TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM
1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học, công nghệ, vốn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong nước
Về mở rộng thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy thương mại phát triển, tạo
điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng c lợi thế kinh tế của nước ta trong phân
công lao động quốc tế, phục vcho mục tiêu ng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
Sự tích cực, chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy quan hệ thương mại
giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế ngày càng sâu rộng. Việc gia nhập
ASEAN đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập. Từ thành công bước
đầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tiếp tục tham gia chủ trì nhiều
diễn đàn quan trọng của khu vực như: Diễn đàn Hợp tác kinh tế Á - Âu (ASEM), Diễn
đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, Việt Nam chính
thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào m 2007 -
đánh dấu sự hội nhập toàn diện đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu. Bên
cạnh đó, sự tham gia sáng lập thực hiện trách nhiệm các hiệp định thương mại tự
do FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định
Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) Hiệp định Bảo hộ đầu
(EVIPA) cũng là những dấu mốc quan trọng mang lại hiệu quả kinh tế tích cực trên
con đường hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Trải qua gần ba thập niên kể từ ngày gia nhập ASEAN, Việt Nam đã cùng với các
quốc gia trong khối ASEAN liên tục bứt phá, trở thành khu vực kinh tế năng động. Tỷ
trọng kinh tế của Việt Nam trong tổng GDP của ASEAN đã tăng mạnh tăng gần
gấp đôi từ dưới 6% vào năm 2000 lên khoảng 12% năm 2023. Trong 9 tháng năm
2024, xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt mức 27,33 tỷ USD, tăng 13,6%, tương
ứng tăng 3,27 tỷ USD so với cùng kỳ m trước nhập khẩu đạt 34 tỷ USD, tăng
13%, tương ứng tăng 3,9 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nền kinh tế lớn trên thế giới như
Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc ngày càng phát triển đạt nhiều kết quả tích cực. Tính
chung 9 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa bộ xuất siêu 20,79 tỷ USD.
Hoa Kỳ thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt khoảng
89,5 tỷ USD. Trung Quốc thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim
ngạch đạt khoảng 105 tỷ USD. Xuất khẩu sang EU đạt 38,02 tỷ USD, tăng 17%,
tương ứng tăng 5,51 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam trong 9 tháng m 2024 từ thị trường EU đạt mức 12,26 tỷ USD,
tăng 10,6% (tương ứng tăng 1,18 tỷ USD).
Về tiếp thu khoa học, công nghệ vốn, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế hội
để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang
vốn công nghệ vào nước ta để sử dụng nguồn lao động tài nguyên sẵn của
nước ta nhằm m ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực thế giới với các ưu
đãi nước ta hội mrộng thị trường, kéo theo hội thu hút vốn đầu nước
ngoài. Đây cũng hội để doanh nghiệp trong nước huy động sử dụng vốn
hiệu quả hơn.
Báo cáo cập nhập kinh tế mô của Ngân ng Thế giới (WB) công bố 05/2024 cho
biết trong 5 tháng đầu năm 2024, FDI tiếp tục tăng ổn định. Cam kết FDI đạt 11,07 tỷ
USD tính đến cuối tháng 5/2023, cao hơn 2% so với cùng kỳ m ngoái. Giải ngân
FDI lũy kế cũng đạt 8,3 tỷ USD, cao hơn 7,8% so với cùng kỳ năm 2023. Chế
biến/chế tạo và bất động sản vẫn là hai lĩnh ngành thu hút được nhiều FDI nhất.
FDI cũng một trong những nguồn chuyển giao công nghệ quan trọng nhằm tăng
cường năng lực công nghệ của các doanh nghiệp trong nước. Việc chuyển giao công
nghệ qua các dán FDI vào Việt Nam thời gian qua đã đạt được một số kết qu nhất
định. Nhiều công nghệ mới, hiện đại được du nhập vào nước ta trong các lĩnh vực
như: điện tử, viễn thông, công nghệ cao... Cùng với đó, nhiều sản phẩm mới được tạo
ra vi công nghệ hiện đại, góp phần tăng ng lực sản xuất cạnh tranh của hàng
hoá Việt Nam, cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, phù hợp với Cách
mạng công nghiệp 4.0. Trong lĩnh vực nông nghiệp, vào m trước, tại tỉnh
Rịa-Vũng Tàu, Công ty TNHH Xuất nhập khẩu nông sản công nghệ đã được chuyển
giao công nghệ xử nước nano từ Công ty ZwitterCo. Đây công nghệ xử nước
sử dụng màng lọc nano biến nước thải công nghiệp thành nước tinh khiết, bảo đảm
việc sử dụng nước tuần hoàn, không chất thải. Trong lĩnh vực viễn thông, so với 35
năm trước, ngành truyền thông Việt Nam đã bước tiến vượt bậc, bắt đầu từ hợp tác
với một số doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông áp dụng
chế cạnh tranh; nhiều công nghệ hiện đại đã được chuyển giao ứng dụng thành
công như mạng viễn thông số hóa, mạng cáp quang, đặc biệt công nghệ 4G đã được
các doanh nghiệp viễn thông áp dụng rộng rãi tại Việt Nam trong thời gian gần đây.
Một số công nghệ mới đang được tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm như 4,5G
(LTE-A) tiến tới 5G để đưa vào ứng dụng. Số lượng doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ thông tin vào kinh doanh, thương mại điện tử tăng nhanh, Việt Nam đã
triển khai thành công một số hoạt động chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực công
nghệ thông tin truyền thông với hai cường quốc lớn Hoa Kỳ Nhật Bản. Trong
lĩnh vực công nghệ cao, việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào 3 khu công nghệ
cao Quốc gia, trong đó Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh đã đạt những kết
quả khả quan. Sau 20 năm thành lập, đến nay Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí
Minh đã khoảng 130 dán đầu với tổng số vốn đăng gần 7 tỷ USD với sự
hiện diện của những Tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm
công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn như Intel, Microsoft, Samsung,...
Về chuyển dịch cấu kinh tế trong nước, hội nhập kinh tế tạo động lực thúc đẩy
chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng hợp lí, hiện đại hiệu quả n, qua đó hình
thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp trong nước.
Sau gần 40 năm đổi mới thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, cấu ngành kinh tế của nước ta sự chuyển dịch tích cực. cấu ngành kinh
tế đã chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành
công nghiệp dịch vụ. Cụ thể, theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tỷ trọng ngành
nông nghiệp giảm từ 38,06% (năm 1986) xuống 11,96% (năm 2023), ngành công
nghiệp, xây dựng tăng từ 28,88% (năm 1986) lên 37,12% (năm 2023) và ngành dịch
vụ tăng từ 33,06% (năm 1986) lên 42,54% (năm 2023).
Theo đó, ngành nông nghiệp đã chuyển mạnh sang phát triển nông nghiệp hàng hóa
theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển
bền vững. Các loại hình nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp
hữu , nông nghiệp công nghệ cao, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu phát
triển mạnh ngày càng phổ biến. Nhiều sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu vượt lên
đứng hàng đầu thế giới, như: kim ngạch xuất khẩu năm 2023 của gvà sản phẩm gỗ
đạt 13,37 tỷ USD, thủy sản 8,98 tỷ USD, phê 4,18 tỷ USD, rau quả 5,69 tỷ USD,
gạo 4,78 tỷ USD.
Trong ngành công nghiệp, tỷ trọng ngành khai khoáng giảm mạnh; tỷ trọng công
nghiệp chế biến, chế tạo (tiêu chí và biểu tượng của nước công nghiệp) tăng khá.
Các ngành khai thác, chế biến dầu khí; điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin; luyện
kim, sắt thép; xi măng vật liệu xây dựng; dệt may, da giày; khí chế biến chế tạo,
ô tô, xe máy... đã những bước phát triển nhất định, tạo nền tảng quan trọng cho
tăng trưởng dài hạn, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước..
Còn ngành dịch vđã hướng đến cung cấp sản phẩm chất ợng cao, đa dạng giá
trị gia tăng cao. Các ngành dịch vụ tiềm ng, lợi thế phát triển m lượng khoa
học, công nghệ cao được chú trọng phát triển, như: tài chính, ngân hàng bảo hiểm,
logistics, công nghệ thông tin truyền thông, khoa học và công nghệ, giáo dục
đào tạo, y tế, du lịch. Đồng thời, Việt Nam đã tăng cường xuất khẩu dịch vụ, giảm
thâm hụt cán cân xuất - nhập khẩu dịch vụ, hướng tới thặng trong cán cân xuất -
nhập khẩu dịch vụ.
Tạo hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
HNKTQT giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực tiềm lực khoa học - công
nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục đào tạo nghiên cứu khoa học vi
các nước nâng cao khả năng hấp thu khoa học-công nghệ hiện đại tiếp thu công
nghệ mới thông qua đầu trực tiếp nước ngoài chuyển giao công nghệ nhằmng
cao chất lượng nền kinh tế.
Nguồn nhân lực của Việt Nam đang ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của dân số.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2022, quy mô dân số cả nước
ước đạt 100 triệu nời, trong đó lực lượng lao động t15 tuổi tr lên việc làm
50,6 triệu người, tăng 1,5 triệu người so với năm 2021. Trung bình mỗi m
khoảng 500 nghìn người gia nhập lực lượng lao động. Không chỉ gia tăng về số lượng,
chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam cũng những cải thiện rệt. Theo Ngân
hàng Thế giới (WB, 2020), trong 10 năm (năm 2010 đến năm 2020) chỉ số vốn nhân
lực (HCI) của Việt Nam đã tăng từ 0,66 lên 0,69. Bước sang năm 2022, chỉ số phát
triển con người (HDI) của Việt Nam trong nhóm phát triển khá đứng thứ 115/191
quốc gia. Đây một trong những điều kiện thuận lợi để nguồn nhân lực của Việt Nam
khả năng chuyển đổi, ứng dụng công nghệ số để xây dựng kỹ thuật số trong thời kỳ
cách mạng 4.0. Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tiếp tục cao hơn mức trung bình
của các nước cùng mức thu nhập, mặc mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục
bảo trợ hội thấp hơn. Việt Nam một trong những nước khu vực Đông Á - Thái
Bình Dương có điểm cao nhất về chỉ số vốn nhân lực. Điều này phản ánh những thành
tựu lớn trong giáo dục phổ thông y tế trong những năm qua. Do đó, trong giai đoạn
2000- 2017, phát triển vốn nhân lực đóng góp khoảng 1/3 tăng trưởng GDP bình quân
đầu người.
Tính đến 30/6/2024, Việt Nam đã thu hút được 605 dự án đầu của nước ngoài trong
lĩnh vực giáo dục với tổng số vốn đầu lên tới trên 4,57 tỉ USD; khoảng 430 chương
trình đào tạo liên kết với nước ngoài được triển khai tại 65 sở giáo dục đại học
trong nước; 5 sở giáo dục đại học vn đầu nước ngoài đang hoạt động tại
Việt Nam.
Theo thống của Bộ Giáo dục và đào tạo, tính từ năm 2014 đến hết m 2020, Việt
Nam đã gửi được 4.277 du học sinh đi học các trình độ Thạc Tiến tại 40 nước
trên thế giới. Hiện, khoảng 22.000 lưu học sinh của gần 70 nước đang học tập tại
Việt Nam (các trình độ đại học, Thạc sĩ, Tiến thực tập sinh); trong số này
khoảng 4.000 lưu học sinh nước ngoài (đạt tỉ lệ 800% so với mục tiêu của Đề án) học
tập theo diện hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước, số
còn lại đến theo chương trình trao đổi, liên kết giữa các trường). Trong giai đoạn
2015-2020, đã khoảng 15.000 lượt giảng viên, chuyên gia, tình nguyện viên đến
tham gia trao đổi học thuật, giảng dạy nghiên cứu ngắn hạn, dài hạn tại các sở
giáo dục đại học nghiên cứu của Việt Nam. Đến hết năm 2020, Việt Nam đã 139
chương trình đào tạo được các tổ chức quốc tế uy tín kiểm định công nhận (đạt
tỉ lệ gần 93% mục tiêu của Đề án).
Tạo điều kiện để thúc đẩy hội nhập của các lĩnh vực văn hóa, chính trị, củng cố
an ninh - quốc phòng
Về văn hóa, hội nhập kinh tế quốc tế tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện
để tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị tiến bộ của văn
hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ
hội.
Việt Nam đã mcửa, trao đổi văn hóa, chia sẻ các gtrị văn hóa, tinh thần với các
quốc gia khác. Mục đích của hội nhập quốc tế về văn hoá tiếp thu các giá trị văn
hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa của dân tộc, quốc gia
mình. Hội nhập quốc tế vvăn hoá hội thể thông qua việc tham gia các tổ
chức hợp tác và phát triển văn hóa, dụ: tham gia, thực hiện Cộng đồng văn hóa -
hội ASEAN, Tổ chức Giáo dục, Khoa học Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO)
hoặc ký kết, gia nhập điều ước quốc tế song phương, khu vực và đa phương về hợp
tác, phát triển lĩnh vực văn hóa.
Trong những năm vừa qua, việc thực thi chính sách hội nhập quốc tế về văn hóa
nước ta đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, trong đó nhiều hoạt động hội nhập quốc
tế về văn hóa với quy mô khác nhau đã được tổ chức khắp các châu lục. Nhiều
ngày/tuần/tháng văn hóa Việt Nam, lễ hội văn hóa - du lịch, các hoạt động biểu diễn
nghệ thuật, tuần phim, triển lãm giới thiệu hình ảnh đất nước, con người, hội thảo, xúc
tiến, quảng du lịch... đã được tổ chức nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới. dụ
như tuần lễ Việt Nam 2024 được Vietnam Society, một tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực văn hóa của người Việt Mỹ, đã diễn ra tại khu bảo tàng châu Á thuộc hệ thống
bảo tàng Smithsonian, từ ngày 4-12/10/2024. Hay trong khuôn khổ triển khai các
hoạt động hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam - Đức, đặc biệt hoạt động thúc
đẩy hợp tác với các địa phương của CHLB Đức, Thương vụ Việt Nam tại Đức đã phối
hợp với thành phố Leipzig, Hội người Việt Nam tại Leipzig tổ chức các sự kiện quảng
bá, giới thiệu sản phẩm xuất khẩu, văn hóa m thực của Việt Nam tại “Tuần lễ giao
lưu văn hóa thành phố Leipzig” diễn ra từ ngày 24 - 30/8/2024.
Về chính trị, hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh đến hội nhập chính trị, tạo điều
kiện cho cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa, xây dựng một hội mở, dân chủ, văn minh. Hội nhập tạo điều kiện để mỗi
nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín
vị thế quốc tế của nước ta trong các tổ chức chính trị, kinh tế toàn cầu.
Về an ninh - quốc phòng, HNKTQT giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình,
ổn định khu vực quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế hội; đồng thời mở
ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn
đề quan tâm chung như: môi trường, biến đổi khí hậu, phòng, chống tội phạm buôn
lậu quốc tế.
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013, của Quân ủy
Trung ương, “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020
những m tiếp theo”, Quân ủy Trung ương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
kế hoạch triển khai thực hiện Đề án Hội nhập quốc tế vquốc phòng đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030, đưa công tác này ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu
quả, bảo đảm cho quan hệ quốc phòng thực sự một trụ cột trong quan hệ quốc tế,
gắn kết chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập quốc tế đối ngoại trên các
lĩnh vực khác, nhằm thực hiện kế sách “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” bằng biện pháp
hòa bình. Thực hiện chủ trương đó của Đảng, Bộ Quốc phòng đã cthể hóa thiết
lập quan hệ hợp tác quốc phòng với trên 80 nước nhiều tổ chức quốc tế. Quân đội
nhân dân Việt Nam tham gia hoạt động gìn gihòa bình đã hoàn thành tốt nhiệm vụ,
được Liên hợp quốc, chính phủ và nhân dân nước sở tại đánh giá cao. Những kết quả
đó minh chứng sinh động cho phương châm: Việt Nam bạn, đối tác tin cậy,
thành viên trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; làm cho bạn quốc tế ngày càng
hiểu, tin tưởng ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc chính nghĩa của nhân dân Việt
Nam.
2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế m gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều
doanh nghiệp các ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí
phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế-xã hội.
Chuỗi giá trị toàn cầu hiện nay được xem như một dây chuyền sản xuất trong đó
sự cùng tham gia phối hợp chủ yếu của khối doanh nghiệp nhiều quốc gia vào các
công đoạn khác nhau từ khâu thiết kế cho đến phân phối và hỗ trợ, tạo ra đưa sản
phẩm đến tay người tiêu dùng. Trong đó, c công đoạn đầu chuỗi giá trị gồm:
nghiên cứu và phát triển, thiết kế những công đoạn cuối chuỗi giá trị như
marketing, tạo thương hiệu phân phối đều những công đoạn đem lại giá trị gia
tăng cao. Ngược lại, những công đoạn giữa như: sản xuất nguyên phụ liệu, gia công
lắp ráp những công đoạn hàm lượng công nghệ thấp tạo ra ít gtrị gia tăng.
Qua số liệu khảo sát của VCCI, hiện nay doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia vào toàn
bộ công đoạn của chuỗi giá trị toàn cầu, tuy nhiên tập trung lớn số lượng vào các khâu
phân phối (35,3%), sản xuất nguyên phụ liệu (34,5%), nghiên cứu và phát triển
(33,2%) gia công lắp ráp (30%). Trong đó, ngoại trừ nghiên cứu và phát triển, tất
cả các ng đoạn kể trên đều nằm phần giữa của chuỗi giá trị, đặc biệt sản xuất
nguyên phụ liệu gia công lắp ráp các công đoạn đem lại giá trị gia tăng thấp nhất
trong chuỗi giá trị thì lại 2 công đoạn lượng đông đảo doanh nghiệp Việt Nam
đảm nhận. Những công đoạn như marketing tạo thương hiệu những khâu ít
doanh nghiệp Việt Nam đảm nhận nhất, lần lượt chiếm 17,4% 16,8% số doanh
nghiệp được khảo sát. Điều này nguyên nhân dẫn đến tình trạng doanh nghiệp Việt
Nam chưa thương hiệu toàn cầu, chưa nhiều sản phẩm, hàng hóa sức cạnh
tranh cao chỗ đứng trong chuỗi cung ứng chuỗi gtrị trong thị trường khu
vực và thị trường thế giới.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế thể làm gia tăng phụ thuộc của nền kinh tế quốc
gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến
động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
Nhìn góc độ cấu hàng hóa xuất - nhập khẩu Việt Nam, thì tính độc lập tự chủ về
xuất - nhập khẩu Việt Nam còn tương đối thấp, phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên
ngoài. Thị trường xuất - nhập khẩu quy lớn n 4 lần so với thị trường trong
nước và xu hướng mất cân đối giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế ngày
càng lớn. Khu vực doanh nghiệp FDI vẫn động lực chính trong xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam, đặc biệt trong công nghiệp chế biến, chế tạo. Đây cũng khu vực nắm
giữ nguồn cung ứng nguyên vật liệu, thiết kế, kiểu dáng, máy móc thiết bị, sản xuất,
thị trường, khách hàng... tức là gần như toàn bộ các khâu quan trọng và gtrị gia
tăng lớn nhất trong chuỗi.
Ngoài ra, Việt Nam nhập khẩu chủ yếu các nguyên liệu thiết bị phục vsản xuất
trong nước, trong khi xuất khẩu chủ yếu tập trung vào các sản phẩm gia công
nguyên liệu thô. Điều này phản ánh tính thiếu độc lập của nền sản xuất trong nước và
mức độ phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài. Hội nhập kinh tế cũngm cho Việt
Nam phụ thuộc nhiều vào thị trường xuất khẩu, đặc biệt một số thị trường chủ chốt.
Việt Nam phụ thuộc vào nhập khẩu từ thị trường châu Á, với tổng giá trị kim ngạch
nhập khẩu xấp xỉ 80%; phụ thuộc vào một số thị trường xuất khẩu, như: Trung Quốc,
EU, Hoa Kỳ. Điều đó dẫn đến mỗi một sự biến đổi trong thị trường này thể ảnh
hưởng đáng kể đến nền kinh tế và xuất khẩu của Việt Nam, cũng như nguy bị trả
đũa thương mại. Sự tăng trưởng nhanh của xuất - nhập khẩu Việt Nam trong những
năm qua đã đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc này cũng đồng
nghĩa nền kinh tế Việt Nam dễ bị tác động, ảnh hưởng hơn từ những biến động về
kinh tế, địa chính trị trên thế giới thông qua kênh thương mại.
Khi Việt Nam vay vốn từ nước ngoài hoặc phụ thuộc vào đầu từ các nhà đầu
nước ngoài, đồng nghĩa với việc chúng ta phải đối mặt vi rủi ro liên quan đến biến
động tỷ giá các thay đổi chính sách tài chính, tiền tệ của các quốc gia khác thị
trường tài chính quốc tế. Với các nỗ lực, Việt Nam đã giảm tỷ lệ nợ nước ngoài từ
mức gần 50% GDP năm 2017 xuống gần 37% năm 2022. Tuy vậy, hiệu quả sử dụng
nợ thấp tiềm ẩn nhiều rủi ro liên quan đến khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Xu hướng này gia tăng khi quốc gia gặp khó khăn về xuất khẩu, cũng như tốc độ tăng
trưởng kinh tế đang chậm lại. Gần đây, xu hướng mua bán, sáp nhập (M&A) gia tăng,
nổi lên việc các nhà đầu nước ngoài thâu tóm các dự án quan trọng trong các
ngành, lĩnh vực quan trọng như năng lượng, hạ tầng… m 2022, tổng giá trị M&A
Việt Nam đạt 5,7 tỷ USD. Đầu vốn qua giao dịch M&A tại Việt Nam xu hướng
tăng lên so với đầu theo hình thức FDI. Điều này tạo ra nguy doanh nghiệp Việt
Nam bị thôn tính, tiềm ẩn rủi ro an ninh quốc gia.
Thứ ba, các nước đang phát triển đối mặt với chuyển dịch cấu kinh tế tự nhiên bất
lợi do thiên hướng tập trung vào các ngành thâm dụng tài nguyên lao động nhưng
giá trị gia tăng thấp, dễ trở thành bãi thải công nghiệp, cạn kiệt tài nguyên và hủy
hoại môi trường ở mức độ cao.
Trước thực trạng vsố lượng lớn nguồn vốn FDI đổ vào các khu công nghiệp, CCN,
khu chế xuất, nguy gia tăng ô nhiễm môi trường rất lớn khi tình trạng xử chất
thải cụm công nghiệp còn nhiều bất cập, yếu kém. Đa số các khu công nghiệp tại Việt
Nam còn vi phạm vquy định xử chất thải, mặc xây dựng hệ thống xử
nước thải tập trung. Tuy nhiên, hiệu quả xử lý không cao, hoặc còn tồn tại tình trạng
chất thải doanh nghiệp xả trực tiếp ra môi trường không qua xử dẫn đến tình trạng ô
nhiễm, dẫn tới những chất thải công nghiệp độc hại ngấm vào lòng đất, nguồn nước,
gây ra hệ lụy lâu dài không chỉ cho môi trường, còn ảnh hưởng đến sức khỏe
dân sinh sống quanh khu vực này. Theo Phòng nghiên cứu Chính sách PanNature, một
nghiên cứu mới đây cho thấy, tới 80% khu công nghiệp vi phạm quy định vmôi
trường; 23% doanh nghiệp FDI xả thải vượt quy chuẩn cho phép từ 5-12 lần. Đặc biệt,
DN FDI chiếm 60% tổng số các DN xả thải vượt quy chuẩn.
Tiêu biểu phải kể tới một trường hợp gây ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng Công ty
Vedan. Cách đây 10 năm, sông Thị Vải (Đồng Nai) đã bị ô nhiễm 80-90% khi Công ty
TNHH Vedan Việt Nam (Đài Loan) m xả trực tiếp một lượng lớn dịch thải sau lên
men với nồng độ các chất ô nhiễm rất cao ra môi trường. Năm 2014, Công ty TNHH
Miwon Việt Nam tại Phú Thọ cũng đã bị xử phạt 515 triệu đồng vì hành vi xả nước
thải vượt quy chuẩn kthuật từ 10 lần trở lên ra môi trường. Đặc biệt, đầu năm 2016
đã xảy ra thảm họa môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung sau khi Công ty TNHH
Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Tĩnh (Đài Loan) đã tống một lượng lớn nước
thải chưa qua xử lý ra biển trong quá trình vận hành thử.
Ô nhiễm khí thải một vấn đề nóng” tại Việt Nam hiện nay. Theo bảng xếp hạng
quốc gia về mức độ ô nhiễm không khí của IQAir, Việt Nam hiện xếp thứ 36/118 quốc
gia trên toàn thế giới, riêng Thủ đô Nội có mức độ ô nhiễm thứ 3 trên thế giới.
Tương tnhư các đô thị lớn nước ta, nồng độ bụi TSP phần lớn các KCN, CCN
đều vượt ngưỡng cho phép theo QCVN 05: 2013/BTNMT. Ô nhiễm bụi ở các KCN,
CCN các tỉnh thành phía Bắc thường lớn hơn so với các KCN, CCN phía Nam.
Nhìn chung, chất lượng không khí tại nước ta bị ảnh hưởng lớn một phần bởi lượng
khí thải đến từ KCN chưa qua xử hoặc quy trình xử chưa đạt chất lượng. Một số
dụ điển hình vvi phạm xkhí thải công nghiệp của các doanh nghiệp FDI như
vụ vi phạm gây ảnh hưởng rất lớn tới đời sống nhân dân của Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh
Tân 2…
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế thể dẫn đến phân phối không công bằng về lợi ích
rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong hội, do vậy nguy làm
tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Nghiên cứu sâu về tình trạng bất bình đẳng do Oxfam tiến hành tại Việt Nam cho thấy,
mức độ thay đổi khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu nhất nghèo nhất Việt
Nam khá lớn. Đáng chú ý thu nhập một năm của nhóm 210 người siêu giàu Việt
Nam sức để đưa 3,2 triệu người thoát nghèo, chấm dứt nghèo cùng cực trên cả
nước. Trong khi đó, trong bối cảnh chỉ số gtiêu dùng (CPI) biến động, dẫn tới làm
giảm hội tiếp cận các dịch vụ bản của người nghèo, đặc biệt trong lĩnh vực y
tế, giáo dục. Kỹ Bùi Công Khế, Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Nội cho
rằng: “Trong y tế sự chênh lệch nét. Người nghèo vẫn trông chờ sự hỗ trợ của nhà
nước, chứ không thể nào bỏ ra số tiền lớn để trị bệnh chất lượng cao. những gia
đình quá nghèo, bảo hiểm y tế kng thanh toán, hỗ trợ thì bán hết cả nhà cửa, cả gia
đình phiêu bạt chỉ bệnh tật. Đó cái khổ của người nghèo. Nhưng đối với người
giàu, khá thì vẫn đủ điều kiện hưởng kỹ thuật cao”.
Thứ năm, hội nhập kinh tế quốc tế thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực
Nhà nước, chủ quyền quốc gia phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì
an ninh và ổn định trật tự an toàn xã hội.
Việc hợp tác kinh tế giữa các quốc gia đôi khi thể dẫn đến nguy lộ lọt thông tin
quan trọng. Trong nhiều trường hợp, các công ty quốc tế thể thu thập thông tin tình
báo công nghệ hoặc quân sự thông qua đầu hoặc hợp tác kinh tế. dụ, các quốc
gia như Mỹ đã cẩn trọng với các công ty viễn thông Trung Quốc như Huawei vì lo
ngại về việc lắp đặt thiết bị có thể dẫn đến việc thu thập thông tin từ xa.
Thứ sáu, hội nhập kinh tế quốc tế thể làm gia tăng nguy bản sắc dân tộc văn
hóa truyền thống Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ đã thúc đẩy quá tnh hình thành hội
thông tin, nền kinh tế số; đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các quốc
gia, dân tộc trên thế giới, trong đó Việt Nam. Một số nước lớn lợi dụng quá
trình toàn cầu hóa để m cách truyền bá, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn hóa”,
làm phai nhạt các gtrị truyền thống của các dân tộc khác. Nhiều nội dung phản
giá trị, phản văn hóa, tưởng độc hại dễ dàng xâm nhập, làm biến dạng các g tr
văn hóa, đạo đức truyền thống. Đây một nguy đang hiển hiện ngày một gia
tăng đối với Việt Nam, nhất những tác động tiêu cực của tới thế hệ trẻ. Bên
cạnh đó, chúng ta cũng đang gặp những thách thức về việc phai nhạt, đánh mất bản
sắc văn hóa, xói mòn những giá trị truyền thống của dân tộc. Vai tcủa văn hóa
trong y dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn chiều hướng nặng
về chức năng gii trí. Môi trường văn hóa vn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn hội. Sự
chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn lớn. Nhiều di sản văn
hóa quý báu của dân tộc nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong...
Thứ bảy, hội nhập kinh tế quốc tế tế thể làm gia tăng tình trạng khủng bố, buôn
lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
Lãnh đạo Tổng cục Hải quan đánh giá: Trong 3 tháng đầu năm 2024, tình hình buôn
lậu, gian lận thương mại, hàng giả, vận chuyển trái phép hàng hóa diễn biến rất phức
tạp, nhất dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn, tình hình hoạt động của tội phạm mua bán,
vận chuyển trái phép các chất ma túy, tiền chất qua biên giới diễn biến hết sức phức
tạp, hoạt động của các băng nhóm, đường dây tội phạm ma túy xuyên quốc gia lợi
dụng chủ trương ưu đãi, thu hút đầu tư, hoạt động thương mại m cách thành lập
doanh nghiệp Việt Nam để vận chuyển phương tiện, thiết bị, nguyên liệu, thuê kho
bãi… phục vụ hoạt động sản xuất, vận chuyển trái phép ma túy từ nước ngoài vào Việt
Nam tiếp tục đưa đi nước thứ ba tiêu thụ, biến Việt Nam trở thành điểm trung
chuyển mới. Bên cạnh đó, tiền chất nhập khẩu cũng tiềm ẩn nguy bị lợi dụng, sử
dụng điều chế, sản xuất trái phép ma túy.
Từ đầu năm 2024 đến nay, các lực lượng chức năng đã tăng cường kiểm tra, phát hiện,
xử 5.229 trường hợp xuất nhập cảnh trái phép; khởi tố, điều tra 166 vụ án hình sự
liên quan đến xuất nhập cảnh trái phép. Riêng Cục Quản xuất nhập cảnh đã phát
hiện 224 vụ/288 đối tượng xuất nhập cảnh trái phép; khởi tố 03 vụ án hình sự về tội tổ
chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài; xác minh, điều tra ban đầu
chuyển quan điều tra các cấp hơn 60 vviệc dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực
xuất nhập cảnh, để tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.
Tóm lại, HNKTQT hiện nay vừa khả năng tạo ra những hội thuận lợi cho s
phát triển kinh tế, vừa thể dẫn đến những nguy to lớn hậu quả rất khó lường.
vậy, tranh thủ thời cơ, ợt qua thách thức trong hội nhập kinh tế vấn đề cần
phải đặc biệt coi trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://tapchinganhang.gov.vn/viet-nam-sau-gan-30-nam-hoi-nhap-kinh-te-quo
c-te.htm
2. https://documents1.worldbank.org/curated/en/099550206182413997/pdf/IDU1
c08c2a6d16c1f14e83199c41f5f2a19691f3.pdf
3. https://kinhtevadubao.vn/chuyen-dich-co-cau-nganh-kinh-te-trong-qua-trinh-da
y-manh-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-29908.html
4. https://dangcongsan.vn/phat-trien-kinh-te-xanh-ly-luan-va-thuc-tien/nang-cao-c
hat-luong-nguon-nhan-luc-cho-qua-trinh-phat-trien-kinh-te-xanh-671701.html
5. https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=9835
6. https://www.vietnamplus.vn/tuan-le-viet-nam-2024-o-my-ton-vinh-truyen-thon
g-truyen-cam-hung-cho-tuong-lai-post983281.vnp
7. https://dangcongsan.vn/nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai/viet-nam-tham-du-tuan-l
e-giao-luu-van-hoa-thanh-pho-leipzig-chlb-duc-675994.html
8. https://kinhtevadubao.vn/nang-cao-nang-luc-canh-tranh-cua-cac-doanh-nghiep-
viet-nam-trong-thoi-ky-hoi-nhap-29315.html
9. https://lsvn.vn/day-manh-hoi-nhap-quoc-te-ve-giao-duc-va-dao-tao-trong-giai-
doan-moi-1693749975-a134776.html
10. https://tapchitaichinh.vn/anh-huong-cua-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-doi-voi-xay-
dung-nen-kinh-te-doc-lap-tu-chu-o-viet-nam.html
11. https://tapchicongthuong.vn/thuc-trang-tac-dong-cua-dau-tu-nuoc-ngoai-toi-mo
i-truong-sinh-thai-tai-viet-nam-103979.htm
12. https://thanhtra.com.vn/theo-dong-thoi-cuoc/thu-hep-khoang-cach-va-giam-bat
-binh-dang-o-viet-nam-172809.html
13. https://baochinhphu.vn/tinh-hinh-buon-lau-dien-bien-phuc-tap-ngay-tu-dau-na
m-102240403172437876.htm
14. https://xuatnhapcanh.gov.vn/vi/tin-tuc/khuy%E1%BA%BFn-c%C3%A1o-c%E
1%BB%A7a-c%E1%BB%A5c-qu%E1%BA%A3n-l%C3%BD-xu%E1%BA%
A5t-nh%E1%BA%ADp-c%E1%BA%A3nh-v%E1%BB%81-t%C3%ACnh-tr
%E1%BA%A1ng-nh%E1%BA%ADp-xu%E1%BA%A5t-c%E1%BA%A3nh-t
r%C3%A1i-ph%C3%A9p-c%E1%BB%A7a-c%C3%B4ng

Preview text:

TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM
1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
● Tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học, công nghệ, vốn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong nước
Về mở rộng thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy thương mại phát triển, tạo
điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế kinh tế của nước ta trong phân
công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
Sự tích cực, chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy quan hệ thương mại
giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế ngày càng sâu rộng. Việc gia nhập
ASEAN đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập. Từ thành công bước
đầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tiếp tục tham gia và chủ trì nhiều
diễn đàn quan trọng của khu vực như: Diễn đàn Hợp tác kinh tế Á - Âu (ASEM), Diễn
đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, Việt Nam chính
thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 -
đánh dấu sự hội nhập toàn diện và đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu. Bên
cạnh đó, sự tham gia sáng lập và thực hiện có trách nhiệm các hiệp định thương mại tự
do FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định
Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu
tư (EVIPA) cũng là những dấu mốc quan trọng mang lại hiệu quả kinh tế tích cực trên
con đường hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Trải qua gần ba thập niên kể từ ngày gia nhập ASEAN, Việt Nam đã cùng với các
quốc gia trong khối ASEAN liên tục bứt phá, trở thành khu vực kinh tế năng động. Tỷ
trọng kinh tế của Việt Nam trong tổng GDP của ASEAN đã tăng mạnh và tăng gần
gấp đôi từ dưới 6% vào năm 2000 lên khoảng 12% năm 2023. Trong 9 tháng năm
2024, xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt mức 27,33 tỷ USD, tăng 13,6%, tương
ứng tăng 3,27 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước và nhập khẩu đạt 34 tỷ USD, tăng
13%, tương ứng tăng 3,9 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nền kinh tế lớn trên thế giới như
Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc ngày càng phát triển và đạt nhiều kết quả tích cực. Tính
chung 9 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ xuất siêu 20,79 tỷ USD.
Và Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt khoảng
89,5 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim
ngạch đạt khoảng 105 tỷ USD. Xuất khẩu sang EU đạt 38,02 tỷ USD, tăng 17%,
tương ứng tăng 5,51 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam trong 9 tháng năm 2024 từ thị trường EU đạt mức 12,26 tỷ USD,
tăng 10,6% (tương ứng tăng 1,18 tỷ USD).
Về tiếp thu khoa học, công nghệ và vốn, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội
để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang
vốn và công nghệ vào nước ta để sử dụng nguồn lao động và tài nguyên sẵn có của
nước ta nhằm làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu
đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Báo cáo cập nhập kinh tế vĩ mô của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố 05/2024 cho
biết trong 5 tháng đầu năm 2024, FDI tiếp tục tăng ổn định. Cam kết FDI đạt 11,07 tỷ
USD tính đến cuối tháng 5/2023, cao hơn 2% so với cùng kỳ năm ngoái. Giải ngân
FDI lũy kế cũng đạt 8,3 tỷ USD, cao hơn 7,8% so với cùng kỳ năm 2023. Chế
biến/chế tạo và bất động sản vẫn là hai lĩnh ngành thu hút được nhiều FDI nhất.
FDI cũng là một trong những nguồn chuyển giao công nghệ quan trọng nhằm tăng
cường năng lực công nghệ của các doanh nghiệp trong nước. Việc chuyển giao công
nghệ qua các dự án FDI vào Việt Nam thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất
định. Nhiều công nghệ mới, hiện đại được du nhập vào nước ta trong các lĩnh vực
như: điện tử, viễn thông, công nghệ cao... Cùng với đó, nhiều sản phẩm mới được tạo
ra với công nghệ hiện đại, góp phần tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh của hàng
hoá Việt Nam, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, phù hợp với Cách
mạng công nghiệp 4.0. Trong lĩnh vực nông nghiệp, vào năm trước, tại tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu, Công ty TNHH Xuất nhập khẩu nông sản công nghệ đã được chuyển
giao công nghệ xử lý nước nano từ Công ty ZwitterCo. Đây là công nghệ xử lý nước
sử dụng màng lọc nano biến nước thải công nghiệp thành nước tinh khiết, bảo đảm
việc sử dụng nước tuần hoàn, không có chất thải. Trong lĩnh vực viễn thông, so với 35
năm trước, ngành truyền thông Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc, bắt đầu từ hợp tác
với một số doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông và áp dụng cơ
chế cạnh tranh; nhiều công nghệ hiện đại đã được chuyển giao và ứng dụng thành
công như mạng viễn thông số hóa, mạng cáp quang, đặc biệt là công nghệ 4G đã được
các doanh nghiệp viễn thông áp dụng rộng rãi tại Việt Nam trong thời gian gần đây.
Một số công nghệ mới đang được tiếp tục nghiên cứu và thử nghiệm như 4,5G
(LTE-A) và tiến tới là 5G để đưa vào ứng dụng. Số lượng doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ thông tin vào kinh doanh, thương mại điện tử tăng nhanh, Việt Nam đã
triển khai thành công một số hoạt động chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực công
nghệ thông tin và truyền thông với hai cường quốc lớn là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Trong
lĩnh vực công nghệ cao, việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào 3 khu công nghệ
cao Quốc gia, trong đó Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh đã đạt những kết
quả khả quan. Sau 20 năm thành lập, đến nay Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí
Minh đã có khoảng 130 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký gần 7 tỷ USD với sự
hiện diện của những Tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm
công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn như Intel, Microsoft, Samsung,...
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước, hội nhập kinh tế tạo động lực thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lí, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình
thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp trong nước.
Sau gần 40 năm đổi mới và thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, cơ cấu ngành kinh tế của nước ta có sự chuyển dịch tích cực. Cơ cấu ngành kinh
tế đã chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành
công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể, theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tỷ trọng ngành
nông nghiệp giảm từ 38,06% (năm 1986) xuống 11,96% (năm 2023), ngành công
nghiệp, xây dựng tăng từ 28,88% (năm 1986) lên 37,12% (năm 2023) và ngành dịch
vụ tăng từ 33,06% (năm 1986) lên 42,54% (năm 2023).
Theo đó, ngành nông nghiệp đã chuyển mạnh sang phát triển nông nghiệp hàng hóa
theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển
bền vững. Các loại hình nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp
hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu phát
triển mạnh và ngày càng phổ biến. Nhiều sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu vượt lên
đứng hàng đầu thế giới, như: kim ngạch xuất khẩu năm 2023 của gỗ và sản phẩm gỗ
đạt 13,37 tỷ USD, thủy sản 8,98 tỷ USD, cà phê 4,18 tỷ USD, rau quả 5,69 tỷ USD, gạo 4,78 tỷ USD.
Trong ngành công nghiệp, tỷ trọng ngành khai khoáng giảm mạnh; tỷ trọng công
nghiệp chế biến, chế tạo (tiêu chí và là biểu tượng của nước công nghiệp) tăng khá.
Các ngành khai thác, chế biến dầu khí; điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin; luyện
kim, sắt thép; xi măng và vật liệu xây dựng; dệt may, da giày; cơ khí chế biến chế tạo,
ô tô, xe máy... đã có những bước phát triển nhất định, tạo nền tảng quan trọng cho
tăng trưởng dài hạn, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước..
Còn ngành dịch vụ đã hướng đến cung cấp sản phẩm chất lượng cao, đa dạng và giá
trị gia tăng cao. Các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế phát triển và hàm lượng khoa
học, công nghệ cao được chú trọng phát triển, như: tài chính, ngân hàng bảo hiểm,
logistics, công nghệ thông tin và truyền thông, khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo, y tế, du lịch. Đồng thời, Việt Nam đã tăng cường xuất khẩu dịch vụ, giảm
thâm hụt cán cân xuất - nhập khẩu dịch vụ, hướng tới thặng dư trong cán cân xuất - nhập khẩu dịch vụ.
● Tạo cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
HNKTQT giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học - công
nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học với
các nước mà nâng cao khả năng hấp thu khoa học-công nghệ hiện đại và tiếp thu công
nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ nhằm nâng
cao chất lượng nền kinh tế.
Nguồn nhân lực của Việt Nam đang ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của dân số.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2022, quy mô dân số cả nước
ước đạt 100 triệu người, trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm là
50,6 triệu người, tăng 1,5 triệu người so với năm 2021. Trung bình mỗi năm có
khoảng 500 nghìn người gia nhập lực lượng lao động. Không chỉ gia tăng về số lượng,
chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam cũng có những cải thiện rõ rệt. Theo Ngân
hàng Thế giới (WB, 2020), trong 10 năm (năm 2010 đến năm 2020) chỉ số vốn nhân
lực (HCI) của Việt Nam đã tăng từ 0,66 lên 0,69. Bước sang năm 2022, chỉ số phát
triển con người (HDI) của Việt Nam trong nhóm phát triển khá đứng thứ 115/191
quốc gia. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để nguồn nhân lực của Việt Nam
có khả năng chuyển đổi, ứng dụng công nghệ số để xây dựng kỹ thuật số trong thời kỳ
cách mạng 4.0. Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tiếp tục cao hơn mức trung bình
của các nước có cùng mức thu nhập, mặc dù mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và
bảo trợ xã hội thấp hơn. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á - Thái
Bình Dương có điểm cao nhất về chỉ số vốn nhân lực. Điều này phản ánh những thành
tựu lớn trong giáo dục phổ thông và y tế trong những năm qua. Do đó, trong giai đoạn
2000- 2017, phát triển vốn nhân lực đóng góp khoảng 1/3 tăng trưởng GDP bình quân đầu người.
Tính đến 30/6/2024, Việt Nam đã thu hút được 605 dự án đầu tư của nước ngoài trong
lĩnh vực giáo dục với tổng số vốn đầu tư lên tới trên 4,57 tỉ USD; khoảng 430 chương
trình đào tạo liên kết với nước ngoài được triển khai tại 65 cơ sở giáo dục đại học
trong nước; có 5 cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo, tính từ năm 2014 đến hết năm 2020, Việt
Nam đã gửi được 4.277 du học sinh đi học các trình độ Thạc sĩ và Tiến sĩ tại 40 nước
trên thế giới. Hiện, có khoảng 22.000 lưu học sinh của gần 70 nước đang học tập tại
Việt Nam (các trình độ đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ và thực tập sinh); trong số này có
khoảng 4.000 lưu học sinh nước ngoài (đạt tỉ lệ 800% so với mục tiêu của Đề án) học
tập theo diện hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước, số
còn lại đến theo chương trình trao đổi, liên kết giữa các trường). Trong giai đoạn
2015-2020, đã có khoảng 15.000 lượt giảng viên, chuyên gia, tình nguyện viên đến
tham gia trao đổi học thuật, giảng dạy và nghiên cứu ngắn hạn, dài hạn tại các cơ sở
giáo dục đại học và nghiên cứu của Việt Nam. Đến hết năm 2020, Việt Nam đã có 139
chương trình đào tạo được các tổ chức quốc tế có uy tín kiểm định và công nhận (đạt
tỉ lệ gần 93% mục tiêu của Đề án).
● Tạo điều kiện để thúc đẩy hội nhập của các lĩnh vực văn hóa, chính trị, củng cố
an ninh - quốc phòng
Về văn hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện
để tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn
hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Việt Nam đã mở cửa, trao đổi văn hóa, chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với các
quốc gia khác. Mục đích của hội nhập quốc tế về văn hoá là tiếp thu các giá trị văn
hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa của dân tộc, quốc gia
mình. Hội nhập quốc tế về văn hoá – xã hội có thể thông qua việc tham gia các tổ
chức hợp tác và phát triển văn hóa, ví dụ: tham gia, thực hiện Cộng đồng văn hóa - xã
hội ASEAN, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO)
hoặc ký kết, gia nhập điều ước quốc tế song phương, khu vực và đa phương về hợp
tác, phát triển lĩnh vực văn hóa.
Trong những năm vừa qua, việc thực thi chính sách hội nhập quốc tế về văn hóa ở
nước ta đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, trong đó có nhiều hoạt động hội nhập quốc
tế về văn hóa với quy mô khác nhau đã được tổ chức ở khắp các châu lục. Nhiều
ngày/tuần/tháng văn hóa Việt Nam, lễ hội văn hóa - du lịch, các hoạt động biểu diễn
nghệ thuật, tuần phim, triển lãm giới thiệu hình ảnh đất nước, con người, hội thảo, xúc
tiến, quảng bá du lịch... đã được tổ chức ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới. Ví dụ
như tuần lễ Việt Nam 2024 được Vietnam Society, một tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực văn hóa của người Việt ở Mỹ, đã diễn ra tại khu bảo tàng châu Á thuộc hệ thống
bảo tàng Smithsonian, từ ngày 4-12/10/2024. Hay là trong khuôn khổ triển khai các
hoạt động hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam - Đức, đặc biệt là hoạt động thúc
đẩy hợp tác với các địa phương của CHLB Đức, Thương vụ Việt Nam tại Đức đã phối
hợp với thành phố Leipzig, Hội người Việt Nam tại Leipzig tổ chức các sự kiện quảng
bá, giới thiệu sản phẩm xuất khẩu, văn hóa ẩm thực của Việt Nam tại “Tuần lễ giao
lưu văn hóa thành phố Leipzig” diễn ra từ ngày 24 - 30/8/2024.
Về chính trị, hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh đến hội nhập chính trị, tạo điều
kiện cho cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh. Hội nhập tạo điều kiện để mỗi
nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và
vị thế quốc tế của nước ta trong các tổ chức chính trị, kinh tế toàn cầu.
Về an ninh - quốc phòng, HNKTQT giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình,
ổn định ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở
ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn
đề quan tâm chung như: môi trường, biến đổi khí hậu, phòng, chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013, của Quân ủy
Trung ương, “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và
những năm tiếp theo”, Quân ủy Trung ương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
kế hoạch triển khai thực hiện Đề án Hội nhập quốc tế về quốc phòng đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030, đưa công tác này ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu
quả, bảo đảm cho quan hệ quốc phòng thực sự là một trụ cột trong quan hệ quốc tế,
gắn kết chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập quốc tế và đối ngoại trên các
lĩnh vực khác, nhằm thực hiện kế sách “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” bằng biện pháp
hòa bình. Thực hiện chủ trương đó của Đảng, Bộ Quốc phòng đã cụ thể hóa và thiết
lập quan hệ hợp tác quốc phòng với trên 80 nước và nhiều tổ chức quốc tế. Quân đội
nhân dân Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình đã hoàn thành tốt nhiệm vụ,
được Liên hợp quốc, chính phủ và nhân dân nước sở tại đánh giá cao. Những kết quả
đó là minh chứng sinh động cho phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy,
thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; làm cho bạn bè quốc tế ngày càng
hiểu, tin tưởng và ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều
doanh nghiệp và các ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là
phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế-xã hội.
Chuỗi giá trị toàn cầu hiện nay được xem như là một dây chuyền sản xuất trong đó có
sự cùng tham gia phối hợp chủ yếu của khối doanh nghiệp nhiều quốc gia vào các
công đoạn khác nhau từ khâu thiết kế cho đến phân phối và hỗ trợ, tạo ra và đưa sản
phẩm đến tay người tiêu dùng. Trong đó, các công đoạn ở đầu chuỗi giá trị gồm:
nghiên cứu và phát triển, thiết kế và những công đoạn ở cuối chuỗi giá trị như
marketing, tạo thương hiệu và phân phối đều là những công đoạn đem lại giá trị gia
tăng cao. Ngược lại, những công đoạn ở giữa như: sản xuất nguyên phụ liệu, gia công
lắp ráp là những công đoạn có hàm lượng công nghệ thấp và tạo ra ít giá trị gia tăng.
Qua số liệu khảo sát của VCCI, hiện nay doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia vào toàn
bộ công đoạn của chuỗi giá trị toàn cầu, tuy nhiên tập trung lớn số lượng vào các khâu
phân phối (35,3%), sản xuất nguyên phụ liệu (34,5%), nghiên cứu và phát triển
(33,2%) và gia công lắp ráp (30%). Trong đó, ngoại trừ nghiên cứu và phát triển, tất
cả các công đoạn kể trên đều nằm ở phần giữa của chuỗi giá trị, đặc biệt sản xuất
nguyên phụ liệu và gia công lắp ráp là các công đoạn đem lại giá trị gia tăng thấp nhất
trong chuỗi giá trị thì lại là 2 công đoạn có lượng đông đảo doanh nghiệp Việt Nam
đảm nhận. Những công đoạn như marketing và tạo thương hiệu là những khâu có ít
doanh nghiệp Việt Nam đảm nhận nhất, lần lượt chiếm 17,4% và 16,8% số doanh
nghiệp được khảo sát. Điều này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng doanh nghiệp Việt
Nam chưa có thương hiệu toàn cầu, chưa có nhiều sản phẩm, hàng hóa có sức cạnh
tranh cao và có chỗ đứng trong chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị trong thị trường khu
vực và thị trường thế giới.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng phụ thuộc của nền kinh tế quốc
gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến
động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
Nhìn ở góc độ cơ cấu hàng hóa xuất - nhập khẩu Việt Nam, thì tính độc lập tự chủ về
xuất - nhập khẩu Việt Nam còn tương đối thấp, phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên
ngoài. Thị trường xuất - nhập khẩu có quy mô lớn hơn 4 lần so với thị trường trong
nước và xu hướng mất cân đối giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế ngày
càng lớn. Khu vực doanh nghiệp FDI vẫn là động lực chính trong xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam, đặc biệt trong công nghiệp chế biến, chế tạo. Đây cũng là khu vực nắm
giữ nguồn cung ứng nguyên vật liệu, thiết kế, kiểu dáng, máy móc thiết bị, sản xuất,
thị trường, khách hàng... tức là gần như toàn bộ các khâu quan trọng và có giá trị gia
tăng lớn nhất trong chuỗi.
Ngoài ra, Việt Nam nhập khẩu chủ yếu các nguyên liệu và thiết bị phục vụ sản xuất
trong nước, trong khi xuất khẩu chủ yếu tập trung vào các sản phẩm gia công và
nguyên liệu thô. Điều này phản ánh tính thiếu độc lập của nền sản xuất trong nước và
mức độ phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài. Hội nhập kinh tế cũng làm cho Việt
Nam phụ thuộc nhiều vào thị trường xuất khẩu, đặc biệt là một số thị trường chủ chốt.
Việt Nam phụ thuộc vào nhập khẩu từ thị trường châu Á, với tổng giá trị kim ngạch
nhập khẩu xấp xỉ 80%; phụ thuộc vào một số thị trường xuất khẩu, như: Trung Quốc,
EU, Hoa Kỳ. Điều đó dẫn đến mỗi một sự biến đổi trong thị trường này có thể ảnh
hưởng đáng kể đến nền kinh tế và xuất khẩu của Việt Nam, cũng như nguy cơ bị trả
đũa thương mại. Sự tăng trưởng nhanh của xuất - nhập khẩu ở Việt Nam trong những
năm qua đã có đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc này cũng đồng
nghĩa nền kinh tế Việt Nam dễ bị tác động, ảnh hưởng hơn từ những biến động về
kinh tế, địa chính trị trên thế giới thông qua kênh thương mại.
Khi Việt Nam vay vốn từ nước ngoài hoặc phụ thuộc vào đầu tư từ các nhà đầu tư
nước ngoài, đồng nghĩa với việc chúng ta phải đối mặt với rủi ro liên quan đến biến
động tỷ giá và các thay đổi chính sách tài chính, tiền tệ của các quốc gia khác và thị
trường tài chính quốc tế. Với các nỗ lực, Việt Nam đã giảm tỷ lệ nợ nước ngoài từ
mức gần 50% GDP năm 2017 xuống gần 37% năm 2022. Tuy vậy, hiệu quả sử dụng
nợ thấp tiềm ẩn nhiều rủi ro liên quan đến khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Xu hướng này gia tăng khi quốc gia gặp khó khăn về xuất khẩu, cũng như tốc độ tăng
trưởng kinh tế đang chậm lại. Gần đây, xu hướng mua bán, sáp nhập (M&A) gia tăng,
nổi lên là việc các nhà đầu tư nước ngoài thâu tóm các dự án quan trọng trong các
ngành, lĩnh vực quan trọng như năng lượng, hạ tầng… Năm 2022, tổng giá trị M&A ở
Việt Nam đạt 5,7 tỷ USD. Đầu tư vốn qua giao dịch M&A tại Việt Nam có xu hướng
tăng lên so với đầu tư theo hình thức FDI. Điều này tạo ra nguy cơ doanh nghiệp Việt
Nam bị thôn tính, tiềm ẩn rủi ro an ninh quốc gia.
Thứ ba, các nước đang phát triển đối mặt với chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất
lợi do thiên hướng tập trung vào các ngành thâm dụng tài nguyên và lao động nhưng
có giá trị gia tăng thấp, dễ trở thành bãi thải công nghiệp, cạn kiệt tài nguyên và hủy
hoại môi trường ở mức độ cao.
Trước thực trạng về số lượng lớn nguồn vốn FDI đổ vào các khu công nghiệp, CCN,
khu chế xuất, nguy cơ gia tăng ô nhiễm môi trường rất lớn khi tình trạng xử lý chất
thải cụm công nghiệp còn nhiều bất cập, yếu kém. Đa số các khu công nghiệp tại Việt
Nam còn vi phạm về quy định xử lý chất thải, mặc dù có xây dựng hệ thống xử lý
nước thải tập trung. Tuy nhiên, hiệu quả xử lý không cao, hoặc còn tồn tại tình trạng
chất thải doanh nghiệp xả trực tiếp ra môi trường không qua xử lý dẫn đến tình trạng ô
nhiễm, dẫn tới những chất thải công nghiệp độc hại ngấm vào lòng đất, nguồn nước,
gây ra hệ lụy lâu dài không chỉ cho môi trường, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe cư
dân sinh sống quanh khu vực này. Theo Phòng nghiên cứu Chính sách PanNature, một
nghiên cứu mới đây cho thấy, có tới 80% khu công nghiệp vi phạm quy định về môi
trường; 23% doanh nghiệp FDI xả thải vượt quy chuẩn cho phép từ 5-12 lần. Đặc biệt,
DN FDI chiếm 60% tổng số các DN xả thải vượt quy chuẩn.
Tiêu biểu phải kể tới một trường hợp gây ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng là Công ty
Vedan. Cách đây 10 năm, sông Thị Vải (Đồng Nai) đã bị ô nhiễm 80-90% khi Công ty
TNHH Vedan Việt Nam (Đài Loan) bơm xả trực tiếp một lượng lớn dịch thải sau lên
men với nồng độ các chất ô nhiễm rất cao ra môi trường. Năm 2014, Công ty TNHH
Miwon Việt Nam tại Phú Thọ cũng đã bị xử phạt 515 triệu đồng vì hành vi xả nước
thải vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 10 lần trở lên ra môi trường. Đặc biệt, đầu năm 2016
đã xảy ra thảm họa môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung sau khi Công ty TNHH
Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Đài Loan) đã tống một lượng lớn nước
thải chưa qua xử lý ra biển trong quá trình vận hành thử.
Ô nhiễm khí thải là một vấn đề “nóng” tại Việt Nam hiện nay. Theo bảng xếp hạng
quốc gia về mức độ ô nhiễm không khí của IQAir, Việt Nam hiện xếp thứ 36/118 quốc
gia trên toàn thế giới, riêng Thủ đô Hà Nội có mức độ ô nhiễm thứ 3 trên thế giới.
Tương tự như ở các đô thị lớn ở nước ta, nồng độ bụi TSP ở phần lớn các KCN, CCN
đều vượt ngưỡng cho phép theo QCVN 05: 2013/BTNMT. Ô nhiễm bụi ở các KCN,
CCN ở các tỉnh thành phía Bắc thường lớn hơn so với các KCN, CCN ở phía Nam.
Nhìn chung, chất lượng không khí tại nước ta bị ảnh hưởng lớn một phần bởi lượng
khí thải đến từ KCN chưa qua xử lý hoặc quy trình xử lý chưa đạt chất lượng. Một số
ví dụ điển hình về vi phạm xử lý khí thải công nghiệp của các doanh nghiệp FDI như
vụ vi phạm gây ảnh hưởng rất lớn tới đời sống nhân dân của Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2…
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng về lợi ích
và rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm
tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Nghiên cứu sâu về tình trạng bất bình đẳng do Oxfam tiến hành tại Việt Nam cho thấy,
mức độ thay đổi khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất ở Việt
Nam khá lớn. Đáng chú ý thu nhập một năm của nhóm 210 người siêu giàu ở Việt
Nam dư sức để đưa 3,2 triệu người thoát nghèo, chấm dứt nghèo cùng cực trên cả
nước. Trong khi đó, trong bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động, dẫn tới làm
giảm cơ hội tiếp cận các dịch vụ cơ bản của người nghèo, đặc biệt là trong lĩnh vực y
tế, giáo dục. Kỹ sư Bùi Công Khế, Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Hà Nội cho
rằng: “Trong y tế sự chênh lệch rõ nét. Người nghèo vẫn trông chờ sự hỗ trợ của nhà
nước, chứ không thể nào bỏ ra số tiền lớn để trị bệnh chất lượng cao. Có những gia
đình quá nghèo, bảo hiểm y tế không thanh toán, hỗ trợ thì bán hết cả nhà cửa, cả gia
đình phiêu bạt chỉ vì bệnh tật. Đó là cái khổ của người nghèo. Nhưng đối với người
giàu, khá thì vẫn đủ điều kiện hưởng kỹ thuật cao”.
Thứ năm, hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực
Nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì
an ninh và ổn định trật tự an toàn xã hội.
Việc hợp tác kinh tế giữa các quốc gia đôi khi có thể dẫn đến nguy cơ lộ lọt thông tin
quan trọng. Trong nhiều trường hợp, các công ty quốc tế có thể thu thập thông tin tình
báo công nghệ hoặc quân sự thông qua đầu tư hoặc hợp tác kinh tế. Ví dụ, các quốc
gia như Mỹ đã cẩn trọng với các công ty viễn thông Trung Quốc như Huawei vì lo
ngại về việc lắp đặt thiết bị có thể dẫn đến việc thu thập thông tin từ xa.
Thứ sáu, hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn
hóa truyền thống Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy quá trình hình thành xã hội
thông tin, nền kinh tế số; đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các quốc
gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Một số nước lớn lợi dụng quá
trình toàn cầu hóa để tìm cách truyền bá, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn hóa”,
làm phai nhạt các giá trị truyền thống của các dân tộc khác. Nhiều nội dung phản
giá trị, phản văn hóa, tư tưởng độc hại dễ dàng xâm nhập, làm biến dạng các giá trị
văn hóa, đạo đức truyền thống. Đây là một nguy cơ đang hiển hiện và ngày một gia
tăng đối với Việt Nam, nhất là những tác động tiêu cực của nó tới thế hệ trẻ. Bên
cạnh đó, chúng ta cũng đang gặp những thách thức về việc phai nhạt, đánh mất bản
sắc văn hóa, xói mòn những giá trị truyền thống của dân tộc. Vai trò của văn hóa
trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng
về chức năng giải trí. Môi trường văn hóa vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội. Sự
chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn lớn. Nhiều di sản văn
hóa quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong...
Thứ bảy, hội nhập kinh tế quốc tế tế có thể làm gia tăng tình trạng khủng bố, buôn
lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
Lãnh đạo Tổng cục Hải quan đánh giá: Trong 3 tháng đầu năm 2024, tình hình buôn
lậu, gian lận thương mại, hàng giả, vận chuyển trái phép hàng hóa diễn biến rất phức
tạp, nhất là dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn, tình hình hoạt động của tội phạm mua bán,
vận chuyển trái phép các chất ma túy, tiền chất qua biên giới diễn biến hết sức phức
tạp, hoạt động của các băng nhóm, đường dây tội phạm ma túy xuyên quốc gia lợi
dụng chủ trương ưu đãi, thu hút đầu tư, hoạt động thương mại tìm cách thành lập
doanh nghiệp ở Việt Nam để vận chuyển phương tiện, thiết bị, nguyên liệu, thuê kho
bãi… phục vụ hoạt động sản xuất, vận chuyển trái phép ma túy từ nước ngoài vào Việt
Nam và tiếp tục đưa đi nước thứ ba tiêu thụ, biến Việt Nam trở thành điểm trung
chuyển mới. Bên cạnh đó, tiền chất nhập khẩu cũng tiềm ẩn nguy cơ bị lợi dụng, sử
dụng điều chế, sản xuất trái phép ma túy.
Từ đầu năm 2024 đến nay, các lực lượng chức năng đã tăng cường kiểm tra, phát hiện,
xử lý 5.229 trường hợp xuất nhập cảnh trái phép; khởi tố, điều tra 166 vụ án hình sự
liên quan đến xuất nhập cảnh trái phép. Riêng Cục Quản lý xuất nhập cảnh đã phát
hiện 224 vụ/288 đối tượng xuất nhập cảnh trái phép; khởi tố 03 vụ án hình sự về tội tổ
chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài; xác minh, điều tra ban đầu và
chuyển Cơ quan điều tra các cấp hơn 60 vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực
xuất nhập cảnh, để tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.
Tóm lại, HNKTQT hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả rất khó lường.
Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức trong hội nhập kinh tế là vấn đề cần
phải đặc biệt coi trọng. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://tapchinganhang.gov.vn/viet-nam-sau-gan-30-nam-hoi-nhap-kinh-te-quo c-te.htm
2. https://documents1.worldbank.org/curated/en/099550206182413997/pdf/IDU1
c08c2a6d16c1f14e83199c41f5f2a19691f3.pdf
3. https://kinhtevadubao.vn/chuyen-dich-co-cau-nganh-kinh-te-trong-qua-trinh-da
y-manh-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-29908.html
4. https://dangcongsan.vn/phat-trien-kinh-te-xanh-ly-luan-va-thuc-tien/nang-cao-c
hat-luong-nguon-nhan-luc-cho-qua-trinh-phat-trien-kinh-te-xanh-671701.html
5. https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=9835
6. https://www.vietnamplus.vn/tuan-le-viet-nam-2024-o-my-ton-vinh-truyen-thon
g-truyen-cam-hung-cho-tuong-lai-post983281.vnp
7. https://dangcongsan.vn/nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai/viet-nam-tham-du-tuan-l
e-giao-luu-van-hoa-thanh-pho-leipzig-chlb-duc-675994.html
8. https://kinhtevadubao.vn/nang-cao-nang-luc-canh-tranh-cua-cac-doanh-nghiep-
viet-nam-trong-thoi-ky-hoi-nhap-29315.html
9. https://lsvn.vn/day-manh-hoi-nhap-quoc-te-ve-giao-duc-va-dao-tao-trong-giai-
doan-moi-1693749975-a134776.html
10. https://tapchitaichinh.vn/anh-huong-cua-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-doi-voi-xay-
dung-nen-kinh-te-doc-lap-tu-chu-o-viet-nam.html
11. https://tapchicongthuong.vn/thuc-trang-tac-dong-cua-dau-tu-nuoc-ngoai-toi-mo
i-truong-sinh-thai-tai-viet-nam-103979.htm
12. https://thanhtra.com.vn/theo-dong-thoi-cuoc/thu-hep-khoang-cach-va-giam-bat
-binh-dang-o-viet-nam-172809.html
13. https://baochinhphu.vn/tinh-hinh-buon-lau-dien-bien-phuc-tap-ngay-tu-dau-na m-102240403172437876.htm
14. https://xuatnhapcanh.gov.vn/vi/tin-tuc/khuy%E1%BA%BFn-c%C3%A1o-c%E
1%BB%A7a-c%E1%BB%A5c-qu%E1%BA%A3n-l%C3%BD-xu%E1%BA%
A5t-nh%E1%BA%ADp-c%E1%BA%A3nh-v%E1%BB%81-t%C3%ACnh-tr
%E1%BA%A1ng-nh%E1%BA%ADp-xu%E1%BA%A5t-c%E1%BA%A3nh-t
r%C3%A1i-ph%C3%A9p-c%E1%BB%A7a-c%C3%B4ng
Document Outline

  • 1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
  • 2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế