Đảng là đội tiên phong, là đội quân có tổ chức và là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân | Tiểu luận Xây dựng đảng

V.I.Lênin là nhà lãnh tụ thiên tài, là người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân. Người đã có công lao vô cùng to lớn đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, với sự phát triển về chính đảng của giai cấp công nhân. Lênin đã xây dựng nên lý luận về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân trong thời kì chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Môn:

Xây dựng Đảng 56 tài liệu

Thông tin:
32 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đảng là đội tiên phong, là đội quân có tổ chức và là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân | Tiểu luận Xây dựng đảng

V.I.Lênin là nhà lãnh tụ thiên tài, là người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân. Người đã có công lao vô cùng to lớn đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, với sự phát triển về chính đảng của giai cấp công nhân. Lênin đã xây dựng nên lý luận về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân trong thời kì chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

4 2 lượt tải Tải xuống
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG
-------------------------
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : XÂY DỰNG
ĐẢNG
NGUYÊN LÝ CỦA V.I.LÊNIN
VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN: ĐẢNG LÀ ĐỘI TIÊN
PHONG, LÀ ĐỘI QUÂN CÓ TỔ CHỨC VÀ LÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC
CAO NHẤT CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN;
VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Minh Tuấn
ThS. Đặng Thanh Phương
Sinh viên : Lê Trần Hương Giang
Mã sinh viên : 2051070015
Lớp : Truyền thông quốc tế K40
Hà Nội, tháng 6 năm 2021
2
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT..................................................................................4
MỞ ĐẦU............................................................................................................................5
1. Tính cấp thiết của đề tài....................................................................................................5
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................5
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu........................................................................................6
4. Kết cấu của tiểu luận........................................................................................................6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU...................................7
1.1. Khái lược về khoa học Xây dựng Đảng........................................................................7
1.1.1. Khái niệm...............................................................................................................7
1.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của khoa học Xây dựng Đảng...................................7
1.2. Khái niệm về đảng và Đảng Cộng sản Việt Nam.........................................................8
1.2.1. Đảng.......................................................................................................................8
1.2.2. Đảng Cộng sản.......................................................................................................9
1.3. Sự hình thành nguyên lí về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân..............................9
CHƯƠNG 2 :NGUYÊN LÍ ĐẢNG LÀ ĐỘI TIÊN PHONG, LÀ ĐỘI QUÂN CÓ TỔ
CHỨC, LÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC CAO NHẤT CỦA GCCN...............................13
2.1. Nguyên lí của Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân:...................................13
2.2. Đảng là đội tiên phong, là đội quân có tổ chức và là hình thức tổ chức cao nhất của giai
cấp công nhân........................................................................................................................13
2.2.1. Đảng là đội tiên phong của GCCN..........................................................................13
2.2.2. Đảng là bộ phận có tổ chức của GCCN...................................................................17
2.2.3. Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của GCCN.......................................................18
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRÊN
NGUYÊN LÍ CỦA LÊNIN VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI......................................................19
3.1. Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.............................19
3
3.2. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam...............................................................20
3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam....................................21
3.3.1. Trong vấn đề xây dựng Đảng về tư tưởng...............................................................21
3.3.2. Trong vấn đề xây dựng Đảng về tổ chức.................................................................23
CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT........................................................................25
4.1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của GCCN...................................................25
4.2. Thuận lợi và thách thức trong xây dựng Đảng về tư tưởng hiện nay.........................26
4.3. Những quan điểm cần vận dụng trong công tác xây dựng Đảng...............................27
KẾT LUẬN......................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................30
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
XHCN Xã hội chủ nghĩa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
GCCN Giai cấp công nhân
CNTB Chủ nghĩa tư bản
ĐCS Đảng Cộng sản
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
V.I.Lênin là nhà lãnh tụ thiên tài, là người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân.
Người đã công lao cùng to lớn đối với phong trào cộng sản công nhân
quốc tế, với sự phát triển về chính đảng của giai cấp công nhân. Lênin đã xây dựng
nên lý luận về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân trong thời kì chủ nghĩa tư bản
chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. luận về đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân do Lênin đề ra một trong những di sản tưởng giá trị, trở thành
nền tảng tưởng, ảnh hưởng không nhỏ tới sự ra đời của tưởng Hồ Chí Minh
mà sau này chính là nền móng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những
lý luận, nguyên lí của Lênin về đảng của giai cấp công nhân và xây dựng Đảng rất
phong phú, đã đang soi sáng trực tiếp cho công cuộc xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Với bối cảnh thế giới hiện thời, Việt Nam đang bước vào thời mới
nhiều biến chuyển nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Trong điều kiện như vậy,
những nguyên bản về một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Lênin
đặt nền móng vẫn luôn sở trong quá trình xây dựng đổi mới Đảng, giúp
Đảng ta vươn lên với trí tuệ, bản lĩnh, năng lực, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong
giai đoạn mới.
Chính vậy, việc nghiên cứu về những nguyên của Lênin về đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân nói chung, đặc biệt nguyên “Đảng đội tiên
phong, đội quân tổ chức hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công
nhân” một điều quan trọng, qua đó phân tích sự vận dụng của Lênin trong công
cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nammột vấn đề ý nghĩa
luẫn và thực tiễn sâu sắc.
6
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: trên sở làm rõ bối cảnh, điều kiện, tiền đề cho sự ra đời
tưởng của Lênin về chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, tiểu luận đi vào
giới thiệu những nguyên của Lênin về đảng kiểu mới; tập trung phân tích cụ thể
một trong những nguyên quan trọng nhất; từ đó chỉ ra những tác động của
nguyên lên quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng Đảng
Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ: làm rõ những điều kiện, bối cảnh cho sự hình thành nguyên của
Lênin về chính Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân; phân tích nguyên của
Lênin; phân tích, chỉ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nguyên
đó.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận chủ yếu phân tích nguyên “Đảng là đội tiên phong, đội quân
tổ chức hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân” thông qua
việc nghiên cứu các tư tưởng và các tác phẩm mà ông viết; các mặt mà Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đạt được qua việc vận dụng nguyênđó: tiên phong về tư tưởng,
tổ chức trong xây dựng Đảng.
4. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, tài liệu tham khảo,
tiểu luận gồm có 4 chương lớn.
7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Khái lược về khoa học Xây dựng Đảng
1.1.1. Khái niệm:
Xây dựng Đảng khoa học nghiên cứu về quy luật, tính quy luật của công
tác xây dựng đảng cộng sản nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng về
chính trị, tưởng, tổ chức đạo đức nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo sức
chiến đấu của Đảng mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Khoa học xây dựng Đảng nghiên cứu những vấn đề phổ biến, tính quy
luật của hoạt động xây dựng Đảng về chính trị, tưởng, tổ chức đạo đức;
nghiên cứu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân. Ngay từ khi thành lập, chưa bao giờ Đảng sao nhãng về việc đẩy mạnh
công tác xây dựng Đảng. Bởi làm tốt công tác này thì Đảng mới tồn tại phát
triển lâu dài được, Đảng mới năng lực lãnh đạo sức chiến đấu tốt, chống lại
những âm mưu hành động phá hoại của kẻ thù, thực hiện thắng lợi công cuộc
xây dựng chủ nghĩa hội hiện nay. Trong công tác xây dựng Đảng được thể hiện
trên ba mặt: Xây dựng Đảng về chính trị; Xây dựng Đảng về tưởng; Xây dựng
đảng về tổ chức.
1.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của khoa học Xây dựng Đảng:
Trên thế giới: khoa học Xây dựng Đảng ra đời phát triển trên sở học
thuyết Mác lênin được các đảng cộng sản kế thừa phát triển liên tục.
8
Thời kỳ Mác Ăngghen: Những tư tưởng cơ bản về đảng cộng sản và công tác
xây dựng Đảng được hình thành, phát triển, đặt nền móng cho sự ra đời của khoa
học Xây dựng Đảng.
Thời kỳ Lênin: Nhiều phạm trù, khái niệm mới về xây dựng Đảng được
Lenin bổ sung hoàn thiện. Lênin đấu tranh chống chủ nghĩa hội, tiếp tục vận
dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Mác và Ăngghen về đảng cộng sản.
Thời kỳ Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản ở Các nước XHCN ra
đời cầm quyền: Xây dựng Đảng được nghiên cứu sâu, rộng dần phát triển
thành một ngành khoa học.
Từ khi các đảng cộng sản cầm quyền ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông
Âu tan rã: các nước XHCN, khoa học xây dựng Đảng vẫn tiếp tục được nghiên
cứu, phát triển trong điều điện mới - điều kiện thực hiện chế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Ở nước ta, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu
tinh hoa khoa học xây dựng Đảng trên thế giới; vận dụng sáng tạo, bổ sung
phát triển gắn với quá trình hình thành và phát triển của Đảng phù hợp với bối cảnh
Việt Nam.
1.2. Khái niệm về đảng và Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2.1. Đảng
Đảng chính trị những lực lượng chính trị được tổ chức, những lực lượng
này tập hợp các công dân chung khuynh hướng chính trị, nhằm hướng tới một
mục tiêu nhất định,nhằm mục đích tham gia chính quyền, đồng thời có thể thay
đổi chương trình hoạt động của mình để thực hiện các mục tiêu trên. thể hiểu
Đảng chính trị một hình thức tổ chức chính trị đại diện cho một giai cấp, một
tầng lớp xã hội và đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp, tầng lớp ấy.
Đặc điểm của Đảng chính trị:
9
Một là, một tổ chức hội tự nguyện, liên minh của những người cùng
tưởng, theo đuổi một mục đích nhất định, cố gắng giành quyền lãnh đạo đối với đời
sống chính trị và tổ chức xã hội.
Hai là, đảng chính trị ra đời bằng truyền bá các quan điểm tưởng, tiếp tục
tập hợp những người cùng chí hướng. Đảng thu hút vào hàng ngũ của mình bộ
phận tích cực nhất của giai cấp.
Ba là, đảng đại diện cho lợi ích giai cấp, đấu tranh bảo vệ lợi ích đó.
Bốn là, đảng có mục tiêu nhất định được thể hiện trong cương lĩnh hay tuyên
ngôn của Đảng.
Năm là, đảng nguyên tắc tổ chức tổ chức nội bộ thích hợp, khả
năng tổ chức và vận động cử tri.
Sáu là, đảng chính trị có tiềm lực tài chính, có phương tiện vật chất.
1.2.2. Đảng Cộng sản
Đảng cộng sản sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác với phong
trào công nhân. Từ khi xuất hiện, giai cấp công nhân đã đấu tranh chống lại ách áp
bức bóc lột của giai cấp sản. Lúc đầu những cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân trải qua nhiều tổn thất, chưa đạt được mục đích. Một trong những nguyên
nhân thất bại này là chưa có học thuyết khoa học và cách mạng dẫn đường.
Chủ nghĩa Mác được xây dựng bởi C.Mác Ăngghen ra đời vào những
năm 40 của thế kỉ XIX đã đáp ứng được yêu cầu của phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân. Những người ưu tú trong GCCN đã tổ chức ra chính đảng của riêng
họ để lãnh đạo phong trào. Chính đảng ấy là Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, đại
biểu trung thành quyền lợi của GCCN, nhân dân lao động. Lấy chủ nghĩa Mác
Lênin làm nền tảng tư tưởng, mục đích của đảng cộng sản là đánh bại chủ nghĩa
bản, giải phóng giai cấp công nhân nhân dân lao động trên thế giới khỏi ách áp
10
bức bóc lột của CNTB, xây dựng một hội mới, tự do bình đẳng, con người
không còn chịu áp bức.
1.3. Sự hình thành nguyên lí về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân:
C.Mác và Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên tư tưởng cơ bản về Đảng
Cộng sản, tưởng đó bắt nguồn từ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công
nhân, xây dựng một xã hội mới không có người bóc lột người. Trên cơ sở phân tích
một cách sâu sắchội bản, hai ông đã khẳng định CNTB tất yếu bị diệt vong,
được thay thế bởi chủ nghĩa cộng sản giai đoạn đầu chính CNXH. Sự thay
thế đó được thực hiện bằng cách mạng vô sản nổ ra ở các nước tư bản, điển hình là
Anh, Pháp, Đức. Để thực hiện được sứ mệnh lịch sử, giai cấp vô sản phải thành lập
chính đảng của mình, đó là lực lượng lãnh đạo, tổ chức giai cấp vô sản thực hiện sứ
mệnh lịch sử. Mác và Ăngghen đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản về tổ chức hoạt
động của chính đảng sản. Hai ông đã khẳng định, GCCN giai cấp cách mạng
nhất, tiên tiến nhất trong hội, nhưng GCCN chỉ thể thực hiện được sứ mệnh
lịch sử của mình khi nó tự tổ chức ra được chính đảng độc lập của mình. Những
tưởng đó đã ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến sự phát triển của phong trào cộng
sản công nhân quốc tế. Quốc tế I (1864 - 1872) Quốc tế II (1889 - 1914) đã
góp phần to lớn vào việc phát triển phong trào cách mạng của giai cấp vô sản.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX, sau khi Ăngghen qua đời, những người lãnh
đạo Quốc tế II đã phản bội GCCN, biến nhiều đảng lớn thành đảng cai lương, phụ
thuộc vào giai cấp sản, không còn khả năng lãnh đạo cách mạng sản giành
thắng lợi. Hơn nữa, CNTB phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa
đế quốc làm cho các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản phát triển đến tột cùng,
sự bóc lột trơ tráo và sự áp bức vô nhân đạo nhất đối với hàng trăm triệu dân cư các
nước thuộc địa. Giai cấp sản từng đóng vai trò lực lượng tiến bộ trong giai
đoạn phát triển đi lên chủ nghĩa bản, giờ đây đã trở thành lực lượng phản động,
cản trở sự phát triển của xã hội.
11
Thời kỳ chiến tranh cách mạng đã bắt đầu, nhiệm vụ chuẩn bị tiến hành
cách mạng sản đã trở thành nhiệm vụ trước mắt của GCCN. Giai cấp sản ra
đời gắn liền với nền sản xuất công nghiệp đã đang không ngừng lớn mạnh,
trưởng thành cả về lượng chất, ý thức chính trị năng lực tổ chức lực lượng
giai cấp trong cuộc đấu tranh chống giai cấp sản. Vai trò của đảng Cộng sản
được đề cao trước yêu cầu của phong trào công nhân phát triển rộng khắp thế giới:
tổ chức lại toàn bộ công tác đảng theo phương thức mới: cách mạng; giáo dục công
nhân theo tinh thần đấu tranh cách mạng để giành chính quyền; chuẩn bị tập
trung những lực lượng dự trữ, liên minh với những người vô sản các nước, thiết lập
các mối liên hệ chặt chẽ với phong trào vô sản các nước thuộc địa.
Trong khi đó, Chủ nghĩa đế quốc tăng cường tuyên truyền những tư tưởng tư
sản vào phong trào công nhân, ráo riết tìm mọi cách đẩy mạnh sự phát triển của chủ
nghĩa hội, tìm cách chia rẽ phong trào cộng sản công nhân quốc tế. Những
người đứng đầu của các Đảng dân chủ xã hội ở các nước Tây Âu ngày càng lún sâu
vào chủ nghĩa hội, chúng đòi xét lại chủ nghĩa Mác, luôn tìm cách để hạn chế
phong trào cách mạng của GCCN trong khuôn khổ đấu tranh đòi cải cách cục bộ,
không đả động, ảnh hưởng đến nền móng của CNTB.
Với tình hình hoạt động của phong trào công nhân các Đảng dân chủ
hội như vậy, đã làm xuất hiện yêu cầu cấp thiết là phải đấu tranh kiên quyết với chủ
nghĩa cơ hội để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác, tổ chức ra Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân. Do đó, Lênin đã thông qua các hoạt động thực tiễn, đứng ra
bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới. Người đã vạch
trần bản chất của bọn hội chủ nghĩa trong các Đảng dân chủ hội Tây Âu.
Qua đó, Lênin nhận thấy cần phải thành lập ra một Đảng kiểu mới, một Đảng thực
sự cách mạng, đủ sức lãnh đạo phong trào quần chúng giành chính quyền thực hiện
cuộc cách mạng vô sản, cải tạo xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới.
Trên nền tảng tưởng của C.Mác Ăngghen, đồng thời trên sở thực
tiễn của phong trào công nhân quốc tế phong trào công nhân Nga, Lênin đã xây
12
dựng một học thuyết hoàn chỉnh về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân, một
đảng khác hẳn về chất so với các đảng cơ hội chủ nghĩa trong Quốc tế II. Một Đảng
kiểu mới coi đó tiền đề nhất định phải để giai cấp công nhân thực hiện
được sứ mệnh lịch sử của mình như một lực lượng lãnh đạo, thực hiện bước quá độ
cách mạng đưa loài người lên CNXH. Lênin đã khẳng định rằng:”Chúng ta cần
những Đảng thường xuyên liên hệ thực sự với quần chúng”. Thông qua các tác
phẩm hành động của mình, Lênin kịch liệt phê phán chủ nghĩa hội dân túy
tiểu tư sản, đấu tranh không khoan nhượng với các trào lưu cơ hội cải lương khác.
Lênin đã khẳng định:”Chủ nghĩa Mác dạy rằng, chính chính đảng của
GCCN, tức là Đảng cộng sản, mới có thể tập hợp, giáo dục, tổ chức đội tiền phong
của giai cấp vô sản và của tất cả quần chúng lao động, chỉ có đội tiền phong ấy mới
thể chống lại nổi sự dao động tiểu sản không thể tránh khỏi của những quần
chúng đó, chống lại nổi những truyền thống sự tái phạm không thể tránh khỏi
của bệnh hẹp hòi phường hội hoặc những thiên kiến phường hội trong giai cấp
sản, và lãnh đạo tất cả những hành động liên hợp của toàn bộ giai cấp vô sản, tức
lãnh đạo giai cấp đó về mặt chính trị thông qua giai cấp đó, lãnh đạo tất cả
quần chúng lao động. Nếu không thể, thì không thể thực hiện chuyên chính sản
được.”
[7; tr.112,113]
Với ý nghĩ đó, sự kế thừa và phát triển sáng tạo của Lênin về chủ nghĩa Mác
nói chung, cũng như những tư tưởng về Đảng Cộng sản của Mác và Ăngghen, việc
xây dựng hoàn chỉnh học thuyết và nguyên lý về Đảng kiểu mới của GCCN là hoàn
toàn khách quan như một tất yếu lịch sử.
13
CHƯƠNG 2 : NGUYÊN LÍ “ĐẢNG LÀ ĐỘI TIÊN PHONG, LÀ ĐỘI QUÂN
TỔ CHỨC, LÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC CAO NHẤT CỦA GCCN”
CỦA LÊNIN
2.1. Nguyên lí của Lenin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân:
Trên sở kế thừa, phát triển những tưởng của C.Mác, Ăngghen từ
thực tiễn xây dựng Đảng sản của giai cấp công nhân Nga, Lênin đã đề ra
những nguyên lý cơ bản về xây dựng Đảng kiểu mới của GCCN như sau:
- Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
- Đảng đội tiên phong, đội quân tổ chức hình thức tổ chức cao
nhất của giai cấp công nhân.
- Khi giành được chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo của chuyên chính vô
sản.
- Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và
hoạt động của Đảng.
- Đảng một khối thống nhất ý chíhành động; tự phê bình và phê bình
quy luật phát triển của Đảng.
- Đảng phải luôn luôn giữ vững mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, kiên
quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng
- Đảng được tăng cường do tích cực phát triển đảng thường xuyên đưa
những người không còn đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi Đảng
- Tính chất quốc tế của đảng cộng sản
14
2.2. Đảng đội tiên phong, đội quân tổ chức hình thức tổ chức
cao nhất của giai cấp công nhân
2.2.1. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Nguyên Đảng đội tiên phong của GCCN đã được Mác Ăngghen nêu ra
trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản năm 1848. Lúc bấy giờ, để chống lại quan
điểm của phái Mensêvích chủ trương xóa nhòa ranh giới giữa Đảng và giai cấp, coi
Đảng giai cấp một, Lênin đã khẳng định lại: Đảng đội tiên phong của giai
cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp. Đảng không thể hòa lẫn với toàn bộ giai cấp
như là những người Mensêvich đã làm. Ai hòa lẫn đảng và giai cấp thì người đó đã
thủ tiêu đảng. Đảng là đội tiên phong đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân,
định hướng chính trị, giáo dục, động viên, tập hợp lực lượng tổ chức cho quần
chúng hành động cách mạng. Nhưng muốn thật sự đội tiên phong, Đảng phải
được trang bằng luận tiên phong, bằng sự hiểu biết các quy luật của cách
mạng các quy luật chính trị - hội, Đảng phải đứng đầu GCCN, phải hình xa
hơn GCCN, phải dìu dắt giai cấp công nhân chứ không phải đi theo đuôi phong
trào tự phát. Đảng phải những điều khoản lựa chọn những phần tử tiên tiến,
giác ngộ trong GCCN. Đảng chỉ thu hút vào đội ngũ của mình những người ưu
của giai cấp công nhân nhân dân lao động - giác ngộ tưởng cộng sản chủ
nghĩa, có trình độ luận chính trị, qua thực tiễn đấu tranh cách mạng đã chứng tỏ
là người ưu tú và được quần chúng tín nhiệm.
Theo quan điểm của Lênin, đảng là đội tiên phong của GCCN so với toàn bộ
giai cấp. đội tiên phong, đảng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp của giai cấp
công nhân, luận tiên phong tổ chức chặt chẽ. Đội tiền phong nghĩa
vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đông đảo đó lên trình độ tiên
tiến ấy. chúng ta chính sẽ nhắm mắt lại quên mất như vậy, nếu xóa bỏ sự
khác nhau giữa những người gần gũi đảng và những đảng viên, giữa những phần tử
giác ngộ tích cực với những người giúp đỡ chúng ta”.vậy, Đảng đội tiên
15
phong, lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp. Đảng tiên phong
trên ba phương diện:
Đảng tiên phong trên phương diện lí luận:
Khi đề cập đến các quan điểm về Đảng xây dựng Đảng kiểu mới, Lênin
luôn đề cao vai trò của luận. Theo Người:”Chỉ đảng nào được một luận tiền
phong hướng dẫn thì mới khả năng làm tròn vai trò người chiến tiền phong”
muốn luận tiền phong đúng, phải thế giới quan phương pháp luận
cách mạng và khoa học. Vì, luận cách mạng khoa học Đảng mớisở
để xác định nhiệm vụ chính trcho từng thời kì, từng giai đoạn của cách mạng
giúp cho Đảng xác định đường lối, chủ trương, chính sách đúng. luận cách
mạng và khoa học mới giúp Đảng nâng cao được trình độ trí tuệ, khả năng nhìn
xa trông rộng các vấn đề trong nước quốc tế đã và đang đặt ra, có thể phân tích,
đánh giá đúng tình hình và đưa ra được dự báo chính xác. Đảng mới nắm bắt, nhận
thức được quy luật khách quan của hội, từ đó giúp cho Đảng tránh hạn chế
được những sai lầm trong việc xây dựng đường lối, chính sách trong tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách đó.
Chủ nghĩa Mác là cơ sở khoa học để Đảng lãnh đạo trong công tác xây dựng
Đảng, là ngọn cờ đoàn kết những người vô sản, là cơ sở để vạch ra cương lĩnh hành
động, chiến lược sách lược cách mạng, nguồn gốc đi đến thắng lợi. Lênin
khẳng định:”cơ sở luận vững chắc như đá hoa cương”, sự thừa kế thẳng
trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, kinh tế
chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội”
[8;tr.49,50]
. Không nên áp dụng chủ nghĩa Mác
một cách cứng nhắc, giáo điều, đó không phải là một công thức sẵn có, hoàn thiện
phải biết vận dụng phát triển nó. Để làm tròn vai trò người chiến tiên
phong đòi hỏi Đảng phải trung thành vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia.
16
Đảng Cộng sản Việt Nam với những tiến bộ về kinh tế - hội trong những
năm đổi mới vừa qua đã những đổi mới về duy luận, Đổi mới duy
luận không phải xa rời những nguyên lý, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin
để ta hiểu đúng hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn những quan điểm, tưởng
của Mác Lênin. Ngược lại, những trì trệ, kể cả sự dao động, mất niềm tin một số
người đều bắt nguồn từ sự lạc hậu về mặt lý luận.
Đảng tiên phong trên phương diện tổ chức:
Muốn làm tròn vai trò tiên phong thì Đảng phải được tổ chức hết sức chặt
chẽ, khoa học. Đảng chỉ bộ phận của giai cấp. Về mặt số lượng, Đảng ít hơn
nhiều lần so với giai cấp. Về mặt chất lượng, Đảng chỉ bao gồm những đại biểu ưu
tú nhất của giai cấp, giác ngộ nhất, ý thức tổ chức kỷ luật cao nhất. Đảng là đội
tiên phong của giai cấp chứ không phải toàn bộ giai cấp. Tính tổ chức do tính tiên
phong quy định, muốn tròn vai trò người chiến tiên phong đòi hỏi Đảng phải
được tổ chức hết sức chặt chẽ, khoa học. Đảng là hiện thân của tính tổ chức, tính kỷ
luật chặt chẽ và nghiêm minh. Chỉ có như vậy, mới đảm bảo được sự thống nhất về
ý chí và hành động của toàn Đảng.
Tổ chức biến uy quyền về mặt tưởng thành uy quyền về mặt tổ chức.
Thông qua tổ chức đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng biến hành động
cách mạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lao động. Tổ chứccốt
vật để đảm bảo cho sự thống nhất về chính trị, tưởng của Đảng, làm cho sức
mạnh của Đảng nhân lên gấp bội. Thông qua tổ chức, Đảng trở thành một chính thể
thống nhất kết cấu chặt chẽ vững chắc, quy định ràng những mối quan
hệ cá nhân với tổ chức giữa tổ chức với nhau.Sau khi đã được tổ chức, Đảng sẽ
có một ý chí thống nhất, và ý chí thống nhất ấy của một nghìn, một trăm nghìn, một
triệu người tiên tiến sẽ trở thành ý chí của giai cấp.
17
Đảng tiên phong trên phương diện hành động:
Tiên phong trên phương diện hành động là nhằm biến các mục tiêu, lý tưởng
cách mạng của Đảng thành hiện thực của cuộc sống. vậy, đòi hỏi cán bộ, đảng
viên của Đảng phải gương mẫu đi đầu trong cuộc đấu tranh chống lại mọi tập tục
lạc hậu, những thói quen xấu đang cản trở quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị
mà Đảng đặt ra.
Lênin khẳng định: tính Đảng không chỉ thể hiện trên lời nóicòn thể hiện
ở việc làm. Những đảng viên hữu danh vô thực thì cho cũng không lấy. Người cũng
chỉ ra rằng, một đảng có thực sự là đảng của giai cấp công nhân hay không, điều đó
không chỉ phụ thuộc vào chỗ đảng đó bao gồm ít, nhiều công nhân còn phụ
thuộc cơ bản vào chỗ ai lãnh đạo, nội dung, hành động sách lược chính trị đảng
đó ra sao.
2.2.2. Đảng là bộ phận có tổ chức của giai cấp công nhân:
Đảng không chỉ đội tiên phong giác ngộ của GCCNcòn là bộ phận
tổ chức của GCCN. Lênin viết:” Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai
cấp sản không khí nào khác hơn sự tổ chức. Bị phân chia sự cạnh
tranh chính phủ đang thịnh hành trong giới sản, bị đè nặng dưới sự lao động
lệ cho bản, bị dìm sâu tận đáy của cảnh khổ cực, của sự cùng quẫn thoái
hóa, nhưng giai cấp vô sản vẫn có thể trở thành - và tất nhiên sẽ trở thành - một lực
lượng địch, chỉ do này: sự thống nhất tưởng của giai cấp sản dựa
trên sở những nguyên chủ nghĩa Mác được củng cố bằng sự thống nhất vật
chất của tổ chức tập hợp hàng triệu người lao động thành một đạo quân của GCCN.
Đương đầu với đạo quan ấy, thì tất cả cái chính quyền đã già cỗi của chế độ chuyên
chế Nga hoàng lẫn cái uy lực đang già cỗi của bản quốc tế cũng đều không thể
nào chống lại nổi”
[9;tr.490]
Đảng phải lãnh đạo cuộc đấu tranh thực tiễn của GCCN, của toàn thể những
người lao động, hướng cố gắng của họ vào một mục đích. điều đó chỉ thể
18
thực hiện được nếu như tất cả các đảng viên trong đảng phải được tổ chức lại, đoàn
kết bằng sự thống nhất ý chí, tham gia vào một trong các tổ chức của Đảng, phục
tùng mọi nghị quyết của Đảng. Lênin cho rằng, sự thống nhất trong những vấn đề
cương lĩnh sách lược điều kiện tất yếu, nhưng chưa đầy đủ để bảo đảm sự
thống nhất của đảng sự tập trung hóa công tác của đảng. Muốn đạt được sự
thống nhất trên đây, thì còn phải sự thống nhất về tổ chức, điều này không thể
thực hiện được với một đảng vừa mới ít nhiều vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của
một tiểu tổ, chưa một bản điều lệ đã được chính thức quy định, chưa
nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, bộ phận phục tùng toàn bộ.
2.2.3. Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân:
Đảng chẳng những đội tiên phong, đội tiên phong tổ chứccòn tổ
chức cao nhất của giai cấp công nhân. Theo Lenin:”chúng ta đảng của giai cấp,
bởi vậy hầu như toàn bộ giai cấp (và trong thời kỳ chiến tranh, trong thời kỳ nội
chiến thì toàn bộ giai cấp không trừ một người nào cả) cần phải hoạt động dưới sự
lãnh đạo của đảng ta, phải triệt để siết thật chặt hàng ngũ chung quanh đảng”
[9;tr.289]
Sở đảng trách nhiệm khả năng lãnh đạo tất cả các tổ chức của
GCCN, đảng bao gồm những phần tử tiên tiến giác ngộ nhất, được trang
luận khoa học tổ chức chặt chẽ. Mức độ ảnh hưởng của đảng đối với những
tổ chức do tinh thần đoàn kết tính tổ chức nội bộ của đảng quyết định. Trong
khi khẳng định đảng hình thức tổ chức cao nhất của GCCN, Lênin đã phê phán
lý luận của bè lũ cơ hội đòi tính độc lập, tính trung lập của các tổ chức. Sự lãnh đạo
chính trị của Đảng phải mở rộng ra tất cả những hình thức tổ chức khác của giai
cấp sản, Đảng không phải tổ chức duy nhất của giai cấp sản. Ngoài
Đảng, còn các tổ chức khác nhau: công đoàn, phụ nữ, thanh niên, hợp tác xã,...
để lãnh đạo tổ chức giai cấp đấu tranh. Trong cuộc đấu tranh giai cấp ở các thời
kỳ khác nhau, tất cả những tổ chức ấy đều tuyệt đối cần thiết cho giai cấp vô sản, vì
không những tổ chức ấy, thì không thể củng cố được các trận địa giai cấp của
giai cấp vô sản trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc đấu tranh.
19
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRÊN
NGUYÊN LÍ CỦA LENIN VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI
3.1. Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam:
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, Việt Nammột nước thuộc địa nửa phong
kiến. Mâu thuẫn gay gắt giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược
phong kiến tay sai được xem là mâu thuẫn cơ bản, bao trùm lên toàn xã hội lúc bấy
giờ. Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc
diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Các tổ chức
chính trị cũng từ đóxuất hiện: Đảng Lập hiến (đại diện cho tư sản miền Nam);
Việt Nam nghĩa đoàn; Đảng Thanh niên của học sinh, sinh viên Sài Gòn; Việt Nam
Quốc dân Đảng,... Nhưng không đảng chính trị nào khả năng quy tụ được
nhân dân, đại diện cho lợi ích của cả dân tộc.
Với hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, hội Việt Nam sự
phân hóa sâu sắc - GCCN Việt Nam hình thành nhanh chóng trở thành một lực
lượng chính trị độc lập. Sự phát triển của phong trào yêu nước, phong trào công
nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt
Nam. Phong trào công nhân, phong trào yêu nước luôn đòi hỏi phải có tổ chức lãnh
đạo thống nhất và một đường lối chính trị đúng đắn - tức phải có chính Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), người thanh niên yêu nước, sinh ra
trong điều kiện ở nước thuộc địa, đã bôn ba hoạt động trong phong trào cách mạng
nhiều nước các châu lục khác nhau. Thực tiễn hoạt động cách mạng đó của
Người đã khiến cho quá trình tiếp nhận, học hỏi đưa chủ nghĩa Mác Lênin vào
Việt Nam có những đặc thù riêng.
20
Cùng với việc tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã sự vận
dụng sáng tạo, có bổ sung, phát triển lý luận cách mạng giải phóng dân tộc,luận
về Đảngxây dựng Đảng Cộng sản thuộc địa. Tử tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam sự kế thừa, vận dụng phát triển sáng
tạo tưởng Mác - Lênin về Đảng Cộng sản; đó những phương hướng, phương
pháp bản, chủ yếu để xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ứng với từng thời
lịch sử. Quyết đi theo con đường của Lênin, trải qua quá trình nghiên cứu luận
cũng như hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã quả quyết “muốn cứu nước, giải
phóng dân tộc không cong đường nào khác con đường cách mạng sản”.
thời điểm lịch sử có nhiều ngã rẽ và và các dân tộc thuộc địa còn bị trói buộc trong
vòng tăm tối,dịch, việc tìm ra một học thuyết tiên tiến con đường cứu nước
thuận lòng dân hợp thời đại đã thể hiện tầm nhìn sự nhạy cảm chính trị đặc
biệt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Với Người, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ
“một phương lược cứu quốc đầy đủ nhất” còn là tiền đề, yếu tố bản dẫn đến
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.2. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Sự cần thiết phải thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam lúc này đã nhưng
một câu hỏi đặt ra là: thể áp dụng quan điểm của Lênin vào Việt Nam hay
không?. Bản lĩnh của Nguyễn Ái Quốc được bộc lộ, khi Người phát hiện sáng tạo
quan điểm của Lênin. Theo quan điểm chung Mác - Lênin, các nước đã hoàn
thành cách mạng dân chủ sản thì Đảng Cộng sản ra đời sự kết hợp chủ nghĩa
hội khoa học với phong trào công nhân. Nguyễn Ái Quốc phát hiện quy luật
riêng về sự ra đời của ĐCS Việt Nam cần sự xuất hiện của yếu tố thứ ba: phong
trào yêu nước. Nắm vững đặc điểm riêng của dân tộc Việt Nam - dân tộctruyền
thống yêu nước nồng nàn. Vậy nên, khi tổ chức truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin
tưởng của mình vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã coi trọng cả hai yếu tố: phong
trào công nhân và phong trào yêu nước.
| 1/32

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG ------------------------- TIỂU LUẬN MÔN HỌC : XÂY DỰNG ĐẢNG NGUYÊN LÝ CỦA V.I.LÊNIN
VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN: ĐẢNG LÀ ĐỘI TIÊN
PHONG, LÀ ĐỘI QUÂN CÓ TỔ CHỨC VÀ LÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC
CAO NHẤT CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN;
VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Minh Tuấn ThS. Đặng Thanh Phương Sinh viên : Lê Trần Hương Giang Mã sinh viên : 2051070015 Lớp :
Truyền thông quốc tế K40 Hà Nội, tháng 6 năm 2021 2 MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT..................................................................................4
MỞ ĐẦU............................................................................................................................5
1. Tính cấp thiết của đề tài....................................................................................................5
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................5
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu........................................................................................6
4. Kết cấu của tiểu luận........................................................................................................6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU...................................7 1.1.
Khái lược về khoa học Xây dựng Đảng........................................................................7 1.1.1.
Khái niệm...............................................................................................................7 1.1.2.
Lịch sử ra đời và phát triển của khoa học Xây dựng Đảng...................................7 1.2.
Khái niệm về đảng và Đảng Cộng sản Việt Nam.........................................................8 1.2.1.
Đảng.......................................................................................................................8 1.2.2.
Đảng Cộng sản.......................................................................................................9
1.3. Sự hình thành nguyên lí về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân..............................9
CHƯƠNG 2 :NGUYÊN LÍ ĐẢNG LÀ ĐỘI TIÊN PHONG, LÀ ĐỘI QUÂN CÓ TỔ
CHỨC, LÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC CAO NHẤT CỦA GCCN...............................13
2.1. Nguyên lí của Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân:...................................13
2.2. Đảng là đội tiên phong, là đội quân có tổ chức và là hình thức tổ chức cao nhất của giai
cấp công nhân........................................................................................................................13
2.2.1. Đảng là đội tiên phong của GCCN..........................................................................13
2.2.2. Đảng là bộ phận có tổ chức của GCCN...................................................................17
2.2.3. Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của GCCN.......................................................18
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRÊN
NGUYÊN LÍ CỦA LÊNIN VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI......................................................19
3.1. Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.............................19 3
3.2. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam...............................................................20
3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam....................................21
3.3.1. Trong vấn đề xây dựng Đảng về tư tưởng...............................................................21
3.3.2. Trong vấn đề xây dựng Đảng về tổ chức.................................................................23
CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT........................................................................25 4.1.
Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của GCCN...................................................25 4.2.
Thuận lợi và thách thức trong xây dựng Đảng về tư tưởng hiện nay.........................26 4.3.
Những quan điểm cần vận dụng trong công tác xây dựng Đảng...............................27
KẾT LUẬN......................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................30 4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT XHCN Xã hội chủ nghĩa CNXH Chủ nghĩa xã hội GCCN Giai cấp công nhân CNTB Chủ nghĩa tư bản ĐCS Đảng Cộng sản 5 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
V.I.Lênin là nhà lãnh tụ thiên tài, là người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân.
Người đã có công lao vô cùng to lớn đối với phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, với sự phát triển về chính đảng của giai cấp công nhân. Lênin đã xây dựng
nên lý luận về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân trong thời kì chủ nghĩa tư bản
chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Lý luận về đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân do Lênin đề ra là một trong những di sản tư tưởng có giá trị, trở thành
nền tảng tư tưởng, ảnh hưởng không nhỏ tới sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh
mà sau này chính là nền móng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những
lý luận, nguyên lí của Lênin về đảng của giai cấp công nhân và xây dựng Đảng rất
phong phú, đã và đang soi sáng trực tiếp cho công cuộc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Với bối cảnh thế giới hiện thời, Việt Nam đang bước vào thời kì mới có
nhiều biến chuyển nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Trong điều kiện như vậy,
những nguyên lý cơ bản về một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân mà Lênin
đặt nền móng vẫn luôn là cơ sở trong quá trình xây dựng và đổi mới Đảng, giúp
Đảng ta vươn lên với trí tuệ, bản lĩnh, năng lực, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong giai đoạn mới.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về những nguyên lí của Lênin về đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân nói chung, đặc biệt là nguyên lí “Đảng là đội tiên
phong, là đội quân có tổ chức và là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công
nhân” là một điều quan trọng, qua đó phân tích sự vận dụng của Lênin trong công
cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa lý
luẫn và thực tiễn sâu sắc. 6
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: trên cơ sở làm rõ bối cảnh, điều kiện, tiền đề cho sự ra đời tư
tưởng của Lênin về chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, tiểu luận đi vào
giới thiệu những nguyên lí của Lênin về đảng kiểu mới; tập trung phân tích cụ thể
một trong những nguyên lí quan trọng nhất; từ đó chỉ ra những tác động của
nguyên lí lên quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam và xây dựng Đảng ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ: làm rõ những điều kiện, bối cảnh cho sự hình thành nguyên lí của
Lênin về chính Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân; phân tích nguyên lí của
Lênin; phân tích, chỉ rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nguyên lí đó.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận chủ yếu phân tích nguyên lí “Đảng là đội tiên phong, là đội quân
có tổ chức và là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân” thông qua
việc nghiên cứu các tư tưởng và các tác phẩm mà ông viết; các mặt mà Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đạt được qua việc vận dụng nguyên lí đó: tiên phong về tư tưởng,
tổ chức trong xây dựng Đảng.
4. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, tài liệu tham khảo,
tiểu luận gồm có 4 chương lớn. 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Khái lược về khoa học Xây dựng Đảng 1.1.1. Khái niệm:
Xây dựng Đảng là khoa học nghiên cứu về quy luật, tính quy luật của công
tác xây dựng đảng cộng sản nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Khoa học xây dựng Đảng nghiên cứu những vấn đề phổ biến, có tính quy
luật của hoạt động xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức;
nghiên cứu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân. Ngay từ khi thành lập, chưa bao giờ Đảng sao nhãng về việc đẩy mạnh
công tác xây dựng Đảng. Bởi có làm tốt công tác này thì Đảng mới tồn tại và phát
triển lâu dài được, Đảng mới có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu tốt, chống lại
những âm mưu và hành động phá hoại của kẻ thù, thực hiện thắng lợi công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Trong công tác xây dựng Đảng được thể hiện
trên ba mặt: Xây dựng Đảng về chính trị; Xây dựng Đảng về tư tưởng; Xây dựng đảng về tổ chức.
1.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của khoa học Xây dựng Đảng:
Trên thế giới: khoa học Xây dựng Đảng ra đời và phát triển trên cơ sở học
thuyết Mác lênin được các đảng cộng sản kế thừa phát triển liên tục. 8
Thời kỳ Mác Ăngghen: Những tư tưởng cơ bản về đảng cộng sản và công tác
xây dựng Đảng được hình thành, phát triển, đặt nền móng cho sự ra đời của khoa học Xây dựng Đảng.
Thời kỳ Lênin: Nhiều phạm trù, khái niệm mới về xây dựng Đảng được
Lenin bổ sung và hoàn thiện. Lênin đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, tiếp tục vận
dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Mác và Ăngghen về đảng cộng sản.
Thời kỳ Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản ở Các nước XHCN ra
đời và cầm quyền: Xây dựng Đảng được nghiên cứu sâu, rộng và dần phát triển
thành một ngành khoa học.
Từ khi các đảng cộng sản cầm quyền ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông
Âu tan rã: ở các nước XHCN, khoa học xây dựng Đảng vẫn tiếp tục được nghiên
cứu, phát triển trong điều điện mới - điều kiện thực hiện cơ chế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Ở nước ta, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu
tinh hoa khoa học xây dựng Đảng trên thế giới; vận dụng và sáng tạo, bổ sung và
phát triển gắn với quá trình hình thành và phát triển của Đảng phù hợp với bối cảnh Việt Nam.
1.2. Khái niệm về đảng và Đảng Cộng sản Việt Nam 1.2.1. Đảng
Đảng chính trị là những lực lượng chính trị được tổ chức, những lực lượng
này tập hợp các công dân có chung khuynh hướng chính trị, nhằm hướng tới một
mục tiêu nhất định, và nhằm mục đích tham gia chính quyền, đồng thời có thể thay
đổi chương trình hoạt động của mình để thực hiện các mục tiêu trên. Có thể hiểu
Đảng chính trị là một hình thức tổ chức chính trị đại diện cho một giai cấp, một
tầng lớp xã hội và đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp, tầng lớp ấy.
Đặc điểm của Đảng chính trị: 9
Một là, một tổ chức xã hội tự nguyện, liên minh của những người cùng tư
tưởng, theo đuổi một mục đích nhất định, cố gắng giành quyền lãnh đạo đối với đời
sống chính trị và tổ chức xã hội.
Hai là, đảng chính trị ra đời bằng truyền bá các quan điểm tư tưởng, tiếp tục
tập hợp những người cùng chí hướng. Đảng thu hút vào hàng ngũ của mình bộ
phận tích cực nhất của giai cấp.
Ba là, đảng đại diện cho lợi ích giai cấp, đấu tranh bảo vệ lợi ích đó.
Bốn là, đảng có mục tiêu nhất định được thể hiện trong cương lĩnh hay tuyên ngôn của Đảng.
Năm là, đảng có nguyên tắc tổ chức và có tổ chức nội bộ thích hợp, có khả
năng tổ chức và vận động cử tri.
Sáu là, đảng chính trị có tiềm lực tài chính, có phương tiện vật chất. 1.2.2. Đảng Cộng sản
Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác với phong
trào công nhân. Từ khi xuất hiện, giai cấp công nhân đã đấu tranh chống lại ách áp
bức bóc lột của giai cấp tư sản. Lúc đầu những cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân trải qua nhiều tổn thất, chưa đạt được mục đích. Một trong những nguyên
nhân thất bại này là chưa có học thuyết khoa học và cách mạng dẫn đường.
Chủ nghĩa Mác được xây dựng bởi C.Mác và Ăngghen ra đời vào những
năm 40 của thế kỉ XIX đã đáp ứng được yêu cầu của phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân. Những người ưu tú trong GCCN đã tổ chức ra chính đảng của riêng
họ để lãnh đạo phong trào. Chính đảng ấy là Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, đại
biểu trung thành quyền lợi của GCCN, nhân dân lao động. Lấy chủ nghĩa Mác
Lênin làm nền tảng tư tưởng, mục đích của đảng cộng sản là đánh bại chủ nghĩa tư
bản, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới khỏi ách áp 10
bức bóc lột của CNTB, xây dựng một xã hội mới, tự do bình đẳng, con người không còn chịu áp bức.
1.3. Sự hình thành nguyên lí về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân:
C.Mác và Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên tư tưởng cơ bản về Đảng
Cộng sản, tư tưởng đó bắt nguồn từ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công
nhân, xây dựng một xã hội mới không có người bóc lột người. Trên cơ sở phân tích
một cách sâu sắc xã hội tư bản, hai ông đã khẳng định CNTB tất yếu bị diệt vong,
được thay thế bởi chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu chính là CNXH. Sự thay
thế đó được thực hiện bằng cách mạng vô sản nổ ra ở các nước tư bản, điển hình là
Anh, Pháp, Đức. Để thực hiện được sứ mệnh lịch sử, giai cấp vô sản phải thành lập
chính đảng của mình, đó là lực lượng lãnh đạo, tổ chức giai cấp vô sản thực hiện sứ
mệnh lịch sử. Mác và Ăngghen đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản về tổ chức hoạt
động của chính đảng vô sản. Hai ông đã khẳng định, GCCN là giai cấp cách mạng
nhất, tiên tiến nhất trong xã hội, nhưng GCCN chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh
lịch sử của mình khi nó tự tổ chức ra được chính đảng độc lập của mình. Những tư
tưởng đó đã ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến sự phát triển của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Quốc tế I (1864 - 1872) và Quốc tế II (1889 - 1914) đã
góp phần to lớn vào việc phát triển phong trào cách mạng của giai cấp vô sản.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX, sau khi Ăngghen qua đời, những người lãnh
đạo Quốc tế II đã phản bội GCCN, biến nhiều đảng lớn thành đảng cai lương, phụ
thuộc vào giai cấp tư sản, không còn khả năng lãnh đạo cách mạng vô sản giành
thắng lợi. Hơn nữa, CNTB phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa
đế quốc làm cho các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản phát triển đến tột cùng, nó là
sự bóc lột trơ tráo và sự áp bức vô nhân đạo nhất đối với hàng trăm triệu dân cư các
nước thuộc địa. Giai cấp tư sản từng đóng vai trò là lực lượng tiến bộ trong giai
đoạn phát triển đi lên chủ nghĩa tư bản, giờ đây đã trở thành lực lượng phản động,
cản trở sự phát triển của xã hội. 11
Thời kỳ chiến tranh và cách mạng đã bắt đầu, nhiệm vụ chuẩn bị tiến hành
cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vụ trước mắt của GCCN. Giai cấp vô sản ra
đời gắn liền với nền sản xuất công nghiệp đã và đang không ngừng lớn mạnh,
trưởng thành cả về lượng và chất, ý thức chính trị và năng lực tổ chức lực lượng
giai cấp trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Vai trò của đảng Cộng sản
được đề cao trước yêu cầu của phong trào công nhân phát triển rộng khắp thế giới:
tổ chức lại toàn bộ công tác đảng theo phương thức mới: cách mạng; giáo dục công
nhân theo tinh thần đấu tranh cách mạng để giành chính quyền; chuẩn bị và tập
trung những lực lượng dự trữ, liên minh với những người vô sản các nước, thiết lập
các mối liên hệ chặt chẽ với phong trào vô sản các nước thuộc địa.
Trong khi đó, Chủ nghĩa đế quốc tăng cường tuyên truyền những tư tưởng tư
sản vào phong trào công nhân, ráo riết tìm mọi cách đẩy mạnh sự phát triển của chủ
nghĩa cơ hội, tìm cách chia rẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Những
người đứng đầu của các Đảng dân chủ xã hội ở các nước Tây Âu ngày càng lún sâu
vào chủ nghĩa cơ hội, chúng đòi xét lại chủ nghĩa Mác, luôn tìm cách để hạn chế
phong trào cách mạng của GCCN trong khuôn khổ đấu tranh đòi cải cách cục bộ,
không đả động, ảnh hưởng đến nền móng của CNTB.
Với tình hình hoạt động của phong trào công nhân và các Đảng dân chủ xã
hội như vậy, đã làm xuất hiện yêu cầu cấp thiết là phải đấu tranh kiên quyết với chủ
nghĩa cơ hội để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác, tổ chức ra Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân. Do đó, Lênin đã thông qua các hoạt động thực tiễn, đứng ra
bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới. Người đã vạch
trần bản chất của bọn cơ hội chủ nghĩa trong các Đảng dân chủ xã hội ở Tây Âu.
Qua đó, Lênin nhận thấy cần phải thành lập ra một Đảng kiểu mới, một Đảng thực
sự cách mạng, đủ sức lãnh đạo phong trào quần chúng giành chính quyền thực hiện
cuộc cách mạng vô sản, cải tạo xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới.
Trên nền tảng tư tưởng của C.Mác và Ăngghen, đồng thời trên cơ sở thực
tiễn của phong trào công nhân quốc tế và phong trào công nhân Nga, Lênin đã xây 12
dựng một học thuyết hoàn chỉnh về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân, một
đảng khác hẳn về chất so với các đảng cơ hội chủ nghĩa trong Quốc tế II. Một Đảng
kiểu mới và coi đó là tiền đề nhất định phải có để giai cấp công nhân thực hiện
được sứ mệnh lịch sử của mình như một lực lượng lãnh đạo, thực hiện bước quá độ
cách mạng đưa loài người lên CNXH. Lênin đã khẳng định rằng:”Chúng ta cần
những Đảng thường xuyên liên hệ thực sự với quần chúng”. Thông qua các tác
phẩm và hành động của mình, Lênin kịch liệt phê phán chủ nghĩa cơ hội dân túy
tiểu tư sản, đấu tranh không khoan nhượng với các trào lưu cơ hội cải lương khác.
Lênin đã khẳng định:”Chủ nghĩa Mác dạy rằng, chính có chính đảng của
GCCN, tức là Đảng cộng sản, mới có thể tập hợp, giáo dục, tổ chức đội tiền phong
của giai cấp vô sản và của tất cả quần chúng lao động, chỉ có đội tiền phong ấy mới
có thể chống lại nổi sự dao động tiểu tư sản không thể tránh khỏi của những quần
chúng đó, chống lại nổi những truyền thống và sự tái phạm không thể tránh khỏi
của bệnh hẹp hòi phường hội hoặc những thiên kiến phường hội trong giai cấp vô
sản, và lãnh đạo tất cả những hành động liên hợp của toàn bộ giai cấp vô sản, tức là
lãnh đạo giai cấp đó về mặt chính trị và thông qua giai cấp đó, mà lãnh đạo tất cả
quần chúng lao động. Nếu không thể, thì không thể thực hiện chuyên chính vô sản được.” [7; tr.112,113]
Với ý nghĩ đó, sự kế thừa và phát triển sáng tạo của Lênin về chủ nghĩa Mác
nói chung, cũng như những tư tưởng về Đảng Cộng sản của Mác và Ăngghen, việc
xây dựng hoàn chỉnh học thuyết và nguyên lý về Đảng kiểu mới của GCCN là hoàn
toàn khách quan như một tất yếu lịch sử. 13
CHƯƠNG 2 : NGUYÊN LÍ “ĐẢNG LÀ ĐỘI TIÊN PHONG, LÀ ĐỘI QUÂN
CÓ TỔ CHỨC, LÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC CAO NHẤT CỦA GCCN” CỦA LÊNIN
2.1. Nguyên lí của Lenin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân:
Trên cơ sở kế thừa, phát triển những tư tưởng của C.Mác, Ăngghen và từ
thực tiễn xây dựng Đảng vô sản của giai cấp công nhân ở Nga, Lênin đã đề ra
những nguyên lý cơ bản về xây dựng Đảng kiểu mới của GCCN như sau:
- Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
- Đảng là đội tiên phong, là đội quân có tổ chức và là hình thức tổ chức cao
nhất của giai cấp công nhân.
- Khi giành được chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo của chuyên chính vô sản.
- Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
- Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động; tự phê bình và phê bình là
quy luật phát triển của Đảng.
- Đảng phải luôn luôn giữ vững mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, kiên
quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng
- Đảng được tăng cường do tích cực phát triển đảng và thường xuyên đưa
những người không còn đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi Đảng
- Tính chất quốc tế của đảng cộng sản 14
2.2. Đảng là đội tiên phong, là đội quân có tổ chức và là hình thức tổ chức
cao nhất của giai cấp công nhân
2.2.1. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Nguyên lý Đảng là đội tiên phong của GCCN đã được Mác Ăngghen nêu ra
trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản năm 1848. Lúc bấy giờ, vì để chống lại quan
điểm của phái Mensêvích chủ trương xóa nhòa ranh giới giữa Đảng và giai cấp, coi
Đảng và giai cấp là một, Lênin đã khẳng định lại: Đảng là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp. Đảng không thể hòa lẫn với toàn bộ giai cấp
như là những người Mensêvich đã làm. Ai hòa lẫn đảng và giai cấp thì người đó đã
thủ tiêu đảng. Đảng là đội tiên phong đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân,
định hướng chính trị, giáo dục, động viên, tập hợp lực lượng và tổ chức cho quần
chúng hành động cách mạng. Nhưng muốn thật sự là đội tiên phong, Đảng phải
được vũ trang bằng lý luận tiên phong, bằng sự hiểu biết các quy luật của cách
mạng và các quy luật chính trị - xã hội, Đảng phải đứng đầu GCCN, phải hình xa
hơn GCCN, phải dìu dắt giai cấp công nhân chứ không phải đi theo đuôi phong
trào tự phát. Đảng phải có những điều khoản lựa chọn những phần tử tiên tiến, có
giác ngộ trong GCCN. Đảng chỉ thu hút vào đội ngũ của mình những người ưu tú
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động - có giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, có trình độ lý luận chính trị, qua thực tiễn đấu tranh cách mạng đã chứng tỏ
là người ưu tú và được quần chúng tín nhiệm.
Theo quan điểm của Lênin, đảng là đội tiên phong của GCCN so với toàn bộ
giai cấp. Là đội tiên phong, đảng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp của giai cấp
công nhân, có lý luận tiên phong và có tổ chức chặt chẽ. Đội tiền phong có nghĩa
vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đông đảo đó lên trình độ tiên
tiến ấy. Và chúng ta chính là sẽ nhắm mắt lại và quên mất như vậy, nếu xóa bỏ sự
khác nhau giữa những người gần gũi đảng và những đảng viên, giữa những phần tử
giác ngộ và tích cực với những người giúp đỡ chúng ta”. Vì vậy, Đảng là đội tiên 15
phong, là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp. Đảng tiên phong trên ba phương diện:
Đảng tiên phong trên phương diện lí luận:
Khi đề cập đến các quan điểm về Đảng và xây dựng Đảng kiểu mới, Lênin
luôn đề cao vai trò của lý luận. Theo Người:”Chỉ đảng nào được một lý luận tiền
phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiền phong”
và muốn có lý luận tiền phong đúng, phải có thế giới quan và phương pháp luận
cách mạng và khoa học. Vì, có lý luận cách mạng và khoa học Đảng mới có cơ sở
để xác định nhiệm vụ chính trị cho từng thời kì, từng giai đoạn của cách mạng và
giúp cho Đảng xác định đường lối, chủ trương, chính sách đúng. Có lý luận cách
mạng và khoa học mới giúp Đảng nâng cao được trình độ trí tuệ, có khả năng nhìn
xa trông rộng các vấn đề trong nước và quốc tế đã và đang đặt ra, có thể phân tích,
đánh giá đúng tình hình và đưa ra được dự báo chính xác. Đảng mới nắm bắt, nhận
thức được quy luật khách quan của xã hội, từ đó giúp cho Đảng tránh và hạn chế
được những sai lầm trong việc xây dựng đường lối, chính sách và trong tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách đó.
Chủ nghĩa Mác là cơ sở khoa học để Đảng lãnh đạo trong công tác xây dựng
Đảng, là ngọn cờ đoàn kết những người vô sản, là cơ sở để vạch ra cương lĩnh hành
động, chiến lược và sách lược cách mạng, là nguồn gốc đi đến thắng lợi. Lênin
khẳng định:”cơ sở lý luận vững chắc như đá hoa cương”, “ là sự thừa kế thẳng và
trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, kinh tế
chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội” [8;tr.49,50]. Không nên áp dụng chủ nghĩa Mác
một cách cứng nhắc, giáo điều, đó không phải là một công thức sẵn có, hoàn thiện
mà phải biết vận dụng và phát triển nó. Để làm tròn vai trò người chiến sĩ tiên
phong đòi hỏi Đảng phải trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia. 16
Đảng Cộng sản Việt Nam với những tiến bộ về kinh tế - xã hội trong những
năm đổi mới vừa qua đã có những đổi mới về tư duy lý luận, Đổi mới tư duy lý
luận không phải là xa rời những nguyên lý, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin
mà là để ta hiểu đúng hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn những quan điểm, tư tưởng
của Mác Lênin. Ngược lại, những trì trệ, kể cả sự dao động, mất niềm tin ở một số
người đều bắt nguồn từ sự lạc hậu về mặt lý luận.
Đảng tiên phong trên phương diện tổ chức:
Muốn làm tròn vai trò tiên phong thì Đảng phải được tổ chức hết sức chặt
chẽ, khoa học. Đảng chỉ là bộ phận của giai cấp. Về mặt số lượng, Đảng ít hơn
nhiều lần so với giai cấp. Về mặt chất lượng, Đảng chỉ bao gồm những đại biểu ưu
tú nhất của giai cấp, có giác ngộ nhất, ý thức tổ chức kỷ luật cao nhất. Đảng là đội
tiên phong của giai cấp chứ không phải toàn bộ giai cấp. Tính tổ chức do tính tiên
phong quy định, muốn là tròn vai trò người chiến sĩ tiên phong đòi hỏi Đảng phải
được tổ chức hết sức chặt chẽ, khoa học. Đảng là hiện thân của tính tổ chức, tính kỷ
luật chặt chẽ và nghiêm minh. Chỉ có như vậy, mới đảm bảo được sự thống nhất về
ý chí và hành động của toàn Đảng.
Tổ chức biến uy quyền về mặt tư tưởng thành uy quyền về mặt tổ chức.
Thông qua tổ chức đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng biến hành động
cách mạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lao động. Tổ chức là cốt
vật để đảm bảo cho sự thống nhất về chính trị, tư tưởng của Đảng, làm cho sức
mạnh của Đảng nhân lên gấp bội. Thông qua tổ chức, Đảng trở thành một chính thể
thống nhất có kết cấu chặt chẽ và vững chắc, có quy định rõ ràng những mối quan
hệ cá nhân với tổ chức và giữa tổ chức với nhau.Sau khi đã được tổ chức, Đảng sẽ
có một ý chí thống nhất, và ý chí thống nhất ấy của một nghìn, một trăm nghìn, một
triệu người tiên tiến sẽ trở thành ý chí của giai cấp. 17
Đảng tiên phong trên phương diện hành động:
Tiên phong trên phương diện hành động là nhằm biến các mục tiêu, lý tưởng
cách mạng của Đảng thành hiện thực của cuộc sống. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ, đảng
viên của Đảng phải gương mẫu đi đầu trong cuộc đấu tranh chống lại mọi tập tục
lạc hậu, những thói quen xấu đang cản trở quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng đặt ra.
Lênin khẳng định: tính Đảng không chỉ thể hiện trên lời nói mà còn thể hiện
ở việc làm. Những đảng viên hữu danh vô thực thì cho cũng không lấy. Người cũng
chỉ ra rằng, một đảng có thực sự là đảng của giai cấp công nhân hay không, điều đó
không chỉ phụ thuộc vào chỗ đảng đó bao gồm ít, nhiều công nhân mà còn phụ
thuộc cơ bản vào chỗ ai lãnh đạo, nội dung, hành động và sách lược chính trị đảng đó ra sao.
2.2.2. Đảng là bộ phận có tổ chức của giai cấp công nhân:
Đảng không chỉ là đội tiên phong giác ngộ của GCCN mà còn là bộ phận có
tổ chức của GCCN. Lênin viết:” Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai
cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức. Bị phân chia vì sự cạnh
tranh vô chính phủ đang thịnh hành trong giới tư sản, bị đè nặng dưới sự lao động
nô lệ cho tư bản, bị dìm sâu tận đáy của cảnh khổ cực, của sự cùng quẫn và thoái
hóa, nhưng giai cấp vô sản vẫn có thể trở thành - và tất nhiên sẽ trở thành - một lực
lượng vô địch, chỉ là vì lý do này: sự thống nhất tư tưởng của giai cấp vô sản dựa
trên cơ sở những nguyên lí chủ nghĩa Mác được củng cố bằng sự thống nhất vật
chất của tổ chức tập hợp hàng triệu người lao động thành một đạo quân của GCCN.
Đương đầu với đạo quan ấy, thì tất cả cái chính quyền đã già cỗi của chế độ chuyên
chế Nga hoàng lẫn cái uy lực đang già cỗi của tư bản quốc tế cũng đều không thể
nào chống lại nổi” [9;tr.490]
Đảng phải lãnh đạo cuộc đấu tranh thực tiễn của GCCN, của toàn thể những
người lao động, hướng cố gắng của họ vào một mục đích. Mà điều đó chỉ có thể 18
thực hiện được nếu như tất cả các đảng viên trong đảng phải được tổ chức lại, đoàn
kết bằng sự thống nhất ý chí, tham gia vào một trong các tổ chức của Đảng, phục
tùng mọi nghị quyết của Đảng. Lênin cho rằng, sự thống nhất trong những vấn đề
cương lĩnh và sách lược là điều kiện tất yếu, nhưng chưa đầy đủ để bảo đảm sự
thống nhất của đảng và sự tập trung hóa công tác của đảng. Muốn đạt được sự
thống nhất trên đây, thì còn phải có sự thống nhất về tổ chức, điều này không thể
thực hiện được với một đảng vừa mới ít nhiều vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của
một tiểu tổ, và chưa có một bản điều lệ đã được chính thức quy định, chưa có
nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, bộ phận phục tùng toàn bộ.
2.2.3. Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân:
Đảng chẳng những là đội tiên phong, đội tiên phong có tổ chức mà còn là tổ
chức cao nhất của giai cấp công nhân. Theo Lenin:”chúng ta là đảng của giai cấp,
bởi vậy hầu như toàn bộ giai cấp (và trong thời kỳ chiến tranh, trong thời kỳ nội
chiến thì toàn bộ giai cấp không trừ một người nào cả) cần phải hoạt động dưới sự
lãnh đạo của đảng ta, phải triệt để siết thật chặt hàng ngũ chung quanh đảng” [9;tr.289]
Sở dĩ đảng có trách nhiệm và khả năng lãnh đạo tất cả các tổ chức của
GCCN, vì đảng bao gồm những phần tử tiên tiến giác ngộ nhất, được vũ trang lý
luận khoa học và có tổ chức chặt chẽ. Mức độ ảnh hưởng của đảng đối với những
tổ chức là do tinh thần đoàn kết và tính tổ chức nội bộ của đảng quyết định. Trong
khi khẳng định đảng là hình thức tổ chức cao nhất của GCCN, Lênin đã phê phán
lý luận của bè lũ cơ hội đòi tính độc lập, tính trung lập của các tổ chức. Sự lãnh đạo
chính trị của Đảng phải mở rộng ra tất cả những hình thức tổ chức khác của giai
cấp vô sản, vì Đảng không phải là tổ chức duy nhất của giai cấp vô sản. Ngoài
Đảng, còn có các tổ chức khác nhau: công đoàn, phụ nữ, thanh niên, hợp tác xã,...
để lãnh đạo và tổ chức giai cấp đấu tranh. Trong cuộc đấu tranh giai cấp ở các thời
kỳ khác nhau, tất cả những tổ chức ấy đều tuyệt đối cần thiết cho giai cấp vô sản, vì
không có những tổ chức ấy, thì không thể củng cố được các trận địa giai cấp của
giai cấp vô sản trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc đấu tranh. 19
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRÊN
NGUYÊN LÍ CỦA LENIN VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI
3.1. Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam:
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Mâu thuẫn gay gắt giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và
phong kiến tay sai được xem là mâu thuẫn cơ bản, bao trùm lên toàn xã hội lúc bấy
giờ. Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc
diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Các tổ chức
chính trị cũng từ đó mà xuất hiện: Đảng Lập hiến (đại diện cho tư sản miền Nam);
Việt Nam nghĩa đoàn; Đảng Thanh niên của học sinh, sinh viên Sài Gòn; Việt Nam
Quốc dân Đảng,... Nhưng không có đảng chính trị nào có khả năng quy tụ được
nhân dân, đại diện cho lợi ích của cả dân tộc.
Với hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có sự
phân hóa sâu sắc - GCCN Việt Nam hình thành và nhanh chóng trở thành một lực
lượng chính trị độc lập. Sự phát triển của phong trào yêu nước, phong trào công
nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt
Nam. Phong trào công nhân, phong trào yêu nước luôn đòi hỏi phải có tổ chức lãnh
đạo thống nhất và một đường lối chính trị đúng đắn - tức phải có chính Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), người thanh niên yêu nước, sinh ra
trong điều kiện ở nước thuộc địa, đã bôn ba hoạt động trong phong trào cách mạng
ở nhiều nước và các châu lục khác nhau. Thực tiễn hoạt động cách mạng đó của
Người đã khiến cho quá trình tiếp nhận, học hỏi và đưa chủ nghĩa Mác Lênin vào
Việt Nam có những đặc thù riêng. 20
Cùng với việc tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã có sự vận
dụng sáng tạo, có bổ sung, phát triển lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, lý luận
về Đảng và xây dựng Đảng Cộng sản ở thuộc địa. Tử tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng
tạo tư tưởng Mác - Lênin về Đảng Cộng sản; đó là những phương hướng, phương
pháp cơ bản, chủ yếu để xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ứng với từng thời kì
lịch sử. Quyết đi theo con đường của Lênin, trải qua quá trình nghiên cứu lý luận
cũng như hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã quả quyết “muốn cứu nước, giải
phóng dân tộc không có cong đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Ở
thời điểm lịch sử có nhiều ngã rẽ và và các dân tộc thuộc địa còn bị trói buộc trong
vòng tăm tối, nô dịch, việc tìm ra một học thuyết tiên tiến và con đường cứu nước
thuận lòng dân và hợp thời đại đã thể hiện tầm nhìn và sự nhạy cảm chính trị đặc
biệt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Với Người, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là
“một phương lược cứu quốc đầy đủ nhất” mà còn là tiền đề, yếu tố cơ bản dẫn đến
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.2. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Sự cần thiết phải thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam lúc này đã rõ nhưng
một câu hỏi đặt ra là: có thể áp dụng quan điểm của Lênin vào Việt Nam hay
không?. Bản lĩnh của Nguyễn Ái Quốc được bộc lộ, khi Người phát hiện sáng tạo
quan điểm của Lênin. Theo quan điểm chung Mác - Lênin, ở các nước đã hoàn
thành cách mạng dân chủ tư sản thì Đảng Cộng sản ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa
xã hội khoa học với phong trào công nhân. Nguyễn Ái Quốc phát hiện quy luật
riêng về sự ra đời của ĐCS Việt Nam cần sự xuất hiện của yếu tố thứ ba: phong
trào yêu nước. Nắm vững đặc điểm riêng của dân tộc Việt Nam - dân tộc có truyền
thống yêu nước nồng nàn. Vậy nên, khi tổ chức truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và
tư tưởng của mình vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã coi trọng cả hai yếu tố: phong
trào công nhân và phong trào yêu nước.