



Preview text:
Dân chủ tư sản là gì? Ví dụ và Bản chất của nền dân chủ tư sản
1. Dân chủ tư sản là gì?
Dân chủ tư sản là chế độ, hình thức quản lý nhà nước của giai cấp tư sản do
giai cấp tư sản lãnh đạo, được thiết lập sau khi thủ tiêu chế độ phong kiến và
được thực hiện bằng nhiều biện pháp. Cụ thể như ban hành hiến pháp, thực
hiện nguyên tắc phổ thông đầu phiếu để thành lập nghị viện và các cơ quan
đại diện khác, thực hiện nguyên tắc “Tam quyền phân lập” hoặc tuyên bố
nguyên tắc “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”; quyền tư hữu tài sản là bất khả xâm phạm.
Hoàn cảnh ra đời của dân chủ tư sản: Cách mạng tư sản bắt đầu từ thế kỷ 16
kéo dài tới thế kỷ 20 kết quả của cuộc cách mạng tư sản đó đã thiết lập nền
dân chủ tư sản. Cách mạng tư sản là cuộc cách mạng do giai cấp tư sản lãnh
đạo nhằm lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập nền thống trị của giai cấp tư sản,
mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Dân chủ tư sản là bước tiến bộ lớn của lịch sử nhân loại so với chế độ
chuyên chế của giai cấp phong kiến. Nhưng dân chủ tư sản vẫn là chế độ
dân chủ được giành riêng cho giai cấp tư sản là giai cấp nắm quyền thống trị
về kinh tế và chính trị xã hội. Còn đại đa số nhân dân lao động nghèo khổ thì
bị nhiều hạn chế trong thực thi các quyền dân chủ đã được long trọng tuyên
bố trong các hiến pháp tư sản. Vì vậy dân chủ tư sản bị coi là nền dân chủ bị
cắt xén, là dân chủ hình thức. Đến giai đoạn đế quốc, nhiều chế định dân chủ
của nền dân chủ tư sản bị xóa bỏ và chế độ độc tài, phát xít, chuyên chế có
dịp tái sinh trở lại nhằm mục đích phục vụ cho đường lối chính trị bằng thủ
đoạn gây chiến tranh cướp bóc tài nguyên, nô dịch các nước kém phát triển
và đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng giai cấp của giai cấp công nhân trong nước.
Chế độ dân chủ tư sản hay dân chủ tư sản là chế độ chính trị của các nước
tư bản chủ nghĩa có các đặc trưng cơ bản sau:
Có nhiều đảng chính trị của giai cấp tư sản mà các đảng lớn (hoặc liên minh
một đảng lớn với một hay một số đảng khác) thay thế nhau nắm quyền lực
nhà nước thông qua bầu cử.
Nhà nước có chính thể quân chủ lập hiến hay cộng hòa và hình thức kết
cấu đơn nhất hay liên bang.
Cơ quan đại diện có một hay hai viện. Các nghị sĩ của các đảng không nắm
chính quyền (không phải đảng nắm chức vụ tổng thống ở cộng hòa tổng
thống hay thủ tướng ở cộng hòa đại nghị) hợp thành phe đối lập. Đảng cộng
sản hoặc liên minh có đảng cộng sản là phe tả. Các phe đấu tranh ở quốc
hội, nếu không thỏa hiệp được với nhau thì có thể dẫn đến khủng hoảng
phải bầu lại tổng thống hoặc lập chính phủ khác, giải tán nghị viện để bầu lại.
Có hệ thống pháp luật khá phát triển.
Như vậy: Nền dân chủ tư sản so với nền dân chủ chủ nô, so với các chế độ
xã hội đã có trước chủ nghĩa tư bản là một bước tiến rất dài. Sự ra đời của
chế độ tư bản chủ nghĩa thắng phong kiến nhờ sự phát triển của lực lượng
sản xuất, nó là một nền sản xuất lớn, hiện đại biểu hiện ở việc năng suất lao động cao.
2. Bản chất và ví dụ của nền dân chủ tư sản là gì?
Nền dân chủ tư sản xét về bản chất không phục vụ cho giai cấp công nhân và
đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Pháp quyền tư sản thừa nhận
trên nguyên tắc pháp lý những quyền của con người, nhưng trên thực tế việc
thực hiện những quyền đó đối với quyền chúng nhân dân lao động thường bị
hạn chế. Những thành quả dân chủ và tiến bộ xã hội đạt được chủ yếu phải
thông qua cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động, của phong trào
công nhân trong chủ nghĩa tư bản chứ không phải do giai cấp tư sản cầm
quyền tự nguyện thực hiện.
Giai cấp tư sản là một nhóm nhỏ trong xã hội nó đối kháng và xung đột với lợi
ích của giai cấp công nhân và lợi ích phổ biến của quyền chúng nhân dân lao
động. Quyền lực nhân dân tức là quyền lực công cộng của xã hội ủy quyền
vào nhà nước không thể không bị thao túng bởi giai cấp tư sản cầm quyền.
Nó đã bị tha hóa chỉ còn mang tính hình thức mà căn nguyên sâu xa của nó
là chế độ tư hữu dẫn tới sự tha hóa lao động, tha hóa bản chất con người.
- Về chính trị: Dân chủ tư sản mang bản chất của giai cấp lãnh đạo xã hội,
thống trị xã hội, đó chính là giai cấp tư sản. Thực hiện cơ chế đa nguyên
chính trị và đa đảng đối lập nhưng đảng mà lãnh đạo, nắm trong tay quyền
lực là đảng tư sản. Bản chất của nhà nước là nhà nước tư sản mang bản
chất của giai cấp tư sản và nhà nước đó thực hiện cơ chế là tam quyền phân
lập, đó là quyền lập pháp, hành pháp, quyền tư pháp độc lập với nhau, kìm
chế lẫn nhau, kiểm soát lẫn nhau.
Ví dụ: Chế độ đa đảng ở các nước phương Tây.
Dân chủ trong chính trị phải cho phép làm sáng tỏ vấn đề bản chất của hệ
thống chính trị, mối quan hệ giữa tổ chức cầm quyền với nhà nước, giữa nhà
nước với xã hội công dân. Dưới góc độ chính trị, bản chất giai cấp của dân
chủ, chế độ dân chủ của nhà nước và các thiết chế chính trị khác được bộc lộ
rõ nét. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, dân chủ trong chính trị phản ánh
một cách trực tiếp tương quan về lợi ích và quyền lực giữa các giai cấp, tầng
lớp khác nhau trong xã hội. Một mặt, chế độ dân chủ đó được xác lập nhằm
bảo vệ lợi ích và quyền lực của giai cấp thống trị. Mặt khác, chế độ dân chủ
đó cũng thừa nhận ở những mức độ nhất định quyền và lợi ích của các giai
cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Đó chính là những giá trị dân chủ mà các giai
cấp, tầng lớp bị trị giành được trong cuộc đấu tranh với giai cấp thống trị. Cơ
sở chính trị là mặt biểu hiện trực tiếp của dân chủ. Đó chính là quyền lực
chính trị, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân.
- Về kinh tế: Dân chủ tư sản dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất chủ yếu. Tổ chức quản lý nằm trong tay thiểu số (giai cấp tư sản),
phân phối theo quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, duy trì chế độ người
bóc lột người. Tồn tại mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất, mâu thuẫn giữa gia cấp vô sản với giai cấp tư sản.
Ví dụ: Sự phát triển của quyền tư hữu ở châu Âu trong thời trung cổ, ...
Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế gắn liền với hoạt động mang tính bản chất của
con người là hoạt động lao động sản xuất, thực hiện lợi ích và thỏa mãn các
nhu cầu. Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế là làm cho người lao động được đảm
bảo các quyền dân chủ về kinh tế. Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế là tạo nên
mối quan hệ hợp tác, tôn trọng, bình đẳng giữa các chủ thể. làm cho sự phân
hóa giàu nghèo, tình trạng đói nghèo của một bộ phận nhân dân ngày càng
thu hẹp, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Về tư tưởng, văn hóa, xã hội: Dân chủ tư sản lấy hệ tư tưởng của giai cấp
tư sản làm chủ đạo, giữ vai trò chi phối trong mọi lĩnh vực của đời sống, ý
thức xã hội. Giai cấp tư sản văn hóa tôn giáo như những công cụ, phương
tiện để chi phối, lãnh đạo đời sống tinh thần của xã hội.
Ví dụ: Trào lưu triết học ánh sáng, ...
Dân chủ là một phạm trù phản ánh một hiện tượng xã hội, một quan hệ xã hội
khách quan ghi đậm dấu ấn chủ quan của chủ thể. Nội dung cốt lõi của dân
chủ là khát vọng về tự do, bình đẳng của người dân. Nội dung cơ bản của
dân chủ trong văn hóa là trình độ giải phóng cá nhân, giải phóng xã hội về mặt tinh thần.
Kết luận: Không thể phủ nhận vai trò của nền dân chủ tư sản nó đã gián tiếp
tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đồng thời có một tiến
bộ vượt bậc về phương thức sản xuất, là một bước tiến có ý nghĩa lịch sử
trong xã hội loài người. Mặc dù vậy, nền dân chủ tư sản chỉ là sự thay thế
chế độ bóc lột phong kiến bằng chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, chưa giải
quyết được vấn đề cơ bản của xã hội là xóa bỏ chế độ người bóc lột người.
Document Outline
- Dân chủ tư sản là gì? Ví dụ và Bản chất của nền dâ
- 1. Dân chủ tư sản là gì?
- 2. Bản chất và ví dụ của nền dân chủ tư sản là gì