp lại thành hai mùa chính mùa Mưa mùa
Khô. Mùa mưa biểu hiện cho Thu và Đông, mùa Khô biểu hiện cho mùa Xuân
Hạ. Sự khác nhau này đã làm cho miền Nam một vẻ khác biệt đặc biệt,
nhờ đó miền Nam được thiên nhiên ưu ái nhiều thứ từ đất đai màu mỡ cho
đến nguyên liệu làm món ăn đặc biệt.
Miền Nam được chia làm hai mùa là:
Mùa mưa (gọi mùa nước nổi miền Tây) độ tháng 7 tháng 10 âm
lịch hàng năm
Mùa khô (gọi là mùa gặt ở miền Tây) độ tháng 11 - tháng 4 năm sau
Mỗi mùa mang đến những sản vật thiên nhiên riêng biệt tạo nên những điểm
đặc trưng cho món ăn miền Nam:
Vào mùa nước nổi: người dân địa phương lại bắt đầu chế biến và thưởng
thức những món ăn dântừ những nguyên liệu đặc trưng theo mùa như
11
lẩu cá linh điên điển, bún nước lèo, bông súng kho mắm,... Điển hình như
món lẩu cá linh từng thớ cá mềm ngọt kết hợp với bông điên điển vị chua
chua, thanh thanh, giòn giòn sự kết hợp tuyệt vời tạo nên món lẩu
linh điên điển của ẩm thực miền Nam vào mùa nước nổi.
Còn vào mùa gặt: Ẩm thực miền Nam lại trở nên phong phú bởi những
loại đồng béo ngậy hay những loại rau, bông, đọt cây được chế biến
theo nhiều cách đa dạng khác nhau. Những món ăn nổi tiếng của miền
Nam vào mùa gặt như cá lóc nướng trui, cá trê nướng rơm, chuột đồng…
II.3. Sự ảnh hưởng từ sự hòa trộn văn hóa
Đối với nơi có sự giao thoa giữa nhiều nền văn hóa đa dạng và lâu đời như miền
Nam, thì ẩm thực nơi đây cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ nhiều vùng miền
và nhiều nền văn hóa. Ẩm thực miền Nam có thể gọi là sự tổng hòa của văn hóa
ẩm thực miền Bắc, miền Trung và sự ảnh hưởng của văn hóa Khmer, Hoa.
Cụ thể, có thể kể đến 2 nền văn hóa chính ảnh hưởng đến ẩm thực Nam Bộ:
Văn hóa người Khmer: Những món ăn của người dân miền Nam có phần
đậm đà mang theo những hương vị đặc trưng từ ảnh hưởng của văn hóa
Khmer.
Vị chua: Đặc trưng trong khẩu vị của người Khmer Nam Bộ, vị
chua thường xuất hiện trong các món canh.
Vị cay: Cũng là một phần không thể thiếu trong ẩm thực Khmer, vị
cay được thêm vào nhiều món ăn để tạo nên sự kích thích cho vị
giác. ẩm thực miền Nam cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ
yếu tố này những món ăn miền Nam ngoài làm nổi bật sự mặn
của muối các gia vị, vị ngọt của đường con làm bật lên vị
cay nồng của ớt tiêu mang đến cho người ăn những món ăn
cùng độc đáo.
Mắm cá: Người Khmer thường sử dụng mắm cho các món ăn
của mình. Điều này cũng được người dân Nam Bộ sử dụng trong
ẩm thực. Tuy chịu ảnh hưởng thế nhưng với sự sáng tạo của
người dân nơi đây đã chế biến và tạo ra những món ăn riêng biệt và
hợp khẩu vị người miền Nam.
Văn hóa người Hoa: Còn về cách thức chế biến ẩm thực nơi đây đôi
phần chịu ảnh hưởng từ người Hoa, những món nước canh, nước lèo đều
12
được ninh bằng xương nhiều nguyên liệu khác, hay những cách chế
biến thức ăn bằng chảo gang đúc làm tăng thêm hương vị đặc trưng của
món ăn cũng được người dân nơi đây áp dụng. Ngoài ra những món ăn
đặc trưng của người Hoa cũng được người dân miền Nam điều chỉnh
đón nhận rộng rãi như bánh pía, hủ tiếu, bột chiên, vịt quay, há cảo…
Tổng hòa giữa những yếu tố đặc trưng của văn hóa Khmer, Hoa cùng với sự
sáng tạo linh hoạt của người dân miền Nam đã làm nên những món ăn đặc
sản độc đáo, làm nên bản sắc riêng không thể nhầm lẫn của ẩm thực miền Nam
Việt Nam. Đây không chỉ việc thưởng thức hương vị còn là cách để hiểu
sâu hơn về vẻ đẹp sức sống của văn hóa đặc trưng trong ẩm thực của vùng
đất này.
13
Chương III. Phân tích thực đơn 5 món ăn tiêu biểu trong 1
ngày ở miền Nam
Trên con đường khám phá văn hóa ẩm thực miền Nam Việt Nam, những món ăn
được chọn lọc một ngày dường như những bức tranh sống động về sự đa
dạng và phong phú của nền ẩm thực này.
Qua những món ăn tiêu biểu như cơm tấm, bánh xèo, chè ba, lẩu mắm
linh, kẹo dừa, chúng ta sẽ hội tận hưởng hương vị hiểu sâu hơn về
bản sắc văn hóa ẩm thực đặc trưng của miền Nam.
Từ món ăn sáng điểm tâm đến món tráng miệng, mỗi món đều mang theo một
câu chuyện riêng, kể về sự kỳ diệu của nguyên liệu, kỹ thuật chế biến cả
những giá trị văn hóa sâu sắc chứa đựng bên trong. Hãy cùng Chương III khám
phá từng mật hương vị đặc trưng đằng sau những món ăn này để hiểu
hơn về ẩm thực đặc sản miền Nam Việt Nam.
III.1. Cơm tấm (Buổi sáng)
III.1.1. Nguồn gốc
Cơm tấm xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ 20. Cơm tấm có nguồn gốc từ miền Tây
Nam Bộ, cụ thể, ban đầu, món ăn này phổ biến với những người nông dân
công nhân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vào các năm mùa màng đói kém,
nhiều người không đủ gạo ngon để bán ăn, vậy họ phải đã dùng gạo
tấm (gạo bể) để nấu ăn.
14
Khi Việt Nam đô thị hóa, cơm tấm trở nên phổ biến hầu khắp các tỉnh Nam
Bộ, đặc biệt Sài Gòn. thế nên cơm tấm còn được gọi với cái tên Cơm
tấm Sài Gòn.
III.1.2. Thưởng thức
Cơm tấm đặc trưng nằm ở nước mắm chan cơm. Đây là loại nước mắm pha kết
hợp mặn - ngọt - chua - cay. Chén nước mắm này sẽ sự quyết định độ ngon
của một dĩa cơm tấm. một chén nước mắm thơm ngon sẽ hòa quyện hoàn
hảo với hạt cơm tấm dẻo thơm, sườn nướng đậm đà ngọt nhẹ, chả trứng bùi
thơm, dưa chuột giòn mát, cà chua chua nhẹ.
Ngoài cơm tấm sườn nướng, cònnhiều biến tấu khác của món ăn này, chẳng
hạn như cơm tấm bì chả, cơm tấm gà, cơm tấm trứng,...
Một dĩa cơm tấm chuẩn là biểu hiện của sự hòa hợp trong ngũ hành:
Thổ - Vị ngọt:từ nguyên liệu chính của cơm tấm là gạo tấm. Gạo tấm
những hạt gạo bị vỡ ra trong quá trình xay xát. Gạo tấm vị ngọt
thơm và bùi hơn gạo thường.
15
Thủy - Vị mặn: từ sườn nướng được ướp đậm đà nước mắm pha
được pha cho chuẩn chan cơm tấm. (Nước mắm pha được làm từ nước
mắm ngon, đường, chanh, tỏi, ớt. Nước mắm pha có vị chua ngọt, đậm đà
chứ không mặn gắt, điều này cũng thể hiện được khẩu vị đặc trưng của
người Miền Nam là CHUA NGỌT)
Mộc - Vị chua: từ đồ chua, dưa leo, chua những món ăn kèm
giúp món cơm tấm thêm phong phú. Đồ chua được làm từ chua, dưa
chuột, hành tây,... ngâm giấm. Dưa leo, chua được rửa sạch, thái lát
mỏng.
Kim - Vị cay: Thường là ớt được thêm vào nước mắm, để tăng vị giác
cân bằng lại chén nước mắm pha có vị chua ngọt.
Hỏa - Vị đắng: từ chén canh khổ qua, chén canh đặc trưng của món
cơm tấm, thường rất hay được ăn kèm.
Món cơm tấm tuy đủ 5 loại vị theo ngũ hành nhưng ràng cũng thể hiện
khẩu vị của người Nam Bộ thích ăn CHUA (nhiều mộc) NGỌT (nhiều
thổ).
III.1.3. Thông tin thú vị
Có 1 câu chuyện thú vị nhỏ, chưa được xác thực về món cơm tấm như sau:
Cơm tấm ngày nay thật ra cũng sự ảnh hưởng của người Pháp. Thời Pháp
thuộc, Pháp muốn biến Sài Gòn thành một trong những cảng bận rộn nhất thế
giới, họ đã thuê nhiều công nhân và xây dựng các dự án lớn. Ở gần cảng thuyền,
Hai, người bán cơm hấp với thịt heo kho trứng, thường bị mắng vốn
giá cơm hơi cao với khả năng chi trả của công nhân. Để giải quyết vấn đề này,
đã sử dụng gạo tấm thay gạo nguyên hạt để giảm giá thành. nấu cơm
tấm vớidứa hấp trong nồi, kết hợp với nước mắm ngọt cay pha với tỏi
ớt.
Giá cả phải chăng và mùi vị thơm ngon đã thu hút thêm nhiều khách hàng, từ kỹ
Pháp đến công nhân nghèo. Để giữ khách, đã thêm bì, da heo xé, làm
topping miễn phí. Sau đó, để đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng hơn, bà đã
tạo ra chả, một sự kết hợp hấp của trứng, thịt heo băm và các nguyên liệu rau củ
khác.
Danh tiếng của cơm tấm cuối cùng đã đến tai chính quyền Pháp, những người
này yêu cầu thêm sườn heo nướng giống như steak kiểu phương Tây. Đây
16
cách topping cuối cùng, sườn heo nướng, được thêm vào món ăn. Điều này
cũng giải thích tại sao ngày nay chúng ta ăn cơm tấm bằng thìa nĩa, thay
đũa. Kể từ đó, mỗi khi nhắc đến cơm tấm, điều đầu tiên mọi người nghĩ đến
combo “sườn - - chả”, tức cơm tấm được ăn kèm với sườn heo nướng, da
heo xé và chả trứng thịt.
III.2. Bánh xèo (Buổi trưa)
III.2.1. Nguồn gốc
Bánh xèo miền Tây một món ăn đặc sản của vùng đất sông nước miền Tây
Nam Bộ. Đây món ăn dân dã, nhưng lại cùng thơm ngon, hấp dẫn. Bánh
xèo miền Tây kích thước lớn hơn bánh xèo miền Trung miền Bắc, với
đường kính trung bình khoảng 20-30 cm. Vỏ bánh được làm từ bột gạo, bột
nghệ nước cốt dừa, màu vàng ươm đẹp mắt. Nhân bánh thường tôm,
thịt, giá đỗ, hành lá,... được xào chín. Bánh xèo miền Tây được ăn kèm với rau
sống, nước mắm chua ngọt và tương ớt.
17
Nguồn gốc của bánh xèo miền Tây vẫn chưa được xác định ràng. nhiều
giả thuyết khác nhau về quê quán của món ăn này, bao gồm:
Nguồn gốc từ miền Trung: Theo một số thông tin, bánh xèo miền Tây
nguồn gốc từ miền Trung. Trong quá trình di dân, khai phá định
miền Nam, nhất Tây Nam Bộ, người miền Trung đã mang theo cách
chế biến món bánh độc đáo này.
Nguồn gốc từ người Khmer: Một giả thuyết khác cho rằng, bánh xèo
miền Tây được học từ người Khmer trong nhiều thế kỷ trước. Người
Khmer có một món ăn tương tự gọi là "bánh khọt".
Nguồn gốc từ ẩm thực Nam Ấn:ý kiến cho rằng, bánh xèo miền Tây
có nguồn gốc từ ẩm thực Nam Ấn trước thế kỷ XI.
nguồn gốc của bánh xèo miền Tây thì đây vẫn là một món ăn đặc sản
của người dân Nam Bộ. Bánh xèo miền Tây hương vị thơm ngon, đậm đà,
khó quên. Vỏ bánh giòn rụm, nhân bánh tôm thịt ngọt bùi, ăn kèm với rau sống
và nước mắm chua ngọt thì ngon tuyệt vời. Bánh xèo miền Tây thường được ăn
vào bữa sáng, bữa trưa hoặc bữa tối. Đây món ăn không thể thiếu trong các
bữa tiệc, hội họp của người dân miền Tây.
Bánh xèo miền Tây không chỉ món ăn ngon còn nét văn hóa ẩm thực
đặc sắc của vùng đất sông nước miền Tây. Món ăn này đã góp phần làm phong
phú thêm bản sắc ẩm thực Việt Nam.
III.2.2. Thưởng thức
Bánh xèo miền Tây một món ăn đặc sản của vùng đất sông nước miền Tây
Nam Bộ. Món ăn này hương vị thơm ngon, đậm đà, khó quên, được nhiều
người cả người Việt lẫn người nước ngoài yêu thích.
Nguyên liệu và cách chế biến:
Nguyên liệu làm bánh xèo miền Tây khá đơn giản, gồm bột gạo, bột
nghệ, trứng gà, tôm, thịt heo, giá đỗ, đậu xanh, hành tây,... Bột gạo được
pha với nước cốt dừa, nước lọc, trứng bột nghệ để tạo màu vàng
đẹp mắt. Tôm và thịt heo được xào chín cùng hành tây, đậu xanh.
Bánh xèo miền Tây thường được đổ bằng chảo gang sâu lòng. Khi chảo
nóng già, múc một lượng bột vào chảo và dàn đều. Sau đó, cho nhân bánh
18
gồm tôm, thịt heo, giá đỗ, đậu xanh lên trên. Đợi bánh chín vàng thì gấp
đôi lại và tiếp tục chiên cho chín đều.
Quá trình làm bánh xèo đòi hỏi sự khéo léo và tinh tế, từ việc pha bột, đổ
bánh cho đến việc chọn lựa các loại rau sống gia vị để tạo nên một
món ăn hoàn hảo.
Hương vị đặc trưng:
Hương vị của bánh xèo miền Tây sự kết hợp hài hòa giữa vị ngọt của
nước dừa, vị mặn của tôm và thịt, nước mắm pha, vị chua của rau sống và
vị cay của ớt xắt trong chén nước mắm.
Nước mắm pha yếu tố chính tạo nên độ ngon của bánh xèo miền Tây.
Nước mắm được pha với đường, chanh, tỏi, ớt, tạo nên vị chua ngọt, cay
nồng kích thích vị giác.
Rau sống ăn kèm với bánh xèo miền Tây cũng rất đa dạng, gồm các loại
như: rau diếp cá, lách, húng quế, dưa leo, thơm,... Rau sống giúp món
ăn thêm thanh mát, cân bằng hương vị.
Thưởng thức:
Bánh xèo miền Tây thường được ăn kèm với nước mắm chua ngọt, rau
sống tương ớt. Bánh xèo chín vàng, giòn rụm, nhân bánh ngọt bùi, ăn
kèm với rau sống và nước mắm chua ngọt thì ngon tuyệt vời.
Bánh xèo miền Tây không chỉ một món ăn ngon còn mang trong
mình những yếu tố văn hoá đặc trưng của người người Nam Bộ. Việc chế
biến bánh xèo thường được thực hiện trong gia đình, tạo ra không khí ấm
cúng gắn kết giữa các thành viên. Bánh xèo cũng thể hiện sự sáng tạo
và linh hoạt trong việc lựa chọn các nguyên liệu và gia vị để tạo ra hương
vị độc đáo. thế nếu chọn một món ăn để cả gia đình cùng quây quần
nấu ăn thưởng thức thì món bánh xèo cũng một sự lựa chọn hoàn
hảo.
Bánh xèo miền Tây là một món ăn dân dã, đậm đà hương vị, mang đậm bản sắc
văn hóa của người dân miền Tây Nam Bộ. Món ăn này đã góp phần làm phong
phú thêm bản sắc ẩm thực Việt Nam.
19
III.2.3. Thông tin thú vị
Cái tên “bánh xèo” bắt nguồn từ âm thanh khi lớp bột gạo “hạ cánh” trên chiếc
chảo nóng và chiên đến giòn rụm, nóng hổi.
Theo truyền thống thì khi ăn bánh xèo ta nên dùng tay, không cần đũa nĩa gì cả.
Dùng tay để cuốn bánh cho gọn cảm nhận được độ nóng ấm của bánh mới
thấy ngon miệng. Ăn bánh nên uống với nước trà nóng hoặc với rượu mới tiêu
được mỡ dầu. vậy nếu cần chọn món nhậu thì bánh xèo cũng một sự lựa
chọn hợp lý.
III.3. Chè bà ba (Buổi xế)
III.3.1. Nguồn gốc
Đây một món chè truyền thống nguồn gốc từ Nam Bộ được rất nhiều
người yêu thích.
Nhưng một số nguồn thông tin vẫn cho rằng nguồn gốc của món chè này chưa
rõ ràng chỉ là những lời tương truyền.
20

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
KHOA MỸ THUẬT VÀ THIẾT KẾ BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI ĐẶC SẢN MIỀN NAM
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PHAN THỊ HỒNG HÀ
SINH VIÊN THỰC HIỆN: ĐOÀN LÊ ANH QUÂN MSSV: 2275801080129 LỚP: 231_71CULT20222_11 1 MỤC LỤC
Chương I. Mở đầu..............................................................................................4
I.1. Giới thiệu chủ đề.........................................................................................4
I.2. Lịch sử ẩm thực Việt Nam..........................................................................4
I.2.1. Văn hóa ẩm thực phát triển dựa trên hoàn cảnh sống...........................4
I.2.2. Văn hóa ẩm thực phát triển từ chiến tranh............................................6
I.2.3 Ẩm thực Việt Nam phát triển qua những diễn biến lịch sử của dân tộc 7
I.3 Lịch sử ẩm thực miền Nam..........................................................................7
Chương II. Các yếu tố tác động đến sự phát triển ẩm thực miền Nam.......10
II.1. Sự ảnh hưởng từ vị trí địa lý....................................................................10
II.2. Sự ảnh hưởng từ khí hậu..........................................................................11
II.3. Sự ảnh hưởng từ sự hòa trộn văn hóa......................................................12
Chương III. Phân tích thực đơn 5 món ăn tiêu biểu trong 1 ngày ở miền
Nam....................................................................................................................14
III.1. Cơm tấm (Buổi sáng).............................................................................14
III.1.1. Nguồn gốc........................................................................................14
III.1.2. Thưởng thức.....................................................................................15
III.1.3. Thông tin thú vị................................................................................16
III.2. Bánh xèo (Buổi trưa)..............................................................................17
III.2.1. Nguồn gốc........................................................................................17
III.2.2. Thưởng thức.....................................................................................18
III.2.3. Thông tin thú vị................................................................................19
III.3. Chè bà ba (Buổi xế)................................................................................20
III.3.1. Nguồn gốc........................................................................................20
III.3.2. Thưởng thức.....................................................................................20
III.3.3. Thông tin thú vị................................................................................21
III.4. Lẩu mắm cá linh (Buổi tối).....................................................................22
III.4.1. Nguồn gốc........................................................................................22
III.4.2. Thưởng thức.....................................................................................23 2
III.4.3. Thông tin thú vị................................................................................23
III.5. Kẹo dừa (Tráng miệng)..........................................................................24
III.5.1. Nguồn gốc........................................................................................24
III.5.2. Thưởng thức.....................................................................................25
III.5.3. Thông tin thú vị................................................................................26
Chương IV. Kết luận........................................................................................28
Chương V. Tài liệu tham khảo........................................................................29 3 CHỦ ĐỀ KHAI THÁC:
MÓN ĂN ĐẶC SẢN MIỀN NAM Chương I. Mở đầu
I.1. Giới thiệu chủ đề
Miền Nam Việt Nam là một vùng đất đa dạng văn hóa với những nét đặc trưng
rõ nét trong ẩm thực. Trải qua hàng thế kỷ phát triển và tương tác văn hóa, ẩm
thực miền Nam không chỉ là một phần quan trọng của đời sống hàng ngày mà
còn là biểu tượng của sự đa dạng và sự phong phú trong ẩm thực Việt Nam.
Trong chủ đề về "Món ăn đặc sản miền Nam", chúng ta sẽ khám phá về sự độc
đáo và đặc trưng của các món ăn ngon miền Nam, từ những món đặc sản nổi
tiếng đến những món ăn thông thường tại các vùng miền Nam khác nhau. Với
đặc điểm địa lý, khí hậu và nguồn nguyên liệu phong phú, ẩm thực miền Nam
đã hình thành và phát triển một cách đặc biệt, mang trong đó những hương vị
độc đáo, phong phú và có sức hấp dẫn khó cưỡng.
Ngoài việc giới thiệu về các món ăn, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu về nguồn gốc,
lịch sử hình thành cũng như tầm quan trọng văn hóa, xã hội của chúng trong đời
sống người dân miền Nam.
Các món ăn đặc sản không chỉ là những bữa ăn ngon mà còn chứa đựng những
giá trị văn hóa sâu sắc, từ cách chế biến, cách dùng đồ ăn đến các nghi lễ, tập
tục liên quan. Qua việc khám phá về ẩm thực đặc sản miền Nam, chúng ta có
thể thấy rõ sự phong phú, đa dạng và sức sống của văn hóa Việt Nam.
Bài tiểu luận này sẽ đưa người đọc đi sâu vào thế giới ẩm thực độc đáo của
miền Nam, từ những món ăn quen thuộc hàng ngày đến những món đặc biệt đầy
sức hút, giúp người đọc hiểu rõ hơn về vẻ đẹp văn hóa độc đáo của vùng đất này.
I.2. Lịch sử ẩm thực Việt Nam 4
I.2.1. Văn hóa ẩm thực phát triển dựa trên hoàn cảnh sống
Sống trong cảnh thường xuyên đói nghèo nên người Việt luôn phải tằn tiện, tiết
kiệm trong ăn uống và luôn tìm ra các giải pháp hợp lí để tận dụng và khai thác
các tài nguyên tự nhiên sẵn có hoặc du nhập từ bên ngoài để chế biến thành
những sản phẩm ẩm thực hữu dụng và có giá trị cho mình.
Cho mãi đến những năm gần đây, sau những cải cách về xã hội và áp dụng
nhiều tiến bộ khoa học cộng với một chương trình dân số và phát triển hợp lí,
đất nước ta mới dần dần rút ra khỏi cảnh nghèo nàn túng thiếu trong việc lo cái
ăn hàng ngày. Có người nghĩ: đã đói nghèo, ăn không đủ no thì làm gì có nghệ
thuật ẩm thực? Thực tế lại không như vậy. Trong cái gian khó ấy, người Việt đã
sáng tạo tìm ra hướng giải quyết riêng của mình. Cũng từ đó, nghệ thuật ẩm
thực độc đáo đã nảy sinh và phát triển.
Lương thực chính của người Việt là lúa gạo, thế nhưng khi mất mùa, thóc cao
gạo kém thì người Việt ra sức sản xuất những hoa màu khác để hỗ trợ cho
nguồn lương thực chính bị thiếu hụt. Ngô, khoai, sắn đều không phải là những
cây truyền thống của người Việt. Chúng có nguồn gốc tận Nam và Trung Mĩ
nhưng chúng được người Việt sẵn sàng chấp nhận và sử dụng triệt để trong cuộc
sống của mình. Cơm gạo thiếu thì sẵn sàng ăn độn ngô, độn khoai, độn sắn. Để
dễ ăn, để các thứ cây ngoại nhập dễ phù hợp với lối ăn truyền thống của mình,
người Việt luôn sáng tạo ra những kiểu ăn riêng mà không đâu có từ những
nguyên liệu ngoại nhập. Ngô được xay ra làm bánh đúc, bánh đa, chế biến thành
tương ngô và có lẽ cầu kì và đặc sắc hơn cả là món xôi lúa được làm ra để chiều
dân lao động thị thành trong các bữa ăn lót dạ. Có lẽ không đâu trên trái đất này
có kiểu chế biến ngô đặc biệt như thế ngoại trừ vùng Tương Mai gần kề cửa ô Hà Nội xưa.
Từ củ sắn, củ khoai người Việt đã chế tạo ra biết bao loại bánh độc đáo. Rất
nhiều thứ bánh quan trọng trong sưu tập các loại bánh nổi tiếng ở cố đô Huế đã
được chế biến từ bột sắn, thứ bột tinh khiết và được tinh chế rất công phu của
khu vực miền Trung đất Việt. Bánh đa khoai, bỏng nếp và món cháo loãng là
những thứ không thể thiếu trong ngày rằm tháng bảy “xá tội vong nhân”. Người
sống lo cả cho những hương hồn phiêu diêu dưới cõi âm những thức ăn thật
giản dị nhưng chế biến cũng không kém cầu kì.
Trong đời sống thường nhật, người Việt luôn có một chế độ ăn tiết kiệm nhưng
vẫn có tương đối đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Đất thiếu không đủ để
phát triển những vườn rau nên rau trong bữa ăn thường chủ yếu dựa vào rau
muống trong ao nhà, đám mùng tơi lan trên hàng rào, giàn bầu giàn bí hay giàn 5
thiên lí mọc trước sân và một loạt các loại rau mọc tự nhiên quanh bờ ao, bờ
ruộng hay bãi cỏ chân đê. Việc hình thành các vườn rau chuyên canh ở nông
thôn cũng như miền núi Việt Nam mới chỉ được phát triển trong vòng vài chục
năm gần đây. Xưa kia, các vườn chuyên canh rau chỉ có ở quanh đô thị, người
dân quê thường chỉ trồng tạm đủ ăn ở những mảnh đất dư quanh vườn hay ao
nhà và tận dụng các sản vật sẵn có ngoài đồng như con tôm con tép, xâu cua mớ
ốc hay con cá con lươn, xâu ếch xâu nhái tự lượm được trong những buổi làm
đồng về. Từ những thứ thực phẩm có sẵn trong tự nhiên ấy, người Việt đã sáng
tạo ra một kiểu ăn tận dụng đến tối đa và hiệu quả về thẩm mĩ cũng như dinh
dưỡng. Bát riêu cua đồng chan bánh đúc, mẹt bún ốc góc chợ, hàng chả nhái
thơm lừng với những miếng chả nóng hổi vừa được vớt lên trong chảo mỡ sôi
xèo xèo của bà bán hàng ngồi cửa chợ cùng nhiều loại bánh gói lá như bánh
nếp, bánh tẻ, bánh gai, bánh khoai sọ,… là những món quà đặc biệt làm từ
những nguyên liệu tự nhiên sẵn có trong các chợ quê của người nông dân nghèo.
Vì thiếu thốn nên ý thức tiết kiệm lại càng được đề cao và trở thành đạo đức
trong văn hoá của người Việt. Lúa gạo luôn được coi trọng. Một hạt thóc là một hạt vàng.
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
I.2.2. Văn hóa ẩm thực phát triển từ chiến tranh
Cho đến nay, hầu như chưa mấy ai chú ý tìm hiểu ảnh hưởng của chiến tranh
đến văn hoá ẩm thực của chúng ta nhưng có khả năng chiến tranh đã có ảnh
hưởng rất lớn đến văn hoá ẩm thực người Việt này.Không biết xưa kia ra trận,
người chiến sĩ ta ăn uống ra sao. Có một số loại lương thực thực phẩm mà
người ta cho rằng từ xửa từ xưa nó được sáng tạo ra để phục vụ cho binh lính
khi hành quân đường dài làm lương khô như món chè lam, bỏng rang, gạo rang,
… Sử sách có chỗ này chỗ khác nói đến những bữa tiệc khao quân của các danh
tướng mừng thắng trận cũng như những bữa đồng cam cộng khổ của tướng lĩnh
cùng binh sĩ ngoài trận mạc.
Xưa kia, mở quân thần tốc ra Bắc để giành đại thắng quân Thanh, Quang Trung
đã tổ chức vừa đi vừa nấu cơm cho binh sĩ. Nhiều hội thi vừa đi vừa vo gạo,
thổi cơm diễn ra ở nhiều hội làng ngày nay đa phần đều liên quan đến các sự
tích diễn ra khi quân ta hành quân vừa đi đường vừa nấu cơm. 6
Trong hai cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ chống Pháp và chống Mĩ vừa
qua cũng đã xuất hiện biết bao kiểu ăn, lối ăn thời chiến nhưng đã mấy ai tổng
kết. Ẩm thực thời chiến đã đi vào thơ ca, âm nhạc. Hình ảnh chị nuôi với bát
canh chua, nắm rau rừng, bó măng vắt cơm và bếp Hoàng Cầm đã ăn sâu vào
nhiều thế hệ những người lính Cụ Hồ. Một lối sống, lối ăn tập thể thời chiến,
thời bao cấp đã được hình thành và tồn tại khá lâu dài trên đất nước ta và chắc
chắn nó vẫn còn để lại dấu ấn trong đời sống của mỗi chúng ta. Sự đổi thay quá
nhanh trong đời sống kinh tế thời bình, trong cơn lốc của kinh tế thị trường đã
làm cho những kỉ niệm về ẩm thực thời chiến dường như nhanh chóng nhạt
nhoà trong cuộc sống hôm nay.
I.2.3 Ẩm thực Việt Nam phát triển qua những diễn biến lịch sử của dân tộc
Chúng ta đã trải qua cả nghìn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm đô hộ của chủ
nghĩa thực dân. Mặc dầu vậy, người Việt vẫn ăn theo kiểu Việt. Cơm Việt vẫn
khác hẳn cơm Tây và cũng khác hẳn cơm Tàu. Có lẽ câu thơ của Tố Hữu “Bốn
nghìn năm ta lại là ta” là hoàn toàn đúng với tiến trình tồn tại và phát triển của
văn hoá ẩm thực Việt Nam. Sở dĩ trong ẩm thực, người Việt không bị đồng hoá
vì chính người Việt vốn có một bản sắc văn hoá sâu đậm và một bản lĩnh văn hoá vững vàng.
May thay, tổ tiên chúng ta qua nhiều thế hệ đã có một cái nhìn nhân ái và một
lối ứng xử khoan dung trong bình diện văn hoá ẩm thực nên chúng ta mới có
một văn hoá ẩm thực phong phú như ngày nay. Đu đủ đem vào từ châu Mĩ ư?
Vâng từ châu Mĩ. Ăn được và rất ngon. Cà rốt đem vào từ châu Âu ư? Không
sao, cũng rất ngon. Lạc mang vào từ châu Mĩ chăng? Phải, ngon và bùi lắm. Ớt
nhập vào từ Chi lê, cay lắm nhưng ăn thử xem sao. Và cuối cùng từ những thứ
ấy người Việt làm ra món nộm đu đủ. Khi ăn tiệc cùng người Âu, người Mĩ, hay
người Trung Hoa hầu như nhiều người đều ưa thích món “sa lát nộm” này vì
cũng như nhiều món khác họ chưa từng được thưởng thức bao giờ mà mới chỉ
được biết đến khi tới Việt Nam.
Người Việt chẳng những đã không chối bỏ những sản phẩm ẩm thực của các
nền văn minh khác và cũng không chối bỏ một cách cực đoan văn hoá ẩm thực
của kẻ thù của mình mà chúng ta đã biết sử dụng, tận dụng những yếu tố có sẵn
trong các nền văn hoá ẩm thực khác trực tiếp đưa thẳng vào đời sống của mình.
Hoặc, sử dụng những nguyên liệu có nguồn gốc từ bên ngoài và chế biến một
cách sáng tạo cho phù hợp với lối thưởng thức, lối sống của Việt Nam. Có hàng
trăm, hàng ngàn các ví dụ về các món ăn, kiểu ăn của người Việt được học hỏi 7
từ nước ngoài hay được sáng tạo hoàn toàn trên nền tảng của các nguyên liệu du
nhập và phát triển ở Việt Nam qua mỗi bữa ăn của người Việt chúng ta. Nếu
như chịu khó tìm hiểu cặn kẽ một chút thôi, chúng ta sẽ thấy rõ ngay điều bí mật
này trong từng bữa ăn của người Việt từ nông thôn đến thành thị.
I.3 Lịch sử ẩm thực miền Nam
Nói đến tính hoang dã và tính sáng tạo trong văn hóa ẩm thực Nam Bộ là nói
đến đặc tính ăn uống của người Nam Bộ thể hiện trong việc ăn các món có
nhiều nguồn gốc từ tự nhiên và sự chế biến các món ăn từ tự nhiên đó thành các
món khác nhau. Nói đến vùng đất Nam Bộ, người ta hay nói đến sự trù phú của
vùng đất này về các nguồn lợi tự nhiên, vùng đất “làm chơi ăn thiệt”.
Đại để là, thiên nhiên ở đây ưu đãi cho con người, con người không phải làm
lụng nhiều mà vẫn có cái ăn, cái mặc. Nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh
rằng, không phải lúc nào vùng đất này cũng ưu ái con người, khoản đãi cho con
người nhiều nguồn lợi tự nhiên. Mà trái lại, ngay từ buổi đầu khai phá, những
lưu dân đã chiến đấu một cách hết sức gian khổ để khắc phục rất nhiều khó khăn do tự nhiên gây ra.
Phần lớn đất đai Nam Bộ vào các thế kỷ XVII- XVIII là rừng hoang cỏ rậm,
trũng thấp sình lầy, nên người lưu dân ngoài việc đương đầu với sự khắc nghiệt
của thiên nhiên còn phải lo chống lại các loại thú dữ, cá sấu, muỗi mòng, rắn
rết,cùng nhiều thứ bệnh tật hiểm ác…
Đại bộ phận đất đai còn ở trong tình trạng sình lầy, bị ngập úng vào mùa mưa,
thiếu nước ngọt vào mùa khô, nhiều vùng phèn, mặn nghiêm trọng, chính là môi
trường để cho nhiều loại chuột bọ, sâu bệnh phá hoại mùa màng phát triển”.
Nhiều câu ca dao, chuyện kể đã nói lên nỗi lo sợ của người lưu dân thời bấy giờ
trước một khung cảnh thiên nhiên vô cùng lạ lẫm, bí hiểm và đầy đe dọa :
Chèo ghe sợ sấu cắn “chưn”
Xuống sông sợ đỉa lên rừng sợ ma.
Buổi đầu, khi những lưu dân đặt chân lên vùng đất này thì thiên nhiên ở đây còn
rất hoang sơ, rừng hoang cỏ rậm, thú dữ hoành hành. Con người cảm thấy lạ
lẫm trước một cảnh quan thiêng nhiên mà ở nơi quê cha đất tổ họ chưa hề gặp
phải. Vì vậy, để sinh tồn, ở phương diện ăn uống, họ không thể nào ăn các món
ăn truyền thống nơi quê nhà, bởi nguyên vật liệu, các nguồn lương thực họ chưa
hề quen biết, nên lúc đầu gặp gì ăn nấy, từ những cây cỏ trên bờ, con cá dưới 8
sông, con chim trên trời… cho đến các loài sinh vật khác. Tính hoang dã trong
văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ đã định hình từ lúc này.
Điều dễ nhận thấy nhất ở tính hoang dã này là người Nam Bộ ăn rất nhiều
rau.Đây là loại thức ăn có sẵn ở ao hồ, vườn ruộng, rất dễ tìm, không cần thiết
phải chế biến, chỉ cần hái vào rửa sạch là ăn được. Người ta có thể ăn đủ các
loại rau, từ rau đắng, rau dềnh, rau răm, rau thơm, cải trời, tía tô, hành, hẹ, ngò
gai, ngò rí… đến các loại cây, đọt cây, các loại bông, như: bông điên điển, cù
nèo, đọt vừng, lá xoài, lá cách… Trong danh mục này, có thứ dùng để ăn sống,
có thứ dùng để nấu canh, có thứ luộc lên chấm với cá kho, thịt kho, hay nước chấm.
“Hồi ấy, chưa đủ thời giờ để nuôi gà, vịt, heo. Việc chăn nuôi đòi hỏi nhà cửa ổn
định, cũng như ta chưa nghĩ đến việc trồng rau tươi, hoặc chăng là vài cây ớt,
bụi sả. Bởi vậy, người đồng bằng và Sài Gòn ăn đủ thứ rau. Rau nào cũng ăn,
“không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc” gọi cho gọn là “rau rừng”. Ăn cho vui
miệng, miễn là không chết. Nào đọt bần, trái bần chín, đọt chùm ruột, bông
súng, bông điên điển, bồn bồn, rau dừa, rau ngổ, kèo nèo, lục bình, đọt xoài, trái
xoài non, đọt ổi, đọt cơm nguội, đọt chiếc, ổi chua, thậm chí trái dừa non cũng xắt ra làm rau”.
Đối với các loài thủy hải sản, ngoài các loại cá, tôm bắt ở ao, đìa, người ta còn
ăn cả các loài mang tính hoang dã, như: con còng, con cua, ba khía, chuột, cóc,
nhái, ếch, rùa, rắn, lươn, le le, dơi… và thậm chí người ta còn ăn cả một số loài
côn trùng như: cào cào, dế... Nhưng nổi bật hơn hết trong tính hoang dã này
chính là môi trường của việc ăn uống.
Người Nam Bộ thường có thói quen chế biến món ăn và ăn ngay tại chỗ, nên
tính hoang dã ở đây thể hiện ở việc các món ăn gắn với không gian của một
khoảnh vườn, đám ruộng, bờ ao. Món cá lóc nướng trui là một minh chứng cho
điều này, hoặc một nồi canh chua cá lóc được nấu ngay sau buổi tát đìa cũng thể
hiện điều đó. Bởi vì, mọi thứ đều là cây nhà lá vườn, không phải ra chợ mua. 9
Chương II. Các yếu tố tác động đến sự phát triển ẩm thực miền Nam
II.1. Sự ảnh hưởng từ vị trí địa lý
Miền Nam bao gồm 19 tỉnh từ Bình Phước trở xuống phía Nam. Có hai thành
phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Cần Thơ.
Nam bộ được mệnh danh là xứ sở của những dòng sông, nơi có khoảng 54.000
km chiều dài sông, rạch, nơi nào cũng kênh rạch phong phú và nhiều lung, hồ,
láng..., không nơi nào mà không có cá, tôm, cua, ếch... Bên cạnh đó, còn có cả
rừng già, rừng thưa, đầy dẫy các loại động vật lớn, nhỏ. Chính yếu tố kênh rạch
chằng chịt cùng với hệ thống sông lớn đầy ắp phù sa đã tạo cho vùng Nam Bộ
nguồn thủy hải sản phong phú để phục vụ cho đời sống của người dân nơi đây.
Nam Bộ gồm 2 tiểu vùng gồm Đông Nam Bộ (6 tỉnh) và Tây Nam Bộ (hay
Đồng bằng Sông Cửu Long) (13 tỉnh).
● Đông Nam Bộ (6 tỉnh) và có các sông lớn như hệ thống sông Đồng Nai, sông Sài Gòn:
○ Phía Bắc và Tây giáp với Campuchia.
○ Phía Nam và Tây Nam giáp với Đồng bằng sông Cửu Long.
○ Phía Đông Bắc giáp với Tây Nguyên.
○ Phía Đông và Đông Nam giáp với Nam Trung Bộ và biển Đông.
● Tây Nam Bộ (Đồng bằng sông Cửu Long) (13 tỉnh) là một bộ phận của
châu thổ sông Mê Kông có diện tích 39.734km². Vị trí nằm liền kề với
vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh
Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông.
○ Đây là vùng có khí hậu cận xích đạo, nên thuận lợi phát triển
ngành nông nghiệp (mưa nhiều, nắng nóng) đặc biệt là phát triển
trồng lúa nước và cây lương thực.
○ Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An,
Đồng Tháp, Sóc Trăng, Tiền Giang. Diện tích và sản lượng thu
hoạch chiếm hơn 50% so với cả nước. Nhờ vậy nên Đồng bằng
sông Cửu Long là nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả đất nước.
Ngoài ra vùng này còn trồng mía, rau đậu, xoài, dừa, sầu riêng, cam, bưởi... 10
○ Ngoài ra, nghề chăn nuôi cũng khá phát triển như trâu, bò, vịt…
Gia súc nuôi ở đây không được nhiều và cũng là tỉnh có bình
quân nuôi thấp nhất cả nước.
○ Do có bờ biển dài và có sông Mê Kông chia thành nhiều nhánh
sông, khí hậu thuận lợi cho hải sản, kênh rạch chằng chịt, nhiều
sông ngòi, lũ đem lại nguồn thủy sản và thức ăn cho cá, có nhiều
nước ngọt và nước lợ nên thích hợp cho việc nuôi trồng và đánh
bắt thủy sản, nên sản lượng thủy sản chiếm 50% nhiều nhất ở các
tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, An Giang.
Nam bộ được mệnh danh đất rộng sông dài, thiên nhiên ưu đãi. Nên nơi nào
cũng kênh rạch chằng chịt cùng với hệ thống sông lớn đầy ắp phù sa đã tạo cho
vùng Nam Bộ nguồn thủy hải sản phong phú để phục vụ cho đời sống của người dân nơi đây.
Đặc biệt tại nơi đây cũng được thiên nhiên ưu ái cung cấp cho một số nguyên
liệu nổi tiếng như: Cá linh, cá lóc, cá bông lau, chuột đồng, bông điên điển, cây
cỏ xước, bông súng trắng,...
II.2. Sự ảnh hưởng từ khí hậu
Khác với miền Bắc có bốn mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Miền Nam vì nằm
cận đường xích đạo nên đã gộp lại thành hai mùa chính là mùa Mưa và mùa
Khô. Mùa mưa biểu hiện cho Thu và Đông, mùa Khô biểu hiện cho mùa Xuân
và Hạ. Sự khác nhau này đã làm cho miền Nam có một vẻ khác biệt đặc biệt,
nhờ đó mà miền Nam được thiên nhiên ưu ái nhiều thứ từ đất đai màu mỡ cho
đến nguyên liệu làm món ăn đặc biệt.
Miền Nam được chia làm hai mùa là:
● Mùa mưa (gọi là mùa nước nổi ở miền Tây) độ tháng 7 – tháng 10 âm lịch hàng năm
● Mùa khô (gọi là mùa gặt ở miền Tây) độ tháng 11 - tháng 4 năm sau
Mỗi mùa mang đến những sản vật thiên nhiên riêng biệt tạo nên những điểm
đặc trưng cho món ăn miền Nam:
● Vào mùa nước nổi: người dân địa phương lại bắt đầu chế biến và thưởng
thức những món ăn dân dã từ những nguyên liệu đặc trưng theo mùa như 11
lẩu cá linh điên điển, bún nước lèo, bông súng kho mắm,... Điển hình như
món lẩu cá linh từng thớ cá mềm ngọt kết hợp với bông điên điển vị chua
chua, thanh thanh, giòn giòn là sự kết hợp tuyệt vời tạo nên món lẩu cá
linh điên điển của ẩm thực miền Nam vào mùa nước nổi.
● Còn vào mùa gặt: Ẩm thực miền Nam lại trở nên phong phú bởi những
loại cá đồng béo ngậy hay những loại rau, bông, đọt cây được chế biến
theo nhiều cách đa dạng khác nhau. Những món ăn nổi tiếng của miền
Nam vào mùa gặt như cá lóc nướng trui, cá trê nướng rơm, chuột đồng…
II.3. Sự ảnh hưởng từ sự hòa trộn văn hóa
Đối với nơi có sự giao thoa giữa nhiều nền văn hóa đa dạng và lâu đời như miền
Nam, thì ẩm thực nơi đây cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ nhiều vùng miền
và nhiều nền văn hóa. Ẩm thực miền Nam có thể gọi là sự tổng hòa của văn hóa
ẩm thực miền Bắc, miền Trung và sự ảnh hưởng của văn hóa Khmer, Hoa.
Cụ thể, có thể kể đến 2 nền văn hóa chính ảnh hưởng đến ẩm thực Nam Bộ:
● Văn hóa người Khmer: Những món ăn của người dân miền Nam có phần
đậm đà mang theo những hương vị đặc trưng từ ảnh hưởng của văn hóa Khmer.
○ Vị chua: Đặc trưng trong khẩu vị của người Khmer Nam Bộ, vị
chua thường xuất hiện trong các món canh.
○ Vị cay: Cũng là một phần không thể thiếu trong ẩm thực Khmer, vị
cay được thêm vào nhiều món ăn để tạo nên sự kích thích cho vị
giác. Và ẩm thực miền Nam cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ
yếu tố này những món ăn miền Nam ngoài làm nổi bật sự mặn mà
của muối và các gia vị, vị ngọt của đường mà con làm bật lên vị
cay nồng của ớt và tiêu mang đến cho người ăn những món ăn vô cùng độc đáo.
○ Mắm cá: Người Khmer thường sử dụng mắm cá cho các món ăn
của mình. Điều này cũng được người dân Nam Bộ sử dụng trong
ẩm thực. Tuy chịu ảnh hưởng là thế nhưng với sự sáng tạo của
người dân nơi đây đã chế biến và tạo ra những món ăn riêng biệt và
hợp khẩu vị người miền Nam.
● Văn hóa người Hoa: Còn về cách thức chế biến ẩm thực nơi đây có đôi
phần chịu ảnh hưởng từ người Hoa, những món nước canh, nước lèo đều 12
được ninh bằng xương và nhiều nguyên liệu khác, hay những cách chế
biến thức ăn bằng chảo gang đúc làm tăng thêm hương vị đặc trưng của
món ăn cũng được người dân nơi đây áp dụng. Ngoài ra những món ăn
đặc trưng của người Hoa cũng được người dân miền Nam điều chỉnh và
đón nhận rộng rãi như bánh pía, hủ tiếu, bột chiên, vịt quay, há cảo…
Tổng hòa giữa những yếu tố đặc trưng của văn hóa Khmer, Hoa cùng với sự
sáng tạo và linh hoạt của người dân miền Nam đã làm nên những món ăn đặc
sản độc đáo, làm nên bản sắc riêng không thể nhầm lẫn của ẩm thực miền Nam
Việt Nam. Đây không chỉ là việc thưởng thức hương vị mà còn là cách để hiểu
sâu hơn về vẻ đẹp và sức sống của văn hóa đặc trưng trong ẩm thực của vùng đất này. 13
Chương III. Phân tích thực đơn 5 món ăn tiêu biểu trong 1 ngày ở miền Nam
Trên con đường khám phá văn hóa ẩm thực miền Nam Việt Nam, những món ăn
được chọn lọc một ngày dường như là những bức tranh sống động về sự đa
dạng và phong phú của nền ẩm thực này.
Qua những món ăn tiêu biểu như cơm tấm, bánh xèo, chè bà ba, lẩu mắm cá
linh, và kẹo dừa, chúng ta sẽ có cơ hội tận hưởng hương vị và hiểu sâu hơn về
bản sắc văn hóa ẩm thực đặc trưng của miền Nam.
Từ món ăn sáng điểm tâm đến món tráng miệng, mỗi món đều mang theo một
câu chuyện riêng, kể về sự kỳ diệu của nguyên liệu, kỹ thuật chế biến và cả
những giá trị văn hóa sâu sắc chứa đựng bên trong. Hãy cùng Chương III khám
phá từng bí mật và hương vị đặc trưng đằng sau những món ăn này để hiểu rõ
hơn về ẩm thực đặc sản miền Nam Việt Nam.
III.1. Cơm tấm (Buổi sáng) III.1.1. Nguồn gốc
Cơm tấm xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ 20. Cơm tấm có nguồn gốc từ miền Tây
Nam Bộ, cụ thể, ban đầu, món ăn này phổ biến với những người nông dân và
công nhân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vào các năm mùa màng đói kém,
nhiều người không có đủ gạo ngon để bán và ăn, vì vậy họ phải đã dùng gạo
tấm (gạo bể) để nấu ăn. 14
Khi Việt Nam đô thị hóa, cơm tấm trở nên phổ biến ở hầu khắp các tỉnh Nam
Bộ, đặc biệt là Sài Gòn. Vì thế nên cơm tấm còn được gọi với cái tên là Cơm tấm Sài Gòn. III.1.2. Thưởng thức
Cơm tấm đặc trưng nằm ở nước mắm chan cơm. Đây là loại nước mắm pha kết
hợp mặn - ngọt - chua - cay. Chén nước mắm này sẽ là sự quyết định độ ngon
của một dĩa cơm tấm. Có một chén nước mắm thơm ngon sẽ hòa quyện hoàn
hảo với hạt cơm tấm dẻo thơm, sườn nướng đậm đà ngọt nhẹ, chả trứng bùi
thơm, dưa chuột giòn mát, cà chua chua nhẹ.
Ngoài cơm tấm sườn nướng, còn có nhiều biến tấu khác của món ăn này, chẳng
hạn như cơm tấm bì chả, cơm tấm gà, cơm tấm trứng,...
Một dĩa cơm tấm chuẩn là biểu hiện của sự hòa hợp trong ngũ hành:
● Thổ - Vị ngọt: Là từ nguyên liệu chính của cơm tấm là gạo tấm. Gạo tấm
là những hạt gạo bị vỡ ra trong quá trình xay xát. Gạo tấm có vị ngọt
thơm và bùi hơn gạo thường. 15
● Thủy - Vị mặn: Là từ sườn nướng được ướp đậm đà và nước mắm pha
được pha cho chuẩn chan cơm tấm. (Nước mắm pha được làm từ nước
mắm ngon, đường, chanh, tỏi, ớt. Nước mắm pha có vị chua ngọt, đậm đà
chứ không mặn gắt, điều này cũng thể hiện được khẩu vị đặc trưng của
người Miền Nam là CHUA NGỌT)
● Mộc - Vị chua: Là từ đồ chua, dưa leo, cà chua là những món ăn kèm
giúp món cơm tấm thêm phong phú. Đồ chua được làm từ cà chua, dưa
chuột, hành tây,... ngâm giấm. Dưa leo, cà chua được rửa sạch, thái lát mỏng.
● Kim - Vị cay: Thường là ớt được thêm vào nước mắm, để tăng vị giác và
cân bằng lại chén nước mắm pha có vị chua ngọt.
● Hỏa - Vị đắng: Là từ chén canh khổ qua, chén canh đặc trưng của món
cơm tấm, thường rất hay được ăn kèm.
Món cơm tấm tuy đủ 5 loại vị theo ngũ hành nhưng rõ ràng cũng thể hiện rõ
khẩu vị của người Nam Bộ là thích ăn CHUA (nhiều mộc) và NGỌT (nhiều thổ). III.1.3. Thông tin thú vị
Có 1 câu chuyện thú vị nhỏ, chưa được xác thực về món cơm tấm như sau:
Cơm tấm ngày nay thật ra cũng có sự ảnh hưởng của người Pháp. Thời Pháp
thuộc, Pháp muốn biến Sài Gòn thành một trong những cảng bận rộn nhất thế
giới, họ đã thuê nhiều công nhân và xây dựng các dự án lớn. Ở gần cảng thuyền,
Má Hai, người bán cơm hấp với thịt heo kho và trứng, thường bị mắng vốn vì
giá cơm hơi cao với khả năng chi trả của công nhân. Để giải quyết vấn đề này,
bà đã sử dụng gạo tấm thay vì gạo nguyên hạt để giảm giá thành. Bà nấu cơm
tấm với lá dứa và hấp trong nồi, kết hợp với nước mắm ngọt cay pha với tỏi và ớt.
Giá cả phải chăng và mùi vị thơm ngon đã thu hút thêm nhiều khách hàng, từ kỹ
sư Pháp đến công nhân nghèo. Để giữ khách, bà đã thêm bì, da heo xé, làm
topping miễn phí. Sau đó, để đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng hơn, bà đã
tạo ra chả, một sự kết hợp hấp của trứng, thịt heo băm và các nguyên liệu rau củ khác.
Danh tiếng của cơm tấm cuối cùng đã đến tai chính quyền Pháp, những người
này yêu cầu thêm sườn heo nướng giống như steak kiểu phương Tây. Đây là 16
cách mà topping cuối cùng, sườn heo nướng, được thêm vào món ăn. Điều này
cũng giải thích tại sao ngày nay chúng ta ăn cơm tấm bằng thìa và nĩa, thay vì
đũa. Kể từ đó, mỗi khi nhắc đến cơm tấm, điều đầu tiên mọi người nghĩ đến là
combo “sườn - bì - chả”, tức là cơm tấm được ăn kèm với sườn heo nướng, da
heo xé và chả trứng thịt.
III.2. Bánh xèo (Buổi trưa) III.2.1. Nguồn gốc
Bánh xèo miền Tây là một món ăn đặc sản của vùng đất sông nước miền Tây
Nam Bộ. Đây là món ăn dân dã, nhưng lại vô cùng thơm ngon, hấp dẫn. Bánh
xèo miền Tây có kích thước lớn hơn bánh xèo miền Trung và miền Bắc, với
đường kính trung bình khoảng 20-30 cm. Vỏ bánh được làm từ bột gạo, bột
nghệ và nước cốt dừa, có màu vàng ươm đẹp mắt. Nhân bánh thường là tôm,
thịt, giá đỗ, hành lá,... được xào chín. Bánh xèo miền Tây được ăn kèm với rau
sống, nước mắm chua ngọt và tương ớt. 17
Nguồn gốc của bánh xèo miền Tây vẫn chưa được xác định rõ ràng. Có nhiều
giả thuyết khác nhau về quê quán của món ăn này, bao gồm:
● Nguồn gốc từ miền Trung: Theo một số thông tin, bánh xèo miền Tây có
nguồn gốc từ miền Trung. Trong quá trình di dân, khai phá và định cư ở
miền Nam, nhất là Tây Nam Bộ, người miền Trung đã mang theo cách
chế biến món bánh độc đáo này.
● Nguồn gốc từ người Khmer: Một giả thuyết khác cho rằng, bánh xèo
miền Tây được học từ người Khmer trong nhiều thế kỷ trước. Người
Khmer có một món ăn tương tự gọi là "bánh khọt".
● Nguồn gốc từ ẩm thực Nam Ấn: Có ý kiến cho rằng, bánh xèo miền Tây
có nguồn gốc từ ẩm thực Nam Ấn trước thế kỷ XI.
Dù nguồn gốc của bánh xèo miền Tây là gì thì đây vẫn là một món ăn đặc sản
của người dân Nam Bộ. Bánh xèo miền Tây có hương vị thơm ngon, đậm đà,
khó quên. Vỏ bánh giòn rụm, nhân bánh tôm thịt ngọt bùi, ăn kèm với rau sống
và nước mắm chua ngọt thì ngon tuyệt vời. Bánh xèo miền Tây thường được ăn
vào bữa sáng, bữa trưa hoặc bữa tối. Đây là món ăn không thể thiếu trong các
bữa tiệc, hội họp của người dân miền Tây.
Bánh xèo miền Tây không chỉ là món ăn ngon mà còn là nét văn hóa ẩm thực
đặc sắc của vùng đất sông nước miền Tây. Món ăn này đã góp phần làm phong
phú thêm bản sắc ẩm thực Việt Nam. III.2.2. Thưởng thức
Bánh xèo miền Tây là một món ăn đặc sản của vùng đất sông nước miền Tây
Nam Bộ. Món ăn này có hương vị thơm ngon, đậm đà, khó quên, được nhiều
người cả người Việt lẫn người nước ngoài yêu thích.
Nguyên liệu và cách chế biến:
● Nguyên liệu làm bánh xèo miền Tây khá đơn giản, gồm bột gạo, bột
nghệ, trứng gà, tôm, thịt heo, giá đỗ, đậu xanh, hành tây,... Bột gạo được
pha với nước cốt dừa, nước lọc, trứng gà và bột nghệ để tạo màu vàng
đẹp mắt. Tôm và thịt heo được xào chín cùng hành tây, đậu xanh.
● Bánh xèo miền Tây thường được đổ bằng chảo gang sâu lòng. Khi chảo
nóng già, múc một lượng bột vào chảo và dàn đều. Sau đó, cho nhân bánh 18
gồm tôm, thịt heo, giá đỗ, đậu xanh lên trên. Đợi bánh chín vàng thì gấp
đôi lại và tiếp tục chiên cho chín đều.
● Quá trình làm bánh xèo đòi hỏi sự khéo léo và tinh tế, từ việc pha bột, đổ
bánh cho đến việc chọn lựa các loại rau sống và gia vị để tạo nên một món ăn hoàn hảo. Hương vị đặc trưng:
● Hương vị của bánh xèo miền Tây là sự kết hợp hài hòa giữa vị ngọt của
nước dừa, vị mặn của tôm và thịt, nước mắm pha, vị chua của rau sống và
vị cay của ớt xắt trong chén nước mắm.
● Nước mắm pha là yếu tố chính tạo nên độ ngon của bánh xèo miền Tây.
Nước mắm được pha với đường, chanh, tỏi, ớt, tạo nên vị chua ngọt, cay
nồng kích thích vị giác.
● Rau sống ăn kèm với bánh xèo miền Tây cũng rất đa dạng, gồm các loại
như: rau diếp cá, xà lách, húng quế, dưa leo, thơm,... Rau sống giúp món
ăn thêm thanh mát, cân bằng hương vị. Thưởng thức:
● Bánh xèo miền Tây thường được ăn kèm với nước mắm chua ngọt, rau
sống và tương ớt. Bánh xèo chín vàng, giòn rụm, nhân bánh ngọt bùi, ăn
kèm với rau sống và nước mắm chua ngọt thì ngon tuyệt vời.
● Bánh xèo miền Tây không chỉ là một món ăn ngon mà còn mang trong
mình những yếu tố văn hoá đặc trưng của người người Nam Bộ. Việc chế
biến bánh xèo thường được thực hiện trong gia đình, tạo ra không khí ấm
cúng và gắn kết giữa các thành viên. Bánh xèo cũng thể hiện sự sáng tạo
và linh hoạt trong việc lựa chọn các nguyên liệu và gia vị để tạo ra hương
vị độc đáo. Vì thế nếu chọn một món ăn để cả gia đình cùng quây quần
nấu ăn và thưởng thức thì món bánh xèo cũng là một sự lựa chọn hoàn hảo.
Bánh xèo miền Tây là một món ăn dân dã, đậm đà hương vị, mang đậm bản sắc
văn hóa của người dân miền Tây Nam Bộ. Món ăn này đã góp phần làm phong
phú thêm bản sắc ẩm thực Việt Nam. 19 III.2.3. Thông tin thú vị
Cái tên “bánh xèo” bắt nguồn từ âm thanh khi lớp bột gạo “hạ cánh” trên chiếc
chảo nóng và chiên đến giòn rụm, nóng hổi.
Theo truyền thống thì khi ăn bánh xèo ta nên dùng tay, không cần đũa nĩa gì cả.
Dùng tay để cuốn bánh cho gọn và cảm nhận được độ nóng ấm của bánh mới
thấy ngon miệng. Ăn bánh nên uống với nước trà nóng hoặc với rượu mới tiêu
được mỡ dầu. Vì vậy nếu cần chọn món nhậu thì bánh xèo cũng là một sự lựa chọn hợp lý.
III.3. Chè bà ba (Buổi xế) III.3.1. Nguồn gốc
Đây là một món chè truyền thống có nguồn gốc từ Nam Bộ và được rất nhiều người yêu thích.
Nhưng một số nguồn thông tin vẫn cho rằng nguồn gốc của món chè này chưa
rõ ràng chỉ là những lời tương truyền. 20