



















Preview text:
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài.
Thời đại mới, thời đại hội nhập, giao lưu và phát triển giữa các
quốc gia, các dân tộc trên thế giới đang diễn ra ngày càng
mạnh mẽ. Và chắc chắn rằng Việt Nam cũng không nằm ngoài
vòng xoáy hội nhập ấy. Từ những kinh nghiệm vẹn nguyên
trong lịch sử khi nhà Nguyễn quyết định “ bế quan tỏa cảng” đã
đem lại thiệt hại nặng nề cho kinh tế và đời sống xã hội của
nhân dân thì Đảng và nhà nước ta hiện nay kiên quyết mở cửa
nền kinh tế, tích cựu giao lưu trên mọi phương diện với các
quốc gia trong khu vực và trên khắp thế giới. Điển hình là việc
tham gia vào các tổ chức thế giới và khu vực như WTO, WHO,
ASEAN, thiết lập quan hệ ngoại giao với Mĩ, Cuba, Trung Quốc, …
Đứng trước cơ hội toàn cầu hóa, Việt Nam cần thực hiện những
chủ trương, đường lối mới đem lại tác động tích cực đến sự phát
triển của đất nước, nhất là trên mặt trận ngoại giao. Trên thực
tế, con đường ngoại giao là một con đường nghệ thuật giao lưu
đem lại hiệu quả mà không cần thuốc súng. Với tình hình hòa
bình chung toàn cầu thì đây là biện pháp hữu hiệu nhất để tăng
cường liên kết giữa các quốc gia với mục tiêu chung là hợp tác
đôi bên cùng có lợi. Và Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Để có được một đường lối ngoại giao hiệu quả, Việt Nam cần
học tập và đúc rút kinh nghiệm từ chính lịch sử dân tộc mà cha
ông ta đã làm rất tốt để giữ vững được nền độc lập như hiện
nay. Sau cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, Chính phủ lâm
thời đã có những phương pháp ngoại giao hữu hiệu khi đất nước
đang trong thế “ ngàn cân treo sợi tóc” mà Đảng và nhà nước
ta hiện nay cần học hỏi và phát triển sáng tạo.
Chính vì những lí do nêu trên, tôi lựa chọn đề tài “Đảng lãnh đạo
đấu tranh ngoại giao (1945 - 1946) và bài học kinh nghiệm trong hoạt động
ngoại giao giai đoạn hiện nay’’ cho đề tài tiểu luận của mình. Với mục đích làm
rõ phương pháp đấu tranh ngoại giao của Đảng (1945 – 1946) và phát hiện ra
những bài học kinh nghiệm cho con đường ngoại giao hiện nay. 1 NỘI DUNG. CHƯƠNG I:
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO
GIAI ĐOẠN 1945 – 1946.
1.1.Tình hình Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám (1945)
Đảng và nhà nước ta đã nắm bắt thời cơ và đưa ra quyết định tổng khởi nghĩa
thành công đã tạo ra bước đệm đầu tiên đưa nước ta giành độc lập và thoát khỏi
ách áp bức. Đây là một bước ngoặt trong lịch sử, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, nhà nước nhân dân làm chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ nay
Việt Nam là một quốc gia độc lập có quyền tự quyết cho riêng mình. Tuy nhiên
sau thành công rực rỡ của cách mạng Tháng Tám, nước ta lại được đặt vào tình
thế mới – thời kì xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng với nhiều thuận lợi và khó khăn chồng chất. Tình hình quốc tế
Về mặt thuận lợi, kết quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai thì tình hình thế
giới và khu vực đã có nhiều sự chuyển biến mang đến sự tích cực cho cách
mạng Việt Nam. Thứ nhất, Liên Xô trở thành “ người anh cả”, thành trì của chủ
nghĩa xã hội. Thứ hai, hệ thống các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa ở
Đông Trung Âu được thành lập dưới sự ủng hộ và hỗ trợ từ Liên Xô. Thứ ba,
các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh không bằng lòng
chịu ách áp bức nên bắt đầu nổ ra các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Thứ tư, các phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ ở các nước tư bản chủ
nghĩa đã bắt đầu xuất hiện. Như vậy, thế giới đang có nhiều điều kiện thuận lợi
cho Việt Nam trong việc tìm con đường đi đúng sau khi giành được chính quyền.
Về mặt khó khăn, sau thế chiến II phe đế quốc chủ nghĩa tiếp tục nuôi dưỡng
âm mưu nhằm chia lại hệ thống thuộc địa trên toàn thế giới, nỗ lực đàn áp các 2
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó có cả cách mạng Việt Nam. Tiếp
đó, để bảo toàn lợi ích, quyền lợi của mình nên không có quốc gia nào trên thế
giới công nhận địa vị pháp lí của Việt Nam và ủng hộ lập trường mà Việt Nam
đi theo. Không chỉ vậy, các nước đế quốc đưa Việt Nam nằm trong vòng vây
của chủ nghĩa đế quốc, xây dựng “ tường thành” khiến Việt Nam bị cô lập và
tách biệt với thế giới bên ngoài. Trong khi đó, cách mạng ở cả ba nước Đông
Dương cũng vấp phải muôn vàn thử thách, khó khăn hết sức nghiêm trọng. Tình hình Việt Nam.
Về mặt thuận lợi, sau nhiều nỗ lực và phải chịu nhiều tầng áp bức thì nay Việt
Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, được quyền tự quyết nhiều vấn
đề trong nước, từ một đất nước thuộc địa với thân phận nô lệ bị đàn áp thì nay
đã phá bỏ được xiềng xích trở thành chủ nhân của chế độ mới đang chờ. Bắt đầu
từ nay, đất nước được đặt dưới sự dẫn dắt của Đảng cộng sản – đảng cầm quyền
duy nhất ở Việt Nam trên mọi lĩnh vực. Tiếp đó, nhà nước và đảng ra đời đã
thuận lợi tạo ra việc hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy
nhà nước thống nhất, liên kết chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, ra sức
xây dựng,bảo vệ nhà nước mới và phục vụ lợi ích cho toàn dân.
Về mặt khó khăn, vì mới được thành lập nên chính quyền nhà nước Việt Nam
còn non trẻ, yếu kém và thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Trong khi đó, hậu quả của
chế độ cũ để lại hết sức nặng nề nhất là nạn đói năm 1945 đã khiến khoảng từ
400.000 đến 2 triệu người dân chết [4] . Tàn dư văn hóa lạc hậu
của chế độ thực dân, phong kiến để lại là hơn 90% dân số mù
chữ. Các hủ tục, tập quán lạc hậu, các thói hư, tật xấu tồn đọng
nhiều trong xã hội. Tiếp đó, nạn lũ lớn, vỡ đê ở chín tỉnh Bắc Bộ
kéo theo hạn hán kéo dài khiến một nửa số ruộng đất không
canh tác được. Thậm chí khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa lên tiếp quản thì phải hứng chịu một nền kinh tế trống rỗng
và xơ xác. Ngân sách nhà nước gần như bằng không, kho bạc 3
Nhà nước chỉ có hơn 1,2 triệu đồng. Chính quyền mới lên nắm
quyền nên chưa thể nắm bắt và quản lí hết được Ngân hàng
Đông Dương. Trong khi đó,quân Trung hoa Dân quốc lại tung ra
thị trường nhiều mặt tiền tệ Trung Quốc gây nhiễu loạn thị trường.
Khó khăn chồng chất khó khăn khi tình hình hai miền Nam –
Bắc khác nhau. Ở miền Nam, hai vạn quân đội Anh - Ấn đổ bộ
vào Sài Gòn với mục tiêu giải giáp quân đội Nhật thua trận ở
Đông Dương. Quân đội Anh đang mượn tay tạo điều kiện cho
thực dân Pháp quay trở lại xâm lượn nước ta một lần nữa. Lợi
dụng tình hình này, nhiều bọn phản động chống phá cách mạng
bắt đầu ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp. Ở miền Bắc, theo
thỏa thuận Hiệp ước Posdam ( Đức), hơn 20 vạn quân đội Tưởng
Giới Thạch ( thuộc Trung Hoa dân quốc) kéo vào biên giới Việt
Nam từ phía Bắc dưới sự bảo trợ của Mĩ muốn giải giáp quân đội
Nhật nhưng thực chất là âm mưu “ diệt Cộng, cầm Hồ, phá Việt
Minh”. Trong khi đó, trên khắp cả nước còn hơn 6 vạn quân đội
Nhật chưa được giải giáp. Có thể thấy trên toàn lãnh thổ Việt
Nam còn rất nhiều các quân đội từ các quốc gia khác nhau
nhưng đều cùng âm mưu chung là chống phá cách mạng Việt Nam.
Nhìn chung, tuy sau cách mạng Tháng Tám nước ta có nhiều cơ
hội để phát triển nhà nước non trẻ mới thành lập, củng cố đất
nước. Tuy nhiên những khó khăn và thách thức vô cùng nghiêm
trọng kia đang đặt nước ta vào tình thế “ ngàn cân treo
sợi tóc’’ đòi hỏi Đảng và nhà nước cần có biện pháp khắc phục.
1.2. Quan điểm của Đảng về con đường đấu tranh ngoại giao (1945- 1946) 4
Trong giai đoạn này, nước ta đang phải đối mặt với hai kẻ thù là
quân Tưởng ở miền Bắc và quân Pháp ở miền Nam mà tương
quan lực lượng giữa ta và địch thì ta yếu hơn rất nhiều. Đứng
trước tình hình cam go đó, con đường đấu tranh ngoại giao là
biện pháp tối ưu nhất để bảo vệ chính quyền cách mạng non
trẻ và giữ nước. Vì vậy, Đảng và nước ta thời bấy giờ đưa ra các
chính sách ngoại giao riêng biệt đối với hai miền Nam – Bắc và
đặc biệt chú trọng “ làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh”.
Đối với quân đội Trung Hoa Dân Quốc, Đảng và nhà nước thi
hành đấu tranh ngoại giao bằng chủ trương “ Nhân nhượng với
Tưởng để đánh Pháp”.
Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc
kéo vào đóng ở Hà Nội và hầu hết các tỉnh. Theo sau chúng là
tay sai thuộc các tổ chức phản động như Việt Quốc, Việt Cách
hòng cướp chính quyền non trẻ của ta.Với mục đích phá sản âm
mưu “ diệt Cộng, cầm Hồ, phá Việt Minh” của quân Tưởng và
tay sai, Đảng và nhà nước đưa ra một sách lược với quân Tưởng
đó là “ triệt để lợi dụng mẫu thuẫn kẻ thù, hòa hoãn, nhân
nhượng có nguyên tắc”, tiếp tục đấu tranh ngoại giao chứ
không tiến hành đấu tranh quân sự, đề ra nhiều sách lược đem
lại hiệu quả tích cực và có lợi cho ta, ứng xử linh hoạt, mềm dẻo
trước các hành động mang tính khiêu khích của quân Tưởng, có
biện pháp cư xử đúng đắn trước các yêu sách mà quân đội Tưởng đặt ra.
Ngoài ra để an toàn nhất, để giảm bớt sức ép công kích của kẻ
thù, tránh những hiểu lầm trong nước và ngoài nước, Đảng
chuyển sang hoạt động bí mật và chỉ để lại một bộ phận hoạt 5
động công khai dưới danh nghĩa “ Hội nghiên cứu chủ nghĩa
Mác ở Đông Dương”. Để tránh gây hấn với quân đội Tưởng
khiến cả hai quân đội Tưởng và Pháp cùng nổ súng thì Đảng và
nhà nước ta thực hiện chính sách nhân nhượng. Ta đã đồng ý
cung cấp lương thực, thực phẩm cần thiết cho 20 vạn quân
Tưởng khi ở Việt Nam, đồng ý cho chúng được sử dụng tiền
Quan kim, Quốc tệ song hành với đồng bạc Đông Dương. Thậm
chí nhượng bộ 70 ghế Quốc hội cho Việt Cách, Việt Quốc
( không cần qua bầu cử), nhiều ghế Bộ trưởng quan trọng,…
Những chủ trương và biện pháp nhượng bộ, “ lấy lùi làm tiến”
của Đảng và nhà nước ta đã từng bước làm vô hiệu hóa các
hoạt động chống phá, gây thù của quân đội Tưởng, từng bước
một làm phá sản âm mưu “ diệt Cộng , cầm Hồ”, “ Hoa quân
nhập Việt”, lật đổ chính quyền cách mạng của Tưởng Giới Thạch ở Việt Nam.
Trong lúc nhân nhượng với quân Trung Hoa Dân Quốc thì ta đã
tận dụng thời gian, công sức, cơ sở vật chất, xây dựng nguồn
nhân lực, nhu yếu phẩm để chuẩn bị cho cuộc chiến đánh bại
kẻ thù chính thức của nước ta , đó là thực dân Pháp.
Tích cực hòa hoãn với Pháp để thực hiện mục đích đánh đuổi
quân Tưởng ra khỏi nước ta.
Sau khi chiếm đóng được các đô thị ở Nam Bộ và Nam Trung
Bộ, thực dân Pháp ấp ủ âm mưu tiến quân ra Bắc nhằm đưa
cuộc thôn tính diễn ra trên toàn quốc.
Đầu năm 1946, Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung Hoa Dân
Quốc đã bắt tay với nhau kí kết bản Hiệp ước Hoa – Pháp ( ngày
28/02/1946) với nội dung là để quân đội Pháp tiến ra miền Bắc
thay quân đội Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật và 6
quyết định cho 20 vạn quân Tưởng về nước. Và đương nhiên
quân Tưởng sẽ nhận lại được lợi ích là được hưởng nhiều quyền
lợi quan trọng ở Trung Quốc và Việt Nam như Pháp trả lại các tô
giới, nhượng bộ địa vị của Pháp trên đất Trung Quốc, cho phép
vận chuyển hàng hóa giữa Vân Nam và cảng Hải Phòng không
cần thu thuế,... Hành động của hai chính phủ đã xem nhẹ vị thế
của Việt Nam, “sự thỏa hiệp giữa hai thế lực thực dân vừa chà
đạp lên chủ quyền dân tộc của nhân dân ta, vừa đặt cách mạng
Việt Nam vào thế phải đối phó với âm mưu mới của hai lực
lượng phản động” 6, tr.305 [
], thậm chí bản hiệp ước như một
hành động chà đạp lên nền độc lập của một quốc gia chính
thức, tiến hành hợp pháp hóa hành vi xâm lược của thực dân
Pháp ở miền Bắc. Hiệp ước này đưa đất nước ta hai lựa chọn:
một là, nổ ra cuộc chiến đấu chống Pháp nhằm không cho Pháp
tiến quân ra Bắc; hai là, hòa hoãn với Pháp để tránh gây hấn
nhiều kẻ thù cùng một lúc. Trước tình thế đó, Đảng và nhà nước
nhận định tình thế đang chuyển biến xấu gây bất lợi cho ta khi
chỉ có một chính quyền non kém mà phải đối đầu trực tiếp với
hai kẻ thù lớn là Pháp và Tưởng nên Đảng và nhà nước nhận
định rất tỉnh táo “vấn đề lúc này không phải là muốn hay không
muốn đánh. Vấn đề là biết mình , nhận định một cách khách
quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ
trương cho đúng” [2, tr.43-44]
Khi đã có nhận định ấy, ta đã quyết định tiến hành các chủ
trương tạm thời hòa hoãn với Pháp để đánh đuổi quân Tưởng
trước rồi dồn tổng nguồn lực đánh Pháp sau. Ta thực hiện các
biện pháp mềm dẻo có nguyên tắc, dù nhân nhượng lợi ích kinh
tế nhưng buộc Pháp tôn trọng và thừa nhận quyền tự quyết của 7
một quốc gia chính thức, trước đó tận dụng thời cơ nhân
nhượng với Tưởng để đánh Pháp thì nay lại “ lợi dụng thời gian
hòa hoãn với Pháp để diệt bọn phản động bên trong, tay sai
Tàu trắng, trừ những hành động khiêu khích ly gián ta với
Pháp” [3, tr.44-45], thúc đấy nhanh quá trình đuổi Tưởng về
nước, bớt đi một kẻ thù.
Ngày 6-3-1946, tại Hà Nội, chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với đại diện Chính phủ
Cộng hòa Pháp là Jean Sainteny bản Hiệp định Sơ bộ. Nội dung
cơ bản của Hiệp định Sơ bộ :
- Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
là một quốc gia lự do, có chính phủ riêng, thư viện riêng, quân
đội riêng, tài chính và là thành viên của Liên bang Đông
Dương, nằm trong khối Liên hiệp pháp.
- Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thỏa thuận cho 15
000 quân Pháp ra Bắc thay thế quân Trung Hòa Dân quốc làm
nhiệm vụ quân đội Nhật, quân số này sẽ đóng tại các địa điểm
quy định và rút dần trong thời gian hạn 5 năm.
- Hai bên liên tục xung đột ở phía Nam và giữ nguyên quân đội
của mình tại vị trí cũ, tạo không khí thuận lợi đi đến cuộc đàm
phán chính thức bàn các vấn đề về ngoại giao của Việt Nam ,
tương lai chế độ của Đông Dương, quyền lợi kinh tế và văn hóa
của người Pháp tại Việt Nam.
Kí Hiệp định Sơ bộ hòa hoãn với Pháp, ta đã tránh được cuộc
chiến bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng lúc, đẩy được
20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước
ta, có thêm hòa bình thời gian để củng cố quyền chính cách 8
mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài
chống thực dân Pháp về sau.
Ngay sau khi Hiệp định Sơ bộ được kí kết, Ban Thường vụ trung
ương Đảng đã ra ngay chỉ thị “ Hòa để tiến”. Chỉ thị nêu rõ
không được dựa vào hiệp định Sơ bộ mà buông lỏng cảnh giác,
tiếp tục tập trung tinh thần cảnh giác cách mạng ở mức cao,
luôn sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào, tiếp tục củng cố tinh
thần quyết chiến trong toàn dân nhất là vùng Nam Bộ và các
chiến sĩ tiền tuyến, chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến tiếp theo, đào tạo nguồn nhân lực đặc biệt
chú trọng đào tạo cán bộ chính trị và quân sự…. Vì vậy, đến
tháng 12/1946, Đảng đã củng cố được số lượng và chất lượng lên tới 20.000 người.
Con đường đấu tranh ngoại giao kiên trì, quyết tâm vẫn còn
tiếp tục để giữ vững nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, Đảng ta tiếp tục nhiều chủ trương với Pháp trong phạm vi
trong nước và ngoài nước. Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cùng phái đoàn Việt Nam tiến hành cuộc viếng thăm Cộng
hòa Pháp hơn bốn tháng và đã thu được nhiều lợi ích cho nước
nhà. Đó là thành công làm cho dư luận nước Pháp, những người
dân tiến bộ nước Pháp, giới chính trị chính quốc có thêm hiểu
biết về cuộc đấu tranh chính nghĩa nhằm giải phóng dân tộc
của Việt Nam. Tuy nhiên, cuộc đàm phán giữa hai chính phủ
Việt Nam – Pháp ( từ ngày 6-7-1946 – 10-9-1946) đã thất bại do
dã tâm thôn tính và lập trường hiếu chiến của Pháp không chịu
công nhận độc lập và thống nhất của nước ta. Trong khi đó, tại
Đông Dương, quân Pháp tăng cường những hành động khiêu
khích trắng trợn làm cho mối quan hệ Việt – Pháp ngày càng 9
căng thẳng có nguy cơ bùng nổ chiến tranh. Trước tình thế khó
ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ( đang trong cuộc viếng thăm với
Pháp) đã phải kí với M.Mutê
( Marius Moutet) – đại diện chính phủ Pháp – bản Tạm ước
( ngày 14-9-1946). Bản Tạm ước thể hiện sự nhượng bộ của nhà
nước ta với quân Pháp: nhân nhượng về quyền lợi kinh tế - văn
hóa ở Việt Nam, hai bên cam kết đình chiến ở Nam Bộ, tiếp tục
đàm phán nhiều vấn đề khác… Mặc dù, Đảng và nhà nước ta lại
tiếp tục nhượng bộ quân Pháp trên chính lãnh thổ của mình
nhưng đồng thời mặt tích cực mà sự nhân nhượng ấy đem lại là
tạo điều kiện cho ta kéo dài thời gian hòa hoãn, củng cố lực
lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp.
Từ những chủ trương, sách lược sáng tạo, đúng đắn và định
hướng con đường ngoại giao khác nhau đối với quân Tưởng và
thực dân Pháp của Đảng và nhà nước trong cuộc kháng chiến
chống thù trong giặc ngoài, trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ chính quyền mới thành lập đã đem lại rất ý nghĩa vô cùng to
lớn: ngăn chặn phần nào âm mưu thôn tính toàn quốc của thực
dân Pháp, vạch trần những thủ đoạn, hành động chống phá của
kẻ thù, giữ vững thành quả của cuộc cách mạng tháng tám,
tiếp thêm thời gian hòa hoãn để củng cố nguồn lực chuẩn bị
cho cuộc chiến lâu dài về sau. Đồng thời thể hiện ý chí tự lực, tự
cường trong công cuộc giữ vững nền độc lập dân tộc. Ngoại
giao Việt Nam đã vận dụng có hiệu quả nguyên tắc “ Dĩ bất
biến, ứng vạn biến”, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, gây
dựng thành công thế trận lòng dân. Đặc biệt là để lại hai biện 10
pháp và bài học kinh nghiệm trên chiến trường ngoại giao cho
Đảng và nhà nước giai đoạn sau.
1.3. Kết quả đạt được sau hai chủ trương ngoại giao với
quân Trung Hoa Dân Quốc và thực dân Pháp.
Kết quả trước mắt:
- Thành công trên con đường đấu tranh ngoại giao góp phần
tránh tình thế khiến đất nước ta rơi vào tình huống đấu tranh
với nhiều quân thù ngay sau khi chính quyền mới vừa được
thành lập và ít kinh nghiệm thực tiễn. Như đã biết cuộc tổng
khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám, chúng ta đã phải huy động
nhiều từ thời cơ đến nguồn lực nên đã làm tiêu tốn và thiệt hại.
Do đó, nếu khi đó mà lựa chọn đấu tranh với quân Tưởng và
thực dân Pháp ngay thì Việt Nam sẽ bại trận.
- Đảng và nhà nước chủ động nắm bắt tình thế, tận dụng thời
gian hòa hoãn có điều kiện hòa bình để nhanh chóng phục hồi
đất nước trên mọi lĩnh vực và tích cực trang bị nhu yếu phẩm,
vũ khí,…để sẵn sàng cho một cuộc chiến chính thức về sau. Bởi
vì chắc chắn rằng: chỉ có đấu tranh bằng con đường vũ trang
mới đem có thế giải phóng dân tộc nên con đường ngoại giao
chỉ có thể là biện pháp tạm thời. Để chuẩn bị cho một cuộc
chiến lớn và lâu dài thì nhân lực, cở sở vật chất, nhu yếu phẩm,
vũ khí phải được trang bị đầy đủ.
- Thể hiện sự linh hoạt, có kế hoạch, mềm dẻo trong mối quan
hệ giữa ta với địch để ngăn chặn cuộc chiến nổ súng ở mức
thấp nhất. Phương pháp đối đầu với quân địch bằng con đường
ngoại giao đã mở ra một hình thức chiến đấu mới mà không cần
dùng tới vũ lực mà vẫn đem lại hiệu quả cao. 11
- Thành công gây dựng được niềm tin của toàn dân vào sự lãnh
đạo của Đảng và nhà nước trong cuộc kháng chiến giành độc
lập và bảo vệ Tổ quốc ( ở những giai đoạn sau).
- Thành công từng bước tháo bỏ khó khăn khi đất nước sau cách
mạng tháng tám ở thế “ ngàn cân treo sợi tóc’’, giải quyết nạn
đói, nạn dốt, giải quyết khó khăn về tài chính và xây dựng
chính quyền cách mạng bước đầu có hiệu quả. Kết quả lâu dài:
-Sau khi thành công thực hiện hai chủ trương ngoại giao với
thực dân Pháp và quân đội Trung Hoa Dân Quốc, đất nước ta có
điều kiện phục hồi, đem lại nhiều thành công như đến cuối năm
1946 đã có hơn 2,5 triệu người biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ,
nạn đói cơ bản được đẩy lùi, thành công tổ chức cuộc bầu cử
bầu ra người “ chèo lái” con thuyền dân tộc,….
-Có điều kiện củng cố nguồn lực toàn diện cho cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp chính thức ở giai đoạn sau.
- Để lại bài học kinh nghiệm về con đường đấu tranh ngoại giao
cho thế hệ sau kể cả khi đất nước trong tình thế vô cùng khó
khăn và trắc trở. Đồng thời đề cao con đường đấu tranh bằng
biện pháp ngoại giao trong những giai đoạn sau. CHƯƠNG III:
BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO
CỦA GIAI ĐOẠN 1945 – 1946 TRONG VIỆC XÂY
DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY.
2.1.Tình hình Việt Nam hiện nay. 12
Không còn giống giai đoạn 1945 – 1946 - giai đoạn còn có chiến
tranh giải phóng dân tộc, hiện nay đất nước ta đã hoàn toàn
được giải phóng, được tự do, độc lập, có quyền tự quyết dân tộc
và là một đất nước Việt Nam có địa vị pháp lí được tất cả các
quốc gia trên thế giới công nhận và tôn trọng. Điều này khác
hẳn với thời kì sau cách mạng Tháng Tám vì bảo vệ lợi ích của
mình mà không quốc gia nào công nhận địa vị pháp lí và ủng hộ
quan điểm độc lập của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngoài ra hiện nay, Việt Nam chọn con đường xã hội chủ nghĩa
làm định hướng cho mô hình xây dựng và bảo vệ đất nước.
Việt Nam đang đứng trong thời đại hội nhập và phát triển.
Trong tình hình thế giới hiện nay, các quốc gia đều tuân theo
một nguyên tắc là hợp tác cùng phát triển và Việt Nam cũng
vậy. Phương châm hữu nghị và hợp tác của Việt Nam : độc lập,
tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh, văn minh [7]. Có thể thấy, Việt Nam đang nỗ
lực, tích cực để có mối quan hệ ngoại giao và hợp tác với nhiều
quốc gia trên thế giới để củng cố và phát triển đấy nước. Điển
hình, trong đại dịch Covid-19, qua mỗi lần Đảng và nhà nước
giao lưu đối ngoại với các quốc gia khác đều có thể đem về liều
vacine Covid-19 để tiến tới mục tiêu độ phủ sóng vacine cao
nhất có thể trên lãnh thổ Việt Nam.
Dù chậm chạp nhưng Việt Nam đang đặt chân vào cuộc cách mạng khoa học 13
– kĩ thuật 4.0. Có thể thấy đất nước ta tiếp xúc với Internet
muộn hơn các nước phát triển khác nhưng tốc độ thích nghi và
phủ rộng thì không phải là kém. Điển hình của cuộc cách mạng
4.0 này là A.I ( trí tuệ nhân tạo) nhưng nước ta vẫn chưa có sự
phát triển nhiều về lĩnh vực này. Tuy nhiên, trên nhiều lĩnh vực
của đời sống – xã hội, sự xuất hiện và can thiệp của máy móc kĩ
thuật hiện đại ngày càng nhiều như mạng lưới Internet được
phủ sóng khắp cả nước ( trừ những vùng quá sâu xa, điều kiện
không đáp ứng được), hệ thống tưới tiêu tự động ở nhiều nông trại,…
Các lĩnh vực khác đang được chuyển biến theo hướng tích cực.
Kinh tế đang đầu tư phát triển các lĩnh vực công nghiệp để đưa
đất nước tiến lên công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Y tế, giáo dục
đang ngày được cải thiện qua việc đào tạo chất lượng số nhân
viên ngành y tế, tăng cường giáo dục toàn dân, nâng cấp các
trang thiết bị tốt nhất phục vụ giáo dục và y tế,…. Đời sống xã
hội được nâng cao. Nếu ngày trước còn khó khăn, vất vả, chỉ lo
củng cố đời sống vật chất thì nay đã có điều kiện nuôi dưỡng
đời sống tinh thần như ca hát, nhảy múa, nhạc kịch, các triển lãm,…
Bên cạnh những cơ hội thuận lợi mở ra cho Việt Nam thì hiện
nay Việt Nam vẫn vướng phải những khó khăn nhất định:
Việt Nam là một quốc gia tiếp giáp với biển Đông mà những
năm trở lại đây vấn đề tranh chấp biển Đông ngày càng gay
gắt, nhất là khi Trung Quốc có ý định thực hiện mưu “ đường
lưỡi bò” , độc chiếm một phần rộng lớn của biển Đông. Mặc dù
hiện nay, nước ta luôn cố gắng giải quyết vấn đề tranh chấp
bằng con đường hòa bình nhưng vẫn luôn phải củng cố nguồn 14
lực đề phòng trường hợp xấu nhất nổ ra cuộc chiến giữa hai
bên. Tình hình này khiến Việt Nam phải vô cùng cảnh giác và
cẩn trọng trong việc đảm bảo an ninh quốc gia và bảo toàn
toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Ngoài ra, các vấn đề an ninh phi
truyền thống, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, các cuộc
đấu tranh sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp tài nguyên, khủng bố,…
trên thế giới và khu vực cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ tác
động lớn tới tình hình Việt Nam. Cục diện thế giới đang ở thế đa
cực, các nước vừa cùng nhau phát triển, vừa cạnh tranh với nhau.
Bước ra khỏi thời chiến, Việt Nam là một quốc gia chịu sự tàn
phá nặng nề và phải gánh chịu mọi nỗi khó khăn trên toàn bộ
các lĩnh vực của đời sống xã hội
( điểm này có nét tương đồng với tình hình đất nước sau cách
mạng Tháng Tám). Hơn hết, Việt Nam chọn con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội nên đồng nghĩa với việc có sự “ nhảy cóc” bỏ
qua bước tư bản chủ nghĩa nên đã đem lại khó khăn nhất định
cho Việt Nam. Bước cản trở lớn nhất trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay đó là sự tụt hậu so với nhiều quốc
gia trên thế giới. Ví dụ cụ thể là khi đất nước ta mới có những
bước chuyển mình đầu tiên từ nông nghiệp sang công nghiệp
thì đã có nhiều quốc gia đi tới thời kì hậu công nghiệp “ công
nghiệp không khói”. Điều này đang yêu cầu Việt Nam cần có
những chủ trương, chính sách hợp lí hơn nữa để thu ngắn
khoảng cách với các quốc gia khác, nhất là biện pháp ngoại
giao hợp tác cùng phát triển cần được triển khai nhiều hơn nữa.
Một vấn đề khác đó là tình hình biến đổi khí hậu đang diễn ra
vô cùng mạnh mẽ trên toàn cầu và Việt Nam là một trong 15
những quốc gia phải hứng chịu biến đổi khí hậu nặng nề nhất.
Trong những năm gần đây, có thể thấy số lượng bão và mức độ
bão ngày càng tăng trong những năm gần đây mà miền Trung
là khu vực chịu ảnh hưởng nhiều nhất trong cả nước. Tình trạng
nước biển dâng ngày càng nhanh, sụt lở đất, nạn xâm nhập
mặn ở miền Nam đang diễn biến theo chiều hướng xấu và đem
lại hậu quả nặng nề ảnh hưởng tới năng suất lao động của lúa
nước vì đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất cả nước.
Theo một dự báo được đưa ra, nếu mực độ nước biển tiếp tục
dâng cao như hiện giờ do hiện tượng nóng lên toàn cầu thì
tương lai không xa Việt Nam sẽ mất trắng đồng bằng sông Cửu
Long. Ngoài ra tình trạng hạn hán kéo dài ở một số nơi có thể
khiến nền nông nghiệp nước ra bị ảnh hưởng nặng nề, ảnh
hưởng tới vấn đề xuất khẩu của Việt Nam. Vấn đề biến đổi khí
hậu là vấn đề của toàn nhân loại, mọi quốc gia không chỉ riêng
Việt Nam vậy nên con đường đi đúng đắn nhất của nhà nước ta
để giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu là hợp tác cùng các quốc gia khác.
Thời đại mới đang đưa ra cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như
thách thức. Do đó, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hiện nay, Đảng và nhà nước đang cần hơn bao giờ hết con
đường ngoại giao hợp lí để giải quyết, tháo gỡ từng khó khăn và
đảm bảo bền vững những cơ hội đang có.
2.2.Bài học kinh nghiệm đấu tranh ngoại giao của giai
đoạn 1945 – 1946 trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Biết người, biết ta, ‘‘ lấy lùi làm tiến’’. 16
Nhận định rõ tình hình đất nước trong thế “ ngàn cân treo sợi
tóc” với lực lượng quân và điều kiện không đủ để thực hiện
cuộc chiến đối đấu với nhiều kẻ thù và xảy ra liên tiếp nên
Đảng và nhà nước đã chọn con đường hòa hoãn với Pháp và
Trung Hoa Dân Quốc. Bài học ta rút ra đó chính là đánh giá
đúng đắn, thực chất tình hình bên ta và bên người để đưa ra
sách lược phù hợp nhất, đôi khi còn phải “ cúi đầu”, nhượng bộ
để mang lại lợi ích to lớn về sau.
Trong bài phỏng vấn với báo Fox News ngày 26-6-2019, tổng
thống Trump đã phát biểu rằng : Việt Nam là kẻ lạm dụng
thương mại tồi tệ nhất và có cái nhìn không tốt về Việt Nam.
Nắm bắt được tình hình này, chỉ hai ngày sau, thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc ( nay giữ chức Chủ Tịch nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam) trong cuộc gặp gỡ bên lề G20 tại
Osaka – Nhật Bản đã tiếp cận tổng thống Trump trong giờ nghỉ
ăn trưa và bắt đầu bằng một cái cúi đầu rồi mới tiếp tục thảo
luận nhằm mục đích thay đổi cái nhìn của Tổng thống nước Mĩ
với Việt Nam. Cái cúi đầu này là một hành vi tôn trọng, nhượng
bộ, chủ động giải quyết vấn đề của một nhà lãnh đạo, rất có
thể điều này sẽ đem lại vô vàn lợi ích cho hơn 97 triệu người dân Việt Nam.
Đó là bài học trong đấu tranh bằng con đường ngoại giao mà
Đảng và nhà nước ta đã linh hoạt vận dụng để không bị Mĩ tăng
cường đánh thuế lên hàng hóa Việt Nam để đảm bảo nền kinh
tế nước nhà có điều kiện xuất khẩu thuận lợi hơn.
Nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có nguyên tắc. 17
Hiệp định Sơ bộ mà ta kí kết với Pháp vào năm 1946 đã là minh
chứng rõ ràng nhất của việc nhân nhượng đúng lúc, nhân
nhượng có nguyên tắc. Trước tình thế phe địch bắt tay với nhau
kí kết hiệp ước Hoa – Pháp gây bất lợi cho ta, Đảng và nhà nước
đã nhanh chóng quyết định thương lượng với Pháp nhằm mục
đích đánh đuổi Trung Hoa Dân Quốc về nước , tranh thủ thời
gian hòa hoãn chuẩn bị nguồn lực cho cuộc chiến mới, tiến lên
giành thắng lợi. Con đường ngoại giao mà ta chọn lúc này được
cụ thể hóa bằng hiệp định Sơ bộ. Dù cho nhà nước ta nhượng
bộ về kinh tế, quyền lợi nhưng kiên quyết cứng rắn về việc
buộc Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có địa vị
pháp lí và quyền tự quyết của riêng mình.
Việc kí kết hiệp định thế hiện được sự sáng suốt và tài năng
lãnh đạo của Đảng vẫn theo một phương châm xuyên suốt giai
đoạn đấu tranh ngoại giao giai đoạn 1945 – 1946 là “ hòa để
tiến”. Việc ép Pháp phải thừa nhận địa vị pháp lí của Việt Nam
sẽ là bước đầu quan trọng củng cố vị thế pháp lí của Việt Nam
trên trường quốc tế. V.I Lenin cũng từng quan niệm “ Nếu có lợi
cho cách mạng, thì dù có phải thỏa hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thỏa hiệp”.
Hiện nay vấn đề tranh chấp biển Đông giữa Việt Nam và Trung
Quốc rất cần Đảng và nhà nước ta vận dụng bài học kinh
nghiệm ngoại giao quý báu này. Trên thực tế, ta kiên quyết đấu
tranh bằng biện pháp hòa bình để giải quyết mâu thuẫn nhưng
dựa trên nguyên tắc kiên quyết giữ vững chủ quyền lãnh thổ cụ
thể là đối với quần đảo Hoàng Sa. Kinh nghiệm từ trước đã góp
phần bổ sung kinh nghiệm cho Đảng và nhà nước ta vận dụng 18
khéo léo con đường ngoại giao trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Lấy lợi ích quốc gia làm gốc.
Từ giai đoạn 1945 – 1946 thì việc đặt cao lợi ích quốc gia, lấy
đó làm nguyên tắc ngoại giao đã xuất hiện qua các công văn,
chủ trương và hành động của Đảng và nhà nước. Đến nghị
quyết Trung ương 8, khóa IX, Đảng nhấn mạnh rằng “ Bảo vệ
lợi ích quốc gia, dân tộc” là một trong những mục tiêu then
chốt quan trọng nhất trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Và vấn đề này vẫn được giữ vững trong các kì đại hội gần
đây, cả trong đại hội toàn quốc lần thứ XIII. Chỉ bổ sung thêm
điều kiện là tuân thủ theo nguyên tắc, pháp luật quốc tế và
phải đảm bảo trên toàn bộ các lĩnh vực ngoại giao của nhà
nước lấy lợi ích quốc gia làm gốc.
Thực tế, khi lợi ích, quyền lợi của quốc gia, dân tộc được đảm
bảo thì sẽ thành công tạo ra bầu không khí thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế nước nhà, nâng cao chất lượng đời sống cho
toàn dân… Tính đến nay nhà nước ta đã đặt quan hệ hợp tác
với 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, tham gia tích cực các tổ
chức y tế, giáo dục, kinh tế trong khu vực và quốc tế với mục
đích chung là nâng caao, củng cố một cách có hiệu quả lợi ích
của quốc gia và dân tộc.
Ứng dụng “ dĩ bất biến, ứng vạn biến”
Đứng trước tình hình thế giới và khu vực luôn vận động và
chuyển biến phức tạp thì phương châm “ dĩ bất biến, ứng vạn
biến” vô cùng phù hợp. Đó là đặt ra một nguyên tắc cụ thể và