1
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XUẤT BẢN
******
TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG
Tên đề tài: Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính chính quyền
trong cách mạng tháng Tám năm 1945
Họ tên sinh viên: Trần Bảo Anh
Lớp: Xuất bản điện tử K41
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thành Long
Hà Nội - 2021
Mục lục
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lý do lựa chọn đề tài...................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu............................................................................2
4. Kết cấu đề tài...............................................................................................2
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC NĂM 1945..........2
1. Tình hình thế giới........................................................................................3
2. Tình hình trong nước..................................................................................4
CHƯƠNG 2: NHÂN DÂN TA ĐỨNG LÊN TỔNG KHỞI NGHĨA...............5
2.1. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa................................................5
2.2. Toàn dân Tổng khởi nghĩa.......................................................................7
2.3. Sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa................................10
2.4. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám.........................................11
2.4.1. Đối với Việt Nam..................................................................................11
2.4.2. Đối với thời đại....................................................................................12
2.5. Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng tháng Tám............................13
2.6. Kinh nghiệm lịch sử...............................................................................14
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ NGÀY NAY.........16
3.1. Ý nghĩa vai trò lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng tháng Tám.....16
3.2. Liên hệ thực tế trong thời đại ngày nay...............................................19
KẾT LUẬN.....................................................................................................20
Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................................21
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Mùa thu năm 1945, toàn thể nhân dân Việt Nam đã đứng lên tiến hành
tổng khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, làm nên
Cách mạng tháng Tám. Có thể nói, Cách mạng tháng Tám là mốc son đáng
nhớ trong lịch sử dân tộc Việt Nam cũng như là một sự kiện vĩ đại có ảnh
hưởng lớn tới những cuộc cách mạng giành độc lập trên toàn thế giới sau này.
Thắng lợi này đã mở ra một thời kì độc lập tự do cho dân tộc ta, từ thân phận
nô lệ để trở thành những con người tự chủ nắm giữ vận mệnh đất nước. Cũng
từ đó, Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một đất nước theo thể chế
dân chủ cộng hòa, tiến tới xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Cũng như bao cuộc chiến tranh gìn giữ đất nước khác, vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là một nhân tố quyết định trực tiếp tới sự
thắng lợi trên các mặt trận. Những chiến thắng lừng lẫy năm châu của dân tộc
ta không thể nào thiếu được sự dẫn dắt, đường lối đúng đắn, sáng suốt của
Đảng. Ngay cả trong thời bình hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt
Nam đang dần trở thành một đất nước văn minh, giàu mạnh, đạt được những
thành tựu to lớn trong công cuộc phát triển và có tiếng nói trên phạm vi thế
giới. Thiếu đi Đảng cầm quyền, Việt Nam ta chắc chắn không thể hoàn thành
tốt nhiệm vụ dựng nước và giữ nước của mình.
Thông qua việc tìm tòi, học hỏi về những trang sử vàng của dân tộc ta,
thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay cần được nâng cao nhận thức về vai trò và
những đóng góp của Đảng cho sự phát triển của dân tộc, không chỉ trên con
đường phát triển vững mạnh mà còn trong thời kì kháng chiến, với con đường
trải dài những khó khăn, thử thách và thiếu thốn. Từ những lí do trên, em xin
2
chọn “Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính chính quyền trong cách mạng
tháng Tám năm 1945” làm đề tài nghiên cứu cho tiểu luận.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Phân tích hoàn cảnh lịch sử, quá trình chiến đấu của
nhân dân ta trong cách mạng tháng Tám năm 1945, chỉ ra ý nghĩa đường lối
và sự lãnh đạo của Đảng trong chiến đấu.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ điều kiện lịch sử trong nước và quốc tế dẫn tới cách mạng
tháng Tám năm 1945.
- Phân tích quá trình đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng trong cách mạng tháng Tám.
- Chỉ ra ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa của Đảng trong việc lãnh đạo, đề ra
đường lối chiến đấu.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp thống nhất logic và lịch sử cùng các
phương pháp khác như phân tích, đối chiếu, tổng hợp,...
4. Kết cấu đề tài
Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài
tiểu luận được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Bối cảnh thế giới và trong nước năm 1945.
Chương 2: Toàn dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa.
Chương 3: Ý nghĩa vai trò lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng tháng
Tám năm 1945 và liên hệ thực tế ngày nay.
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC
NĂM 1945
3
1. Tình hình thế giới
Chiến tranh thế giới lần thứ hai đang dần đi đến hồi kết. Tuy nhiên, tình
hình chính trị giữa các nước trên thế giới vẫn diễn ra vô cùng căng thẳng.
Ngày 9/5/1945, tại châu Âu, phát xít Đức đã đầu hàng quân Đồng minh
không điều kiện. Ngày 8/8/1945, ngay sau sự đầu hàng của phát xít Đức, Liên
Xô đã tuyên chiến với Nhật Bản và đánh tan đạo quân Quan Đông tại Mãn
Châu (Trung Quốc).
Ngày 6 và ngày 9/8/1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố
của Nhật, lần lượt là Hiroshima và Nagadaski. Nhắc tới vụ ném bom này, dù
ở bất kì thời điểm nào, người ta cũng không ngừng xót thương và lên án sự
tàn bạo của đế quốc Mỹ bởi đây là hai trong số những thành phố có dân số
cao nhất ở Nhật Bản, con số thương vong lên tới hàng vạn người và hậu quả
vẫn tồn tại tới ngày nay.
Ngày 14/8/1945, Nhật Hoàng cũng tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh
vô điều kiện. Lực lượng quân Nhật đang chiếm đóng ở nước ta dần hoang
mang, dao động nhưng vẫn chưa buông vũ khí, giữ nguyên các chốt phòng
thủ.
Thắng lợi của quân đội Liên Xô cùng các nước Đồng minh chống phát
xít đã trở thành nguồn động lực thúc đẩy các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa
ở châu Á đứng lên đấu tranh, đòi quyền tự do và độc lập dân tộc. Trong bản
tuyên bố Potsdam được lập ra giữa các nước Đồng minh, quân đội Anh và
Tưởng sẽ giải giáp quân đội Nhật tại Đông Dương nhưng trên thực tế, các thế
lực đều có lăm le âm mưu riêng với Đông Dương. Trong khi đó, những thế
lực phản động, chống đối trong nước cũng đang âm thầm hoạt động, chống
phá chính quyền cách mạng.
4
2. Tình hình trong nước
Ngày 9/3/1945, Nhật chính thức nổ phát súng đầu tiên trong cuộc đảo
chính độc chiếm Đông Dương, lật đổ chính quyền Pháp. Dưới sự tấn công của
Nhật, thực dân Pháp chỉ chống cự yếu ớt, cuối cùng chuyển sang thế đầu
hàng.
Tuy nhiên, với phán đoán nhanh nhạy, ngay trướcc khi Nhật nổ súng lật
đổ Pháp, Tổng Bí thư Trường Chinh đã triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ
Trung ương Đảng, phân tích tình hình cuộc đảo chính, khả năng diễn biến và
đề ra đường lối trong tương lai. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng chính thức ra chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Không chỉ làm rõ bản chất của cuộc đảo chính tranh giành lợi ích, Đảng cũng
đã thay đổi đối tượng cách mạng thành kẻ thủ trước mắt và duy nhất là phát
xít Nhật. Khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp, Nhật” được đổi thành “Đánh đuổi phát
xít Nhật”, thêm vào khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân
dân Đông Dương”.
Xác định những điều kiện tốt giúp Tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín
muồi, Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền đề cho
Tổng khởi nghĩa sau này. Bản chị thị ngày 12/3/1945 đã trở thành kim chỉ
nam cho mọi đường lối, hành động của Đảng và mặt trận Việt Minh. Từ giữa
tháng 3/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rộng khắp, sôi nổi
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh. Từ đó, tinh thần sẵn sàng
khởi nghĩa đã được lan rộng khắp cả nước, tình thế cách mạng đang trực tiếp
đến gần.
Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang đi đến cao trào,
nạn đói lại ập đến ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ do quân Nhật, Pháp đã
vơ vét hàng triệu tấn lúa gạo của nhân dân ta, gây ra sự kiện “Nạn đói năm
1945” đầy đau thương bởi gần hai triệu đồng bào ta đã chết đói. Để đáp ứng
5
nguyện vọng cấp thiết của nhân dân cũng như là lợi ích sống còn của quần
chúng, Đảng đã đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”.
Thời cơ giành chính quyền chỉ tồn tại từ khi Nhật đầu hàng quân Đồng
Minh tới trước khi quân Đồng Minh tiến vào Đông Dương khoảng nửa cuối
tháng 8/1945. Trước tình hình đó, vấn đề giành chính quyền cần phải gấp rút
thực hiện như một cuộc chạy đua với quân Đồng minh. Đảng và nhân dân ta
không được bỏ lỡ thời cơ mà còn phải lường trước những nguy cơ tiềm ẩn,
dẫn cách mạng tới đại thắng.
CHƯƠNG 2: NHÂN DÂN TA ĐỨNG LÊN TỔNG KHỞI NGHĨA
2.1. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa
Ngày 12/8/1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa
trong khu. Ngày 13/8/1945, nhận được tin phát xít Nhật chuẩn bị đầu hàng
quân Đồng Minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy
ban khởi nghĩa toàn quốc gồm 5 người do đồng chí Trường Chinh phụ trách.
23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số 1, phát đi
lệnh Tổng khởi nghĩa toàn quốc: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh. Cơ hội có
một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà...
Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô
cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về phe ta!”. [3, tr.
421 – 422]ư
Trước những diễn biến phức tạp, Hội nghị toàn quốc của Đảng được tổ
chức tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến 15/8/1945 do chủ tịch Hồ
Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Hội nghị đã phân tích tình
hình lúc bấy giờ và đưa ra dự đoán: “Quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế
quốc Pháp lăm le khôi phục lại vị trí cũ ở Đông Dương”. Hội nghị đã nhận
định, thời cơ chín muồi để nhân dân ta đứng lên giành lại chính quyền đã tới.
6
Từ đó, hội nghị đã quyết định Đảng phải nắm lấy cơ hội phát động Tổng khởi
nghĩa và lãnh đạo toàn dân đấu tranh. Khẩu hiệu lúc ấy là: “Phản đối xâm
lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền toàn dân!”.
3 nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa đã được xác định thông qua hội nghị
là: tập trung, thống nhất và kịp thời. Cùng đó, phương hướng hành động trong
Tổng khởi nghĩa cũng được đề ra: phải chiếm lấy ngay những nơi chắc thắng
bất kể thành thị hay nông thôn; quân sự phối hợp cùng chính trị; phải dập tắt
tinh thần quân địch để chúng hàng trước khi đánh. Việc chiếm giữ những căn
cứ chính ở đô thị cũng như thành lập chính quyền quân dân trước khi quân
Đồng minh tiến vào rất quan trọng.
Không chỉ vậy, hội nghị đã đưa ra cả những nhiệm vụ cần giải quyết
sau khi giành lại chính quyền trên mặt trận đối nội và đối ngoại. Về đối nội,
hội nghị đã lấy 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh làm chính sách cơ
bản cho chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, ta cần thực hiện nguyên tắc
bình đẳng, thêm bạn bớt thù, biến mâu thuẫn giữa Pháp – Anh, Mỹ - Tưởng
thành cơ hội, không được đối đầu nhiều kẻ thù cùng lúc; phải kết hợp sức
mạnh thời đại từ Liên Xô cũng như sự ủng hộ của nhân dân các nước trên thế
giới, đặc biệt là Pháp và Trung Quốc.
Nối tiếp Hội nghị toàn quốc của Đảng, Đại hội quốc dân tại Tân Trào
(Tuyên Quang) đã được Tổng bộ Việt Minh triệu tập vào ngày 16/8/1945. Đại
hội đã chính thức tán thành quyết định Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua
10 chính sách lớn của Việt Minh cũng như thành lập Ủy ban giải phóng dân
tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh nắm giữ vai trò lãnh đạo. Đại hội là một bước
tiến rất lớn trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta bởi
những hoạt động, nghị quyết của đại hội chính là ý chí của toàn dân, trực tiếp
phản ánh nguyện vọng và lợi ích của toàn dân về quyền dân sinh, dân chủ và
nêu cao quyết tâm đấu tranh vì độc lập, tự do của đồng bào.
7
Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi tới nhân
dân và chiến sĩ trên cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến.
Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta...
Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng
bào hãy dũng cảm tiến lên”. [7, tr. 596] Quyết định triệu tập Đại hội Quốc dân
ngay trong thời điểm lịch sử này chính là mấu chốt, thể hiện sự sáng tạo cũng
như sự nhạy bén trước tình hình của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Toàn dân Tổng khởi nghĩa
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam
từ khắp mọi miền tổ quốc đã vùng dậy giành lại chính quyền. Cuộc khởi
nghĩa từng phần đã tiến lên Tổng khởi nghĩa ở cả thành thị và nông thôn. Căn
cứ vào tình hình cụ thể ở địa phương, chính quyền đã đứng lên lên lãnh đạo
nhân dân tiến hành khởi nghĩa.
Ngày 13/8/1945, Xứ ủy Bắc Kỳ đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để
nhận định tình hình, chuẩn bị nắm chắc thời cơ khởi nghĩa. Trong cuộc họp,
hội nghị đã đưa ra nhận định: “Xúc tiến công việc sửa soạn khởi nghĩa, nơi
nào có điều kiện lấy chính quyền thì lấy”.
Ngày 14/8/1945, sau khi bao vây, tấn công lực lượng quân địch, lực
lượng vũ trang tỉnh Quảng Ngãi đã giải phóng các huyện, thành công giành
chính quyền. Từ ngày 14/8/1945, các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái
Nguyên,... đã tấn công địch. Cùng với đó, hầu hết các tỉnh ở châu thổ sông
Hồng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,... cũng lần lượt nổi dậy giành chính
quyền.
Ngày 15/8/1945, Xứ ủy Bắc Kỳ tiếp tục triệu tập một cuộc họp tại Hà
Đông ngay sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện. Mặc dù
chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương nhưng với tinh thần dám
nghĩ, dám làm trên cơ sở Chỉ thị ngày 12/3/1945 của Đảng, hội nghị đã quyết
8
định thời cơ đã đến, phải khẩn trương nắm bắt. Lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy
được khẩn trương truyền tới các địa phương.
Từ ngày 14 tới 18/8/1945, tuy chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa
nhưng với tinh thần khẩn trương, cấp thiết của các nghị quyết, chỉ thị trước đó
của Đảng cũng như tình hình thực tế của địa phương, nhiều địa phương đã
chủ động nổi dậy khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo kịp thời của đảng bộ. Ngày
18/8/1945, trên địa bàn cả nước đã có bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất la
Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam. Ngày 16/8/1945, đồng chí
Nguyên Giáp đã chỉ huy một đơn vị giải phóng quân tiến về thị xã Tây
Nguyên và tiến công vào thị xã Tuyên Quang. Một số địa phương ở Hải Ninh,
Quảng Yên, Kiến An cũng lần lượt vùng dậy đấu tranh.
Trong số đó, xứ ủy Bắc Kỳ đặc biệt quan tâm tới địa bàn Hà Nội bởi
đây là vị trí có tầm quan trọng chiến lược với Tổng khởi nghĩa. Ngày
15/8/1945, Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội (Ủy ban khởi nghĩa) được
thành lập. Ngày 17/8, một số vùng ngoại thành Hà Nội đã giành thắng lợi.
Còn ở nội thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Mặt trận
Việt Minh, cuộc mít tinh của chính quyền bù nhìn tại Nhà hát lớn đã biến
thành cuộc mít tinh của quần chúng ủng hộ cách mạng. Hàng vạn quần chúng
đã tham dự, nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh, hô vang khẩu
hiệu: “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo bù nhìn”, “Việt Nam độc lập”.
Đứng trước tinh thần cách mạng mạnh mẽ của nhân dân thủ đô cũng
như toàn quốc, chính quyền bù nhìn và phát xít Nhật không dám chống cự.
Nắm bắt thời cơ này, Ủy ban khởi nghĩa quyết định toàn dân khởi nghĩa vào
ngày 19/8/1945. Sáng ngày 19/8, hàng chục nghìn người dân nội, ngoại thành
Hà Nội xuống phố biểu dương lực lượng trước Nhà hát lớn. Đúng 11 giờ, Ủy
ban khởi nghĩa đọc lời kêu gọi, chính thức biến cuộc mít tinh thành cuộc biểu
tình vũ trang giành chính quyền. Dưới sự hỗ trợ của các đội tự vệ chiến đấu,
9
quần chúng cách mạng lần lượt làm chủ các cơ quan đầu não của địch như
Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Mật thám, Sở Cảnh sát Trung ương, Sở bưu điện,
Trại bảo an binh. Kết quả, tới buổi tối cùng ngày, cuộc khởi nghĩa đã giành
được thắng lợi hoàn toàn ở Hà Nội. Thắng lợi này có ý nghĩa quan trọng đối
với cả nước, nó không chỉ làm chính quyền tay sai Nhật ở các nơi bị tê liệt mà
còn khích lệ, cổ vũ tinh thần nhân dân các tỉnh thành phố khác đứng lên đấu
tranh. Các cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra đồng loạt trên địa bản cả nước và
thành công nhanh chóng tại tỉnh lỵ.
Thấy được vị trí chiến lược của Huế, Trung ương Đảng cùng Đảng bộ
Thừa Thiên Huế đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa đồng thời ban quyết định
giành chính quyền vào ngày 23/8. Ủy ban đã nhanh chóng huy động quần
chúng từ các huyện, giành được chính quyền ở ngoại thành và kết hợp với
nhân dân nội thành xuống đường biểu dương lực lượng, biểu tình thị uy. Nắm
bắt được sự tê liệt của bộ máy chính quyền cũng như quân đội Nhật, quần
chúng đã thuận lợi chiếm đóng các công sở. Đêm 23/8, Chính phủ cách mạng
lâm thời gửi điện đòi Bảo Đại thoái vị.
Trong ngày 24 và 25/8, chính quyền địch liên tục bị sụp đổ ở các nơi
như Hà Nam, Quảng Yên, Phú Thọ, Kon Tum,...
Tại Sài Gòn và các tỉnh, Xứ ủy Nam Kỳ đã quyết định khởi nghĩa vào
ngày 25/8, khí thế nhân dân sục sôi mạnh mẽ. Ngay trong sáng cùng ngày, các
đơn vị “Xung phong công đoàn”, “Thanh niên tiền phong”, công nhân, nông
dân từ các tỉnh kéo về với giáo mác, gậy tầm vông được trang bị đầy đủ. Với
sự chuẩn bị cùng lực lượng hùng hậu, nhân dân nhanh chóng làm chủ tình
hình, thành công giành lại chính quyền ở Sài Gòn.
Chỉ trong nửa cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã hoàn toàn
thắng lợi, nhân dân cả nước giành được chính quyền. Sự thành công của các
cuộc khởi nghĩa tại Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị, địa phương cả nước
10
đã xóa bỏ cơ quan đầu não của kẻ thù, đem lại ý nghĩa to lớn cho cuộc Tổng
khởi nghĩa.
2.3. Sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và
Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam từ Tân Trào (Tuyên Quang) về đến Hà
Nội. Sáng ngày 26/8/1945, Người chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung
ương Đảng, đưa ra những chủ trương đối nội và đối ngoại trong tình hình
mới, đề nghị mở rộng Chính phủ lâm thời, chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ
chức lễ mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ ra mắt nhân dân. Đồng thời, đây
cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập ra
chế độ dân chủ cộng hòa.
Chiều 30/8/1945, cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại Ngọ Môn, thành
phố Huế. Đây là dấu mốc lịch sử, đánh dấu chế độ phong kiến Việt Nam
chính thức sụp đổ. Trước hàng vạn dân chúng, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái
vị, nộp ấn, kiếm cho đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong Tuyên cáo thoái vị, Bảo Đại nói: “Sau hai
mươi năm ngai vàng bệ ngọc đã biết bao ngậm đắng nuốt cay, từ nay trẫm vui
được làm dân tự do của một nước độ lập.”
Sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, việc xác lập vị thế
người chủ đất nước trước khi những người “Đồng minh” đến và thực hiện
những âm mưu riêng được Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thời nhận
định về tính cấp thiết, khẩn trương. Công tác chuẩn bị ngày lễ Độc lập được
tiến hành gấp rút, nhất là việc soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập của nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Tại căn gác số 48 Hàng Ngang, Hà Nội, Bác Hồ
đã được tín nhiệm, đề cử cho việc soạn thảo văn bản mang tính lịch sử này.
Trong ngày 30/8/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời một số cán bộ trong Ban
Thường vụ Trung ương Đảng và các vị bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời
11
đến trao đổi, đóng góp ý kiến cho bản dự thảo Tuyên ngôn độc lập. Có lẽ,
trong đời vị chủ tịch ấy đã viết nên bao tuyệt tác nhưng Tuyên ngôn độc lập
lại là tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt nhất. “Bản Tuyên ngôn độc lập là hoa, là
quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những
người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong
những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn độc
lập là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu
nhân dân Việt Nam” [11, tr. 119]. Tới 31/8/1945, Bác đã bổ sung một số điểm,
bản Tuyên ngôn độc lập chính thức được hoàn chỉnh.
Ngày 2/9/1945, trước sự chứng kiến của hàng chục vạn người dân Hà
Nội và các vùng lân cận, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, chính thức khai sinh nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn độc lập là văn kiện lịch sử có ý nghĩa vô
cùng trọng đại đối với đất nước, trong đó đã chỉ rõ: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập.
Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và
của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.” [8, tr. 3]
Tuyên ngôn độc lập là một bản anh hùng ca có giá trị cả về tư tưởng và
thực tiễn. Nó thể hiện ý chí quyết tâm giữ nước và dựng nước, tinh thần anh
dũng chiến đấu quyết liệt của dân tộc ta. Cũng từ đó, ngày 2/9/1945 trở thành
một sự kiện trọng đại trong lịch sử trong dân tộc ta, thậm chí có tầm ảnh
hưởng tới công cuộc cách mạng của những dân tộc trên toàn thế giới.
2.4. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám
2.4.1. Đối với Việt Nam
Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, dựng nước và giữ nước ở Việt
Nam, sự thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trong
những trang sử chói lọi, vẻ vang nhất. Cuộc cách mạng đã đồng thời đập tan
12
ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, xóa bỏ chế độ phong kiến
lỗi thời, lạc hậu. Không chỉ vậy, cuộc cách mạng đã đưa dân tộc ta bước vào
một thời đại mới, thời đại mà nhân dân là những người làm chủ vận mệnh đất
nước, toàn dân được độc lập tự do. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được lập ra, những vấn đề cơ bản của mổ cuộc cách mạng xã hội. Đảng ta
chính thức trở thành một đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước, không
còn hoạt động bí mật như trước. Đây là một cuộc đổi đời của toàn dân tộc ta
trong lịch sử cách mạng. Cuộc Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát
triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam. Từ đây, chính quyền nhà nước cách
mạng cùng với Đảng sẽ lãnh đạo nhân dân Việt Nam trên con đường độc lập,
tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Theo đồng chí Trường Chinh đánh giá, cách mạng tháng Tám là “một
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Mục đích của nó là làm cho dân tộc Việt
Nam thoát khỏi ách đế quốc, làm cho nước Việt Nam thành một nước độc lập,
tự do”. [1, tr. 169]
2.4.2. Đối với thời đại
Mở rộng ra phạm vi trên toàn thế giới, cách mạng tháng Tám năm 1945
đã là nguồn động lực cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc,
chống lại các nước thuộc địa, đặc biệt là các nước khu vực châu Á, châu Phi
và Mỹ Latinh. Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nửa phong kiến
nhỏ bé đã đứng lên đấu tranh thành công, tự phải phóng bản thân khỏi ách
thống trị của đế quốc thực dân. Nhân dân Việt Nam đã chứng minh cho quy
luật “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh” và “Chính nghĩa luôn chiến thắng”
bằng tinh thần đoàn kết, sức mạnh chiến đấu tự lực tự cường của mình.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một phần khăng khít của
cách mạng chống phát xít trên toàn thế giới, Bởi vậy, thắng lợi của cách mạng
tháng Tám năm 1945 không chỉ là thành tựu riêng của dân tộc Việt Nam mà
13
còn là nốt nhạc trong bản hòa ca của tất cả các dân tộc đang đấu tranh giành
quyền làm chủ, vì độc lập, tự do. Thành công này đã tạo ra một bước tiến lớn
trong cuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc, chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ
thống thuộc địa đế quốc, mở đầu thời kì suy sụp và tan rã của chủ nghĩa thực
dân cũ.
Không chỉ vậy, qua cách mạng tháng Tám, Đảng và nhân dân ta đã trực
tiếp củng cố thêm tính đúng đắn của học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân trên phương diện lý luận và thực tiễn, cũng như góp phần làm đa
dạng, phong phú hơn kho tàng học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn
đề giải phóng dân tộc. Đường lối đấu tranh của dân tộc ta trong cuộc cách
mạng đã để lại nhiều kinh nghiệm phong phú, bài học cho phong trào đấu
tranh giải phóng trên toàn thế giới về sau này.
Đánh giá về ý nghĩa dân tộc và thời đại của Cách mạng tháng Tám năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động
mà nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc
bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch
sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15
tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công nắm chính quyền toàn quốc.”
2.5. Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
Trước tiên, dựa trên những điều kiện khách quan, cuộc Tổng khởi nghĩa
của chúng ta đã diễn ra khi thời cơ chính muồi: Kẻ thủ trực tiếp của dân tộc ta
là phát xít Nhật đã bị đánh bại bởi các lực lượng dân chủ trên thế giới. Không
chỉ vậy, quân Nhật ở Đông Dương và tay sai dao động, dần tan rã. Trước
những thời cơ nghìn năm có một đó, Đảng ta đã nắm bắt thời cơ chuẩn xác,
tiến hành Tổng khởi nghĩa trước khi quân Đồng minh tiến vào Đông Dương
thực hiện mưu đồ riêng.
14
Tuy nhiên, không thể không kể đến những yếu tố nội lực xuất phát từ
dân tộc ta. Với truyền thống dựng nước và giữ nước lâu dài, nhân dân ta đã
sớm hình thành tinh thần cách mạng mạnh mẽ, gắn kết toàn thể dân tộc ta
thành khối đại đoàn kết, tình yêu nước luôn chảy trong cơ thể. Bởi vậy, khi
Đảng đưa ra chỉ thị cho cuộc Tổng khởi nghĩa, toàn dân ta đã đứng lên một
lòng chiến đấu, không một phút nào nao núng. Thêm vào đó, thời điểm Cách
mạng tháng Tám được phát động, nhân dân ta đã rèn luyện 15 năm để trở
thành lực lượng chính trị hùng hậu qua 3 cao trào cách mạng đầy thử thách,
gian khổ: cao trào cách mạng 1930 – 1931, cao trào dân chủ 1936 – 1939, cao
trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945. Tất nhiên, sự lãnh đạo của Đảng là nhân
tố chủ yếu nhất cho thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa. Đảng đã kêu gọi
được sức mạnh chiến đấu của toàn dân trong mặt trận Việt Minh, dựa trên
khối liên minh công nông, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng xây dựng
được đường lối cách mạng đúng đắn, phương pháp chiến đấu vô cùng sáng
tạo dựa trên kinh nghiệm đấu tranh dày dặn, những thời cơ chín muồi của
điều kiện lịch sử. Nhân dân ta dưới những chỉ đạo kiên quyết đã tạo thành sức
mạnh áp đảo kẻ thù, giành lại được chính quyền.
2.6. Kinh nghiệm lịch sử
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 kết thúc thắng lợi với sự ra đời của
nước Việt Nam mới, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, để lại cho thế hệ sau
nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc, có giá trị thực tiễn lớn lao.
Thứ nhất, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Trải qua ba cao trào cách
mạng, Đảng ta đã nhận định tuy hai nhiệm vụ ấy không tách rời nhau nhưng
nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng cho nhiệm vụ chống đế quốc là
chủ yếu nhất. Phân tích được những mâu thuẫn nổ ra trong xã hội Việt Nam
khi Chiến tranh thế giới thứ hai ảnh hưởng, Đảng đã tập trung vào kẻ thù
15
Nhật – Pháp và bè lũ tay sai của chúng, đồng thời đề cao việc giải quyết
những nhu cầu cấp thiết, khẩn trương của giải phóng dân tộc. Trong Cách
mạng tháng Tám, Đảng đã kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến.
Thứ hai, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông.
Cuộc Cách mạng tháng Tám đã huy động lực lượng đấu tranh của hơn 20
triệu người dân trên toàn lãnh thổ. Nhưng điều kiện để cuộc nổi dậy có thể
tiến hành chính là Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân và nông dân. Sau ba cao
trào cách mạng, đạo quân chủ lực đã ngày càng củng cố hơn, mạnh mẽ hơn
trong ý thức và chiến đấu. Đạo quân này chính là nền tảng để Đảng có thể kêu
gọi toàn dân đứng lên đấu tranh, huy động sức mạnh khối đại đoàn kết dân
tộc.
Thứ ba, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Giữa lúc mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít cao trào, địa chủ phong
kiến cũng dần có bất đồng với chủ nghĩa đế quốc, Đảng ta đã tranh thủ cô lập
kẻ thù chính là bọn đế quốc phát xít cùng bè phái phản động; lôi kéo những
phần tử trung lập. Nhờ vậy, lực lượng của cuộc Tổng tiến công đã tăng cao,
đấu tranh giành chính quyền dễ dàng thuận lợi.
Thứ tư, biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp. Trong quá
trình Cách mạng tháng Tám diễn ra, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang
đã phối hợp chặt chẽ với nhau, người dân nổi dậy cùng lực lượng vũ trang
tiến công trên địa bàn khắp cả nước, trong đó đặc biệt chú ý vị trí chủ chốt
như Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa là sự kết hợp đấu
tranh trên nhiều mặt trận, của nhiều cuộc đấu tranh từng phần trước khi tiến
lên khởi nghĩa cả nước, đập tan cơ quan đầu não của giai cấp thống trị, giành
chính quyền về tay nhân dân.
16
Thứ năm, nắm vững nghệ thuật chọn thời cơ. Trong những văn kiện
Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã nhiều lần chỉ ra những
điều kiện khách quan có thể giúp cho khởi nghĩa thắng lợi. Với Cách mạng
tháng Tám, Đảng đã một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của thời cơ chín
muồi kết hợp với những nhân tố chủ quan. Đảng ta đã chuẩn bị sẵn sàng về
mặt tư tưởng cũng như lực lượng toàn dân để đứng lên chống lại thực dân
Pháp, tiến tới Tổng khởi nghĩa thắng lợi hoàn toàn.
Thứ sáu, xây dựng một Đảng cẩm quyền vững mạnh lãnh đạo nhân
dân. Đảng ta rất quan trọng việc quán triệt chủ trương, đường lối trong công
cuộc cách mạng và xây dựng đất nước. Vận dụng linh hoạt những học thuyết
của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta không ngừng bổ sung và phát triển
những đường lối, sách lược trong cách mạng và thực tiễn. Thêm vào đó, Đảng
luôn chăm lo công tác tổ chức, giáo dục rèn luyện đảng viên, cán bộ về ý thức
chính trị cũng như lối sống lành mạnh.
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ LIÊN HỆ
THỰC TẾ NGÀY NAY
3.1. Ý nghĩa vai trò lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng tháng
Tám
Ngay sau khi ra đời vào tháng 2/1930, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta
phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Mặc
dù chưa thể “hất cẳng” thực dân Pháp để giành chính quyền về tay nhân dân
nhưng khối liên minh công nhân - nông dân đã được hình thành qua phong
trào. Đây là kết quả có ý nghĩa đặc biệt to lớn. Đó nền tảng để xây dựng mặt
trận dân tộc thống nhất và huy động được nguồn sức mạnh của nhân dân trên
địa bàn cả nước. Không chỉ vậy, phong trào cách mạng 1930- 1931 cũng được
17
coi như bước tập dượt, rèn luyện cho dân tộc ta với Cách mạng tháng Tám
sau này.
Với những biến đổi phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, giai
đoạn 1936-1939, Đảng chủ trương phát động phong trào dân chủ với mục tiêu
trước mắt là đấu tranh đòi quyền tự do, dân sinh, dân chủ. Đảng đã thể hiện sự
nhạy bén trong chủ trương khi kết hợp hài hòa giữa nhiệm vụ chiến lược và
nhiệm vụ sách lược, giữa quyền lợi cả dân tộc và lợi ích giai cấp. Thêm vào
đó, Đảng còn thay đổi linh hoạt những biện pháp đấu tranh phù hợp với hoàn
cảnh và mục tiêu cách mạng: công khai kết hợp bí mật, hợp pháp kết hợp bất
hợp pháp để đạt được mục tiêu. Từ phong trào dân chủ 1936- 1939, lực lượng
chính trị cho cách mạng đã được hình thành và nâng cao vai trò, khả năng
chiến đấu để trở nên ngày một hùng hậu hơn. Lực lượng ấy sau này đã đóng
vai trò chiến lược quan trọng trong Tổng khởi nghĩa năm 1945.
Năm 1939, trước những thay đổi nhanh chóng của bối cảnh quốc tế và
tình hình trong nước do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đảng đã
nhanh chóng thay đổi chiến lược. Đảng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, đưa nhân dân ta bước vào thời kì trực tiếp vận động cứu nước, thể
hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng.
Trong Hội nghị Ban chấp hàn Trung ương Đảng lần thứ 8, Đảng đã
quyết định giơ cao hơn nữa ngọn cờ cách mạng, đồng thời xác định hình thái
cuộc khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi
nghĩa. Những tư tưởng và đường lối đó đã quyết định chiều hướng phát triển
của cách mạng nước ta, ảnh hưởng trực tiếp đến thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám năm 1945.
Song song với quá trình xây dựng lực lực chính trị, Đảng tập trung từng
bước phát triển lực lượng và xây dựng cơ quan đầu não để chuẩn bị những
điều kiện cần thiết, chờ thời điểm chín muồi tiến tới khởi nghĩa giành chính

Preview text:

1
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA XUẤT BẢN ****** TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG
Tên đề tài: Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính chính quyền
trong cách mạng tháng Tám năm 1945
Họ tên sinh viên: Trần Bảo Anh
Lớp: Xuất bản điện tử K41
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thành Long Hà Nội - 2021 Mục lục
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lý do lựa chọn đề tài...................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu............................................................................2
4. Kết cấu đề tài...............................................................................................2
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC NĂM 1945..........2
1. Tình hình thế giới........................................................................................3
2. Tình hình trong nước..................................................................................4
CHƯƠNG 2: NHÂN DÂN TA ĐỨNG LÊN TỔNG KHỞI NGHĨA...............5
2.1. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa................................................5
2.2. Toàn dân Tổng khởi nghĩa.......................................................................7
2.3. Sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa................................10
2.4. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám.........................................11
2.4.1. Đối với Việt Nam..................................................................................11
2.4.2. Đối với thời đại....................................................................................12
2.5. Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng tháng Tám............................13
2.6. Kinh nghiệm lịch sử...............................................................................14
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ NGÀY NAY.........16
3.1. Ý nghĩa vai trò lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng tháng Tám.....16
3.2. Liên hệ thực tế trong thời đại ngày nay...............................................19
KẾT LUẬN.....................................................................................................20
Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................................21 1 MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Mùa thu năm 1945, toàn thể nhân dân Việt Nam đã đứng lên tiến hành
tổng khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, làm nên
Cách mạng tháng Tám. Có thể nói, Cách mạng tháng Tám là mốc son đáng
nhớ trong lịch sử dân tộc Việt Nam cũng như là một sự kiện vĩ đại có ảnh
hưởng lớn tới những cuộc cách mạng giành độc lập trên toàn thế giới sau này.
Thắng lợi này đã mở ra một thời kì độc lập tự do cho dân tộc ta, từ thân phận
nô lệ để trở thành những con người tự chủ nắm giữ vận mệnh đất nước. Cũng
từ đó, Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một đất nước theo thể chế
dân chủ cộng hòa, tiến tới xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Cũng như bao cuộc chiến tranh gìn giữ đất nước khác, vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là một nhân tố quyết định trực tiếp tới sự
thắng lợi trên các mặt trận. Những chiến thắng lừng lẫy năm châu của dân tộc
ta không thể nào thiếu được sự dẫn dắt, đường lối đúng đắn, sáng suốt của
Đảng. Ngay cả trong thời bình hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt
Nam đang dần trở thành một đất nước văn minh, giàu mạnh, đạt được những
thành tựu to lớn trong công cuộc phát triển và có tiếng nói trên phạm vi thế
giới. Thiếu đi Đảng cầm quyền, Việt Nam ta chắc chắn không thể hoàn thành
tốt nhiệm vụ dựng nước và giữ nước của mình.
Thông qua việc tìm tòi, học hỏi về những trang sử vàng của dân tộc ta,
thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay cần được nâng cao nhận thức về vai trò và
những đóng góp của Đảng cho sự phát triển của dân tộc, không chỉ trên con
đường phát triển vững mạnh mà còn trong thời kì kháng chiến, với con đường
trải dài những khó khăn, thử thách và thiếu thốn. Từ những lí do trên, em xin 2
chọn “Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính chính quyền trong cách mạng
tháng Tám năm 1945” làm đề tài nghiên cứu cho tiểu luận.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Phân tích hoàn cảnh lịch sử, quá trình chiến đấu của
nhân dân ta trong cách mạng tháng Tám năm 1945, chỉ ra ý nghĩa đường lối
và sự lãnh đạo của Đảng trong chiến đấu.  Nhiệm vụ:
- Làm rõ điều kiện lịch sử trong nước và quốc tế dẫn tới cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Phân tích quá trình đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng trong cách mạng tháng Tám.
- Chỉ ra ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa của Đảng trong việc lãnh đạo, đề ra
đường lối chiến đấu.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp thống nhất logic và lịch sử cùng các
phương pháp khác như phân tích, đối chiếu, tổng hợp,...
4. Kết cấu đề tài
Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài
tiểu luận được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Bối cảnh thế giới và trong nước năm 1945.
Chương 2: Toàn dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa.
Chương 3: Ý nghĩa vai trò lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng tháng
Tám năm 1945 và liên hệ thực tế ngày nay.
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC NĂM 1945 3
1. Tình hình thế giới
Chiến tranh thế giới lần thứ hai đang dần đi đến hồi kết. Tuy nhiên, tình
hình chính trị giữa các nước trên thế giới vẫn diễn ra vô cùng căng thẳng.
Ngày 9/5/1945, tại châu Âu, phát xít Đức đã đầu hàng quân Đồng minh
không điều kiện. Ngày 8/8/1945, ngay sau sự đầu hàng của phát xít Đức, Liên
Xô đã tuyên chiến với Nhật Bản và đánh tan đạo quân Quan Đông tại Mãn Châu (Trung Quốc).
Ngày 6 và ngày 9/8/1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố
của Nhật, lần lượt là Hiroshima và Nagadaski. Nhắc tới vụ ném bom này, dù
ở bất kì thời điểm nào, người ta cũng không ngừng xót thương và lên án sự
tàn bạo của đế quốc Mỹ bởi đây là hai trong số những thành phố có dân số
cao nhất ở Nhật Bản, con số thương vong lên tới hàng vạn người và hậu quả
vẫn tồn tại tới ngày nay.
Ngày 14/8/1945, Nhật Hoàng cũng tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh
vô điều kiện. Lực lượng quân Nhật đang chiếm đóng ở nước ta dần hoang
mang, dao động nhưng vẫn chưa buông vũ khí, giữ nguyên các chốt phòng thủ.
Thắng lợi của quân đội Liên Xô cùng các nước Đồng minh chống phát
xít đã trở thành nguồn động lực thúc đẩy các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa
ở châu Á đứng lên đấu tranh, đòi quyền tự do và độc lập dân tộc. Trong bản
tuyên bố Potsdam được lập ra giữa các nước Đồng minh, quân đội Anh và
Tưởng sẽ giải giáp quân đội Nhật tại Đông Dương nhưng trên thực tế, các thế
lực đều có lăm le âm mưu riêng với Đông Dương. Trong khi đó, những thế
lực phản động, chống đối trong nước cũng đang âm thầm hoạt động, chống
phá chính quyền cách mạng. 4
2. Tình hình trong nước
Ngày 9/3/1945, Nhật chính thức nổ phát súng đầu tiên trong cuộc đảo
chính độc chiếm Đông Dương, lật đổ chính quyền Pháp. Dưới sự tấn công của
Nhật, thực dân Pháp chỉ chống cự yếu ớt, cuối cùng chuyển sang thế đầu hàng.
Tuy nhiên, với phán đoán nhanh nhạy, ngay trướcc khi Nhật nổ súng lật
đổ Pháp, Tổng Bí thư Trường Chinh đã triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ
Trung ương Đảng, phân tích tình hình cuộc đảo chính, khả năng diễn biến và
đề ra đường lối trong tương lai. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng chính thức ra chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Không chỉ làm rõ bản chất của cuộc đảo chính tranh giành lợi ích, Đảng cũng
đã thay đổi đối tượng cách mạng thành kẻ thủ trước mắt và duy nhất là phát
xít Nhật. Khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp, Nhật” được đổi thành “Đánh đuổi phát
xít Nhật”, thêm vào khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”.
Xác định những điều kiện tốt giúp Tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín
muồi, Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền đề cho
Tổng khởi nghĩa sau này. Bản chị thị ngày 12/3/1945 đã trở thành kim chỉ
nam cho mọi đường lối, hành động của Đảng và mặt trận Việt Minh. Từ giữa
tháng 3/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rộng khắp, sôi nổi
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh. Từ đó, tinh thần sẵn sàng
khởi nghĩa đã được lan rộng khắp cả nước, tình thế cách mạng đang trực tiếp đến gần.
Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang đi đến cao trào,
nạn đói lại ập đến ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ do quân Nhật, Pháp đã
vơ vét hàng triệu tấn lúa gạo của nhân dân ta, gây ra sự kiện “Nạn đói năm
1945” đầy đau thương bởi gần hai triệu đồng bào ta đã chết đói. Để đáp ứng 5
nguyện vọng cấp thiết của nhân dân cũng như là lợi ích sống còn của quần
chúng, Đảng đã đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”.
Thời cơ giành chính quyền chỉ tồn tại từ khi Nhật đầu hàng quân Đồng
Minh tới trước khi quân Đồng Minh tiến vào Đông Dương khoảng nửa cuối
tháng 8/1945. Trước tình hình đó, vấn đề giành chính quyền cần phải gấp rút
thực hiện như một cuộc chạy đua với quân Đồng minh. Đảng và nhân dân ta
không được bỏ lỡ thời cơ mà còn phải lường trước những nguy cơ tiềm ẩn,
dẫn cách mạng tới đại thắng.
CHƯƠNG 2: NHÂN DÂN TA ĐỨNG LÊN TỔNG KHỞI NGHĨA
2.1. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa
Ngày 12/8/1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa
trong khu. Ngày 13/8/1945, nhận được tin phát xít Nhật chuẩn bị đầu hàng
quân Đồng Minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy
ban khởi nghĩa toàn quốc gồm 5 người do đồng chí Trường Chinh phụ trách.
23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số 1, phát đi
lệnh Tổng khởi nghĩa toàn quốc: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh. Cơ hội có
một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà...
Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô
cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về phe ta!”. [3, tr. 421 – 422]ư
Trước những diễn biến phức tạp, Hội nghị toàn quốc của Đảng được tổ
chức tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến 15/8/1945 do chủ tịch Hồ
Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Hội nghị đã phân tích tình
hình lúc bấy giờ và đưa ra dự đoán: “Quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế
quốc Pháp lăm le khôi phục lại vị trí cũ ở Đông Dương”. Hội nghị đã nhận
định, thời cơ chín muồi để nhân dân ta đứng lên giành lại chính quyền đã tới. 6
Từ đó, hội nghị đã quyết định Đảng phải nắm lấy cơ hội phát động Tổng khởi
nghĩa và lãnh đạo toàn dân đấu tranh. Khẩu hiệu lúc ấy là: “Phản đối xâm
lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền toàn dân!”.
3 nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa đã được xác định thông qua hội nghị
là: tập trung, thống nhất và kịp thời. Cùng đó, phương hướng hành động trong
Tổng khởi nghĩa cũng được đề ra: phải chiếm lấy ngay những nơi chắc thắng
bất kể thành thị hay nông thôn; quân sự phối hợp cùng chính trị; phải dập tắt
tinh thần quân địch để chúng hàng trước khi đánh. Việc chiếm giữ những căn
cứ chính ở đô thị cũng như thành lập chính quyền quân dân trước khi quân
Đồng minh tiến vào rất quan trọng.
Không chỉ vậy, hội nghị đã đưa ra cả những nhiệm vụ cần giải quyết
sau khi giành lại chính quyền trên mặt trận đối nội và đối ngoại. Về đối nội,
hội nghị đã lấy 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh làm chính sách cơ
bản cho chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, ta cần thực hiện nguyên tắc
bình đẳng, thêm bạn bớt thù, biến mâu thuẫn giữa Pháp – Anh, Mỹ - Tưởng
thành cơ hội, không được đối đầu nhiều kẻ thù cùng lúc; phải kết hợp sức
mạnh thời đại từ Liên Xô cũng như sự ủng hộ của nhân dân các nước trên thế
giới, đặc biệt là Pháp và Trung Quốc.
Nối tiếp Hội nghị toàn quốc của Đảng, Đại hội quốc dân tại Tân Trào
(Tuyên Quang) đã được Tổng bộ Việt Minh triệu tập vào ngày 16/8/1945. Đại
hội đã chính thức tán thành quyết định Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua
10 chính sách lớn của Việt Minh cũng như thành lập Ủy ban giải phóng dân
tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh nắm giữ vai trò lãnh đạo. Đại hội là một bước
tiến rất lớn trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta bởi
những hoạt động, nghị quyết của đại hội chính là ý chí của toàn dân, trực tiếp
phản ánh nguyện vọng và lợi ích của toàn dân về quyền dân sinh, dân chủ và
nêu cao quyết tâm đấu tranh vì độc lập, tự do của đồng bào. 7
Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi tới nhân
dân và chiến sĩ trên cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến.
Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta...
Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng
bào hãy dũng cảm tiến lên”. [7, tr. 596] Quyết định triệu tập Đại hội Quốc dân
ngay trong thời điểm lịch sử này chính là mấu chốt, thể hiện sự sáng tạo cũng
như sự nhạy bén trước tình hình của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Toàn dân Tổng khởi nghĩa
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam
từ khắp mọi miền tổ quốc đã vùng dậy giành lại chính quyền. Cuộc khởi
nghĩa từng phần đã tiến lên Tổng khởi nghĩa ở cả thành thị và nông thôn. Căn
cứ vào tình hình cụ thể ở địa phương, chính quyền đã đứng lên lên lãnh đạo
nhân dân tiến hành khởi nghĩa.
Ngày 13/8/1945, Xứ ủy Bắc Kỳ đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để
nhận định tình hình, chuẩn bị nắm chắc thời cơ khởi nghĩa. Trong cuộc họp,
hội nghị đã đưa ra nhận định: “Xúc tiến công việc sửa soạn khởi nghĩa, nơi
nào có điều kiện lấy chính quyền thì lấy”.
Ngày 14/8/1945, sau khi bao vây, tấn công lực lượng quân địch, lực
lượng vũ trang tỉnh Quảng Ngãi đã giải phóng các huyện, thành công giành
chính quyền. Từ ngày 14/8/1945, các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái
Nguyên,... đã tấn công địch. Cùng với đó, hầu hết các tỉnh ở châu thổ sông
Hồng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,... cũng lần lượt nổi dậy giành chính quyền.
Ngày 15/8/1945, Xứ ủy Bắc Kỳ tiếp tục triệu tập một cuộc họp tại Hà
Đông ngay sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện. Mặc dù
chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương nhưng với tinh thần dám
nghĩ, dám làm trên cơ sở Chỉ thị ngày 12/3/1945 của Đảng, hội nghị đã quyết 8
định thời cơ đã đến, phải khẩn trương nắm bắt. Lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy
được khẩn trương truyền tới các địa phương.
Từ ngày 14 tới 18/8/1945, tuy chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa
nhưng với tinh thần khẩn trương, cấp thiết của các nghị quyết, chỉ thị trước đó
của Đảng cũng như tình hình thực tế của địa phương, nhiều địa phương đã
chủ động nổi dậy khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo kịp thời của đảng bộ. Ngày
18/8/1945, trên địa bàn cả nước đã có bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất la
Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam. Ngày 16/8/1945, đồng chí Võ
Nguyên Giáp đã chỉ huy một đơn vị giải phóng quân tiến về thị xã Tây
Nguyên và tiến công vào thị xã Tuyên Quang. Một số địa phương ở Hải Ninh,
Quảng Yên, Kiến An cũng lần lượt vùng dậy đấu tranh.
Trong số đó, xứ ủy Bắc Kỳ đặc biệt quan tâm tới địa bàn Hà Nội bởi
đây là vị trí có tầm quan trọng chiến lược với Tổng khởi nghĩa. Ngày
15/8/1945, Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội (Ủy ban khởi nghĩa) được
thành lập. Ngày 17/8, một số vùng ngoại thành Hà Nội đã giành thắng lợi.
Còn ở nội thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Mặt trận
Việt Minh, cuộc mít tinh của chính quyền bù nhìn tại Nhà hát lớn đã biến
thành cuộc mít tinh của quần chúng ủng hộ cách mạng. Hàng vạn quần chúng
đã tham dự, nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh, hô vang khẩu
hiệu: “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo bù nhìn”, “Việt Nam độc lập”.
Đứng trước tinh thần cách mạng mạnh mẽ của nhân dân thủ đô cũng
như toàn quốc, chính quyền bù nhìn và phát xít Nhật không dám chống cự.
Nắm bắt thời cơ này, Ủy ban khởi nghĩa quyết định toàn dân khởi nghĩa vào
ngày 19/8/1945. Sáng ngày 19/8, hàng chục nghìn người dân nội, ngoại thành
Hà Nội xuống phố biểu dương lực lượng trước Nhà hát lớn. Đúng 11 giờ, Ủy
ban khởi nghĩa đọc lời kêu gọi, chính thức biến cuộc mít tinh thành cuộc biểu
tình vũ trang giành chính quyền. Dưới sự hỗ trợ của các đội tự vệ chiến đấu, 9
quần chúng cách mạng lần lượt làm chủ các cơ quan đầu não của địch như
Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Mật thám, Sở Cảnh sát Trung ương, Sở bưu điện,
Trại bảo an binh. Kết quả, tới buổi tối cùng ngày, cuộc khởi nghĩa đã giành
được thắng lợi hoàn toàn ở Hà Nội. Thắng lợi này có ý nghĩa quan trọng đối
với cả nước, nó không chỉ làm chính quyền tay sai Nhật ở các nơi bị tê liệt mà
còn khích lệ, cổ vũ tinh thần nhân dân các tỉnh thành phố khác đứng lên đấu
tranh. Các cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra đồng loạt trên địa bản cả nước và
thành công nhanh chóng tại tỉnh lỵ.
Thấy được vị trí chiến lược của Huế, Trung ương Đảng cùng Đảng bộ
Thừa Thiên Huế đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa đồng thời ban quyết định
giành chính quyền vào ngày 23/8. Ủy ban đã nhanh chóng huy động quần
chúng từ các huyện, giành được chính quyền ở ngoại thành và kết hợp với
nhân dân nội thành xuống đường biểu dương lực lượng, biểu tình thị uy. Nắm
bắt được sự tê liệt của bộ máy chính quyền cũng như quân đội Nhật, quần
chúng đã thuận lợi chiếm đóng các công sở. Đêm 23/8, Chính phủ cách mạng
lâm thời gửi điện đòi Bảo Đại thoái vị.
Trong ngày 24 và 25/8, chính quyền địch liên tục bị sụp đổ ở các nơi
như Hà Nam, Quảng Yên, Phú Thọ, Kon Tum,...
Tại Sài Gòn và các tỉnh, Xứ ủy Nam Kỳ đã quyết định khởi nghĩa vào
ngày 25/8, khí thế nhân dân sục sôi mạnh mẽ. Ngay trong sáng cùng ngày, các
đơn vị “Xung phong công đoàn”, “Thanh niên tiền phong”, công nhân, nông
dân từ các tỉnh kéo về với giáo mác, gậy tầm vông được trang bị đầy đủ. Với
sự chuẩn bị cùng lực lượng hùng hậu, nhân dân nhanh chóng làm chủ tình
hình, thành công giành lại chính quyền ở Sài Gòn.
Chỉ trong nửa cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã hoàn toàn
thắng lợi, nhân dân cả nước giành được chính quyền. Sự thành công của các
cuộc khởi nghĩa tại Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị, địa phương cả nước 10
đã xóa bỏ cơ quan đầu não của kẻ thù, đem lại ý nghĩa to lớn cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
2.3. Sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và
Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam từ Tân Trào (Tuyên Quang) về đến Hà
Nội. Sáng ngày 26/8/1945, Người chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung
ương Đảng, đưa ra những chủ trương đối nội và đối ngoại trong tình hình
mới, đề nghị mở rộng Chính phủ lâm thời, chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ
chức lễ mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ ra mắt nhân dân. Đồng thời, đây
cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập ra
chế độ dân chủ cộng hòa.
Chiều 30/8/1945, cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại Ngọ Môn, thành
phố Huế. Đây là dấu mốc lịch sử, đánh dấu chế độ phong kiến Việt Nam
chính thức sụp đổ. Trước hàng vạn dân chúng, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái
vị, nộp ấn, kiếm cho đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong Tuyên cáo thoái vị, Bảo Đại nói: “Sau hai
mươi năm ngai vàng bệ ngọc đã biết bao ngậm đắng nuốt cay, từ nay trẫm vui
được làm dân tự do của một nước độ lập.”
Sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, việc xác lập vị thế
người chủ đất nước trước khi những người “Đồng minh” đến và thực hiện
những âm mưu riêng được Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thời nhận
định về tính cấp thiết, khẩn trương. Công tác chuẩn bị ngày lễ Độc lập được
tiến hành gấp rút, nhất là việc soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập của nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Tại căn gác số 48 Hàng Ngang, Hà Nội, Bác Hồ
đã được tín nhiệm, đề cử cho việc soạn thảo văn bản mang tính lịch sử này.
Trong ngày 30/8/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời một số cán bộ trong Ban
Thường vụ Trung ương Đảng và các vị bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời 11
đến trao đổi, đóng góp ý kiến cho bản dự thảo Tuyên ngôn độc lập. Có lẽ,
trong đời vị chủ tịch ấy đã viết nên bao tuyệt tác nhưng Tuyên ngôn độc lập
lại là tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt nhất. “Bản Tuyên ngôn độc lập là hoa, là
quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những
người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong
những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn độc
lập là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu
nhân dân Việt Nam” [11, tr. 119]. Tới 31/8/1945, Bác đã bổ sung một số điểm,
bản Tuyên ngôn độc lập chính thức được hoàn chỉnh.
Ngày 2/9/1945, trước sự chứng kiến của hàng chục vạn người dân Hà
Nội và các vùng lân cận, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, chính thức khai sinh nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn độc lập là văn kiện lịch sử có ý nghĩa vô
cùng trọng đại đối với đất nước, trong đó đã chỉ rõ: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập.
Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và
của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.” [8, tr. 3]
Tuyên ngôn độc lập là một bản anh hùng ca có giá trị cả về tư tưởng và
thực tiễn. Nó thể hiện ý chí quyết tâm giữ nước và dựng nước, tinh thần anh
dũng chiến đấu quyết liệt của dân tộc ta. Cũng từ đó, ngày 2/9/1945 trở thành
một sự kiện trọng đại trong lịch sử trong dân tộc ta, thậm chí có tầm ảnh
hưởng tới công cuộc cách mạng của những dân tộc trên toàn thế giới.
2.4. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám
2.4.1. Đối với Việt Nam
Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, dựng nước và giữ nước ở Việt
Nam, sự thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trong
những trang sử chói lọi, vẻ vang nhất. Cuộc cách mạng đã đồng thời đập tan 12
ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, xóa bỏ chế độ phong kiến
lỗi thời, lạc hậu. Không chỉ vậy, cuộc cách mạng đã đưa dân tộc ta bước vào
một thời đại mới, thời đại mà nhân dân là những người làm chủ vận mệnh đất
nước, toàn dân được độc lập tự do. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được lập ra, những vấn đề cơ bản của mổ cuộc cách mạng xã hội. Đảng ta
chính thức trở thành một đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước, không
còn hoạt động bí mật như trước. Đây là một cuộc đổi đời của toàn dân tộc ta
trong lịch sử cách mạng. Cuộc Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát
triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam. Từ đây, chính quyền nhà nước cách
mạng cùng với Đảng sẽ lãnh đạo nhân dân Việt Nam trên con đường độc lập,
tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Theo đồng chí Trường Chinh đánh giá, cách mạng tháng Tám là “một
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Mục đích của nó là làm cho dân tộc Việt
Nam thoát khỏi ách đế quốc, làm cho nước Việt Nam thành một nước độc lập, tự do”. [1, tr. 169]
2.4.2. Đối với thời đại
Mở rộng ra phạm vi trên toàn thế giới, cách mạng tháng Tám năm 1945
đã là nguồn động lực cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc,
chống lại các nước thuộc địa, đặc biệt là các nước khu vực châu Á, châu Phi
và Mỹ Latinh. Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nửa phong kiến
nhỏ bé đã đứng lên đấu tranh thành công, tự phải phóng bản thân khỏi ách
thống trị của đế quốc thực dân. Nhân dân Việt Nam đã chứng minh cho quy
luật “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh” và “Chính nghĩa luôn chiến thắng”
bằng tinh thần đoàn kết, sức mạnh chiến đấu tự lực tự cường của mình.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một phần khăng khít của
cách mạng chống phát xít trên toàn thế giới, Bởi vậy, thắng lợi của cách mạng
tháng Tám năm 1945 không chỉ là thành tựu riêng của dân tộc Việt Nam mà 13
còn là nốt nhạc trong bản hòa ca của tất cả các dân tộc đang đấu tranh giành
quyền làm chủ, vì độc lập, tự do. Thành công này đã tạo ra một bước tiến lớn
trong cuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc, chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ
thống thuộc địa đế quốc, mở đầu thời kì suy sụp và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.
Không chỉ vậy, qua cách mạng tháng Tám, Đảng và nhân dân ta đã trực
tiếp củng cố thêm tính đúng đắn của học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân trên phương diện lý luận và thực tiễn, cũng như góp phần làm đa
dạng, phong phú hơn kho tàng học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn
đề giải phóng dân tộc. Đường lối đấu tranh của dân tộc ta trong cuộc cách
mạng đã để lại nhiều kinh nghiệm phong phú, bài học cho phong trào đấu
tranh giải phóng trên toàn thế giới về sau này.
Đánh giá về ý nghĩa dân tộc và thời đại của Cách mạng tháng Tám năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động
mà nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc
bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch
sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15
tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công nắm chính quyền toàn quốc.”
2.5. Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
Trước tiên, dựa trên những điều kiện khách quan, cuộc Tổng khởi nghĩa
của chúng ta đã diễn ra khi thời cơ chính muồi: Kẻ thủ trực tiếp của dân tộc ta
là phát xít Nhật đã bị đánh bại bởi các lực lượng dân chủ trên thế giới. Không
chỉ vậy, quân Nhật ở Đông Dương và tay sai dao động, dần tan rã. Trước
những thời cơ nghìn năm có một đó, Đảng ta đã nắm bắt thời cơ chuẩn xác,
tiến hành Tổng khởi nghĩa trước khi quân Đồng minh tiến vào Đông Dương
thực hiện mưu đồ riêng. 14
Tuy nhiên, không thể không kể đến những yếu tố nội lực xuất phát từ
dân tộc ta. Với truyền thống dựng nước và giữ nước lâu dài, nhân dân ta đã
sớm hình thành tinh thần cách mạng mạnh mẽ, gắn kết toàn thể dân tộc ta
thành khối đại đoàn kết, tình yêu nước luôn chảy trong cơ thể. Bởi vậy, khi
Đảng đưa ra chỉ thị cho cuộc Tổng khởi nghĩa, toàn dân ta đã đứng lên một
lòng chiến đấu, không một phút nào nao núng. Thêm vào đó, thời điểm Cách
mạng tháng Tám được phát động, nhân dân ta đã rèn luyện 15 năm để trở
thành lực lượng chính trị hùng hậu qua 3 cao trào cách mạng đầy thử thách,
gian khổ: cao trào cách mạng 1930 – 1931, cao trào dân chủ 1936 – 1939, cao
trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945. Tất nhiên, sự lãnh đạo của Đảng là nhân
tố chủ yếu nhất cho thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa. Đảng đã kêu gọi
được sức mạnh chiến đấu của toàn dân trong mặt trận Việt Minh, dựa trên
khối liên minh công nông, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng xây dựng
được đường lối cách mạng đúng đắn, phương pháp chiến đấu vô cùng sáng
tạo dựa trên kinh nghiệm đấu tranh dày dặn, những thời cơ chín muồi của
điều kiện lịch sử. Nhân dân ta dưới những chỉ đạo kiên quyết đã tạo thành sức
mạnh áp đảo kẻ thù, giành lại được chính quyền.
2.6. Kinh nghiệm lịch sử
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 kết thúc thắng lợi với sự ra đời của
nước Việt Nam mới, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, để lại cho thế hệ sau
nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc, có giá trị thực tiễn lớn lao.
Thứ nhất, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Trải qua ba cao trào cách
mạng, Đảng ta đã nhận định tuy hai nhiệm vụ ấy không tách rời nhau nhưng
nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng cho nhiệm vụ chống đế quốc là
chủ yếu nhất. Phân tích được những mâu thuẫn nổ ra trong xã hội Việt Nam
khi Chiến tranh thế giới thứ hai ảnh hưởng, Đảng đã tập trung vào kẻ thù 15
Nhật – Pháp và bè lũ tay sai của chúng, đồng thời đề cao việc giải quyết
những nhu cầu cấp thiết, khẩn trương của giải phóng dân tộc. Trong Cách
mạng tháng Tám, Đảng đã kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Thứ hai, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông.
Cuộc Cách mạng tháng Tám đã huy động lực lượng đấu tranh của hơn 20
triệu người dân trên toàn lãnh thổ. Nhưng điều kiện để cuộc nổi dậy có thể
tiến hành chính là Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân và nông dân. Sau ba cao
trào cách mạng, đạo quân chủ lực đã ngày càng củng cố hơn, mạnh mẽ hơn
trong ý thức và chiến đấu. Đạo quân này chính là nền tảng để Đảng có thể kêu
gọi toàn dân đứng lên đấu tranh, huy động sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ ba, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Giữa lúc mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít cao trào, địa chủ phong
kiến cũng dần có bất đồng với chủ nghĩa đế quốc, Đảng ta đã tranh thủ cô lập
kẻ thù chính là bọn đế quốc phát xít cùng bè phái phản động; lôi kéo những
phần tử trung lập. Nhờ vậy, lực lượng của cuộc Tổng tiến công đã tăng cao,
đấu tranh giành chính quyền dễ dàng thuận lợi.
Thứ tư, biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp. Trong quá
trình Cách mạng tháng Tám diễn ra, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang
đã phối hợp chặt chẽ với nhau, người dân nổi dậy cùng lực lượng vũ trang
tiến công trên địa bàn khắp cả nước, trong đó đặc biệt chú ý vị trí chủ chốt
như Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa là sự kết hợp đấu
tranh trên nhiều mặt trận, của nhiều cuộc đấu tranh từng phần trước khi tiến
lên khởi nghĩa cả nước, đập tan cơ quan đầu não của giai cấp thống trị, giành
chính quyền về tay nhân dân. 16
Thứ năm, nắm vững nghệ thuật chọn thời cơ. Trong những văn kiện
Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã nhiều lần chỉ ra những
điều kiện khách quan có thể giúp cho khởi nghĩa thắng lợi. Với Cách mạng
tháng Tám, Đảng đã một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của thời cơ chín
muồi kết hợp với những nhân tố chủ quan. Đảng ta đã chuẩn bị sẵn sàng về
mặt tư tưởng cũng như lực lượng toàn dân để đứng lên chống lại thực dân
Pháp, tiến tới Tổng khởi nghĩa thắng lợi hoàn toàn.
Thứ sáu, xây dựng một Đảng cẩm quyền vững mạnh lãnh đạo nhân
dân. Đảng ta rất quan trọng việc quán triệt chủ trương, đường lối trong công
cuộc cách mạng và xây dựng đất nước. Vận dụng linh hoạt những học thuyết
của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta không ngừng bổ sung và phát triển
những đường lối, sách lược trong cách mạng và thực tiễn. Thêm vào đó, Đảng
luôn chăm lo công tác tổ chức, giáo dục rèn luyện đảng viên, cán bộ về ý thức
chính trị cũng như lối sống lành mạnh.
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ NGÀY NAY
3.1. Ý nghĩa vai trò lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng tháng Tám
Ngay sau khi ra đời vào tháng 2/1930, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta
phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Mặc
dù chưa thể “hất cẳng” thực dân Pháp để giành chính quyền về tay nhân dân
nhưng khối liên minh công nhân - nông dân đã được hình thành qua phong
trào. Đây là kết quả có ý nghĩa đặc biệt to lớn. Đó nền tảng để xây dựng mặt
trận dân tộc thống nhất và huy động được nguồn sức mạnh của nhân dân trên
địa bàn cả nước. Không chỉ vậy, phong trào cách mạng 1930- 1931 cũng được 17
coi như bước tập dượt, rèn luyện cho dân tộc ta với Cách mạng tháng Tám sau này.
Với những biến đổi phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, giai
đoạn 1936-1939, Đảng chủ trương phát động phong trào dân chủ với mục tiêu
trước mắt là đấu tranh đòi quyền tự do, dân sinh, dân chủ. Đảng đã thể hiện sự
nhạy bén trong chủ trương khi kết hợp hài hòa giữa nhiệm vụ chiến lược và
nhiệm vụ sách lược, giữa quyền lợi cả dân tộc và lợi ích giai cấp. Thêm vào
đó, Đảng còn thay đổi linh hoạt những biện pháp đấu tranh phù hợp với hoàn
cảnh và mục tiêu cách mạng: công khai kết hợp bí mật, hợp pháp kết hợp bất
hợp pháp để đạt được mục tiêu. Từ phong trào dân chủ 1936- 1939, lực lượng
chính trị cho cách mạng đã được hình thành và nâng cao vai trò, khả năng
chiến đấu để trở nên ngày một hùng hậu hơn. Lực lượng ấy sau này đã đóng
vai trò chiến lược quan trọng trong Tổng khởi nghĩa năm 1945.
Năm 1939, trước những thay đổi nhanh chóng của bối cảnh quốc tế và
tình hình trong nước do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đảng đã
nhanh chóng thay đổi chiến lược. Đảng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, đưa nhân dân ta bước vào thời kì trực tiếp vận động cứu nước, thể
hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng.
Trong Hội nghị Ban chấp hàn Trung ương Đảng lần thứ 8, Đảng đã
quyết định giơ cao hơn nữa ngọn cờ cách mạng, đồng thời xác định hình thái
cuộc khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi
nghĩa. Những tư tưởng và đường lối đó đã quyết định chiều hướng phát triển
của cách mạng nước ta, ảnh hưởng trực tiếp đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Song song với quá trình xây dựng lực lực chính trị, Đảng tập trung từng
bước phát triển lực lượng và xây dựng cơ quan đầu não để chuẩn bị những
điều kiện cần thiết, chờ thời điểm chín muồi tiến tới khởi nghĩa giành chính