



















Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG VIỆT TUYÊN NAM
TRẦN QUỲNH NHI
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
Tiểu luận môn: Lịch sử đảng Việt Nam Hà Nội – 2021
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG VIỆT TUYÊN TRUYỀN NAM
TRẦN QUỲNH NHI
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
Lớp: Xuất Bản Điện Tử K41
Mã số sinh viên: 2508020051
Tiểu luận môn: Lịch sử đảng Việt Nam Hà Nội - 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
NỘI DUNG ....................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM .................................................................................................................. 3
1.1, Bối cảnh thế giới ..................................................................................... 3
1.2, Bối cảnh trong nước ................................................................................ 4
CHƯƠNG 2: HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ
CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG ................................. 11
2,1. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản ....................................................... 11
2.2, Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ...................................... 12
2.3, Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ............. 13
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA LỊCH SỬ VỀ SỰ KIỆN THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ
CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG ................................. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 18 1
MỞ ĐẦU
1, Tính cấp thiết của vấn đề
Pháp xâm lược ta đúng vào thời điểm chế độ phong kiến Việt Nam đang rơi và
tình trạng khủng hoảng trầm trọng vì thế triều đình nhà Nguyễn đã nhiều lần
nhượng bộ cho Thực dân Pháp. Tuy đứng trước nhiều chính sách, chế độ cai trì
tàn ác của Thực dân Pháp nhưng nhân dân Việt Nam vẫn đứng lên đấu tranh
bằng nhiều phong trào nhằm chống lại thực dân Pháp đem lại độc lập dân tộc
cho Việt Nam. Và từ đó cũng đã xuất hiện hai xu hướng mới của Phan Bội
Châu và Phan Châu Trinh nhưng đều thất bại. Sau đó, sau khi ra đi tìm đường
cứu nước vào năm 1911 thì đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con
đường giải phóng dân tộc đúng đắn qua bản Sơ thảo luận cương về dân tộc và
thuộc địa của V.I.Lênin. Từ đó bắt đầu con đường thành lập một chính đảng
thống nhất cho dân tộc lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đóng một vai trò
thiết yếu trong việc lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh chống lại
thực dân Pháp, giành lại độc lập tự do cho toàn dân tộc.
2, Những công trình nghiên cứu có liên quan
Lê Văn Yên (2006), Chủ tịch Hồ Chí Minh với Hội nghị thành lập Đảng và
Đại hội II, III của Đảng, NXB Chính trị quốc gia; Trần Thị Minh Tuyết (2017),
Bản lĩnh Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB
Tạp chí Triết học; Đinh Trần Dương (2000), Đảng cộng sản Việt Nam những
thử thách đầu tiên và cuộc đấu tranh vượt qua các thử thách đó, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
3, Đối tượng và phạm v
i nghiên cứu 2
Đối tượng: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Phạm vi: Việt Nam.
4, Mục đích và nghiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ tầm quan trọng của sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam và
nội dung cơ bản, giá trị lịch sử của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và
từ đó đưa ra ý nghĩa của hai nội dung trên.
Để đạt được mục đích đó, đề tài sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
Chương 1: Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
Chương 2: Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đản g
Chương 3: Ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành lập Đảng và Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng
5, Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương thức logic và lịch sử, tổng hợp và khái quát hóa.
6, Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương 5 tiết. 3 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1, Bối cảnh thế giới
Các nước Âu-Mỹ có những chuyển biến rõ ràng về mặt đời sống kinh tế - xã
hội. Điển hình là từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây đang từ
giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa). Từ đó dẫn đến các cuộc xâm lược các nước nhỏ, yếu ở Châu Á, châu
Phi và khu vực Mỹ-Latinh biến các quốc gia này thành nơi tiêu thụ hàng hóa,
thua mua nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản. “Đến
năm 1914, các nước đế q ố
u c Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật chiếm một khu
vực thuộc địa rộng 65 triệu km2 với dân số 523,4 triệu người (so với diện tích
các nước đó là 16,5 triệu km2 với dân số 437,2 triệu người). Riêng diện tích các
thuộc địa của Pháp là 10,6 triệu km2 với dân số 55,5 triệu (so với diện tích nước Pháp là 0,5 triệu km
2 với số dân 39,6 triệu người)”[12, tr.478]. Do đó, phong
trào giải phóng dân tộc đã được hình thành mạnh mẽ, rộng khắp nhằm mục đích
đứng lên đấu tranh tự giải thoát mình khỏi ách thống trị, thực dân, đế quốc và
nổi bật nhất là ở châu Á. Bên cạnh đó phong trào giải phóng dân tộc của các
nước thuộc địa đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tư bản, thực
dân. Những phong trào đó tác động mạnh mẽ lên phong trào yêu nước ở Việt Nam.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga dành thắng lợi không chỉ đối với cuộc
đấu tranh của các nước vô sản với tư bản mà còn ảnh hưởng đến phong trào
giải phóng thuộc địa của các nước phương Đông. Quốc tế Cộng sản, do
V.I.Lênin lãnh đạo được thành lập vào tháng 3/1919 trở thành bộ tham mưu
chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới. Sơ thảo luận 4
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin tại Đại hội II của Quốc tế
Cộng sản (1920) đã đưa ra những cách thức đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Và từ đó nhiều đảng cộng sản trên thế
giới ra đời cũng nhờ sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự thành
lập Quốc tế Cộng sản.
1.2, Bối cảnh trong nước
Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của Thực dân Pháp
1/9/1858, Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, mở đầu ở Đà Nẵng và sau đó từng
bước một thôn tính Việt Nam. Do lúc đó chế độ phong kiến Việt Nam đang ở
tình trạng khủng hoảng nhất nên triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng với Pháp
nhưng không vì thế mà nhân dân Việt Nam chịu đầu hàng dù Thực dân Pháp
có dùng vũ lực đàn áp.
Về chính trị, Thực dân Pháp đặt ra chính sách “Chia để trị”: chia đất nước ta
thành 3 kỳ (Trung kỳ, Bắc kỳ, Nam kỳ) trong đó mỗi kỳ sẽ có một chế độ chính
trị riêng, nhằm bẻ gãy khối đoàn kết cộng đồng quốc gia dân tộc. Không những
thế từ năm 1897, Pháp còn mở 2 cuộc khai thác thuộc địa với mục đích biến
Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành nơi tiêu thụ hàng hóa của
“chính quốc”, ra sức vơ vét tài nguyên, lao động của người dân bị bóc lột nặng
nề và đặt ra nhiều thức thuế nặng nề.
Về văn hóa – xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề thống trị:
nhà tù được lập ra nhiều hơn trường học, du nhập các văn hóa phẩm đồi trụy,
khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, nhiều tệ nạn xã hội được tạo ra
nhiều hơn và các tệ nạn cũ thì vẫn duy trì. Sự biến đổi về kinh tế, chính trị do
chế độ áp bức, bóc lột v
à nô dịch về chính trị, kinh tế, văn hóa đã khiến sự phân
hóa giai cấp ngày càng sâu sắc. Hình thành nên những giai cấp mới (công dân,
tư sản, dân tộc, tiểu tư sản), giai cấp cũ bị phân hóa (địa chủ, nông dân), từ đó 5
xuất hiện những thái độ chính trị và địa vị kinh tế khác nhau đối với vận mệnh của đất nước.
Giai cấp công nhân là giai cấp có lực lượng đông đảo nhất, luôn mang trong
minh tinh thần dấu tranh quật cường, bất khuất giành lại độc lập tự do cho dân
tộc, đòi lại ruộng đất cho dân cày. Giai cấp công nhân sẵn sàng đứng dậy đấu
tranh nếu có lực lượng tiên phong lãnh đạo. Cho nên nếu trước kia giai cấp
công nhân đã có mâu thuẫn với địa chủ thì từ sau khi thực dân Pháp xâm lược
nảy sinh thêm mâu thuẫn với thực dân xâm lược.
Gắn với các cuộc khai thác thuộc địa, việc thực dân Pháp thiết lập các nhà máy
xí nghiệp, công xưởng, khu đồn điền... giai cấp công nhân ra đời. Ngoài những
đặc điểm của công nhân quốc tế thì giai cấp công nhân cũng mang những nét
riêng, chủ yếu xuất thân từ nông dân, tuy số lượng còn ít nhưng tiếp nhận những
tư tưởng hiện đại từ sớm, phát triển nhanh chóng từ tự phát đến tự giác, là một
lực lượng có khả năng lãnh đạo cách mạng .
Giai cấp tư sản là giai cấp được hình thành sau giai cấp công nhân, gắn liền với
lợi ích của tư bản Pháp, có mặt trong đời sống chính trị, kinh tế của chính quyền
thực dân Pháp trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Dù có tinh thần yêu nước
nhưng một bộ phận bị Thực dân Pháp chèn ép, bóc lột nên không có khả năng
tập hợp lại để tiến hành cách mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản (tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên,...) có tinh thần yêu nước
và rất nhạy cảm trong vấn đề chính trị và thời cuộc do bị Thực dân Pháp chèn
ép, khinh thường. Nhưng không thể lãnh đạo cách mạng do có thái độ bấp bênh hay dao động. 6
Từ đó những mâu thuẫn xuất hiện trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, mâu thuẫn
chủ yếu và gay gắt nhất là mâu thuẫn của dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
và địa chủ phong kiến.
Các phong trào yêu nước trước khi có Đảng
Các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam đã liên
tục diễn ra rộng rãi. Tuy vào năm 1884, triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng
thực dân Pháp nhưng phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp vẫn được tiếp
tục diễn ra. Trước tiên là phong trào Cần Vương (1885-1986) do vua Hàm Nghi
và Tôn Thất Thuyết phát động. Ngay sau đó để hưởng ứng phong trào Cần
Vương, cũng đã diễn ra hàng loạt các cuộc khởi nghĩa như: khởi nghĩa Ba Đình
(Thanh Hóa), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh),... thể hiện ý chí quật
cường chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Tuy nhiên cuối cùng phong trào
Cần Vương cũng thất bại, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm nghi chạy ra Tân Sở
(Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Sự thất bại đó thể hiện sự kiệt quệ của chế
độ phong kiến trong nhiệm vụ giành độc lập cho dân tộc.
Đầu thế kỷ XX, trào lưu dân chủ tư sản đã có những tác động mạnh mẽ lên
phong trào yêu nước của dân tộc ta. Tiêu biểu phải nhắc đến hai xu hướng:
Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, đưa thanh niên yêu nước Việt Nam
sang Nhật Bản (gọi là phong trào “Đông Du”) với mục đích xây dựng lực lượng
bạo động chống Pháp, với chế độ chính trị giống ở Nhật Bản. Những cũng thất
bại vì Nhật cấu kết với Pháp trục xuất lưu học sinh của ta về nước. Ông trở về
Việt Nam và thành lập Việt Nam Quang phục hội nhằm đánh đuổi Pháp, khôi
phục và thành lập công hòa dân quốc Việt Nam nhưng cuối cùng vẫn không
thành công “Trong bản hồi ký cuối đời ông viết: Than ôi! Cuộc đời tôi là một
trăm năm thất bại mà không một thành công”[1, tr.23]; ngược lại với Phan Bội
Châu, Phân Châu Trinh lại đi theo xu hướng cải cách về văn hóa, nâng cao dân 7
trí, dân khí, bãi bỏ chế độ quân chủ, phát triển kinh tế theo tư bản tiêu biểu là
phong trào chống thuế ở Trung Kỳ nhưng cuối cùng cũng bị thực dân Pháp đập
tan. Ông đặt niềm tin vào thực dân Pháp rồi phải hứng chịu một kết cục bi thảm là bị đi Côn Đảo.
Tháng 12/1927, Việt Nam Quốc dân Đảng được thành lập, do Nguyễn Thái học
lãnh đạo, với lực lượng chủ yếu là binh lính, sinh viên,... mục đích đánh đuổi
thực dân Pháp, giành lại độc lập, xây dựng chế độ cộng hòa tư sản, đấu tranh
theo phương thức manh động, ám sát cá nhân. Tiêu biểu là khởi nghĩa Yên Bái
(2/1930) nhưng cuối cùng cũng thất bại vì là cuộc bạo động bất đắc dĩ và còn
non yếu. Và cho đến tận đầu thế kỷ XX, các phong trào vẫn lần lượt thất bại,
nên điều cần thiết lúc bấy giờ là một đường lối cách mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc.
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng
Chứng kiến con đường cách mạng của các thế hệ các thế hệ đi trước không phù
hợp. Năm 1911, trên con tàu Latouche-Tréville, Nguyễn Tất Thành quyết định
ra đi tìm đường cứu nước, giành lại độc lập tự do cho toàn dân tộc. Qua những
trải nghiệm thực tế từ nhiều đất nước, người đã nhận ra được: “Dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bốc lộ và giống
người bị bóc lột” từ đó xác định rõ kẻ thù và đồng minh của dân tộc bị áp bức.
Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức
của Nguyễn Tất Thành. Người tham gia nhiều cuộc vận động ủng hộ nhân dân
Nga giữ vững thành quả cách mạng.
Đặc biệt vào tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra còn đường cứu nước
đúng đắn sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất về dân tộc và thuộc địa của
V.I.Lênin. Sau đó Người tham gia bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba (Quốc tế 8
cộng sản do V.I.Lênin thành lập) và cùng những người bỏ phiếu tán thành lập
Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản cũng chính là Đảng Cộng sản Pháp, từ đó
Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những nhà sáng lập của Đảng cộng sản
Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp
tục nghiên cứu, tìm hiểu để hoàn hiện đường lối cách mạng vô sản và tích cực
truyền bá tư tưởng Mác-Lênin với Việt Nam. Người chuẩn bị cho sự ra đời của
Đảng về 3 mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức
Về tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc tích cực tham gia các hoạt động tại Pháp. Giữa
năm 1921, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa là Nguyễn Ái Quốc cùng
một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa. Năm 1921, Nguyễn Ái quốc
được bầu làm Trưởng Tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương trong Ban Nghiên
cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp, Người lên án tố cáo bản chất của chủ
nghĩa thực dân và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng.
Năm 1927, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”[3, tr.289].
Về chính trị, Nguyễn Ái Quốc khẳng đinh, các dân tộc bị áp bức có con đường
cách mạng đúng đắn chính là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; đó chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đồng bào phải dành được độc lập, tự
do và hạnh phúc chính là đường lối chính trị của Đảng. Cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa được Nguyễn Ái Quốc coi là một bộ phận của
cách mạng vô sản thế giới; tuy có mối quan hệ chặt chẽ, hộ trợ với cách mạng
vô sản ở “chính quốc” nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa vẫn độc lập và không phụ thuộc, thậm chí có thể thành công trước và góp
phần giúp cách mạng vô sản ‘chính quốc” phát triển. 9
Về tổ chức, tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc)
và ở đó, lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm
Cộng sản đoàn. Tháng 6/1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người thành lập
Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên nòng cốt là Cộng sản đoàn.
Hội xuất bản tờ báo Thanh niên và được phát hành số đầu tiên ngày 21/6/1925.
Sau đó ra được 88 số do Nguyễn Ái Quốc phụ trách vào 4/1927. Sau khi
Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Quảng Châu đi Liên Xô, báo không dừng lại mà vẫn
được những đồng chí khác tiếp tục phát hành.
Hội đưa những thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về
lý luận chính trị tại nhà số 13 và 13B đường Văn Minh, Quảng Châu. Các hội
viên sẽ quay trở về nước để xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo
khuynh hướng vô sản sau khi kết thúc chương trình đào tạo. Còn có rất nhiều
đồng chí được cử đi học tại Đại học Cộng sản phương Đông (Liên Xô) và
trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc).
Sau đó Nguyễn Ái Quốc quay về Mátxcơva và được Quốc tế Cộng sản cử đi
công tác ở nhiều nước Châu Âu. Đến năm 1928 quay trở về Châu Á hoạt động tại Xiêm.
Cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam “Đường Cách mệnh”
dựa theo các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong lớp đào tạo bồi dưỡng những
người Việt Nam tại Quảng Châu đã được xuất bản. Cuốn sách nêu lên rõ ràng
mục tiêu, lực lượng là phương thức chiến đấu cho cách mạng, đó cũng chính là
tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau khi được ảnh hưởng và vận dụng một
cách sáng tạp chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
Từ đầu năm 1926 đến đầu năm 1927, ở trong nước, Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở và thành lập các kỳ bộ. Tuy vẫn chưa trở 10
thành chính đảng cộng sản nhưng các hoạt động đã cho thấy những lập trường,
quan điểm của giai cấp công nhân. Các hoạt động của mội có sự ảnh hưởng và
đẩy mạnh sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt
Nam theo xu hướng vô sản. Và đó cũng là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. 11
CHƯƠNG 2: HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
2,1. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản
Đường lối truyền bá tư tưởng Mác-Lênin của Nguyễn Ái Quốc đã thúc đẩy
phòng trào yêu nước Việt Nam và ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của
công nhân lên cao nhất. Cuộc bãi công của công nhân xưởng Ba Son (Sài Gòn)
vào tháng 8/1925 do Tôn Đức Thắng Lãnh đạo đã dành được thắng lợi lớn từ
đó ông đã thành lập Công hội ở Sài Gòn và mở cơ sở ở nhiều xí nghiệp. Tiếp
nối sau đó trong hai năm 1926-1927, trên cả nước đã nổ ra rất nhiều cuộc đấu
danh đòi quyền lợi của công nhân. Tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân
nhà máy sợi Nam Định (7/1926), đồn điền Cam Tiên (12/1926), đồn điền Phú
Riềng (8,9/1927). Và trong 2 năm 1928 và 1929 cũng có rất nhiều cuộc đấu
tranh đã diễn ra, thể hiện rõ ràng tinh thần, ý thức đoàn kết đấu tranh của công nhân Việt Nam.
Do sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, sự lãnh đạo
của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã không còn phù hợp đối với các
phong trào. Nên tại số nhà 5D, phố Hàm Long, Hà Nội, những người lãnh đạo
Kỳ bộ Bắc Kỳ (Trần Văn Cung, Ngô gia Tự,...) đã quyết định thành lập chi bộ
cộng sản đầu tiên ở nước ta. Ngay sau đó, Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời
vào 17/6/1929, lấy búa liềm là Đảng kỳ và xuất bản báo “Búa liềm” làm cơ
quan ngôn luận. Tháng 11/1929, An Nam Cộng sản Đảng ra đời Tại Khánh Hội,
Sài Gòn. Cuối tháng 12/1929, Đông Dương Cộng sản liên đoàn ra đời, là tên
mới của Tân Việt Cách mạnh đảng – tổ chức chịu tác động trực tiếp của Hội
Việt Nam Cách mạng thanh niên và đi theo cách mạng vô sản. Nhưng vì sợ bị
lộ, nên trên đường di chuyển đến địa điểm đại hội mới, ngày 1/1/1930 các đại
biểu đã bị địch bắt, song Đảng vẫn hoạt động tích cực. 12
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là điều tất yếu của những phong trào yêu
nước Việt Nam. Tuy nhiên để tránh sự thiếu thống nhất về lực lượng và tổ chức
thì Việt Nam vẫn cần một chính đảng cách mạng có đủ năng lực lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của nước ta lúc bấy giờ.
2.2, Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đáp ứng nhu cầu của cách mạng trong nước, ngày 23/12/1929, tại Cửu Long
(Hương Cảng) Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu của Đông Dương Cộng
sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp bàn việc hợp nhất các tổ chức cộng
sản thành một chính đảng duy nhất. “Chính sử đã ghi nhận, trong một tháng
trời ròng rã, Hội nghị hợp nhất Đảng đã diễn ra ở nhiều địa điểm khác nhau,
hôm thì ở trong nhà một người công nhân nghèo, đại biểu đóng giả làm đám
người chơi mạt chược phòng khi cảnh sát bất ngờ ập vào kiểm tra, khi thì giả
đi xem bóng đá, hôm thì trên một quả đồi gần sân bay, bến cảng, nhiều tài liệu
nhắc đến Cửu Long Thành…”[7].
Sau thời gian diễn ra Hội nghị từ 6/1-7/2, Hội nghị đã quyết định lấy lên Đảng
là Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930. Tham dự hội nghị gồm có: 2
đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức
Cảnh), 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Chu Văn Liêm và Nguyễn
Thiệu), chủ trì là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị tán thành và thông qua
những văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng,
Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tôn chỉ mục đích của Đảng đã được xác định rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ
chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp đấu tranh để tiêu trừ tư
bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”[4, tr.5]. Điều lệ vào
Đảng: “Ai tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, 13
hăng hái tranh đấu và dám hi sinh phụ tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí,
chịu phấn đấu trong một bộ phận đảng thời được vào Đảng”[10, tr.7]. Để lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Hội nghị yêu cầu các đại biểu khi về nước phải tổ
chức một Trung ương lâm thời. Bên cạnh đó, các tổ chức công nông hội cũng
được xây dựng và xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền của Đảng.
Ngày 24/2/1930, Lâm thời chấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định
hợp nhất Đông Dương Cộng sản liên đoàn vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhiệm vụ hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được hoàn thành. Dưới dự chủ trì
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
được xem như một Đại hội Đảng. Sau đó, nhân dịp thành lập Đảng, Người ra
Lời kêu gọi, trong đó có viết: “Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản giải quyết
vấn đề cách mạng nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”.
2.3, Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Hai văn kiện của Nguyễn Ái Quốc được thông qua tại Hội nghị thành lập đảng
là Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng. “Tuy ngắn
gọn, chỉ có 282 chữ, nhưng Chánh cương đã xác định rõ ràng nhiều vấn đề cơ
bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam”[6].
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định phương hướng chiến lược
của cách mạng Việt Nam: Nghiên cứu và tìm hiểu về những mâu thuẫn ngày
càng gay gắt trong xã hội Việt Nam giữa công nhân, nông dân với đế quốc đã
xác định được “làm tư sản quyền cách mạng và thổ địa cách mạng đi tới xã hội
cộng sản” là phương hướng chiến lược của ta. Từ đó xác định được những nội
dung cụ thể của cách mạng:
Về chính trị: Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt chính chống đế quốc và phong kiến
để từ đó có thể giành lại độc lập tự do cho dân tộc và đòi lại ruộng đất cho dân 14
cày. Trong đó nhiệm vụ được đặt lên trị trí hàng đầu là đánh đổ chủ nghĩa đế
quốc và giành lại độc lập dân tộc.
Về xã hội: Dân chúng được quyền tự do tổ chức; Nam nữ bình đằng; Giáo dục
được phổ biến theo hướng công nông hóa.
Về kinh tế: Thu hết toàn bộ sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ
công nông binh quản lý; Thu hết ruộng đất của đế quốc lấy làm của công chia
cho dân cày; Bãi bỏ những thứ thuế khắc nghiệt; Mở rộng công nghiệp và nông
nghiệp; Thi hành luật ngày làm tám giờ.
Những nhiệm vụ về kinh tế, xã hội không chỉ nêu rõ được tình hình kinh tế, xã
hội ở Việt Nam ta lúc bấy giờ mà còn phản ánh được tính cách mạng toàn diện,
tiêu diệt tận cùng ách thống trị, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc từ đó nhằm giải
phóng, đem lại độc lập tự do cho toàn dân tộc. Đặc biệt là giai cấp công nhân và nông dân.
Lực lượng cách mạng cơ bản là công nhân và nông dân; trong đó giai cấp công
nhân là lực lưỡng lãnh đạo, đồng thời còn có nhiệm vụ tập hợp các giai cấp, lực
lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Vì thế, Đảng
phải: “thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo làm thổ địa c.m đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”[8, tr.4]. “hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,… để kéo
họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và
tư sản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho
họ đứng trung lập”[9, tr.4]. Đây chính là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc, giữa các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu
nước, các mạng trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với
đặc điểm xã hội Việt Nam. 15
Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc bằng phương pháp bạo lực cách mạng
quần chúng, bất luận trong hoàn cảnh nào cũng không được thỏa hiệp . “Cương
lĩnh xác định lực lượng cách mạng là tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân,
nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo; lãnh đạo nông dân làm cách
mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông… đi vào phe vô sản
giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ
mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất cũng làm cho họ đứng trung lập,
bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”[2].
Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam muốn được nhận định rằng đã nêu cao chủ nghĩa
quốc tế và bản chất quốc tế của giai cấp công nhân thì phải có tinh thần đoàn
kết quốc tế. Tranh thủ sự đoan kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp
vô sản thế giới đặc biệt là giai cấp vô sản Pháp.
Những luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam đã được thể hiện một cách
ngắn gọn qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Chỉ rõ ra những mâu
thuẫn cơ bản, chủ yếu trong xã hội Việt Nam lúc đó, đặc biệt là thái độ của các
tầng lớp giai cấp đối với cách mạng lúc bấy giờ . Qua đó xác định được đường
lối chiến lược, nhiệm vụ, lực lượng cách mạng của dân tộc ta trên con đường
giải phóng giành lại độc lập tự do.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh những vấn đề cơ bản và
lâu dài của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới. 16
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA LỊCH SỬ VỀ SỰ K Ệ
I N THÀNH LẬP ĐẢNG
VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 là một kết quả tất yếu của đấu tranh
dân tộc và giai cấp ở Việt Nam, chấm dứt khủng hoảng trong đường lối cứu
nước, khiến cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách
mạng. Để đạt được kết quả đó phải dựa vào quá trình phát triển và thống nhất
trong phong trào cách mạng của cả nước; sự chuẩn bị tích cực, mới lạ, bản lĩnh
của Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết, một lòng của những chiến sĩ cách mạng tiên phong.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam. “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”[5, tr.406].
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được ra đời thông qua Hội nghị thành
lập Đảng đã cho thấy được lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương
lĩnh chính trị nêu lên được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng
nhu cầu cơ bản và cấp bách, phù hợp với xu thế và thời đại, định hướng phương
hướng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự vận dụng
chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đổi mới, sáng tạo, đúng đắn.
Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho cách mạng Việt Nam là lựa chọn
vô cùng đúng đắn nên mới có sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đó là con đường duy nhất giúp giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và con người và là bước ngoặt vĩ đại của dân tộc ta. 17
KẾT LUẬN
Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng là một dấu ấn, một bước ngoặt lớn đối với cách mạng giải phóng, giành
lại độc lập của đân tộc Việt Nam. Nhờ đó nhân dân ta đã giành được hết chiến
thắng này đến chiến thắng khác qua các cuộc nổi dậy khởi nghĩa, đã đánh bại
được đế quốc xâm lược. Không những vậy còn thể hiện được sự tài ba của Chủ
tịch Hồ Chí Minh khi tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn. Đã vận dụng
một cách tích cực, sáng tạo và bản lĩnh chủ nghĩa Mác-Lênin vào nhiệm vụ của
giải phóng dân tộc; không những thế còn có sự đoàn kết, nhất trí một lòng
chống giặc ngoại xâm của các chiến sĩ tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.
Đảng còn xác định cách mạng vô sản chính là con đường duy nhất khiến nước
ta giành được độc lập tự do. Sự lựa chọn con đường đúng đắn phù hợp với nội
dung xu thế mới của xã hội được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga: “Đối
với nước ta, không còn con đường nào khác để có được độc lập dân tộc thật sự
và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần phải nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn
của chính lịch sử, sự lựa chọn dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta”[11, tr.13-14].