Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

Thông tin:
13 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

63 32 lượt tải Tải xuống
Đại hội IV
1. Bối cảnh đại hội
Đại hội diễn ra trong bối cảnh trong nước có 3 đặc điểm lớn:
Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ 1 xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi
rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới
gây ra.
Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu
tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt.
2. Nội dung cơ bản của đại hội
1. Thời gian, địa điểm tổ chức
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976, tại Nội. Dự Đại hội 1.008 đại
biểu, thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trên cả nước, 29 đoàn đại biểu của các Đảng tổ chức
quốc tế tham dự.
2. Bầu tổng Bí thư
Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch 5 năm
(1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Việt Namsửa đổi Điều luật Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 ủy
viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư của Đảng.
3. Chủ đề
Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Đại hội IV là
Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc; đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con đường hội
chủ nghĩa.( Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, cả nước tiến lên
xây dựng CNXH.)
4. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng một bước sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa hội, bước đầu hình thành cấu kinh tế
mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp.
Mục tiêu cụ thể:
-Bước đầu hình thành cấu kinh tế mới .Đồng thời, phải bước đầu hình thành một cấu kinh tế phù
hợp với đường lối của Đảng, quán triệt nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa, cho phép giải quyết tốt các mối quan hệ lớn của nền kinh tế quốc dân, như đã được nêu
trong đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động (đặc biệt chú trọng nhân dân các
vùng bị chiến tranh tàn phá nặng nề) Đi đôi với việc chăm lo đời sống vật chất, phải chú trọng cải thiện
đời sống văn hoá của nhân dân, tạo ra cuộc sống mới, với những quan hệ hội tốt đẹp, nguồn phấn
khởi và niềm vui của người lao động.
5. Phương hướng chiến lược
Kế hoạch 5 năm 1976-1980 phải là một kế hoạch thật tốt. Muốn vậy, kế hoạch 5 năm 1976-1980 phải có
sự bố trí chiến lược đúng, phát huy các lực lượng sản xuất bao gồm lực lượng lao động phương tiện
sản xuất, khai thác các tiềm năng, khơi động lực lượng của quần chúng, một sự bố trí chiến lược hợp cho
5 năm này và thuận với hướng tiến lên lâu dài. Đồng thời phải có tổ chức và biện pháp thực hiện có hiệu
lực mạnh mẽ, rút được kết luận từ ưu điểm khuyết điểm trong thời gian vừa qua, đáp ứng những yêu
cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân và của đời sống nhân dân.
6. Quan điểm chỉ đạo
6.1, Quan điểm chỉ đạo trong phát triển kinh tế
Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa
nền kinh tế nước ta đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp trên sở phát triển nông nghiệp công nghiệp
nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệpnông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp;
vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế
địa phương trong một cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác
lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công,
hợp tác, tương trợ với các nước hội chủ nghĩa anh em trên sở chủ nghĩa quốc tế hội chủ nghĩa,
đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền và các bên
cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nướchội chủ nghĩa có kinh tế công – nông nghiệp
hiện đại, văn hoá khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, đời sống văn minh, hạnh
phúc”.
Báo cáo đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá (1976-1980) nhằm
2 mục tiêu vừa cơ bản vừa cấp báchđảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để xây dựng
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, phải ra sức thực hiện các nhiệm vụ: phát triển vượt
bậc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết một cách vững chắc nhu cầu của cả nước về
lương thực, thực phẩm hàng tiêu dùng thông dụng, xây dựng thêm nhiều sở mới về công nghiệp
nặng, đặc biệt khí, mở mang giao thông vận tải, xây dựng bản, đẩy mạnh khoa học kỹ thuật; sử
dụng hết lực lượng lao động; hoàn thành bản cải tạo hội chủ nghĩa miền Nam, củng cố quan hệ
sản xuất hội chủ nghĩa miền Bắc, cải tiến mạnh mẽ công tác thương nghiệp, giá cả, tài chính, ngân
hàng; tăng nhanh nguồn xuất khẩu; phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, cải cách giáo dục, đào tạo cán bộ,
thanh toán hậu quả của chủ nghĩa thực dân mới; xây dựng một hệ thống mới về quản lý kinh tế trong cả
nước.
6.2, Quan điểm chỉ đạo trong lĩnh vực chính trị
Báo cáo chính trị của Đại hội nêu rõ trong những năm qua nhân dân ta đã phải đương đầu với cuộc chiến
tranh xâm lược lớn nhất và ác liệt nhất của đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, đã
chiến đấu anh dũng thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống
Mỹ cứu nước mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất đi vào lịch sử
thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX. Đối với đế quốc Mỹ, đây là thất bại lớn nhất trong lịch
sử nước Mỹ. Nếu thắng lợi của cách mạng tháng Tám kháng chiến chống thực dân Pháp mở đầu sự
sụp đổ của chủ nghĩa thực dân thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng minh sự phá sản
hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân mới là không tránh khỏi.
- Thắng lợi đó kết quả tổng hợp của một loạt các nhân tố tạo nên. Đó sự lãnh đạo của Đảng ta với
đường lối, phương pháp cách mạngchiến tranh cách mạng đúng đắn sáng tạo; cuộc chiến đấu đầy
khó khăn gian khổ, bền bỉ và thông minh của nhân dân, quân đội cả nước, đặc biệt là của các đảng bộ, của
cán bộ, chiến sĩ công tác và chiến đấu ở chiến trường miền Nam, của hàng triệu đồng bào yêu nước khắp
mọi miền Tổ quốc; sức mạnh của chế độ hội chủ nghĩa miền Bắc, của đồng bào miền Bắc vừa xây
dựng vừa chiến đấu để bảo vệ căn cứ địa chung của cách mạng cả nước, vừa huy động ngày càng nhiều
sức người, sức của cho cuộc chiến đấu trên chiến trường miền Nam; sự đoàn kết liên minh chiến đấu của
nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia; sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, của giai cấp công nhân
nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Đặc biệt sự giúp đỡ to lớn của Liên và Trung Quốc. Thắng
lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đã để lại cho nhân dân ta nhiều bài học kinh nghiệm lớn.
1. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, kết hợp với sức mạnh chiến đấu của tiền
tuyến lớn với tiềm lực của hậu phương lớn, động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân, toàn
quân vào cuộc chiến đấu cứu nước.
2. Nắm vững vận dụng đúng đắn chiến lược tiến công, đẩy lùi địch từng bước. Không ngừng củng cố
trận địa cách mạng, tạo thế và lực hơn hẳn địch để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
3. Ra sức xây dựng và tổ chức lực lượng chiến đấu trong cả nước, đặc biệt hết sức coi trọng xây dựng và
phát triển lực lượng cách mạng ở miền Nam; tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.
4. Tạo ra một phương pháp cách mạng đúng, sử dụng bạo lực cách mạng gồm lực lượng chính trị và lực
lượng trang, khởi nghĩa từng phần nông thôn phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu
tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng;
đánh địch trên ba vùng chiến lược, kết hợp ba thứ quân, phát triển kết hợp chiến tranh du kích với
chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn; nắm vững phương châm chiến lược đánh
lâu dài với tạo thời cơ nhằm mở ra những cuộc tiến công chiến lược tiến lên thực hiện tổng công kích
nổi dậy để đè bẹp quân thù giành thắng lợi cuối cùng.
Phân tích tình hình mọi mặt của đất nước, báo cáo đã nêu lên ba đặc điểm lớn:
1. Nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
2. Cả nước hòa bình, độc lập và thống nhất đang tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi, song cũng
còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
3. Hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cách mạng và phản cách mạng còn
rất gay go và phức tạp.
Những đặc điểm đó tác động mạnh mẽ đến quá trình biến đổi cách mạng ở nước ta.
6.3, Về lĩnh vực văn hóa xã hội
Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền văn hoá mới, xây dựng con người mới hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ
nghèo nàn và lạc hậu.
-Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng nền văn hoá mới và con người mới
hội chủ nghĩa; tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin đường lối chính sách của
Đảng; đấu tranh chống tưởng văn hóa phản động, lạc hậu của các giai cấp bóc lột. Trước mắt, cần
phổ biến sâu rộng các nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng; tiến hành cải cách giáo dục, phát triển
văn học, nghệ thuật; giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chống tư tưởng tư sản và tàn dư tư tưởng phong
kiến, phê phán tưởng tiểu sản, quét sạch ảnh hưởng của tưởng văn hoá thực dân mới miền
Nam. Trong công tác văn hoá, phải luôn luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phải nhằm phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; kế thừa có chọn lọc, có phê phán
và có sáng tạo những giá trị tinh thần và văn hoá của dân tộc cũng như của nền văn minh loài người; kết
hợp xây dựng với cải tạo, áp dụng phương pháp phê bình và tự phê bình
-Kế hoạch về xã hội là: Cải thiện một bước đời sống của nhân dân (đặc biệt chú trọng nhân dân các vùng
bị chiến tranh tàn phá nặng nề) nhằm trước hết những nhu cầu thông thường về ăn, mặc, ở, đồ dùng
hàng ngày, về học tập, bảo vệ sức khoẻ..., thực hiện phân phối công bằng, hợp lý, thuận tiện cho nhân
dân, chú trọng những tầng lớp nhân dân lao động hiện đang làm những việc khó khăn, nặng nhọc, đòi hỏi
kỹ thuật cao, sản xuất nhiều sản phẩm quý, xây dựng những công trình quan trọng. Đi đôi với việc chăm
lo đời sống vật chất, phải chú trọng cải thiện đời sống văn hoá của nhân dân, tạo ra cuộc sống mới, với
những quan hệ xã hội tốt đẹp, là nguồn phấn khởi và niềm vui của người lao động. Theo đó, những nhiệm
vụ cơ bản về xã hội của kế hoạch 5 năm là:
1. Hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc; cải tiến mạnh mẽ công tác thương nghiệp, giá cả, tài chính, ngân hàng.
2. Tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, trước hết sản phẩm nông nghiệp công nghiệp nhẹ; mrộng
quan hệ kinh tế với nước ngoài.
3. Ra sức phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế, tiến hành cải cách giáo dục, đẩy mạnh đào tạo cán
bộ và công nhân; thanh toán hậu quả của chiến tranh và chủ nghĩa thực dân mới về mặt xã hội.
Trên cơ sở phát triển sản xuất và tăng năng suất lao động, cần cải tiến chế độ tiền lương và tăng lương cho
công nhân, viên chức nhằm thực hiện đầy đủ hơn nữa nguyên tắc phân phối hội chủ nghĩa theo số
lượng và chất lượng lao động. Đồng thời, chú trọng tăng các quỹ phúc lợi xã hội.
6.4, Lĩnh vực Đối ngoại
Đại hội để ra đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại nhằm tranh thủ điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh
nhịp độ xây dựng đất nước. Thiết lập không ngừng mở rộng quan hệ bình thường với tất cả các nước
trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền lãnh thổ, tôn trọng lợi ích quốc gia. giữ vững hòa bình độc lập
phát triển.
Về đối ngoại, Báo cáo Chính trị nêu rõ trong giai đoạn mới, chúng ta cần ra sức tranh thủ những điều kiện
quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phụcphát triển kinh tế,
phát triển văn hoá, khoa học kỹ thuật, củng cố quốc phòng, cùng các nước hội chủ nghĩa, các dân tộc
trên thế giới đấu tranh hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ chủ nghĩa hội, chống chủ nghĩa đế
quốc. Trong quá trình làm việc, Đại hội đã tập trung phân tích đánh giá tình hình thế giới khẳng định
mạnh mẽ chính sách đối ngoại nhất quán của Đảng Nhà nước trong giai đoạn mới tăng cường tình
đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, làm hết sức mình để góp phần
làm cho tưởng cao đẹp của chủ nghĩa Mác-Lênin ngày càng thắng lợi rực rỡ. Ra sức bảo vệ phát
triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân ta với nhân dân Lào và Campuchia. Ủng hộ sự nghiệp đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân các nước độc lập dân tộc, dân chủ, hoà bình tiến bộ hội. Thiết lập
mở rộng quan hệ bình thường giữa nước ta với tất cả các nước khác trên sở tôn trọng độc lập chủ
quyền, bình đẳng cùng lợi. Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi hàn gắn vết thương
chiến tranh, phát triển đất nước về mọi mặt.
6.5, Về lĩnh vực Quốc phòng, an ninh
-Không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã
hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ chủ nghĩa
hội. Nhiệm vụ xây dựng củng cố quốc phòng nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống
chuyên chính sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lực lượng trang nhân dân hùng mạnh của chúng ta
lực lượng thường trực mạnh lực lượng hậu bị rộng rãi được huấn luyện tốt; quân đội nhân dân
chính quy, hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết; bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương,
lực lượng dân quân du kích và dân quân tự vệ hùng hậu. Chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc trên thế giới
thì chúng ta còn phải chú ý đầy đủ hiện đại hoá lực lượng quốc phòng khả năng phòng thủ của đất
nước.
-Kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội
chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với
các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở
thành một nước hội chủ nghĩa kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá khoa học, kỹ thuật
tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.
7. Nghị quyết, chỉ thị chủ yếu của Đảng
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban Chấp hành Trung ương đã họp nhiều lần, tập trung chủ
yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối lưu thông.
Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng với chủ trương
khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những
rào cản để cho “sản xuất bung ra”. Theo đó, Hội đồng Chính phủ ra quyết định (10-1979) về việc tận
dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục hoá được miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ
sản phẩm; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra
trao đổi ngoài thị trường.
Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương, sau khi tổ chức thí
điểm, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao
động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo Chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự
mình làm các khâu, cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu
hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán. Chủ trương đó được nông dân cả nước ủng hộ,
nhanh chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng. Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu
tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng
phí trong sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể.
Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương ở Thành phố Hồ Chí Minh
và tỉnh Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-1981) về quyền chủ động sản xuất kinh
doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết định số 26-CP về việc mở
rộng hình thức trả lương khoán, lượng sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản
xuất kinh doanh của Nhà nước. Những chủ trương trên đã tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy sản
xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
Tháng 9-1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ đạo thảo luận Dự thảo Hiến pháp mới của nước
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyết định những biện pháp bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh
Hiến pháp sau khi được Quốc hội thông qua
Thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu Kế hoạch nhà nước 5 năm
(1976-1980), hội đã thông qua Nghị quyết đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt
Nam và thông qua Điều lệ mới của Đảng gồm có 11 chương và 59 điều. Điều lệ đã rút gọn 10 nhiệm vụ
của Đảng viên thành 5 nhiệm vụ, đặt lại chức vụ Tổng Bí thư thay chức Bí thư thứ nhất, quy định nhiệm
kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm.
3. Tổng kết
A, Kết quả:
Sau 5 năm 1975-1981, quân dân cả nước đã giành được thành tựu thống nhất nước nhà về mặt nhà nước,
chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh biên giới và đã khắc phục một phần hậu quả chiến tranh và thiên
tai liên tiếp gây ra. Các tỉnh phía Nam đã cơ bản việc xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc,
phong kiến. Ở miền Bắc, bước đầu có sự cải tiến đưa nông nghiệp từng bước lên sản xuất lớn với các đội
chuyên, làm khoán. Tuy nhiên, kết quả nhìn chung đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông,
phân phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân dân, cán bộ,
công nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ cuối năm 1979, ở một số địa phương miền Bắc đã
xuất hiện hiện tượng “xé rào”, ”khoán chui”. Ở miền Nam, việc thí điểm hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng
túng…
B, Nguyên nhân
Những khó khăn trên có nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên tại nặng nề liên tiếp xảy ra,
chiến tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao vây, cô lập của Mỹ và các thế lực thù địch. Tuy nhiên về
chủ quan, do những khuyết điểm, sai lầm của Đảng, Nhà nước về lãnh đạo và quản lý kinh tế, xã hội làm
trầm trọng thêm những khó khăn trên:
Thứ nhất, Chưa nhấn mạnh việc bức thiết phải làm đó là khắc phục hậu quả chiến tranh
Thứ hai, chưa xác định được nội dung chặng đường đầu tiên tiến lên CNXH, nóng vội trong việc cải tạo
và xây dựng CNXH ở một nước vốn là nông nghiệp lạc hậu trải qua mấy chục năm chiến tranh.
C, Hạn chế
Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện thời chiến, vừa
là hậu phương, vừa là tiền tuyến, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống chiến tranh phá hoại bằng
không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, vừa làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam và làm
nhiệm vụ quốc tế.
Trong điều kiện đó, không thể áp dụng đầy đủ các quy luật kinh tế, không thể hạch toán kinh tế mà tất
yếu phải thực hành chính sách bao cấp để đáp ứng yêu cầu “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Chưa phát hiện những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ sau chiến tranh. Việc dự kiến
thời gian hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế của đất nước từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết thúc thời kỳ quá độ; việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp vượt quá khả năng thực tế... là
những chủ trương nóng vội, thực tế đã không thực hiện được.
D, Ý nghĩa
Đại hội lần IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Năm năm của nhiệm kỳ cũng
chính là quãng thời gian Đảng và nhân dân ta phải trải qua nhiều thách thức nghiêm trọng, song dưới sự
dẫn dắt của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, giành được nhiều thắng lợi có ý
nghĩa. Đại hội đã cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội V
1. Bối cảnh đại hội
1.1. Tình hình Thế giới
Tình hình KT-XH Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu gặp khó khăn, từng bước lâm vào khủng hoảng.
Đường lối cải cách KT-XH ở Trung Quốc (từ năm 1978) bước đầu đạt được kết quả tích cực.
Đông Nam Á, các thế lực phản động quốc tế tăng cường tìm cách can thiệp nhằm chi phối, tạo ảnh
hưởng. Đặc biệt là tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam.
1.2. Tình hình trong nước
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V diễn ra trong bối cảnh kinh tế đất nước sau 5 năm Kháng chiến chống
Mỹ đang gặp những trì trệ nghiêm trọng. Mỹ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch
hậu chiến”. Chủ nghĩa đế quốccác thế lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân
tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước
Đông Dương.Bên cạnh đó Việt Nam đang đóng quân ở sau từ
Campuchia Chiến tranh biên giới Tây Nam
năm quan hệ 1979 Việt Nam – Trung Quốc bị đổ vỡ sau Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979. Trung
Quốc tiến hành hoạt động phá hoại biên giới trên bộ trên biển thường xuyên. Trong nước, tình trạng
khủng hoảng kinh tế- xã hội ngày càng trầm trọng.
2. Nội dung cơ bản của đại hội
1. Thời gian, địa điểm
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã họp nội bộ từ ngày 15 đến 24-3-1982 và họp công khai
từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 tại Thủ đô Nội. Tham dự Đại hội 1.033 đại biểu thay mặt hơn 1,7
triệu đảng viên hoạt động trong cả nước. Trong số đại biểu đó 14 đảng viên đã từng tham gia các tổ
chức tiền thân của Đảng; hơn 40% đại biểu là những đảng viên hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế; 102
đại biểu hoạt động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp; 118 đại biểu đại diện của 27 tộc người trên các
tuyến đầu ở vùng biên giới phía bắc và tây nam; 79 đại biểu là anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ
trang, chiến sĩ thi đua; 1/3 đại biểu có trình độ đại học và trên đại học, 26 tiến sĩ và phó tiến sĩ, 14 giáo sư,
phó giáo nhiều đại biểu là cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật... Đến dự Đại hội
còn có 47 đoàn đại biểu của các Đảng và tổ chức quốc tế.
2. Bầu Tổng bí thư
Đại hội đã thông qua các văn kiện quan trọng và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 ủy viên
chính thức, Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức. Đồng chí Duẩn được bầu làm Tổng thư của
Đảng.
3. Chủ đề
Xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN
4. Mục tiêu tổng quát
Chặng đường trước mắt bao gồm những năm trong thập niên 1980. Những mục tiêu kinh tế và xã hội tổng
quát cho những năm đó là:
- Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước hết giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp
ứng tốt hơn những nhu cầu về mặc, về học hành, chữa bệnh, về ở, đi lại, về chăm sóc trẻ em và các nhu
cầu tiêu dùng thiết yếu khác.
- Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác, và
chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.
- Đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh, trật
tự.
Báo cáo chính trị xác định: “Mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt khó khăn thử thách ổn định và phát
triển kinh tế, xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản
thoát khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”
5. Phương hướng chiến lược
Điều có ý nghĩa cấp bách và có tầm quan trọng đặc biệt là phải khẩn trương làm tốt việc sắp xếp lại kinh
tế theo những phương hướng sau đây: Phải chỉnh đốn và cải tiến cơ cấu sản xuất, xây dựng, lao động,
phân phối, lưu thông và tiêu dùng, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu cấp bách, hợp với khả năng thực tế trong
những năm trước mắt, nhất là khả năng về năng lượng, nguyên liệu, giao thông vận tải, đồng thời hợp với
hướng tiến lên lâu dài, làm cho nền kinh tế phát triển ổn định, đúng hướng và đạt hiệu quả ngày càng cao.
- Sắp xếp lại các cơ sở sản xuất: ưu tiên dành các điều kiện vật chất cho việc đẩy mạnh sản xuất những
sản phẩm phục vụ đời sống, xuất khẩu và củng cố quốc phòng.
- Bố trí lại xây dựng cơ bản: soát xét cơ cấu đầu tư, quy mô và tiến độ xây dựng cơ bản, khắc phục tình
trạng đầu tư phân tán, dàn đều, không đồng bộ và kém hiệu quả kinh tế.
- Bố trí lại lao động: mở rộng phân công và phân bố lại lao động trong từng cơ sở, từng địa phương, từng
ngành và trên địa bàn cả nước, giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, nhằm tận dụng mọi khả năng
đất đai, rừng, biển và các cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có.
- Sắp xếp lại phân phối, lưu thông: thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa trên mặt trận rất phức tạp này, khẩn
trương tổ chức và mở rộng thị trường xã hội chủ nghĩa, hạn chế và quản lý chặt thị trường không có tổ
chức.
- Sắp xếp lại tiêu dùng xã hội: hết sức tiết kiệm về đầu tư và sản xuất, về sự nghiệp văn hoá và xã hội, về
chi phí quốc phòng và hành chính, thể hiện chủ trương tiết kiệm thành những chỉ tiêu cụ thể hằng năm
phải phấn đấu đạt cho bằng được.
6. Quan điểm chỉ đạo
6.1. Trong phát triển kinh tế
Giải quyết các vấn đề cấp bách để ổn định và cải thiện một bước của đời sống nhân dân
Phát triển và sắp xếp lại sản xuất, tiếp tục việc thực hiện phân công và phân bố lại lao động xã hội
Bố trí lại, xây dựng cơ bản cho phù hợp với khả năng và theo hướng tạo thêm điều kiện để phát
huy các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có nhằm vào các mục tiêu cấp bách nhất về kinh tế xã hội
Cải tiến công tác phân phối lưu thông, thiết lập một bước trật tự mới trên mặt trận này
Củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước về các mặt chế độ quản lý, sở hữu và
phân phối
Làm tốt hợp tác kinh tế với Liên Xô, Lào, Campuchia và các nước trong hội đồng tương trợ kinh
tế
Thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt, đặc biệt coi trọng tiết kiệm trong xây dựng cơ bản và sản xuất
Ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống
6.2. Trong chính trị
Đảm bảo thấu suốt đường lối nâng cao năng lực lãnh đạo và tổ chức mọi mặt về kinh tế xã hội,
quốc phòng an ninh của đất nước, nhất là về kinh tế
Cải tiến sự lãnh đạo của Đảng gắn với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và việc tinh giản bộ
máy của Đảng và Nhà nước
Củng cố cơ sở Đảng, kiên quyết đưa những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất và những người
không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng
Tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí đúng và đảm bảo tính kế thừa trong việc xây dựng đội
ngũ cốt cán, đảm bảo sự vững vàng của Đảng trong mọi tình thế
Giữ gìn, phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng, thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập
trung dân chủ, tiến hành phê bình và tự phê bình thường xuyên trong sinh hoạt Đảng
6.3. Trong văn hóa xã hội
Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, y tế phù hợp với khả năng kinh tế. thực hiện cải cách giáo dục
một cách thích hợp và vững chắc. xác định quy hoạch hợp lý và tiếp tục đào tạo cán bộ khoa học
kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề
Tăng cường quản lý xã hội, kiên quyết đấu tranh chống các hành vi phạm pháp,tệ nạn xã hội và
các biểu hiện tiêu cực khác, đề cao kỷ cương trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, giữ vững
trật tự và an toàn xã hội
6.4. Trong quốc phòng an ninh
Cố gắng đến mức cao nhất làm tốt công cuộc phòng thủ đất nước giữ vững an ninh của Tổ quốc. Kết
hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, kế hoạch chủ động để khi cần thiết
chuyển được nhanh chóng nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến. Đáp ứng tốt những nhu cầu kinh tế
của công cuộc củng cố quốc phòng, mặt khác, tổ chức cho các đơn vị bộ đội điều kiện tiến hành sản
xuất để tự cung ứng một phần nhu cầu, huy động năng lực các nghiệp quốc phòng sử dụng hợp
lực lượng quân đội vào những hoạt động kinh tế thích hợp. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện
và hiện đại. Xây dựng quân đội ý chí quyết thắng, có kỷ luật chặt chẽ,trình độ chính quy, hiện đại
ngày càng cao, có trình độ sẵn sàng chiến đấu không ngừng hoàn thiện. Xây dựng lực lượng công an nhân
dân trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Kết hợp chặt chẽ lực lượng công an, quân đội với phong trào
quần chúng để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, chặn đứng và đẩy lùi các hiện tượng tiêu
cực.
7. Nghị quyết, chỉ thị chủ yếu của Đảng
7.1.Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV
Sau khi thảo luận Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Tổng t
Duẩn trình bày, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam quyết nghị:
1. Tán thành nhất trí thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đánh giá
những thắng lợi thành tựu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã giành được trong 5 năm qua trên
các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, đối ngoại, về nhận định những khó khăn, khuyết điểm cần ra
sức phấn đấu để khắc phục, về những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới,
về những phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của thời gian 1981 - 1985 những năm 80, cùng những
chủ trương và biện pháp nhằm đưa sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân nhân dân ta tiếp tục
tiến lên.
2. Đánh giá cao những hoạt động đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV), do đồng chí
Tổng thư Duẩn đứng đầu, trong việc lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện đường
lối đối nội, đối ngoại theo Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng.
3. Giao cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V tổ chức thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đề ra
trong Báo cáo chính trị đã được Đại hội thông qua.
4. Kêu gọi toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta đoàn kết một lòng, tiếp tục phát huy truyền thống yêu
nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, ra sức phấn đấu khắc
phục khó khăn, khuyết điểm, khai thác tốt nhất mọi khả năng, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu sự
hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào, Campuchia, với các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; tăng cường
đoàn kết với nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới; dấy lên phong trào cách mạng, phong trào thi đua xã hội
chủ nghĩa sôi nổi trong cả nước, quyết tâm hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, tích cực đóng góp vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
7.2. Báo cáo Về công tác xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV
Sau khi thảo luận Báo cáo về xây dựng Đảng và những đề nghị bổ sung một số điểm trong Điều lệ Đảng
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương trình bày, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng Cộng sản Việt Nam quyết nghị:
1. Tán thành và nhất trí thông qua "Báo cáo về xây dựng Đảng" của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; về
đánh giá tình hình của Đảng, những tiến bộ đã đạt được những khuyết điểm trong công tác xây dựng
Đảng trong mấy năm qua, về những nhiệm vụ, chủ trương tăng cường xây dựng Đảng về chính trị,
tưởng và tổ chức nhằm nâng cao tính chất giai cấp công nhân tính tiên phong của Đảng trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao không ngừng sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, tăng cường
đoàn kết nhất trí và phát huy truyền thống cách mạng tốt đẹp của Đảng, bảo đảm hoàn thành những nhiệm
vụ cách mạng do Đại hội đề ra.
2. Tán thành và nhất trí thông qua những đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về bổ sung một số
điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng.
3. Các tổ chức của Đảng mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện những nhiệm vụ chủ trương đề ra
trong Báo cáo về xây dựng Đảng, thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng, phấn đấu rèn luyện về mọi
mặt để thực sự xứng đáng là "người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", như lời căn
dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
7.3. Phương hướng, nhiệm vụnhững mục tiêu chủ yếu về kinh tế và hội trong 5 năm (1981 -
1985) và những năm 80.
Báo cáo chính trị đã trình bày những chủ trương tính nguyên tắc, chỉ đạo việc xây dựng chiến lược
kinh tế hội cho chặng đường những năm 80 của quá trình công nghiệp hoá hội chủ nghĩa nước
nhà, nêu lên những nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội trong 5 năm (1981 - 1985). Những chủ trương chiến
lược đó sự vận dụng đường lối cách mạng hội chủ nghĩa đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa của Đảng phù hợp với điều kiện cụ thể của chặng đường hiện nay.
Báo cáo nêu lên những mục tiêu tổng quát về kinh tế hội trong những năm 80 như sau:
1. Đáp ứng những nhu cầu cấp bách thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước hết giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp
ứng tốt hơn những nhu cầu về mặc, về học hành, chữa bệnh, về ở, đi lại, về chăm sóc trẻ em các nhu
cầu tiêu dùng thiết yếu khác.
2. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác, và
chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo.
3. Hoàn thành công cuộc cải tạo hội chủ nghĩa các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản
xuất hội chủ nghĩa miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa trong cả nước.
4. Đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh, trật
tự.
Từ các mục tiêu tổng quát ấy, phải cụ thể hoá thành những mục tiêu bộ phận, những mức phấn đấu định
lượng cho từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở. Việc này gắn liền với việc kiểm kê, tính toán để phát
huy khả năng, cân đối giữa yêu cầu và khả năng, thông qua việc lập các phương án kinh tế - kỹ thuật, xác
định các biện pháp thực hiện về chính sách, tư tưởng, tổ chức. Đó chính là quá trình xây dựng chiến lược
kinh tế, xã hội, xây dựng kế hoạch nhà nước và đổi mới cơ chế quản lý.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, thời gian thực tế còn lại cho kế hoạch 5 năm (1981 - 1985) chỉ
hơn ba năm. vậy, mức độ về mục tiêu, chủ trương biện pháp cần rất thiết thực vững chắc.
Về đời sống, phải bảo đảm được nhu cầu ăn củahội với mức cố gắng cung ứng ổn định lương thực,
thực phẩm, chất đốt theo định lượng cho công nhân, cán bộ, bộ đội, nhất các thành phố, khu công
nghiệp, biên giới hải đảo. Giải quyết vải mặc cho toàn dânmức cần thiếthợp với khả năng. Bảo
đảm giấy viết, giấy in sách giáo khoa, giấy in báo một phần thích đáng giấy in các loại sách khác.
Khẩn trương giải quyết tình trạng thiếu thuốc, trước hết những loại thuốc chữa bệnh thiết yếu. Cung
ứng khá hơn các đồ dùng gia đình và đồ dùng cá nhân thông thường. Tăng thêm phương tiện đi lại. Giảm
bớt khó khăn về thiếu nhà ở, tăng thêm nước sinh hoạt, cung ứng điện hợp lý và bảo đảm vệ sinh các khu
dân cư. Trong khi chăm lo đời sống của nhân dân nói chung, phải coi những người trực tiếp sản xuất, đặc
biệt là công nhân, cùng với cán bộ, bộ đội là đối tượng cần được chú ý trước hết. Đi đôi với việc phấn đấu
ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất, phải hết sức coi trọng tổ chức tốt đời sống văn hoá trong
từng nghiệp hợp tác xã, tại các xã, phường, trên các địa bàn huyện, quận tỉnh, thành phố. Phát
huy các nhân tố tích cực, kiên quyết chặn đứngđẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế
hội, xây dựng trật tự hội chủ nghĩa, nếp làm ăn chân chính, những quan hệ hội tốt đẹp, lối
sống lành mạnh, tươi vui.
Về xây dựng sở vật chất - kỹ thuật, phải rất coi trọng phát triển chiều sâu, tức cải tạo, bổ sung
nâng cao, nhằm khai thác tốt những năng lực sản xuất sẵn có; đồng thời tiếp tục phát triển chiều rộng, xây
dựng mới một cách trọng điểm, vừa tăng cường những sở vật chất - kỹ thuật thể sử dụng ngay
trong kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), vừa tích cực chuẩn bị cho việc xây dựng với quy mô lớn hơn và tốc
độ nhanh hơn trong những kế hoạch sau. Tăng cường sở vật chất - kỹ thuật theo chiều sâu cũng như
theo chiều rộng đều phải tập trung vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tăng năng lực sản xuất hàng
tiêu dùng, hàng xuất khẩu, tạo thêm nguồn năng lượng và nguyên liệu, vật liệu, phát triển kết cấu hạ tầng,
chủ yếu năng lực giao thông vận tải, đồng thời bảo đảm trang bị đủ các loại công cụ thường, công cụ
cải tiến, tăng thêm một số thiết bị, máy móc vừa nhỏ cho các hoạt động kinh tế, trước nhất nhằm
thúc đẩy các ngành trọng điểm.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành rất kiên quyết cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, theo bước
đi hình thức thích hợp. Bất cứ sự do dự chậm trễ nào, bất cứ hành động nào làm suy yếu quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng là buông lỏng đấu tranh giữa hai con đường, mang lại hậu quả nguy hiểm
về kinh tế và xã hội. Phải xác lập và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho tình hình kinh tế
được ổn định và phát triển trên cơ sở lành mạnh và đúng hướng. Chúng ta chủ trương sử dụng một cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế hội chủ nghĩa chủ đạo; điều đó nghĩa phải đẩy
mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách đúng đắn. Trong 5 năm (1981-1985), phải kiên quyết điều chỉnh
lại ruộng đất bản hoàn thành việc đưa nông dân các tỉnh Nam Bộ vào con đường làm ăn tập thể
bằng hình thức tập đoàn sản xuất là chủ yếu, tiếp tục tổ chứccủng cố vững chắc các hợp tác xã nông
nghiệp ở miền Trung; đẩy mạnh cải tạo đối với thương nghiệp, vận tải, ngư nghiệp và công nghiệp ở miền
Nam; ráo riết sắp xếp lại và quản lý thị trường trong cả nước; hoàn thiện thêm một bước quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa.
Về quốc phòng an ninh, phải cố gắng đến mức cao nhất làm tốt công cuộc phòng thủ đất nước và giữ
vững an ninh của Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, có kế hoạch
chủ động để khi cần thiết chuyển được nhanh chóng nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến. Đáp ứng tốt
những nhu cầu kinh tế của công cuộc củng cố quốc phòng, mặt khác, tổ chức cho các đơn vị bộ đội
điều kiện tiến hành sản xuất để tự cung ứng một phần nhu cầu, huy động năng lực các nghiệp quốc
phòng và sử dụng hợp lý lực lượng quân đội vào những hoạt động kinh tế thích hợp. Xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, toàn diện hiện đại. Xây dựng quân đội ý chí quyết thắng, kỷ luật chặt chẽ,
trình độ chính quy, hiện đại ngày càng cao, có trình độ sẵn sàng chiến đấu không ngừng hoàn thiện. Xây
dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Kết hợp chặt chẽ lực lượng công
an, quân đội với phong trào quần chúng để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn hội, chặn đứng
và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực.
Để thực hiện các mục tiêu nói trên, chúng ta phải vận dụng đúng đắn đường lối cách mạng hội chủ
nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV đề ra và các chính sách lớn trong
chặng đường những năm 80, mà Báo cáo chính trị trước Đại hội V đã vạch rõ.
3. Tổng kết
a. Kết quả
Đại hội V đã thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hoá hội, tăng cường nhà nước hội chủ
nghĩa, chính sách đối ngoại; tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng
và khoa học, thực sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
Đại hội V cũng đã những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Kế hoạch 5 năm 1981-1985 do Đại hội đề ra đã đạt được nhiều
thành tựu nhưng chủ yếu . Khoa học thuật được triển khai, bắt đầu khai thác trong nông nghiệp dầu
mỏ và xây dựng nhiều công trình thủy điện như Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Trị An.
b. Hạn chế, khó khăn
Đại hội vấp phải một số sai lầm, khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan, nóng vội, giáo điều, bảo thủ
trì trệ; sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản khi đưa ạt nông dân kinh tế miền Nam, Tây
Nguyên vào làm ăn tập thể, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong quản lý của Đảng và Nhà nước
Trong lĩnh vực tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức luận vận dụng các quy luật đang hoạt
động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hoá, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục
tiêu của chủ nghĩa hội trong điều kiện nước ta mới chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã những
thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang
tồn tại khách quan; do đó, không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh
tế. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mìnhnghiên cứu kinh nghiệm của các
nước anh em.
Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn nhấtsự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn,
bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo một số quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn
không đúng đắn, mang nặng tính hình thức, không xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và yêu cầu
của công việc; cách làm lại thiếu quy hoạch, chưa chú ý lắng nghe ý kiến của quần chúng. Công tác giáo
dục và quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ.
Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói không đi đôi với việc làm,
không tuân thủ quy trình làm việc và ra quyết định. Việc chỉ đạo, điều hành thường không tập trung, thiếu
kiên quyết nhất quán. Trong các đảng bộcác cấp uỷ sự vi phạm nguyên tắc Lêninnít trong sinh
hoạt đảng, trước hết nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, nhân phụ trách, thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương.
Về mặt tổ chức, đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng các đoàn thể phình ra quá lớn, chồng
chéo và phân tán.
Kinh tế Việt Nam mất cân đối lớn, kinh tế quốc doanh tập thể luôn thua lnặng, không phát huy tác
dụng. Kinh tế tư nhân thể vẫn bị ngăn cấm triệt để. Sản xuất chậm phát triển, thu nhập quốc dân,
năng suất thấp, đời sống nhân dân khó khăn, nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.xã hội
c. Nguyên nhân
Những sai lầm và khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng trước hết thuộc về trách nhiệm của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban thư, Hội đồng Bộ trưởng. Cần nhấn mạnh rằng, việc chậm
bố trí đúng sự chuyển tiếp hạt nhân lãnh đạo là một nguyên nhân trực tiếp làm cho sự lãnh đạo của Đảng
trong những năm gần đây không đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới.
Về mặt kinh tế, nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế- hội do chúng ta
xây dựng đất nước từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều
năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn
thì chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới. Về chủ quando những
sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế;
sai lầm trong cải tạo hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; duy trì quá lâu chế tập
trung, quan liêu bao cấp; buông lỏng chuyên chính sản trong quản lý kinh tế, quảnhội và trong
đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.
d. Ý nghĩa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình tập hợp ý kiến của toàn Đảng
để đề ra nhiệm vụ, phương hướng... nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt, nóng bỏng đang đặt ra của
cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một sự chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường
đấu tranh “tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
| 1/13

Preview text:

Đại hội IV
1. Bối cảnh đại hội
Đại hội diễn ra trong bối cảnh trong nước có 3 đặc điểm lớn:
Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ 1 xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi
rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu
tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt.
2. Nội dung cơ bản của đại hội 1.
Thời gian, địa điểm tổ chức
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976, tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại
biểu, thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trên cả nước, có 29 đoàn đại biểu của các Đảng và tổ chức quốc tế tham dự. 2. Bầu tổng Bí thư
Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch 5 năm
(1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều luật Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 ủy
viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư của Đảng. 3. Chủ đề
Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Đại hội IV là
Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc; là đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con đường xã hội
chủ nghĩa.( Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, cả nước tiến lên xây dựng CNXH.) 4.
Mục tiêu tổng quát
Xây dựng một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế
mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp. Mục tiêu cụ thể:
-Bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới .Đồng thời, phải bước đầu hình thành một cơ cấu kinh tế phù
hợp với đường lối của Đảng, quán triệt nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa, cho phép giải quyết tốt các mối quan hệ lớn của nền kinh tế quốc dân, như đã được nêu rõ
trong đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động (đặc biệt chú trọng nhân dân các
vùng bị chiến tranh tàn phá nặng nề) Đi đôi với việc chăm lo đời sống vật chất, phải chú trọng cải thiện
đời sống văn hoá của nhân dân, tạo ra cuộc sống mới, với những quan hệ xã hội tốt đẹp, là nguồn phấn
khởi và niềm vui của người lao động. 5.
Phương hướng chiến lược
Kế hoạch 5 năm 1976-1980 phải là một kế hoạch thật tốt. Muốn vậy, kế hoạch 5 năm 1976-1980 phải có
sự bố trí chiến lược đúng, phát huy các lực lượng sản xuất bao gồm lực lượng lao động và phương tiện
sản xuất, khai thác các tiềm năng, khơi động lực lượng của quần chúng, một sự bố trí chiến lược hợp cho
5 năm này và thuận với hướng tiến lên lâu dài. Đồng thời phải có tổ chức và biện pháp thực hiện có hiệu
lực mạnh mẽ, rút được kết luận từ ưu điểm và khuyết điểm trong thời gian vừa qua, đáp ứng những yêu
cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân và của đời sống nhân dân. 6.
Quan điểm chỉ đạo
6.1, Quan điểm chỉ đạo trong phát triển kinh tế
Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa
nền kinh tế nước ta đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp;
vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế
địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác
lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công,
hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa,
đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền và các bên
cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công – nông nghiệp
hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc”.
Báo cáo đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá (1976-1980) nhằm
2 mục tiêu vừa cơ bản vừa cấp bách là đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, phải ra sức thực hiện các nhiệm vụ: phát triển vượt
bậc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết một cách vững chắc nhu cầu của cả nước về
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông dụng, xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp
nặng, đặc biệt là cơ khí, mở mang giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, đẩy mạnh khoa học kỹ thuật; sử
dụng hết lực lượng lao động; hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cải tiến mạnh mẽ công tác thương nghiệp, giá cả, tài chính, ngân
hàng; tăng nhanh nguồn xuất khẩu; phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, cải cách giáo dục, đào tạo cán bộ,
thanh toán hậu quả của chủ nghĩa thực dân mới; xây dựng một hệ thống mới về quản lý kinh tế trong cả nước.
6.2, Quan điểm chỉ đạo trong lĩnh vực chính trị
Báo cáo chính trị của Đại hội nêu rõ trong những năm qua nhân dân ta đã phải đương đầu với cuộc chiến
tranh xâm lược lớn nhất và ác liệt nhất của đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, đã
chiến đấu anh dũng và thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống
Mỹ cứu nước mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử
thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX. Đối với đế quốc Mỹ, đây là thất bại lớn nhất trong lịch
sử nước Mỹ. Nếu thắng lợi của cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp mở đầu sự
sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng minh sự phá sản
hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân mới là không tránh khỏi.
- Thắng lợi đó là kết quả tổng hợp của một loạt các nhân tố tạo nên. Đó là sự lãnh đạo của Đảng ta với
đường lối, phương pháp cách mạng và chiến tranh cách mạng đúng đắn và sáng tạo; cuộc chiến đấu đầy
khó khăn gian khổ, bền bỉ và thông minh của nhân dân, quân đội cả nước, đặc biệt là của các đảng bộ, của
cán bộ, chiến sĩ công tác và chiến đấu ở chiến trường miền Nam, của hàng triệu đồng bào yêu nước khắp
mọi miền Tổ quốc; sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, của đồng bào miền Bắc vừa xây
dựng vừa chiến đấu để bảo vệ căn cứ địa chung của cách mạng cả nước, vừa huy động ngày càng nhiều
sức người, sức của cho cuộc chiến đấu trên chiến trường miền Nam; sự đoàn kết liên minh chiến đấu của
nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia; sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, của giai cấp công nhân
và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Đặc biệt là sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc. Thắng
lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đã để lại cho nhân dân ta nhiều bài học kinh nghiệm lớn.
1. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp với sức mạnh chiến đấu của tiền
tuyến lớn với tiềm lực của hậu phương lớn, động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân, toàn
quân vào cuộc chiến đấu cứu nước.
2. Nắm vững và vận dụng đúng đắn chiến lược tiến công, đẩy lùi địch từng bước. Không ngừng củng cố
trận địa cách mạng, tạo thế và lực hơn hẳn địch để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
3. Ra sức xây dựng và tổ chức lực lượng chiến đấu trong cả nước, đặc biệt hết sức coi trọng xây dựng và
phát triển lực lượng cách mạng ở miền Nam; tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.
4. Tạo ra một phương pháp cách mạng đúng, sử dụng bạo lực cách mạng gồm lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang, khởi nghĩa từng phần ở nông thôn phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu
tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng;
đánh địch trên ba vùng chiến lược, kết hợp ba thứ quân, phát triển và kết hợp chiến tranh du kích với
chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn; nắm vững phương châm chiến lược đánh
lâu dài với tạo thời cơ nhằm mở ra những cuộc tiến công chiến lược tiến lên thực hiện tổng công kích và
nổi dậy để đè bẹp quân thù giành thắng lợi cuối cùng.
Phân tích tình hình mọi mặt của đất nước, báo cáo đã nêu lên ba đặc điểm lớn:
1. Nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
2. Cả nước hòa bình, độc lập và thống nhất đang tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi, song cũng
còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
3. Hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cách mạng và phản cách mạng còn rất gay go và phức tạp.
Những đặc điểm đó tác động mạnh mẽ đến quá trình biến đổi cách mạng ở nước ta.
6.3, Về lĩnh vực văn hóa xã hội
Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu.
-Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng nền văn hoá mới và con người mới
xã hội chủ nghĩa; tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của
Đảng; đấu tranh chống tư tưởng và văn hóa phản động, lạc hậu của các giai cấp bóc lột. Trước mắt, cần
phổ biến sâu rộng các nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng; tiến hành cải cách giáo dục, phát triển
văn học, nghệ thuật; giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chống tư tưởng tư sản và tàn dư tư tưởng phong
kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và văn hoá thực dân mới ở miền
Nam. Trong công tác văn hoá, phải luôn luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phải nhằm phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; kế thừa có chọn lọc, có phê phán
và có sáng tạo những giá trị tinh thần và văn hoá của dân tộc cũng như của nền văn minh loài người; kết
hợp xây dựng với cải tạo, áp dụng phương pháp phê bình và tự phê bình
-Kế hoạch về xã hội là: Cải thiện một bước đời sống của nhân dân (đặc biệt chú trọng nhân dân các vùng
bị chiến tranh tàn phá nặng nề) là nhằm trước hết những nhu cầu thông thường về ăn, mặc, ở, đồ dùng
hàng ngày, về học tập, bảo vệ sức khoẻ..., thực hiện phân phối công bằng, hợp lý, thuận tiện cho nhân
dân, chú trọng những tầng lớp nhân dân lao động hiện đang làm những việc khó khăn, nặng nhọc, đòi hỏi
kỹ thuật cao, sản xuất nhiều sản phẩm quý, xây dựng những công trình quan trọng. Đi đôi với việc chăm
lo đời sống vật chất, phải chú trọng cải thiện đời sống văn hoá của nhân dân, tạo ra cuộc sống mới, với
những quan hệ xã hội tốt đẹp, là nguồn phấn khởi và niềm vui của người lao động. Theo đó, những nhiệm
vụ cơ bản về xã hội của kế hoạch 5 năm là:
1. Hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc; cải tiến mạnh mẽ công tác thương nghiệp, giá cả, tài chính, ngân hàng.
2. Tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, trước hết là sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; mở rộng
quan hệ kinh tế với nước ngoài.
3. Ra sức phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế, tiến hành cải cách giáo dục, đẩy mạnh đào tạo cán
bộ và công nhân; thanh toán hậu quả của chiến tranh và chủ nghĩa thực dân mới về mặt xã hội.
Trên cơ sở phát triển sản xuất và tăng năng suất lao động, cần cải tiến chế độ tiền lương và tăng lương cho
công nhân, viên chức nhằm thực hiện đầy đủ hơn nữa nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa theo số
lượng và chất lượng lao động. Đồng thời, chú trọng tăng các quỹ phúc lợi xã hội.
6.4, Lĩnh vực Đối ngoại
Đại hội để ra đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại nhằm tranh thủ điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh
nhịp độ xây dựng đất nước. Thiết lập và không ngừng mở rộng quan hệ bình thường với tất cả các nước
trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền lãnh thổ, tôn trọng lợi ích quốc gia. giữ vững hòa bình độc lập và phát triển.
Về đối ngoại, Báo cáo Chính trị nêu rõ trong giai đoạn mới, chúng ta cần ra sức tranh thủ những điều kiện
quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế,
phát triển văn hoá, khoa học kỹ thuật, củng cố quốc phòng, cùng các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc
trên thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa đế
quốc. Trong quá trình làm việc, Đại hội đã tập trung phân tích đánh giá tình hình thế giới và khẳng định
mạnh mẽ chính sách đối ngoại nhất quán của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới là tăng cường tình
đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, làm hết sức mình để góp phần
làm cho lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa Mác-Lênin ngày càng thắng lợi rực rỡ. Ra sức bảo vệ và phát
triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân ta với nhân dân Lào và Campuchia. Ủng hộ sự nghiệp đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân các nước vì độc lập dân tộc, dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội. Thiết lập và
mở rộng quan hệ bình thường giữa nước ta với tất cả các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ
quyền, bình đẳng cùng có lợi. Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi hàn gắn vết thương
chiến tranh, phát triển đất nước về mọi mặt.
6.5, Về lĩnh vực Quốc phòng, an ninh
-Không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã
hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội. Nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống
chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh của chúng ta
có lực lượng thường trực mạnh và lực lượng hậu bị rộng rãi được huấn luyện tốt; có quân đội nhân dân
chính quy, hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết; có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, có
lực lượng dân quân du kích và dân quân tự vệ hùng hậu. Chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc trên thế giới
thì chúng ta còn phải chú ý đầy đủ hiện đại hoá lực lượng quốc phòng và khả năng phòng thủ của đất nước.
-Kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội
chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với
các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ thuật
tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc. 7.
Nghị quyết, chỉ thị chủ yếu của Đảng
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban Chấp hành Trung ương đã họp nhiều lần, tập trung chủ
yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối lưu thông.
Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng với chủ trương
khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những
rào cản để cho “sản xuất bung ra”. Theo đó, Hội đồng Chính phủ ra quyết định (10-1979) về việc tận
dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục hoá được miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ
sản phẩm; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra
trao đổi ngoài thị trường.
Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương, sau khi tổ chức thí
điểm, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao
động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo Chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự
mình làm các khâu, cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu
hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán. Chủ trương đó được nông dân cả nước ủng hộ,
nhanh chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng. Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu
tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng
phí trong sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể.
Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương ở Thành phố Hồ Chí Minh
và tỉnh Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-1981) về quyền chủ động sản xuất kinh
doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết định số 26-CP về việc mở
rộng hình thức trả lương khoán, lượng sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản
xuất kinh doanh của Nhà nước. Những chủ trương trên đã tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy sản
xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
Tháng 9-1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ đạo thảo luận Dự thảo Hiến pháp mới của nước
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyết định những biện pháp bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh
Hiến pháp sau khi được Quốc hội thông qua
Thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu Kế hoạch nhà nước 5 năm
(1976-1980), hội đã thông qua Nghị quyết đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt
Nam và thông qua Điều lệ mới của Đảng gồm có 11 chương và 59 điều. Điều lệ đã rút gọn 10 nhiệm vụ
của Đảng viên thành 5 nhiệm vụ, đặt lại chức vụ Tổng Bí thư thay chức Bí thư thứ nhất, quy định nhiệm
kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm. 3. Tổng kết A, Kết quả:
Sau 5 năm 1975-1981, quân dân cả nước đã giành được thành tựu thống nhất nước nhà về mặt nhà nước,
chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh biên giới và đã khắc phục một phần hậu quả chiến tranh và thiên
tai liên tiếp gây ra. Các tỉnh phía Nam đã cơ bản việc xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc,
phong kiến. Ở miền Bắc, bước đầu có sự cải tiến đưa nông nghiệp từng bước lên sản xuất lớn với các đội
chuyên, làm khoán. Tuy nhiên, kết quả nhìn chung đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông,
phân phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân dân, cán bộ,
công nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ cuối năm 1979, ở một số địa phương miền Bắc đã
xuất hiện hiện tượng “xé rào”, ”khoán chui”. Ở miền Nam, việc thí điểm hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng túng… B, Nguyên nhân
Những khó khăn trên có nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên tại nặng nề liên tiếp xảy ra,
chiến tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao vây, cô lập của Mỹ và các thế lực thù địch. Tuy nhiên về
chủ quan, do những khuyết điểm, sai lầm của Đảng, Nhà nước về lãnh đạo và quản lý kinh tế, xã hội làm
trầm trọng thêm những khó khăn trên:
Thứ nhất, Chưa nhấn mạnh việc bức thiết phải làm đó là khắc phục hậu quả chiến tranh
Thứ hai, chưa xác định được nội dung chặng đường đầu tiên tiến lên CNXH, nóng vội trong việc cải tạo
và xây dựng CNXH ở một nước vốn là nông nghiệp lạc hậu trải qua mấy chục năm chiến tranh. C, Hạn chế
Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện thời chiến, vừa
là hậu phương, vừa là tiền tuyến, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống chiến tranh phá hoại bằng
không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, vừa làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế.
Trong điều kiện đó, không thể áp dụng đầy đủ các quy luật kinh tế, không thể hạch toán kinh tế mà tất
yếu phải thực hành chính sách bao cấp để đáp ứng yêu cầu “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Chưa phát hiện những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ sau chiến tranh. Việc dự kiến
thời gian hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế của đất nước từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết thúc thời kỳ quá độ; việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp vượt quá khả năng thực tế... là
những chủ trương nóng vội, thực tế đã không thực hiện được. D, Ý nghĩa
Đại hội lần IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Năm năm của nhiệm kỳ cũng
chính là quãng thời gian Đảng và nhân dân ta phải trải qua nhiều thách thức nghiêm trọng, song dưới sự
dẫn dắt của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, giành được nhiều thắng lợi có ý
nghĩa. Đại hội đã cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại hội V
1. Bối cảnh đại hội 1.1. Tình hình Thế giới
Tình hình KT-XH Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu gặp khó khăn, từng bước lâm vào khủng hoảng.
Đường lối cải cách KT-XH ở Trung Quốc (từ năm 1978) bước đầu đạt được kết quả tích cực.
Ở Đông Nam Á, các thế lực phản động quốc tế tăng cường tìm cách can thiệp nhằm chi phối, tạo ảnh
hưởng. Đặc biệt là tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. 1.2. Tình hình trong nước
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V diễn ra trong bối cảnh kinh tế đất nước sau 5 năm Kháng chiến chống
Mỹ đang gặp những trì trệ nghiêm trọng. Mỹ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch
hậu chiến”. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân
tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước
Đông Dương. Bên cạnh đó Việt Nam đang đóng quân ở Campuchia sau Chiến tranh biên giới Tây Nam từ
năm 1979 và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc bị đổ vỡ sau Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979. Trung
Quốc tiến hành hoạt động phá hoại biên giới trên bộ và trên biển thường xuyên. Trong nước, tình trạng
khủng hoảng kinh tế- xã hội ngày càng trầm trọng.
2. Nội dung cơ bản của đại hội
1. Thời gian, địa điểm

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã họp nội bộ từ ngày 15 đến 24-3-1982 và họp công khai
từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt hơn 1,7
triệu đảng viên hoạt động trong cả nước. Trong số đại biểu đó có 14 đảng viên đã từng tham gia các tổ
chức tiền thân của Đảng; hơn 40% đại biểu là những đảng viên hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế; 102
đại biểu hoạt động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp; 118 đại biểu đại diện của 27 tộc người trên các
tuyến đầu ở vùng biên giới phía bắc và tây nam; 79 đại biểu là anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ
trang, chiến sĩ thi đua; 1/3 đại biểu có trình độ đại học và trên đại học, 26 tiến sĩ và phó tiến sĩ, 14 giáo sư,
phó giáo sư và nhiều đại biểu là cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật... Đến dự Đại hội
còn có 47 đoàn đại biểu của các Đảng và tổ chức quốc tế.
2. Bầu Tổng bí thư
Đại hội đã thông qua các văn kiện quan trọng và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 ủy viên
chính thức, Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. 3. Chủ đề
Xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN
4. Mục tiêu tổng quát
Chặng đường trước mắt bao gồm những năm trong thập niên 1980. Những mục tiêu kinh tế và xã hội tổng
quát cho những năm đó là:
- Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước hết giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp
ứng tốt hơn những nhu cầu về mặc, về học hành, chữa bệnh, về ở, đi lại, về chăm sóc trẻ em và các nhu
cầu tiêu dùng thiết yếu khác.
- Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác, và
chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.
- Đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh, trật tự.
Báo cáo chính trị xác định: “Mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt khó khăn thử thách ổn định và phát
triển kinh tế, xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản
thoát khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”
5. Phương hướng chiến lược
Điều có ý nghĩa cấp bách và có tầm quan trọng đặc biệt là phải khẩn trương làm tốt việc sắp xếp lại kinh
tế theo những phương hướng sau đây: Phải chỉnh đốn và cải tiến cơ cấu sản xuất, xây dựng, lao động,
phân phối, lưu thông và tiêu dùng, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu cấp bách, hợp với khả năng thực tế trong
những năm trước mắt, nhất là khả năng về năng lượng, nguyên liệu, giao thông vận tải, đồng thời hợp với
hướng tiến lên lâu dài, làm cho nền kinh tế phát triển ổn định, đúng hướng và đạt hiệu quả ngày càng cao.
- Sắp xếp lại các cơ sở sản xuất: ưu tiên dành các điều kiện vật chất cho việc đẩy mạnh sản xuất những
sản phẩm phục vụ đời sống, xuất khẩu và củng cố quốc phòng.
- Bố trí lại xây dựng cơ bản: soát xét cơ cấu đầu tư, quy mô và tiến độ xây dựng cơ bản, khắc phục tình
trạng đầu tư phân tán, dàn đều, không đồng bộ và kém hiệu quả kinh tế.
- Bố trí lại lao động: mở rộng phân công và phân bố lại lao động trong từng cơ sở, từng địa phương, từng
ngành và trên địa bàn cả nước, giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, nhằm tận dụng mọi khả năng
đất đai, rừng, biển và các cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có.
- Sắp xếp lại phân phối, lưu thông: thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa trên mặt trận rất phức tạp này, khẩn
trương tổ chức và mở rộng thị trường xã hội chủ nghĩa, hạn chế và quản lý chặt thị trường không có tổ chức.
- Sắp xếp lại tiêu dùng xã hội: hết sức tiết kiệm về đầu tư và sản xuất, về sự nghiệp văn hoá và xã hội, về
chi phí quốc phòng và hành chính, thể hiện chủ trương tiết kiệm thành những chỉ tiêu cụ thể hằng năm
phải phấn đấu đạt cho bằng được.
6. Quan điểm chỉ đạo
6.1. Trong phát triển kinh tế
Giải quyết các vấn đề cấp bách để ổn định và cải thiện một bước của đời sống nhân dân
Phát triển và sắp xếp lại sản xuất, tiếp tục việc thực hiện phân công và phân bố lại lao động xã hội
Bố trí lại, xây dựng cơ bản cho phù hợp với khả năng và theo hướng tạo thêm điều kiện để phát
huy các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có nhằm vào các mục tiêu cấp bách nhất về kinh tế xã hội
Cải tiến công tác phân phối lưu thông, thiết lập một bước trật tự mới trên mặt trận này
Củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước về các mặt chế độ quản lý, sở hữu và phân phối
Làm tốt hợp tác kinh tế với Liên Xô, Lào, Campuchia và các nước trong hội đồng tương trợ kinh tế
Thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt, đặc biệt coi trọng tiết kiệm trong xây dựng cơ bản và sản xuất
Ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống 6.2. Trong chính trị
Đảm bảo thấu suốt đường lối nâng cao năng lực lãnh đạo và tổ chức mọi mặt về kinh tế xã hội,
quốc phòng an ninh của đất nước, nhất là về kinh tế
Cải tiến sự lãnh đạo của Đảng gắn với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và việc tinh giản bộ
máy của Đảng và Nhà nước
Củng cố cơ sở Đảng, kiên quyết đưa những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất và những người
không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng
Tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí đúng và đảm bảo tính kế thừa trong việc xây dựng đội
ngũ cốt cán, đảm bảo sự vững vàng của Đảng trong mọi tình thế
Giữ gìn, phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng, thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập
trung dân chủ, tiến hành phê bình và tự phê bình thường xuyên trong sinh hoạt Đảng 6.3. Trong văn hóa xã hội
Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, y tế phù hợp với khả năng kinh tế. thực hiện cải cách giáo dục
một cách thích hợp và vững chắc. xác định quy hoạch hợp lý và tiếp tục đào tạo cán bộ khoa học
kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề
Tăng cường quản lý xã hội, kiên quyết đấu tranh chống các hành vi phạm pháp,tệ nạn xã hội và
các biểu hiện tiêu cực khác, đề cao kỷ cương trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, giữ vững
trật tự và an toàn xã hội
6.4. Trong quốc phòng an ninh
Cố gắng đến mức cao nhất làm tốt công cuộc phòng thủ đất nước và giữ vững an ninh của Tổ quốc. Kết
hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, có kế hoạch chủ động để khi cần thiết
chuyển được nhanh chóng nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến. Đáp ứng tốt những nhu cầu kinh tế
của công cuộc củng cố quốc phòng, mặt khác, tổ chức cho các đơn vị bộ đội có điều kiện tiến hành sản
xuất để tự cung ứng một phần nhu cầu, huy động năng lực các xí nghiệp quốc phòng và sử dụng hợp lý
lực lượng quân đội vào những hoạt động kinh tế thích hợp. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện
và hiện đại. Xây dựng quân đội có ý chí quyết thắng, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ chính quy, hiện đại
ngày càng cao, có trình độ sẵn sàng chiến đấu không ngừng hoàn thiện. Xây dựng lực lượng công an nhân
dân trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Kết hợp chặt chẽ lực lượng công an, quân đội với phong trào
quần chúng để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, chặn đứng và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực.
7. Nghị quyết, chỉ thị chủ yếu của Đảng
7.1.Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV
Sau khi thảo luận Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Tổng Bí thư Lê
Duẩn trình bày, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam quyết nghị:
1. Tán thành và nhất trí thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đánh giá
những thắng lợi và thành tựu mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã giành được trong 5 năm qua trên
các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, đối ngoại, về nhận định những khó khăn, khuyết điểm cần ra
sức phấn đấu để khắc phục, về những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới,
về những phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của thời gian 1981 - 1985 và những năm 80, cùng những
chủ trương và biện pháp nhằm đưa sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân ta tiếp tục tiến lên.
2. Đánh giá cao những hoạt động đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV), do đồng chí
Tổng Bí thư Lê Duẩn đứng đầu, trong việc lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện đường
lối đối nội, đối ngoại theo Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng.
3. Giao cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V tổ chức thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đề ra
trong Báo cáo chính trị đã được Đại hội thông qua.
4. Kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, tiếp tục phát huy truyền thống yêu
nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, ra sức phấn đấu khắc
phục khó khăn, khuyết điểm, khai thác tốt nhất mọi khả năng, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và sự
hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào, Campuchia, với các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; tăng cường
đoàn kết với nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới; dấy lên phong trào cách mạng, phong trào thi đua xã hội
chủ nghĩa sôi nổi trong cả nước, quyết tâm hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, tích cực đóng góp vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
7.2. Báo cáo Về công tác xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV
Sau khi thảo luận Báo cáo về xây dựng Đảng và những đề nghị bổ sung một số điểm trong Điều lệ Đảng
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương trình bày, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng Cộng sản Việt Nam quyết nghị:
1. Tán thành và nhất trí thông qua "Báo cáo về xây dựng Đảng" của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; về
đánh giá tình hình của Đảng, những tiến bộ đã đạt được và những khuyết điểm trong công tác xây dựng
Đảng trong mấy năm qua, về những nhiệm vụ, chủ trương tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng và tổ chức nhằm nâng cao tính chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao không ngừng sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, tăng cường
đoàn kết nhất trí và phát huy truyền thống cách mạng tốt đẹp của Đảng, bảo đảm hoàn thành những nhiệm
vụ cách mạng do Đại hội đề ra.
2. Tán thành và nhất trí thông qua những đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về bổ sung một số
điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng.
3. Các tổ chức của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện những nhiệm vụ và chủ trương đề ra
trong Báo cáo về xây dựng Đảng, thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng, phấn đấu rèn luyện về mọi
mặt để thực sự xứng đáng là "người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", như lời căn
dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
7.3. Phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80.
Báo cáo chính trị đã trình bày những chủ trương có tính nguyên tắc, chỉ đạo việc xây dựng chiến lược
kinh tế và xã hội cho chặng đường những năm 80 của quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước
nhà, nêu lên những nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội trong 5 năm (1981 - 1985). Những chủ trương chiến
lược đó là sự vận dụng đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa của Đảng phù hợp với điều kiện cụ thể của chặng đường hiện nay.
Báo cáo nêu lên những mục tiêu tổng quát về kinh tế và xã hội trong những năm 80 như sau:
1. Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước hết giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp
ứng tốt hơn những nhu cầu về mặc, về học hành, chữa bệnh, về ở, đi lại, về chăm sóc trẻ em và các nhu
cầu tiêu dùng thiết yếu khác.
2. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác, và
chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo.
3. Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.
4. Đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh, trật tự.
Từ các mục tiêu tổng quát ấy, phải cụ thể hoá thành những mục tiêu bộ phận, những mức phấn đấu định
lượng cho từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở. Việc này gắn liền với việc kiểm kê, tính toán để phát
huy khả năng, cân đối giữa yêu cầu và khả năng, thông qua việc lập các phương án kinh tế - kỹ thuật, xác
định các biện pháp thực hiện về chính sách, tư tưởng, tổ chức. Đó chính là quá trình xây dựng chiến lược
kinh tế, xã hội, xây dựng kế hoạch nhà nước và đổi mới cơ chế quản lý.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, thời gian thực tế còn lại cho kế hoạch 5 năm (1981 - 1985) chỉ
là hơn ba năm. Vì vậy, mức độ về mục tiêu, chủ trương và biện pháp cần rất thiết thực và vững chắc.
Về đời sống, phải bảo đảm được nhu cầu ăn của xã hội với mức cố gắng cung ứng ổn định lương thực,
thực phẩm, chất đốt theo định lượng cho công nhân, cán bộ, bộ đội, nhất là ở các thành phố, khu công
nghiệp, biên giới và hải đảo. Giải quyết vải mặc cho toàn dân ở mức cần thiết và hợp với khả năng. Bảo
đảm giấy viết, giấy in sách giáo khoa, giấy in báo và một phần thích đáng giấy in các loại sách khác.
Khẩn trương giải quyết tình trạng thiếu thuốc, trước hết là những loại thuốc chữa bệnh thiết yếu. Cung
ứng khá hơn các đồ dùng gia đình và đồ dùng cá nhân thông thường. Tăng thêm phương tiện đi lại. Giảm
bớt khó khăn về thiếu nhà ở, tăng thêm nước sinh hoạt, cung ứng điện hợp lý và bảo đảm vệ sinh các khu
dân cư. Trong khi chăm lo đời sống của nhân dân nói chung, phải coi những người trực tiếp sản xuất, đặc
biệt là công nhân, cùng với cán bộ, bộ đội là đối tượng cần được chú ý trước hết. Đi đôi với việc phấn đấu
ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất, phải hết sức coi trọng tổ chức tốt đời sống văn hoá trong
từng xí nghiệp và hợp tác xã, tại các xã, phường, trên các địa bàn huyện, quận và tỉnh, thành phố. Phát
huy các nhân tố tích cực, kiên quyết chặn đứng và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế
và xã hội, xây dựng trật tự xã hội chủ nghĩa, nếp làm ăn chân chính, những quan hệ xã hội tốt đẹp, lối
sống lành mạnh, tươi vui.
Về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, phải rất coi trọng phát triển chiều sâu, tức là cải tạo, bổ sung và
nâng cao, nhằm khai thác tốt những năng lực sản xuất sẵn có; đồng thời tiếp tục phát triển chiều rộng, xây
dựng mới một cách có trọng điểm, vừa tăng cường những cơ sở vật chất - kỹ thuật có thể sử dụng ngay
trong kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), vừa tích cực chuẩn bị cho việc xây dựng với quy mô lớn hơn và tốc
độ nhanh hơn trong những kế hoạch sau. Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật theo chiều sâu cũng như
theo chiều rộng đều phải tập trung vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tăng năng lực sản xuất hàng
tiêu dùng, hàng xuất khẩu, tạo thêm nguồn năng lượng và nguyên liệu, vật liệu, phát triển kết cấu hạ tầng,
chủ yếu là năng lực giao thông vận tải, đồng thời bảo đảm trang bị đủ các loại công cụ thường, công cụ
cải tiến, và tăng thêm một số thiết bị, máy móc vừa và nhỏ cho các hoạt động kinh tế, trước nhất nhằm
thúc đẩy các ngành trọng điểm.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành rất kiên quyết cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, theo bước
đi và hình thức thích hợp. Bất cứ sự do dự và chậm trễ nào, bất cứ hành động nào làm suy yếu quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng là buông lỏng đấu tranh giữa hai con đường, mang lại hậu quả nguy hiểm
về kinh tế và xã hội. Phải xác lập và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho tình hình kinh tế
được ổn định và phát triển trên cơ sở lành mạnh và đúng hướng. Chúng ta chủ trương sử dụng một cơ cấu
kinh tế có nhiều thành phần, trong đó kinh tế xã hội chủ nghĩa là chủ đạo; điều đó có nghĩa là phải đẩy
mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách đúng đắn. Trong 5 năm (1981-1985), phải kiên quyết điều chỉnh
lại ruộng đất và cơ bản hoàn thành việc đưa nông dân các tỉnh Nam Bộ vào con đường làm ăn tập thể
bằng hình thức tập đoàn sản xuất là chủ yếu, tiếp tục tổ chức và củng cố vững chắc các hợp tác xã nông
nghiệp ở miền Trung; đẩy mạnh cải tạo đối với thương nghiệp, vận tải, ngư nghiệp và công nghiệp ở miền
Nam; ráo riết sắp xếp lại và quản lý thị trường trong cả nước; hoàn thiện thêm một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Về quốc phòng và an ninh, phải cố gắng đến mức cao nhất làm tốt công cuộc phòng thủ đất nước và giữ
vững an ninh của Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, có kế hoạch
chủ động để khi cần thiết chuyển được nhanh chóng nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến. Đáp ứng tốt
những nhu cầu kinh tế của công cuộc củng cố quốc phòng, mặt khác, tổ chức cho các đơn vị bộ đội có
điều kiện tiến hành sản xuất để tự cung ứng một phần nhu cầu, huy động năng lực các xí nghiệp quốc
phòng và sử dụng hợp lý lực lượng quân đội vào những hoạt động kinh tế thích hợp. Xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại. Xây dựng quân đội có ý chí quyết thắng, có kỷ luật chặt chẽ, có
trình độ chính quy, hiện đại ngày càng cao, có trình độ sẵn sàng chiến đấu không ngừng hoàn thiện. Xây
dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Kết hợp chặt chẽ lực lượng công
an, quân đội với phong trào quần chúng để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, chặn đứng
và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực.
Để thực hiện các mục tiêu nói trên, chúng ta phải vận dụng đúng đắn đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV đề ra và các chính sách lớn trong
chặng đường những năm 80, mà Báo cáo chính trị trước Đại hội V đã vạch rõ. 3. Tổng kết a. Kết quả
Đại hội V đã thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hoá và xã hội, tăng cường nhà nước xã hội chủ
nghĩa, chính sách đối ngoại; tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng
và khoa học, thực sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
Đại hội V cũng đã có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Kế hoạch 5 năm 1981-1985 do Đại hội đề ra đã đạt được nhiều
thành tựu nhưng chủ yếu là trong nông nghiệp. Khoa học kĩ thuật được triển khai, bắt đầu khai thác dầu
mỏ và xây dựng nhiều công trình thủy điện như Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Trị An.
b. Hạn chế, khó khăn
Đại hội vấp phải một số sai lầm, khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan, nóng vội, giáo điều, bảo thủ
trì trệ; sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lý kinh tế khi đưa ồ ạt nông dân miền Nam, Tây
Nguyên vào làm ăn tập thể, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong quản lý của Đảng và Nhà nước
Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt
động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hoá, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những
thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang
tồn tại khách quan; do đó, không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh
tế. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước anh em.
Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn,
bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo một số quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn
không đúng đắn, mang nặng tính hình thức, không xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và yêu cầu
của công việc; cách làm lại thiếu quy hoạch, chưa chú ý lắng nghe ý kiến của quần chúng. Công tác giáo
dục và quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ.
Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói không đi đôi với việc làm,
không tuân thủ quy trình làm việc và ra quyết định. Việc chỉ đạo, điều hành thường không tập trung, thiếu
kiên quyết và nhất quán. Trong các đảng bộ và các cấp uỷ có sự vi phạm nguyên tắc Lêninnít trong sinh
hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương.
Về mặt tổ chức, đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng và các đoàn thể phình ra quá lớn, chồng chéo và phân tán.
Kinh tế Việt Nam mất cân đối lớn, kinh tế quốc doanh và tập thể luôn thua lỗ nặng, không phát huy tác
dụng. Kinh tế tư nhân và cá thể vẫn bị ngăn cấm triệt để. Sản xuất chậm phát triển, thu nhập quốc dân,
năng suất thấp, đời sống nhân dân khó khăn, xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. c. Nguyên nhân
Những sai lầm và khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng trước hết thuộc về trách nhiệm của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng. Cần nhấn mạnh rằng, việc chậm
bố trí đúng sự chuyển tiếp hạt nhân lãnh đạo là một nguyên nhân trực tiếp làm cho sự lãnh đạo của Đảng
trong những năm gần đây không đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới.
Về mặt kinh tế, nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội là do chúng ta
xây dựng đất nước từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều
năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn
thì chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới. Về chủ quan là do những
sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế;
sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; duy trì quá lâu cơ chế tập
trung, quan liêu bao cấp; buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong
đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch. d. Ý nghĩa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình tập hợp ý kiến của toàn Đảng
để đề ra nhiệm vụ, phương hướng... nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt, nóng bỏng đang đặt ra của
cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một sự chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường
đấu tranh “tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.