



















Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ ----🙣🙣🙣----
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
Họ và tên: Nguyễn Hồng Phúc
Mã sinh viên: 2056140033
Lớp: Quan hệ quốc tế và Truyền thông toàn cầu (CLC) K40 GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
TS. Nguyễn Thị Hảo Hà Nội, tháng 5 năm 2021 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
CHƯƠNG 1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM.......................................................................................................3
1.1. Tình hình thế giới tác động đến cách mạng Việt Nam.........................3
1.2. Tình hình Việt Nam và phong trào yêu nước trước khi có Đảng.........4
1.2.1.Chính sách cai trị của thực dân Pháp....................................................4
1.2.2.Các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng.. 7
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC
CHUẨN BỊ CÁC ĐIỀU KIỆN THANH LẬP ĐẢNG................................10
2.1. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam......................................10
2.2. Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản..........14
CHƯƠNG 3. THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG
LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG.............................................15
3.1. Sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam........................................15
3.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng.........................................................................................17
3.2.1.Hội nghị thành lập Đảng.....................................................................17
3.2.2.Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng..............................................20
KẾT LUẬN....................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................23 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Lịch sử Việt Nam đã trải qua một chặng đường đấu tranh vô cùng khó
khăn, gian khổ để giành được những thắng lợi vẻ vang, từ thân phận người
dân mất nước, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự xâm
lược của nhiều đế quốc lớn mạnh, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới –
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Lực lượng lãnh đạo
nhân dân ta dành được những thắng lợi vĩ đại đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi Hồ Chí
Minh – người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng. Đảng lãnh đạo cách
mạng bằng cương lĩnh chiến lược, các định hướng về chính sách. Các cương
lĩnh và chiến lược của Đảng được xây dựng dưới ánh sáng lý luận Mác Lê-nin
và tư tưởng nhân văn truyền thống Việt Nam phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của đất nước.
Nhìn lại quá trình lịch sử của Cách mạng Việt Nam chúng ta thấy Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo, tinh thần phụ trách trước giai
cấp và dân tộc khi thắng lợi cũng như lúc khó khăn, khi thành công cũng như
lúc sai lầm, khuyết điểm. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một điều tất yếu
khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc ở
Việt Nam trong thời đại mới, là kết quả của một quá trình lựa chọn con đường
cứu nước, tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức của một tập thể
cách mạng. Đảng ra đời là một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam.
Vì những lý do trên, em xin được chọn đề tài: “Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng”. 1
2. Mục đích chọn đề tài.
Mục đích em chọn đề tài này là muốn hệ thống lại những kiến thức về
quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1920-1930), nội dung cơ bản,
giá trị lịch sử của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đồng thời tìm hiểu
những cơ sở lịch sử để góp phần củng cố niềm tin của thế hệ trẻ vào con
đường cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước - sự lựa chọn
đúng đắng, tất yếu, khách quan, của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng
sản Việt Nam thời kỳ đầu dựng Đảng. Từ việc nhận thức lịch sử thời kỳ đầu
dựng Đảng, góp phần trang bị cho bản thân phương pháp nhận thức biện
chứng, khách quan về quá trình Đảng ra đời và vai trò lãnh đạo của Đảng
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xác lập chính quyền cách mạng.
3. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về sự kiện ra đời Đảng Cộng sản
Việt Nam và nội dung của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
3.2. Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng các phương pháp:
Phương pháp thu thập tài liệu
Phương pháp phân tích và tổng hợp Phương pháp lịch sử Phương pháp liệt kê
4. Kết cấu tiểu luận: Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo,
tiểu luận gồm ba chương:
Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chương 2: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị các
điều kiện thành lập Đảng
Chương 3: Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng 2 NỘI DUNG CHƯƠNG 1.
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Tình hình thế giới tác động đến cách mạng Việt Nam.
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng
cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân
các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân
dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực, mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc
địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Trước bối cảnh đó, nhân dân
các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân,
đế quốc, tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là
ở Châu Á. Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai
cấp tư sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa trở thành một bộ phận quan trọng trong cuộc đấu tranh chung
chống tư bản, thực dân. Chính sự phát triển rộng khắp của các phong trào giải
phóng dân tộc đầu thế kỷ XX đã tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước
Xôviết dựa trên nền tảng liên minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng
Bonsêvich Nga ra đời. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa
Mác – Lênin từ lý luận trở thành hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới
trong lịch sử loài người, là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng
lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười nêu tấm gương sáng
trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Về ý nghĩa của Cách mạng Tháng
Mười, Nguyễn Ái Quốc khẳng định trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh”
xuất bản năm 1927 : “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách 3
mệnh thành công thì phải dân chúng làm gốc, phải có đảng vững bền, phải
bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Lênin”
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy
sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với
Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc
không những đánh giá cao sự kiện ra đời Quốc tế Cộng sản đối với phong trào
cách mạng thế giới, mà còn nhấn mạnh vai trò của tổ chức này đối với cách
mạng Việt Nam :“An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”.
1.2. Tình hình Việt Nam và phong trào yêu nước trước khi có Đảng.
1.2.1. Chính sách cai trị của thực dân Pháp.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ
máy thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc
đia, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù
hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là
một chính sách chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm mãu các phong trào
và hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng
chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗ kỳ một chế độ cai trị riêng. Sự cai trị của chính
quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập, quyền tự do 4
dân chủ, mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã man, mọi ảnh hưởng của các
trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, thực dân Pháp đã tiến hành khai thác thuộc địa: cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914) và cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
hai (1919 – 1929) để triệt để khai thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư
sản Pháp, thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập
đồn điền, ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề,
vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến
cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa…. đẩy nhân dân ta vào cảnh bần
cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu
quả nghiêm trọng kéo dài.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng
bít ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn
hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì
các hủ tục lạc hậu. Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực
dân ở Đông Dương : “ … chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một
cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm… Nhà tù
nhiều hơn trường học, lúc nào cũng mở cửa và chật ních người… Ở Đông
Dương, bọn thực dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và
làm cho chúng tôi đần độn bằng rượu”.
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã
hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt xã hội Việt
Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc.
Giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức
nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa,
một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia
đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. 5
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị
thực dân và phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng
của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và
phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chỉ cách mạng của họ trong cuộc đấu
tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của thực dân Pháp. Đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân từ giai
cấp nông dân, nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân
Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai cấp công nhân có quan hệ trực tiếp và
chặt chẽ với giai cấp nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc,
phong kiến áp bức, bóc lột. Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân Việt
Nam là ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa lớn lên đã sớm
tiếp thụ ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhanh chóng trở
thành một lực lượng chính trị tự giác, thống nhất khắp cả nước.
Giai cấp tư sản Việt Nam bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương
nghiệp… Trong giai cấp tư sản có một bộ phận kiêm địa chủ. Ngay từ khi ra
đời, giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh
tranh, chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt
Nam nhỏ bé và yếu ớt. Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện
để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức viên chức và
những người làm nghề tự do…Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm
thù đế quốc, thực dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên
ngoài truyền vào. Đây là lực lượng có tinh thần cách mạng cao và nhạy cảm
chính trị. Được phong trào cách mạng rầm rộ của công nông thức tỉnh và cổ
vũ, họ bước vào hàng ngũ cách mạng ngày càng đông và đóng một vai trò
quan trọng trong phong trào đấu tranh của nhân dân, đặc biệt là ở thành thị. 6
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã
hội Việt Nam có những biến đổi lớn, đặc biệt là sự ra đời hai giai cấp mới là
công nhân và tư sản Việt Nam. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế
độ thuộc địa nửa phong kiến. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc
này đều mang thân phận người người bị mất nước và ở những mức độ khác
nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam,
ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa
chủ phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng
gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho nhân dân, tự do cho
nhân dân; hai là xóa bỏ chế độ phong kiến, giành lại dân chủ cho nhân dân,
chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Từ đó, xác định nhiệm vụ chống thực dân
Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai không được
tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi
quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu hàng đầu của cách mạng Việt Nam đặt
ra, cần được giải quyết.
1.2.2. Các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những
phong trào tiêu biểu diễn ra trong thời kỳ này là:
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896): ngày 13/7/1885, vua Hàm
Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương phát triển
mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ với
những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như khởi nghĩa Ba Đình (Thanh
Hóa), khởi nghĩa Hùng Lĩnh (Thanh Hóa), khởi nghĩa Bãi Sậy
(Hưng Yên), khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh).Ngày 01/11/1888,
vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896. 7
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884,
nghĩa quân Yên Thế đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho
chúng nhiều khó khăn, thiệt hại. Cuộc chiến đấu của nghĩa quân
Yên Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), các cuộc
khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam vẫn tiếp diễn, nhưng
đều không thành công. Sự thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai
cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo
phong trào yêu nước, giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, nổi lên phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng
lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản. Về mặt
phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế
kỉ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng, một bộ phận chủ trương đánh đuổi
thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia bằng biện
pháp bạo động, một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để tiến tới khôi
phục độc lập. Đại diện cho khuynh hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với
chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước cho
nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân
chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh, mở mang dân
quyền; phản đối đấu tranh vũ trang cầu viện nước ngoài. Mặc dù những hoạt
động cách mạng của Phan Châu Trinh đã góp phần làm thức tỉnh lòng yêu
nước của nhân dân Việt Nam nhưng về phương pháp, chủ trương dựa vào
Pháp để thực hành cải lương, “ đó là sai lầm chẳng khác gì đến xin giặc rủ
lòng thương” , không thể nào đạt được mục đích. Đại diện của xu hướng bạo
động là Phan Bội Châu (1867 – 1941), ông chủ trương dùng biện pháp bạo
động để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Sự
nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu trải qua rất nhiều bước thăng trầm, đi
từ lập trường quân chủ lập hiến đến lập trường dân chủ tư sản, nhưng đều thất
bại. Cuối năm 1913, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam tại Trung 8
Quốc cho tới đầu năm 1917 và sau này bị quản chế tại Huế cho đến khi mất (1940).
Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra đời: Đảng lập
hiến (1923), Đảng Thanh niên (3/1926), Đảng thanh niên cao vọng (1926),
Việt Nam nghĩa đoàn (1925), sau nhiều lần đổi tên, tháng 7 năm 1928 lấy tên
là Tân Việt cách mạng Đảng; Việt Nam quốc dân Đảng (12/1927). Các đảng
phái chính trị tư sản và tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào
yêu nước chống Pháp, đặc biệt là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.
Tân Việt cách mạng Đảng ra đời và hoạt động trong bối cảnh Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên phát triển mạnh, đã tác động mạnh mẽ đến Đảng
này. Trong nội bộ Đảng diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng tư
tưởng cách mạng vô sản và tư tưởng cải lương. Cuối cùng khuynh hướng
cách mạng theo quan điểm vô sản thắng thế. Một số đảng viên của Tân Việt
chuyển sang Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, số đảng viên còn lại trong
Tân Việt tích cực để chuẩn bị để tiến tới thành lập một chính đảng theo chủ
nghĩa Mác – Lênin. Việt Nam quốc dân Đảng là một đảng chính trị theo xu
hướng dân chủ tư sản. Mục đích của Việt Nam Quốc dân đảng là đánh đuổi
thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ cộng hòa tư
sản, với phương pháp đấu tranh vũ trang nhưng theo lối manh động, ám sát cá
nhân và lực lượng chủ yếu là binh lính, sinh viên, … Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở
một số tỉnh, chủ yếu và mạnh nhất là ở Yên Bái (2-1930). Các cuộc khởi
nghĩa diễn ra trong tình thế hoàn toàn bị động nên đã bị thực dân Pháp nhanh chóng dập tắt.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự thất bại của các phong trào đấu tranh là
do những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được
con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam.
Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối 9
truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc Việt
Nam và chính sự phát triển của phong trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận
lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí
Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống
thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã chứng tỏ con đường cứu
nước theo hệ tưu tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách
mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc
tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải
phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta bấy giờ. CHƯƠNG 2. VAI
TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC CHUẨN BỊ CÁC ĐIỀU
KIỆN THANH LẬP ĐẢNG.
2.1. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, năm
1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng
dân tộc. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc
cách mạng điển hình trên thế giới và đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng,
bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Cách
mạng Mỹ (1776), Cách mạng Pháp (1789)… nhưng cũng nhân thức rõ những
hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định
con đường cách mạng tư sản không thể đem lại độc lập và hạnh phúc cho
nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói chung. 10
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công, đây là sự kiện rung
chuyển thế giới, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử loài người và tác
động mạnh mẽ tới nhận thức của Nguyễn Tất Thành. Cùng thời điểm đó,
Người từ Anh trở lại Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm
hiểu con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, về V.I.Lênin
Với hành trang chủ nghĩa yêu nước – nhân văn truyền thống và với
những nhận thức mới về dân tộc và con người, đầu năm 1919, Nguyễn Ái
Quốc tham gia Đảng xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp.
Tháng 6/1919, Nguyễn Ái Quốc tham dự Hội nghị Hòa bình ở Vécsai (Pháp),
tại đây Người đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi
tới Hội nghị Vecsai bản yêu sách của những người An Nam, bản yêu sách
gồm 8 điểm, đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền
bình đẳng của dân tộc Việt Nam, đây là lần đầu tiên những quyền lợi cơ bản,
chính đáng, thiết thực của nhân dân Việt Nam được nêu ra trong diễn đàn
quốc tế. Mặc dù bản yêu sách không được chấp nhận nhưng sự kiện này đã
tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế. Từ thực tiễn đó, Nguyễn Ái
Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân.
Tháng 7 - 1920, tại thủ đô Pa-ri (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đọc bản sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin đăng trên báo Nhân đạo số ra ngày 16 và 17-7-1920. Người đã đọc đi
đọc lại nhiều lần và tìm thấy trong Luận cương của Lênin lời giải đáp về con
đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam: về vấn đề thuộc địa trong mối
quan hệ với phong trào cách mạng thế giới…Người đã vượt qua sự hạn chế
trong chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu
hướng tư sản đương thời để đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và đi vào con
đường cách mạng vô sản. Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (12/1920) Nguyễn
Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự kiện đánh dấu bước chuyển biến
quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập 11
trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Từ đây cùng với việc thực
hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng
Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quá trình Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng được
đánh dấu bằng việc Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt
Nam thông qua những bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời
sống công nhân và đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
Người tranh thủ mọi cơ hội và vận dụng mọi khả năng, mọi hình thức để dìu
dắt phong trào cách mạng trong nước, để động viên và cổ vũ các tầng lớp
nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và thanh niên đứng lên đấu tranh. Mặt
khác, Người tích cực tố cáo lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối
với nhân dân thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải
phóng. Mùa hè năm 1923, Người từ Pháp sang Liên Xô, tham gia nhiều Đại
hội quốc tế và học tập nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin. Tháng 11-1924,
với tư cách là đại diện của quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng
Châu ( Trung Quốc ). Tháng 6-1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, nòng cốt là Cộng sản đoàn. Chương trình và Điều lệ của
Hội nêu rõ mục đích là : làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Sau
khi cách mạng thành công, Hội chủ trương thành lập Chính phủ nhân dân;
mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân; tiến lên xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa, thực hiện đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, với phong trào cách mạng thế giới.
Từ năm 1925 – 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các
lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng
được nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế, chính trị trong nước. Năm 1928,
Hội thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ,
đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát 12
triển của phong trào cách mạng Việt Nam. Cùng với việc đào tạo cán bộ,
Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Tiền phong
nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam. Quan điểm cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc đã thức tỉnh và giác ngộ quần chúng, thúc đẩy phong
trào đấu tranh yêu nước của nhân dân phát triển theo đường cách mạng vô sản.
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức
xuất bản tác phẩm Đường Kách Mệnh, thông qua tác phẩm Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định :
Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc
mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng này có quan
hệ mật thiết với nhau; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ
không phải việc của một hai người, do đó phải đoàn kết toàn dân.
Nhưng cái cốt của nó là công – nông và phải luôn ghi nhớ rằng công
nông là người chủ cách mệnh, công nông là gốc cách mệnh.
Về vai trò của Đảng, Người khẳng định : “Cách mạng muốn thắng lợi
thì phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành
công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt. Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”
Về phương pháp cách mạng, Người nhấn mạnh đến việc phải giác ngộ
và tổ chức quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ
mục đích cách mạng, biết đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức
mình, làm cách mạng phải biết cách làm, phải có “mưu chước”, có như
thế mới đảm bảo thành công cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy toàn dân.
Như vậy, thông qua tác phẩm Đường Kách Mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã
đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư 13
tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Đường Kách
Mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam.
2.2. Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.
Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên
lập trường tư sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức bóc lột của tư sản
thực dân cũng diễn ra dưới các hình thức đình công, bãi công, tiêu biểu như
cuộc bãi công của công nhân Ba Son (Sài Gòn) do Tôn Đức Thắng tổ chức
(1925) và cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định ngày
30/4/1925, đòi chủ tư bản phải tăng lương, phải bỏ đánh đập, giảm đuổi thợ,
… Nhìn chung, phong trào công nhân những năm 1919-1925 đã có bước phát
triển mới so với trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Hình thức bãi công đã
trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn hơn và thời gian dàn hơn.
Trong những năm 1926 – 1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo
của các tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các
tổ chức cộng sản ra đời từ năm 1929. Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng
40 cuộc đấu tranh của công nhân diễn ra trong toàn quốc. Các cuộc đấu tranh
của công nhân Việt Nam trong những năm 1926 – 1929 mang tính chất chính
trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành và
các địa phương. Phong trào công nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản.
Cũng vào thời gian này, phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, đặc
biệt là phong trào nông dân diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước, dân cày cũng
đã tỉnh dậy, chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt. Năm 1927, nông dân làng
Ninh Thanh Lợi (Rạch Giá) đấu tranh chống bọn thực dân và địa chủ cướp
đất, đòi chia ruộng công… Phong trào nông dân và công nhân đã hỗ trợ lẫn
nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến. 14 CHƯƠNG 3.
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH
CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
3.1. Sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước,
cuối tháng 3 -1929, tại 5D Hàm Long – Hà Nội, một số hội viên tiên tiến của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Bắc kỳ, trong đó có Ngô Gia Tự và
Nguyễn Đức Cảnh đã họp để lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam gồm
7 đồng chí do đồng chí Trần Văn Cung làm Bí thư Chi bộ, tích cực chuẩn bị
tiến tới thành lập một Đảng Cộng sản thay thế cho Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên. Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
(5/1929) đã xảy ra bất đồng giữa các đoàn đại biểu về vấn đề thành lập đảng
Cộng sản. Khi kiến nghị của mình đưa ra về việc thành lập Đảng cộng sản
không được chấp nhận, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đã rút khỏi hội nghị về nước,
rồi ra lời kêu gọi công nhân, nông dân, các tầng lớp nhân dân cách mạng nước
ta ủng hộ chủ trường thành lập Đảng cộng sản. Thực chất đây là sự khác nhau
giữa đại biểu muốn thành lập ngay một Đảng Cộng sản và giải thể tổ chức
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với những đại biểu cũng muốn thành lập
Đảng Cộng sản, nhưng không muốn tổ chức ở giữa Đại hội thanh niên và
cũng không muốn phá thanh niên trước khi lập được đảng. Trong bối cảnh đó,
các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Ngày 17/6/1929, tại 312 Khâm Thiên – Hà Nội, đại biểu các tổ chức
cộng sản ở Bắc Kỳ họp Đại hội quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản
Đảng. Tuyên ngôn của Đảng nêu rõ : Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức 15
đại đa số và thực hành công nông liên hiệp mục đích để đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa; đánh đổ tư bản chủ nghĩa; diệt trừ chế độ phong kiến; giải phóng công
nông; thực hiện xã hội bình đẳng, tự do, bác ái, tức là hội cộng sản. Đồng
thời, tại hội nghị thành lập Đảng đã thông qua điều lệ của Đảng, ra báo Búa
liềm làm cơ quan ngôn luận. Đông Dương cộng sản Đảng ra đời đáp ứng
được yêu cầu bức thiết của quần chúng nên được nhiệt liệt hưởng ứng, uy tín
và tổ chức của Đảng phát triển mạnh, nhất là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Sự thành lập của Đông Dương cộng sản Đảng đã tạo đà trực tiếp với sự
ra đời các tổ chức cộng sản tiếp theo. Để đáp ứng yêu cầu của phong trào
cách mạng, mùa thu năm 1929, các đồng chí trong Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên hoạt động ở Trung Quốc và Nam Kỳ đã thành lập An Nam Cộng
sản Đảng. Về điều kiện kết nạp đảng viên, Điều lệ của Đảng viết “Ai tin theo
chương trình của Quốc tế Cộng sản, hăng hái phấn đấu trong một bộ phận
đảng, phục tùng mệnh lệnh đảng và góp nguyệt phi, có thể cho vào đảng
được.” An Nam Cộng sản Đảng ra tờ “báo đỏ” ở Hương Cảng – Trung Quốc
để tuyên truyền về trong nước. Tháng 11/1929 An Nam Cộng sản Đảng đã
họp đại hội thông qua đường lối chính trị, bầu Ban Chấp hành Trung ương của Đảng.
Sự phân hóa trong Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên dẫn tới sự ra
đời của hai tổ chức cộng sản: Đông Dương cộng sản Đảng (6/1929) và An
Nam cộng sản Đảng (7/1929). Từ đó xã hội chủ nghĩa ngày càng lôi cuốn
những đảng viên tiên tiến trong Tân Việt cách mạng Đảng. Các đảng viên tiên
tiến ấy từ lâu chịu ảnh hưởng của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên nay
cũng tách ra để thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn (9/1929). Tuyên
đạt của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn nêu rõ : “Đông Dương Cộng sản
Liên Đoàn lấy chủ nghĩa Cộng sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên
hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm
cho xứ sở của chúng ta hoàn toàn độc lập, xóa nạn bóc lột áp bức người, xây
dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa trong xứ toàn Đông Dương”. Việc ra Đông 16
Dương Cộng sản liên đoàn ra đời là một bước phát triển mới của tổ chức này,
từ một đảng Tiểu tư sả chịu ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên có xu hướng vô sản nay đã phân hóa chuyển thành Đảng cộng sản.
Mặc dù giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ
nghĩa cộng sản Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên đây hoạt động phân
tán, chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này.
Vì vậy, việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu
cầu khẩn thiết của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất
cả những người cộng sản Việt Nam.
3.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng.
3.2.1. Hội nghị thành lập Đảng.
Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ
chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một
đảng cộng sản thấp nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở
Việt Nam. Điều này phản ánh quá trình tự ý thức của những người cộng sản
Việt Nam về nhu cầu phải thống nhất các tổ chức thành một đảng cộng duy
nhất. Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người Cộng sản Đông
Dương tài liệu về việc thành lập một Đảng Cộng sản Đông dương, yêu cầu
những người cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các
nhóm cộng sản và thành lập một đảng giai cấp vô sản. Quốc tế Cộng sản chỉ
rõ phương thức để tiến tới thành lập Đảng là phải bắt đầu từ việc xây dựng
các chi bộ trong các nhà máy, xí nghiệp, chỉ rõ mối quan hệ giữa Đảng Cộng
sản Đông Dương với phong trào cộng sản quốc tế. 17
Nhận được tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương,
Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc vào ngày 23-12-1929. Trong báo
cáo gửi Quốc tế Cộng sản (18-2-1930), Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng tôi họp
vào ngày 6-1…Các đại biểu trở về An Nam ngày 8-2”. Nghị quyết Đại hội địa
biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao Động Việt Nam (10-9-1960) quyết định
lấy ngày 3-2 dương lịch hàng năm làm ngày kỉ niệm thành lập Đảng. Thành
phần tham dự hội nghị gồm có hai đại biểu của Đông Dương cộng sản Đảng
là Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh; hai đại biểu của An Nam cộng sản
Đảng là Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu; hai đại biểu đang hoạt động ở Hồng
Công, Trung Quốc dự không chính thức là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn;
Đông Dương cộng sản Liên đoàn vừa thành lập, không kịp nhân thông báo cử
người đến dự. Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm năm
điểm lớn, với nội dung:
1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các
nhóm cộng sản ở Đông Dương;
2. Định tên là Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung Ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai
đại biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương.
Hội nghị nhất trí với năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc
và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng
sản Đảng đã phê bình lẫn nhau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những
sai lầm, khuyết điểm của họ. Những khuyết điểm chủ yếu của An Nam Cộng
sản Đảng là điều kiện công nhận đảng viên chính thức quá khắt khe, điều kiện
gia nhập Công hội, Nông hội, Học sinh hội cũng quá khắt khe. Đông Dương
Cộng sản Đảng thì phạm các sai lầm, khuyết điểm về điều kiện công nhận
đảng viên chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt 18