-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và V | Bài tập nhóm môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và V | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45474828
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------- -------- BÀI TẬP NHÓM
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Chủ đề: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và V. Hà Nội, 09-2022 1 lOMoAR cPSD| 45474828
A.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
I. Bối cảnh diễn ra đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV 1. Bối cảnh quốc tế
Từ cuối những năm 1970 trở đi, tình hình KT-XH ở Liên Xô và các nước Đông Âu gặp nhiều
khó khăn, việc duy trì sự ủng hộ, viện trợ vật chất đối với các nước bên ngoài ngày càng hạn
chế. Các nhà lãnh đạo Liên Xô tìm cách thương lượng với Mỹ giảm dần cuộc chạy đua vũ trang.
Giữa thập niên 70, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN, thành lập tháng 8/1967) có
nhiều hoạt động tăng cường thúc đẩy hợp tác giữa các thành viên, tạo sự ảnh hưởng và uy tín trong khu vực.
Lực lượng Khơme Đỏ lên cầm quyền ở Campuchia sau thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ
(tháng 4/1974) phản bội cách mạng, được một số thế lực bên ngoài ủng hộ, thực hiện tàn sát
nhân dân trong nước, thi hành chính sách đối ngoại thù địch chống phá cách mạng Việt Nam.
2. Bối cảnh trong nước
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV diễn ra trong bối cảnh cuộc Kháng chiến chống Mỹ đã
đạt được thắng lợi.
Hai miền Nam Bắc thống nhất sau hơn 20 năm chia cắt từ Hiệp định Geneve 1954 bằng việc
hiệp thương của hai nhà nước tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam từ sau 30 tháng 4 năm 1975 là
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
II. Nội dung cơ bản của đại hội 2 lOMoAR cPSD| 45474828
1. Thời gian, địa điểm tổ chức
Trước hoàn cảnh lịch sử trong nước và thế giới có nhiều thuận lợi đồng thời cũng có nhiều khó
khăn thách thức, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976.
1008 đại biểu thay mặt hơn 1.550.000 đảng viên trong cả nước dự Đại hội. Trong số đại biểu
đó có 214 đại biểu vào Đảng trước Cách mạng tháng Tám 1945, 200 đại biểu đã từng bị đế
quốc giam cầm, 39 đại biểu là anh hùng các lực lượng vũ trang và anh hùng lao động, 142 đại
biểu là nữ, 98 đại biểu đại diện các dân tộc thiểu số… Đến dự Đại hội còn có 29 đoàn đại biểu
các Đảng cộng sản, Đảng công nhân, phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức quốc tế.
2. Chủ đề, mục tiêu
Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế
hoạch 5 năm (1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định đổi tên Đảng
Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều luật Đảng, bầu Ban Chấp
hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn
làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Đại
hội IV là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc; là đại hội tổng kết những bài
học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước
tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.( Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất nước nhà, cả nước tiến lên xây dựng CNXH.) 3 lOMoAR cPSD| 45474828
Xây dựng một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu
kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp. Mục tiêu cụ thể: -
Bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới .Đồng thời, phải bước đầu hình thành một cơ
cấukinh tế phù hợp với đường lối của Đảng, quán triệt nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ
là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, cho phép giải quyết tốt các mối quan hệ lớn của nền kinh
tế quốc dân, như đã được nêu rõ trong đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. -
Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động (đặc biệt chú
trọngnhân dân các vùng bị chiến tranh tàn phá nặng nề) Đi đôi với việc chăm lo đời sống vật
chất, phải chú trọng cải thiện đời sống văn hoá của nhân dân, tạo ra cuộc sống mới, với những
quan hệ xã hội tốt đẹp, là nguồn phấn khởi và niềm vui của người lao động.
3. Phương hướng chiến lược
Kế hoạch 5 năm 1976-1980 phải là một kế hoạch thật tốt. Muốn vậy, kế hoạch 5 năm 19761980
phải có sự bố trí chiến lược đúng, phát huy các lực lượng sản xuất bao gồm lực lượng lao động
và phương tiện sản xuất, khai thác các tiềm năng, khơi động lực lượng của quần chúng, một sự
bố trí chiến lược hợp cho 5 năm này và thuận với hướng tiến lên lâu dài. Đồng thời phải có tổ
chức và biện pháp thực hiện có hiệu lực mạnh mẽ, rút được kết luận từ ưu điểm và khuyết điểm
trong thời gian vừa qua, đáp ứng những yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân và của đời sống nhân dân.
4. Quan điểm chỉ đạo
4.1. Về lĩnh vực phát triển kinh tế
Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, đưa nền kinh tế nước ta đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế
công-nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp
kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết
hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh
tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ
nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh
tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho
nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công – nông nghiệp hiện đại,
văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc”.
Báo cáo đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá
(19761980) nhằm 2 mục tiêu vừa cơ bản vừa cấp bách là đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân
dân, tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, phải ra sức
thực hiện các nhiệm vụ: phát triển vượt bậc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết
một cách vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông 4 lOMoAR cPSD| 45474828
dụng, xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí, mở mang giao
thông vận tải, xây dựng cơ bản, đẩy mạnh khoa học kỹ thuật; sử dụng hết lực lượng lao động;
hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, cải tiến mạnh mẽ công tác thương nghiệp, giá cả, tài chính, ngân hàng; tăng
nhanh nguồn xuất khẩu; phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, cải cách giáo dục, đào tạo cán bộ,
thanh toán hậu quả của chủ nghĩa thực dân mới; xây dựng một hệ thống mới về quản lý kinh tế trong cả nước.
4.2. Về lĩnh vực văn hóa xã hội
Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người
bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu. -
Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng nền văn hoá mới
vàcon người mới xã hội chủ nghĩa; tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin và
đường lối chính sách của Đảng; đấu tranh chống tư tưởng và văn hóa phản động, lạc hậu của
các giai cấp bóc lột. Trước mắt, cần phổ biến sâu rộng các nghị quyết của Đại hội lần thứ IV
của Đảng; tiến hành cải cách giáo dục, phát triển văn học, nghệ thuật; giáo dục tư tưởng xã hội
chủ nghĩa, chống tư tưởng tư sản và tàn dư tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản,
quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và văn hoá thực dân mới ở miền Nam. Trong công tác văn
hoá, phải luôn luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phải nhằm phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân
dân, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; kế thừa có chọn lọc, có phê phán và có
sáng tạo những giá trị tinh thần và văn hoá của dân tộc cũng như của nền văn minh loài người;
kết hợp xây dựng với cải tạo, áp dụng phương pháp phê bình và tự phê bình -
Kế hoạch về xã hội là: Cải thiện một bước đời sống của nhân dân (đặc biệt chú trọng
nhândân các vùng bị chiến tranh tàn phá nặng nề) là nhằm trước hết những nhu cầu thông
thường về ăn, mặc, ở, đồ dùng hàng ngày, về học tập, bảo vệ sức khoẻ..., thực hiện phân phối
công bằng, hợp lý, thuận tiện cho nhân dân, chú trọng những tầng lớp nhân dân lao động hiện
đang làm những việc khó khăn, nặng nhọc, đòi hỏi kỹ thuật cao, sản xuất nhiều sản phẩm quý,
xây dựng những công trình quan trọng. Đi đôi với việc chăm lo đời sống vật chất, phải chú
trọng cải thiện đời sống văn hoá của nhân dân, tạo ra cuộc sống mới, với những quan hệ xã hội
tốt đẹp, là nguồn phấn khởi và niềm vui của người lao động. Theo đó, những nhiệm vụ cơ bản
về xã hội của kế hoạch 5 năm là:
1. Hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan
hệsản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; cải tiến mạnh mẽ công tác thương nghiệp, giá cả, tài chính, ngân hàng.
2. Tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, trước hết là sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ;mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
3. Ra sức phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế, tiến hành cải cách giáo dục, đẩy
mạnhđào tạo cán bộ và công nhân; thanh toán hậu quả của chiến tranh và chủ nghĩa thực dân mới về mặt xã hội.
Trên cơ sở phát triển sản xuất và tăng năng suất lao động, cần cải tiến chế độ tiền lương và tăng
lương cho công nhân, viên chức nhằm thực hiện đầy đủ hơn nữa nguyên tắc phân phối xã hội
chủ nghĩa theo số lượng và chất lượng lao động. Đồng thời, chú trọng tăng các quỹ phúc lợi xã hội. 5 lOMoAR cPSD| 45474828
4.3. Về lĩnh vực chính trị
Báo cáo chính trị của Đại hội nêu rõ trong những năm qua nhân dân ta đã phải đương đầu với
cuộc chiến tranh xâm lược lớn nhất và ác liệt nhất của đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam,
bảo vệ miền Bắc, đã chiến đấu anh dũng và thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi của nhân dân ta trong
sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như một trong
những trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX.
Đối với đế quốc Mỹ, đây là” thất bại lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ”. Nếu thắng lợi của cách
mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân cũ thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng minh sự phá sản hoàn toàn của chủ
nghĩa thực dân mới là không tránh khỏi.
Thắng lợi đó là kết quả tổng hợp của một loạt các nhân tố tạo nên. Đó là sự lãnh đạo của Đảng
ta với đường lối, phương pháp cách mạng và chiến tranh cách mạng đúng đắn và sáng tạo; cuộc
chiến đấu đầy khó khăn gian khổ, bền bỉ và thông minh của nhân dân, quân đội cả nước, đặc
biệt là của các đảng bộ, của cán bộ, chiến sĩ công tác và chiến đấu ở chiến trường miền Nam,
của hàng triệu đồng bào yêu nước khắp mọi miền Tổ quốc; sức mạnh của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, của đồng bào miền Bắc vừa xây dựng vừa chiến đấu để bảo vệ căn cứ địa
chung của cách mạng cả nước, vừa huy động ngày càng nhiều sức người, sức của cho cuộc
chiến đấu trên chiến trường miền Nam; sự đoàn kết liên minh chiến đấu của nhân dân Việt
Nam, Lào, Campuchia; sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, của giai cấp công nhân và
nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Đặc biệt là sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc.
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đã để lại cho nhân dân ta nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
1. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp với sức mạnh chiến
đấucủa tiền tuyến lớn với tiềm lực của hậu phương lớn, động viên đến mức cao nhất lực lượng
của toàn dân, toàn quân vào cuộc chiến đấu cứu nước.
2. Nắm vững và vận dụng đúng đắn chiến lược tiến công, đẩy lùi địch từng bước.
Khôngngừng củng cố trận địa cách mạng, tạo thế và lực hơn hẳn địch để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
3. Ra sức xây dựng và tổ chức lực lượng chiến đấu trong cả nước, đặc biệt hết sức coi
trọngxây dựng và phát triển lực lượng cách mạng ở miền Nam; tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.
4. Tạo ra một phương pháp cách mạng đúng, sử dụng bạo lực cách mạng gồm lực lượngchính
trị và lực lượng vũ trang, khởi nghĩa từng phần ở nông thôn phát triển thành chiến tranh cách
mạng, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, kết hợp khởi nghĩa của quần chúng
với chiến tranh cách mạng; đánh địch trên ba vùng chiến lược, kết hợp ba thứ quân, phát triển
và kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh
lớn; nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài với tạo thời cơ nhằm mở ra những cuộc
tiến công chiến lược tiến lên thực hiện tổng công kích và nổi dậy để đè bẹp quân thù giành thắng lợi cuối cùng.
Phân tích tình hình mọi mặt của đất nước, báo cáo đã nêu lên ba đặc điểm lớn: 6 lOMoAR cPSD| 45474828
1. Nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất
nhỏtiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
2. Cả nước hòa bình, độc lập và thống nhất đang tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận
lợi,song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
3. Hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cách mạng và
phảncách mạng còn rất gay go và phức tạp.
Những đặc điểm đó tác động mạnh mẽ đến quá trình biến đổi cách mạng ở nước ta.
4.4. Về lĩnh vực Đối ngoại
Đại hội để ra đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại nhằm tranh thủ điều kiện thuận lợi để
đẩy nhanh nhịp độ xây dựng đất nước. Thiết lập và không ngừng mở rộng quan hệ bình thường
với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền lãnh thổ, tôn trọng lợi ích quốc gia.
giữ vững hòa bình độc lập và phát triển.
Về đối ngoại, Báo cáo Chính trị nêu rõ trong giai đoạn mới, chúng ta cần ra sức tranh thủ những
điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục
và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, khoa học kỹ thuật, củng cố quốc phòng, cùng các nước
xã hội chủ nghĩa, các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa đế quốc. Trong quá trình làm việc, Đại hội đã tập trung phân
tích đánh giá tình hình thế giới và khẳng định mạnh mẽ chính sách đối ngoại nhất quán của
Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới là tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp
tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, làm hết sức mình để góp phần làm cho lý tưởng cao
đẹp của chủ nghĩa Mác-Lênin ngày càng thắng lợi rực rỡ. Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan
hệ đặc biệt giữa nhân dân ta với nhân dân Lào và Campuchia. Ủng hộ sự nghiệp đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân các nước vì độc lập dân tộc, dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội.
Thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa nước ta với tất cả các nước khác trên cơ sở tôn
trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi. Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận
lợi hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển đất nước về mọi mặt.
4.5. Về lĩnh vực Quốc phòng, an ninh
Không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị
và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã
hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng là nhiệm vụ
của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lực
lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh của chúng ta có lực lượng thường trực mạnh và lực lượng
hậu bị rộng rãi được huấn luyện tốt; có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại gồm các quân
chủng, binh chủng cần thiết; có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, có lực lượng dân quân du
kích và dân quân tự vệ hùng hậu. Chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì chúng ta
còn phải chú ý đầy đủ hiện đại hoá lực lượng quốc phòng và khả năng phòng thủ của đất nước.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát
triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng 7 lOMoAR cPSD| 45474828
có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công nông
nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.
III. Tổng kết 1. Thành tựu -
Các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị địch đánh phá về cơ bản đã
đượckhôi phục và bước đầu phát triển.
+ Nông nghiệp: Nhờ tăng cường biện pháp khai hoang, thâm canh tăng vụ nên diện tích gieo
trồng đã tăng thêm gần 2 triệu hecta. Năng suất không ngừng tăng, được trang bị thêm 18.000 máy kéo các loại.
+ Công nghiệp: Gấp rút xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp như nhà máy điện, cơ khí, xi măng,...
+ Giao thông vận tải: Khôi phục và xây mới nhiều tuyến đường. Tuyến đường sắt thống nhất
từ HN đi thành phố HCM sau 30 năm bị gián đoạn đã hoạt động trở lại -
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh trong các vùng mới giải phóng ở
miềnNam: giai cấp tư sản mại bản bị xóa bỏ 500 xí nghiệp tư bản hạng lớn vừa được cải tạo
chuyển thành xí nghiệp quốc doanh hoặc công ty hợp danh. Đại bộ phận nông dân đi vào con
đường làm ăn tập thể, thủ công nghiệp và thương nghiệp được sắp xếp và tổ chức lại. -
Xóa bỏ những biểu hiện văn hóa phản động của thực dân, xây dựng nền văn hóa cách
mạng.Hệ thống giáo dục từ mầm non, phổ thông đến đại học đều phát triển… 2. Hạn chế
Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện thời
chiến, vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống chiến
tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, vừa làm nhiệm vụ chi viện cho
chiến trường miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế.
Trong điều kiện đó, không thể áp dụng đầy đủ các quy luật kinh tế, không thể hạch toán kinh
tế mà tất yếu phải thực hành chính sách bao cấp để đáp ứng yêu cầu “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Chưa phát hiện những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ sau chiến tranh.
Việc dự kiến thời gian hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế của đất nước từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết thúc thời kỳ quá độ; việc ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và
công nghiệp vượt quá khả năng thực tế... là những chủ trương nóng vội, thực tế đã không thực hiện được. 3. Nguyên nhân
Những khó khăn trên có nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên tại nặng nề liên tiếp
xảy ra, chiến tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao vây, cô lập của Mỹ và các thế lực thù địch. 8 lOMoAR cPSD| 45474828
Tuy nhiên về chủ quan, do những khuyết điểm, sai lầm của Đảng, Nhà nước về lãnh đạo và
quản lý kinh tế, xã hội làm trầm trọng thêm những khó khăn trên:
- Chúng ta đi lên CNXH từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, hậu quả nặng nề của
chiến tranh cũ (1945-1975) chưa khắc phục được thì chiến tranh mới ở biên giới phía
Nam và phía Bắc lại bùng nổ
- Chưa xác định được nội dung chặng đường đầu tiên tiến lên CNXH, nóng vội trong
việc cải tạo và xây dựng CNXH ở một nước vốn là nông nghiệp lạc hậu trải qua mấy chục năm chiến tranh.
- Sai lầm trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước đi; Sai lầm trong bố trí cơ
cấu kinh tế; Sai lầm trong cải tạo XHCN; Sai lầm trong lĩnh vực phân phối, lưu thông;
Duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; Còn buông lỏng chuyên chính vô sản. 4. Ý nghĩa
- Đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa - là Đại hộiđầu
tiên của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi được thống nhất từ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
- Là đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Kế hoạch 5 năm 1976-1980 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu trong khôi phục kinh
tế,văn hóa, giáo dục, y tế. Tầng lớp tư sản mại bản ở miền Nam bị xóa bỏ.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giảiphóng
dân tộc, tiếp tục khẳng định con đường của Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, xác định đường lối
chung đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội… 9 lOMoAR cPSD| 45474828
B. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V I.
Bối cảnh lịch sử
Ở Đông Nam Á, các thế lực phản động quốc tế tăng cường tìm cách can thiệp nhằm chi phối,
tạo ảnh hưởng. Đặc biệt là tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V diễn ra trong bối cảnh kinh tế đất nước sau 5 năm Kháng
chiến chống Mỹ đang gặp những trì trệ nghiêm trọng. Bên cạnh đó Việt Nam đang đóng quân
ở Campuchia sau Chiến tranh biên giới Tây Nam từ năm 1979 và quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc bị đổ vỡ sau Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979. Trung Quốc tiến hành hoạt động phá
hoại biên giới trên bộ và trên biển thường xuyên.
Việt Nam ở trong tình thế vừa có hoà bình, vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá
hoại nhiều mặt... đồng thời, phải sẵn sàng đối phó với tình huống địch có thể gây chiến tranh
xâm lược quy mô lớn. Mỹ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây, cấm vận Việt Nam.
Đây cũng chính là thời kỳ Đảng và nhân dân ta phải trải qua nhiều thách thức nghiêm trọng.
Công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước phạm nhiều khuyết
điểm. Xuất hiện tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội. Thực trạng đất nước đòi hỏi Đảng phải
kiểm điểm lại đường lối, chủ trương, chính sách, đánh giá khách quan thành tựu và khuyết
điểm, định ra mục tiêu, nhiệm vụ, các biện pháp giải quyết đúng những vấn đề quan trọng cấp
bách trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên. 10 lOMoAR cPSD| 45474828 II.
Nội dung cơ bản của đại hội
1. Thời gian địa điểm
Sau năm năm kể từ Đại hội lần thứ IV, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, họp từ
ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm 1982 tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1033 đại biểu
thay mặt 1.727.000 đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở. Trong số đại biểu đó có
14 đảng viên từng tham gia các tổ chức tiền thân của Đảng; 102 đại biểu hoạt động trong các
cơ sở sản xuất công nghiệp; 118 đại biểu đại diện cho các dân tộc thiểu số phía Bắc và Tây
Nam; 79 đại biểu là anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, chiến sĩ thi đua; một phần
ba số đại biểu có trình độ từ đại học trở lên, nhiều đại biểu là cán bộ hoạt động trong lĩnh vực
văn học - nghệ thuật. Đến dự Đại hội có 47 đoàn đại biểu quốc tế.
Đồng chí Trường Chinh đọc lời khai mạc Đại hội. Đồng chí Lê Duẩn đọc Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Phạm Văn Đồng đọc Báo cáo về nhiệm vụ kinh
tế - xã hội. Đồng chí Lê Đức Thọ đọc Báo cáo về xây dựng Đảng. Nhiều đại biểu của Đại hội
đã đọc tham luận, nhiều đại biểu quốc tế và trong nước đọc lời chào mừng.
2. Chủ đề mục tiêu
Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm lại đường lối, chủ trương, đánh giá khách quan thành tựu và
khuyết điểm. Đồng thời đề ra kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 tập trung giải quyết những vấn đề
cấp bách nhất những vấn đề gay gắt, nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam, để ổn
định và cải thiện một bước đời sống của nhân dân. Đại hội đánh dấu một sự chuyển biến mới 11 lOMoAR cPSD| 45474828
về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân
3. Phương hướng chiến lược
Kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981 – 1985) được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V đề ra năm
1981 trong hoàn cảnh kinh tế đất nước sau 5 năm Kháng chiến chống Mỹ đang gặp những trì trệ nghiêm trọng.
Nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch nhà nước 5 năm 1981-1986 là nhằm hai mục tiêu cơ bản:
● Phát triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân
● Cơ bản ổn định tình hình kinh tế xã hội, đáp ứng những yêu cầu cấp bách và bức thiết
nhất của nhân dân, giảm nhẹ sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế.
4. Quan điểm chỉ đạo
4.1 Trên các mặt trận
Báo cáo chính trị đã đánh giá toàn diện những thắng lợi mà Đảng và nhân dân ta đã giành được
trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc từ sau đại thắng mùa xuân 1975. Báo cáo khẳng
định: Thành công rực rỡ của Đảng và nhân dân ta đã nhanh chóng thống nhất đất nước về mặt
nhà nước, triển khai thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt, tăng
cường khối đoàn kết toàn dân tộc; Thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
đã bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường tình hữu nghị và
hợp tác giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, góp phần củng cố hoà bình và ổn định trong khu vực.
Báo cáo chính trị đã nêu bật những thành tựu trên các lĩnh vực. Trên mặt trận kinh tế chúng ta
đã khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm lược và thiên tai gây ra, khôi phục và
phát triển sản xuất, phân bố lại lao động xã hội, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Ở
miền Nam, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt được những kết quả bước đầu, giai cấp tư
sản mại bản bị xoá bỏ, một bộ phận công thương nghiệp tư bản đã được cải tạo, nông dân ở
nhiều nơi tham gia tập đoàn sản xuất kể cả vào làm ăn tập thể.
Trên mặt trận văn hoá, sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển, nạn mù chữ về cơ bản được thanh
toán. Công cuộc xây dựng nền văn hoá mới được triển khai trong cả nước. Sự nghiệp văn học
nghệ thuật đạt được một số tiến bộ. Công tác y tế, thể dục thể thao, có nhiều cố gắng vươn lên.
Các ngành khoa học, kỹ thuật đã đáp ứng tốt một số yêu cầu của kinh tế và quốc phòng.
Báo cáo chính trị khẳng định: “Năm năm qua được ghi vào lịch sử dân tộc như một đoạn đường
thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam”. Vượt qua muôn khó khăn chồng chất cách mạng
nước ta đã phát triển lên một thế chiến lược mới, vững chắc hơn, tạo khả năng to lớn hơn để
bảo vệ và xây dựng đất nước.
Trên cơ sở phân tích hiện trạng của đất nước, Báo cáo chính trị cũng vạch rõ những khó khăn
yếu kém của nước ta trong quá trình phát triển. Về kinh tế, kết quả thực hiện các kế hoạch kinh
tế trong 5 năm 1976-1980 chưa thu hẹp được những mặt cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế
quốc dân. Sản xuất phát triển rất chậm trong khi dân số tăng nhanh, lương thực thực phẩm,
hàng tiêu dùng không đủ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội. Đời sống nhân dân 12 lOMoAR cPSD| 45474828
lao động gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Mặt trận tư tưởng, văn hoá, giáo dục còn bị xem
nhẹ, pháp chế xã hội chủ nghĩa chậm được tăng cường, pháp luật, kỷ luật bị buông lỏng.
Mặt khác, khó khăn còn do sai lầm, khuyết điểm của các cơ quan Đảng và Nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở trong lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội của đất nước. Chúng ta đã chủ quan,
nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát
triển sản xuất; đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, chậm đổi mới
các chính sách chế độ kìm hãm sản xuất; đã quan liêu, xa rời thực tế, không nhạy bén với những
thay đổi của vận động xã hội, bảo thủ, trì trệ, lạc quan thiếu cơ sở.
4.2 Kế hoạch 5 năm
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, những biến động của tình hình quốc tế và những âm
mưu của các thế lực thù địch chống lại Việt Nam, Báo cáo nêu rõ trong giai đoạn mới của cách
mạng, Đảng phải lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: “Xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau. Xây dựng chủ nghĩa xã hội
làm cho đất nước lớn mạnh về mọi mặt thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm
lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại có tăng cường phòng thủ, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong khi thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta phải
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Báo cáo chính trị của Đảng đã đề ra
những nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80. Về đời
sống, phải bảo đảm cho được nhu cầu ăn của xã hội với mức cố gắng có đủ lương thực, rau,
đậu, nước chấm, tăng thêm đường, mật, cá và thịt, trứng. Cung ứng ổn định lương thực, thực
phẩm, chất đốt theo định lượng cho công nhân, cán bộ, bộ đội, nhất là ở các thành phố, khu
công nghiệp, biên giới và hải đảo. Giải quyết vải mặc cho toàn dân ở mức cần thiết và hợp với
khả năng. Bảo đảm giấy viết, giấy in sách giáo khoa, giấy in báo và một phần thích đáng giấy
in các loại sách khác. Khẩn trương giải quyết tình trạng thiếu thuốc, trước hết là những loại
thuốc chữa bệnh thiết yếu. Cung ứng khá hơn các đồ dùng gia đình và đồ dùng cá nhân thông
thường. Tăng thêm phương tiện đi lại. Giảm bớt khó khăn về thiếu nhà ở, tăng thêm nước sinh
hoạt, cung ứng điện hợp lý và bảo đảm vệ sinh các khu dân cư. Trong khi chăm lo đời sống
của nhân dân nói chung, phải coi những người trực tiếp sản xuất, đặc biệt là công nhân, cùng
với cán bộ, bộ đội là đối tượng cần được chú ý trước hết. Đi đôi với việc phấn đấu ổn định và
cải thiện một bước đời sống vật chất, phải hết sức coi trọng tổ chức tốt đời sống văn hoá trong
từng xí nghiệp và hợp tác xã, tại các xã, phường, trên các địa bàn huyện, quận và tỉnh, thành
phố. Phát huy các nhân tố tích cực, kiên quyết chặn đứng và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực
trong đời sống kinh tế và xã hội, xây dựng trật tự xã hội chủ nghĩa, nếp làm ăn chân chính,
những quan hệ xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, tươi vui.
Về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, phải rất coi trọng phát triển chiều sâu, tức là cải tạo, bổ
sung và nâng cao, nhằm khai thác tốt những năng lực sản xuất sẵn có; đồng thời tiếp tục phát
triển chiều rộng, xây dựng mới một cách có trọng điểm, vừa tăng cường những cơ sở vật chất
- kỹ thuật có thể sử dụng ngay trong kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), vừa tích cực chuẩn bị cho
việc xây dựng với quy mô lớn hơn và tốc độ nhanh hơn trong những kế hoạch sau. Tăng cường 13 lOMoAR cPSD| 45474828
cơ sở vật chất - kỹ thuật theo chiều sâu cũng như theo chiều rộng đều phải tập trung vào việc
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tăng năng lực sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, tạo
thêm nguồn năng lượng và nguyên liệu, vật liệu, phát triển kết cấu hạ tầng, chủ yếu là năng lực
giao thông vận tải, đồng thời bảo đảm trang bị đủ các loại công cụ thường, công cụ cải tiến, và
tăng thêm một số thiết bị, máy móc vừa và nhỏ cho các hoạt động kinh tế, trước nhất nhằm
thúc đẩy các ngành trọng điểm.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành rất kiên quyết cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất,
theo bước đi và hình thức thích hợp. Bất cứ sự do dự và chậm trễ nào, bất cứ hành động nào
làm suy yếu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng là buông lỏng đấu tranh giữa hai con
đường, mang lại hậu quả nguy hiểm về kinh tế và xã hội. Phải xác lập và củng cố quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho tình hình kinh tế được ổn định và phát triển trên cơ sở lành
mạnh và đúng hướng. Chúng ta chủ trương sử dụng một cơ cấu kinh tế có nhiều thành phần,
trong đó kinh tế xã hội chủ nghĩa là chủ đạo; điều đó có nghĩa là phải đẩy mạnh cải tạo xã hội
chủ nghĩa một cách đúng đắn. Trong 5 năm (1981-1985), phải kiên quyết điều chỉnh lại ruộng
đất và cơ bản hoàn thành việc đưa nông dân các tỉnh Nam Bộ vào con đường làm ăn tập thể
bằng hình thức tập đoàn sản xuất là chủ yếu, tiếp tục tổ chức và củng cố vững chắc các hợp tác
xã nông nghiệp ở miền Trung; đẩy mạnh cải tạo đối với thương nghiệp, vận tải, ngư nghiệp và
công nghiệp ở miền Nam; ráo riết sắp xếp lại và quản lý thị trường trong cả nước; hoàn thiện
thêm một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Về quốc phòng và an ninh, phải cố gắng đến mức cao nhất làm tốt công cuộc phòng thủ đất
nước và giữ vững an ninh của Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng
với kinh tế, có kế hoạch chủ động để khi cần thiết chuyển được nhanh chóng nền kinh tế từ
thời bình sang thời chiến. Đáp ứng tốt những nhu cầu kinh tế của công cuộc củng cố quốc
phòng, mặt khác, tổ chức cho các đơn vị bộ đội có điều kiện tiến hành sản xuất để tự cung ứng
một phần nhu cầu, huy động năng lực các xí nghiệp quốc phòng và sử dụng hợp lý lực lượng
quân đội vào những hoạt động kinh tế thích hợp.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại. Xây dựng quân đội có ý chí quyết
thắng, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ chính quy, hiện đại ngày càng cao, có trình độ sẵn sàng
chiến đấu không ngừng hoàn thiện. Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững
mạnh về mọi mặt. Kết hợp chặt chẽ lực lượng công an, quân đội với phong trào quần chúng để
giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, chặn đứng và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực. 14 lOMoAR cPSD| 45474828 4.3. Nhiệm vụ
Báo cáo chính trị đã xác định những chính sách lớn về kinh tế - xã hội và nêu rõ: Trong 5 năm
1981-1985 chúng ta cần tập trung lực lượng thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1. Giải quyết những vấn đề cấp bách nhất để ổn định và cải thiện một bước đời sống của nhândân.
2. Phát triển và sắp xếp lại sản xuất, tiếp tục thực hiện việc phân công và phân bố lại lao độngxã hội.
3. Bố trí lại xây dựng cơ bản cho phù hợp với khả năng và theo hướng tạo thêm điều kiện để
phát huy các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có nhằm vào các mục tiêu cấp bách nhất về kinh tế và xã hội.
4. Cải tiến công tác phân phối lưu thông, thiết lập một bước trật tự mới trên mặt trận này.
5. Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cảnước
về các mặt chế độ sở hữu, quản lý, phân phối.
6. Làm tốt hợp tác kinh tế với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước trong Hội đồngtương trợ kinh tế.
7. Thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt, đặc biệt coi trọng tiết kiệm trong xây dựng cơ bản và sảnxuất.
8. Làm tốt việc ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật
vàosản xuất và đời sống. 15 lOMoAR cPSD| 45474828
9. Đổi mới một bước hệ thống quản lý kinh tế.
10. Đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, y tế phù hợp với yêu cầu và khả năng kinh tế. Thực hiện
cải cách giáo dục một cách tích cực và vững chắc. Xác định quy hoạch hợp lý và tiếp tục
đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề.
11. Tăng cường quản lý xã hội, kiên quyết đấu tranh chống các hành vi phạm pháp, tệ nạn xã
hội và các biểu hiện tiêu cực khác, đề cao kỷ cương trong quản lý Nhà nước, quản lý kinh
tế, giữ vững trật tự và an toàn xã hội.
12. Bảo đảm các nhu cầu về kinh tế của công cuộc củng cố quốc phòng và an ninh, bảo vệ đất
nước, đồng thời huy động năng lực công nghiệp quốc phòng và sử dụng hợp lý lực lượng
quân đội vào những hoạt động kinh tế thích hợp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng của
Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị trình bày. Báo cáo
phân tích những ưu điểm và nhược điểm trong công tác xây dựng Đảng và nhấn mạnh: “Trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đảng ta đã có những ưu điểm rất cơ bản, đồng thời cũng
bộc lộ những nhược điểm và khuyết điểm lớn cần ra sức khắc phục”. Báo cáo yêu cầu trong 5
năm tới phải đổi mới và tạo ra một chuyển biến sâu sắc và căn bản về công tác tư tưởng và
công tác tổ chức của Đảng theo các yêu cầu sau đây:
Một là, bảo đảm thấu suốt đường lối nâng cao năng lực lãnh đạo và tổ chức về mọi mặt,
kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, nhất là về kinh tế.
Hai là, cải tiến sự lãnh đạo của Đảng gắn với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và
việc tinh giản bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Ba là, củng cố cho được cơ sở đảng gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị xây
dựng huyện, quận, xã, phường… xây dựng các tổ chức sản xuất kinh doanh, các đơn vị chiến
đấu và phát đông các phong trào quần chúng. Nâng cao sức chiến đấu của các cơ sở đảng, phát
triển và củng cố đội ngũ của Đảng, kiên quyết đưa những phần tử cơ hội, thoái hoá biến chất
và những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Bốn là, theo quy hoạch tiến hành đổi mới việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí đúng
và bảo đảm tính kế thừa trong việc xây dựng đội ngũ cốt cán, ra sức xây dựng nâng cao phẩm
chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự vững vàng của Đảng trong mọi tình thế.
Năm là, giữ gìn phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất của Đảng, thực hiện đầy đủ
nguyên tắc tập trung dân chủ, tiến hành phê bình và tự phê bình thường xuyên trong sinh hoạt Đảng.
III. Tổng kết Đại hội V: 16 lOMoAR cPSD| 45474828
Thứ nhất, Đại hội V đã đề ra đường lối chiến lược cho công cuộc xây dựng đất nước.
Đường lối này đã tạo điều kiện cho công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa của nước ta phát
triển, đặc biệt là nhân dân miền Nam. Đại bộ phận nông dân Miền Nam đi vào con đường sản
xuất tập thể, đồng bào các dân tốc ở Tây Nguyên có tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng cuộc
sống mới, tạo bước bắt kịp đà phát triển đối với Miền Bắc.
Thứ hai, không thể phủ nhận được sự phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn
1981- 1985. Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, đã ngăn chặn được đà giảm sút cảu
những năm 1979-1980, từ năm 1981 đến nay, đạt được nhiều tiến bộ rõ rệt. Điển hình như,
Nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 4,9% so với 1,9% hằng năm thời kỳ 1976-1980. Sản
xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 8,9% so với thời kỳ 1976-1980. Thu nhập bình
quân quốc dân tăng bình quân hằng năm 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước
Sự phát triển của nền kinh tế đã đáp ứng mục tiêu trong việc đảm bảo những nhu cầu cấp bách
và thiết yếu nhất dần dần ổn định, tiến tới cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân; Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Thứ ba, trong lĩnh vực văn hóa, chúng ta đã xây dựng được nền văn hóa mới, con người
mới theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta đã từng bước hoàn thiện nền giáo dục, nâng
cao dân trí cho người dân. Hệ thống y tế, thể dục, thể thao, nghệ thuật cũng được xây dựng và
chú trọng phát triển. Tất cả cùng đóng góp xây dựng nên một xã hội dân chủ.
IV. Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế:
Những tìm tòi, đổi mới từng phần từ 1979-1981 được xuất phát từ thực tế cuộc sống, dựa trên
những sáng tạo của nhân dân, của địa phương. Đó là những giải pháp tình thế, hướng vào giải
quyết những khó khăn trước mắt về đời sống kinh tế, xã hội. Những ý tưởng ban đầu của đổi
mới tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng đó là bước mở đầu có ý nghĩa, đặt cơ sở
đầu tiên cho quá trình đổi mới toàn diện sau này. Những đổi mới từng phần nêu trên chưa đủ
sức giải quyết những vấn đề lớn do thực tiễn đặt ra vì nó vẫn nằm trong bối cảnh chung là mô
hình chủ nghĩa xã hội cũ; tư duy về kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp cơ bản còn tồn tại.
Thực tiễn đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tìm tòi đổi mới mạnh hơn nữa về kinh tế. 1.
Bước đột phá đầu tiên:
Đại hội V của Đảng họp tại Hà Nội, từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982, trong bối cảnh tình hình
và thế giới trong nước có một số mặt thuận lợi, nhưng nhiều khó khăn, thách thức mới. Hoa
Kỳ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”. Chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân tình nguyện Việt
Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông
Dương. Trong nước, tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội ở nước ta ngày càng trầm trọng.
Sau Đại hội V, Trung ương Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hoá, thực hiện Nghị quyết Đại hội.
Nổi bật là Hội nghị Trung ương 6 (7-1984) chủ trương tập trung giải quyết một số vấn đề cấp
bách về phân phối lưu thông với hai loại công việc cần làm ngay: Một là, phải đẩy mạnh thu
mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do; Hai là, thực hiện điều chỉnh giá cả,
tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế. 17 lOMoAR cPSD| 45474828 2.
Bước đột phá thứ hai:
Hội nghị Trung ương 7 (12-1984) xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận sản
xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là sản xuất lương thực, thực phẩm.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khoá V (6-1985), Đảng đã tập trung giải quyết vấn đề giá,
lương, tiền. Hội nghị chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liệu, bao cấp, thực
hiện cơ chế một giá, xoá bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động
sản xuất, kinh doanh sang hoạch toán kinh doạnh XHCN; Coi việc giải quyết vấn đề giá, lương,
tiền là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế; thừa nhận kinh tế hàng hoá và quy luật sản xuất hàng hoá
Đây là bước đột phá thứ hai của Đảng trong quá trình tìm tòi, đổi mới về kinh tế. Tuy nhiên
khi tổ chức thực hiện lại mắc những sai lầm nghiêm trọng. Hậu quả lớn nhất là làm cho cuộc
khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng hơn. 3.
Bước đột phá thứ ba:
Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan
điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là bước quyết
định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng. Nội dung đổi mới có tính đột phá là:
+ Về cơ cấu sản xuất, Hội nghị cho rằng, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một
số chủ trương quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất.
Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất trong 5 năm gần đây như dẫm chân tại
chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình hình kinh tếxã
hội ngày càng không ổn định. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng chậm giải quyết
căn bản các vấn đề về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng cho
xuất khẩu. Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo
hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, việc
phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng quy mô vừa
và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển nông nghiệp, công
nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho
được ba chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.
+ Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng, do chưa nắm vững quy luật đẩy
mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bởi
vậy, phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng như từng
vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ
đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn; phải nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ 18 lOMoAR cPSD| 45474828
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, đó là sự cần thiết
khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho
người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo xã hội chủ nghĩa không
chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế độ quản lý, chế độ phân phối, đó là
một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất, vì vậy không thể làm
một lần hay trong một thời gian ngắn là xong.
+ Về cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi
với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc
đẩy sản xuất phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là:
Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội
chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá-tiền tệ; làm cho các
đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành
chính của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế; phân
công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then
chốt, quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.
Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh
giữa quan điểm mới và quan điểm cũ trên trên lĩnh vực kinh tế và nhiều lĩnh vực khác. Đó là
cơ sở quan trọng để xây dựng nên đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, quốc phòng, an ninh và quan hệ quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam ở giai đoạn sau..
V. Ý nghĩa của Đại hội:
Đại hội V đã có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn.
Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá thành tựu, khuyết điểm sai lầm của Đảng, phân tích nguyên
nhân thắng lợi và khó khăn của đất nước, những biến động của tình hình thế giới; khẳng định
tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội lần thứ IV đề ra.
Ngoài thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa xã hội, tăng cường Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, chính sách đối ngoại, xây dựng Đảng.
Đại hội lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, tập hợp ý kiến
của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng… nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt
nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến mới
về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì
hạnh phúc của nhân dân”. 19 lOMoAR cPSD| 45474828
VI. Hạn chế của Đại hội
Đại hội vấp phải một số sai lầm, khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan, nóng vội, giáo
điều, bảo thủ trì trệ; sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lý kinh tế khi đưa ồ ạt nông dân
miền Nam, Tây Nguyên vào làm ăn tập thể, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong quản lý của Đảng và Nhà nước
Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật
đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hoá, muốn thực hiện
nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường
đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận
những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan; do đó, không chú ý vận dụng
chúng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước anh em.
Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc
lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo một số quan niệm
cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình thức, không xuất phát từ yêu cầu
của nhiệm vụ chính trị và yêu cầu của công việc; cách làm lại thiếu quy hoạch, chưa chú ý lắng
nghe ý kiến của quần chúng. Công tác giáo dục và quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ.
Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói không đi đôi
với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và ra quyết định. Việc chỉ đạo, điều hành
thường không tập trung, thiếu kiên quyết và nhất quán. Trong các đảng bộ và các cấp uỷ có sự
vi phạm nguyên tắc Lêninnít trong sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ,
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn
Đảng phục tùng Trung ương.
Về mặt tổ chức, đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng và các đoàn thể phình ra quá
lớn, chồng chéo và phân tán.
Nguyên nhân của hạn chế xuất phát từ việc chúng ta vì ý chí chủ quan, muốn đốt cháy giai
đoạn mà không nhân thức nhậ n thức không đầy đủ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội quá ̣
trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường. Trong chúng ta châm đổi chệ́ quản
lý kinh tế lỗi thời, lạc hâu. Trong việc bố trí cấu kinh tế, Đảng chưa kết hợp chặt chẽ tự̀ đầu
công nghiệp với nông nghiệp thành cấu hợp lý, chưa sử dụng có hiệu khả mở rộng quan hệ
kinh tế với nước ngoài. Nông nghiệp chưa thât coi mặt trậ n hàng đầu, không bảo đảm điềụ
kiện cần thiết để phát triển, vât tư, tiền vốn các chính sách khuyến khích, Công nghiệp sảṇ xuất
hàng tiêu dùng, kể tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, bị coi nhẹ tổ chức, đầu tư, chính sách.
Công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp công nghiệp nhẹ. 20