HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG
-------------------------
TIỂU LUẬN
KẾT THÚC HỌC PHẦN MÔN XÂY
DỰNG ĐẢNG
Đề tài:
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NỀN VĂN
HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN
SẮC DÂN TỘC VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH
VIÊN TRONG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN
SẮC SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẢNG TẠI HỌC
VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
Sinh viên thực hiện: Trần Thu Ngân
Mã sinh viên: 2156110040
Lớp hành chính: Quan hệ chính trị & Truyền thông quốc tế K41
HÀ NỘI – 2022
C MỤC LỤ
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lí do ch tài ọn đề ........................................................................................ 1
2. M c m v nghiên c u đích nhiệ ........................................................... 1
3. i m nghiên cĐố tượng phạ vi ứu ............................................................ 2
4. s luận g pháp nghiên c u phươn ............................................. 2
5. K t c u cế ủa u n tiể luậ ................................................................................ 2
NỘI DUNG ..................................................................................................... 3
CHƯƠNG I. VĂN HÓA VIỆT NAM .......................................................... 3
1.1. Khái ni m ........................................................................................... 3
1.2. T m quan trọng của văn hóa ........................................................... 5
1.3. c ti n xây d ng và phát tri n n t Nam tiên ti n, Thự ền văn hóa Việ ế
đậm đà bản sắc dân t c ................................................................................ 8
. CHƯƠNG II ĐẢNG LÃNH Đ VĂN HÓAO VỀ ................................. 13
2.1. N i dung Đảng lãnh đạo văn hóa ................................................... 13
2.2. Phương thức Đảng lãnh đ văn hóao ............................................ 14
2.3. M c tiêu c ủa Đả ền văn hóang phát triển n ................................... 16
2.4. Giải pháp tăng cườ lãnh đạ ủa Đả ới văn hóang sự o c ng v ........... 17
CHƯƠNG III. TRÁCH NHI M C A SINH VIÊN TRONG GI GÌNVÀ
PHÁT HUY B N S NG T I H C VI ẮC SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẢ ỆN
BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUY N .............................................................. 20
KẾT LUẬN ................................................................................................. 23
TÀI LI U THAM KH O .......................................................................... 24
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do ch tàiọn đề
Văn hoá một lĩnh vực h i r ng l ớn, văn hoá gắn li n v ới con người,
do con ngườ ống con người sáng tạo ra phục vụ cho cuộc s i. vậy,
thể coi l ch s hội loài ngườ ủa văn hoá. Văn hoá i lịch sử phát triển c
đóng vai trò quan trọng đố ển hưng thịi với sphát tri nh, suy vong của một
quốc gia, m t dân t c hay m t th ời đại.
Đối v i Vi t Nam, trong su ốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn quan tâm
đến xây d ng, phát tri n, phát huy vai trò c ủa văn hoá để giành độc lập t do
b o v n c l p t do c c, ngày nay là xây d ng b o v ền độ ủa đất nướ
Tổ quốc. Hai văn kiệ ật là Đền nổi b cương về văn hoá Việt Nam (1943)
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII của Đảng V xây d ng và phát tri n n ền
văn hoa Vi t Nam tiên ti ến, đậm đà bản s c dân t ộc (1998), đặc biệt văn kiện
thứ hai này đã và sẽ đáp ứng yêu c u phát tri n c ủa nước ta trong th i k đổi
mới, mở c a và h i nh p v i khu v c và th ế giới.
Thực ti n ch ra r ằng, văn hoá đóng vai trò rất quan tr ng trong s nghi ệp
xây d ng và b o v đất nước trong trường k l ch s và trong s nghi p cách
mạng của nhân dân ta lãnh đạ ủa Đải sự o c ng ở thời hiện đại.
Để văn hoá phụ ốt hơn cho mụ ột nước vụ t c tiêu xây dựng m c Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, dân ch , công b ằng, văn minh, chúng ta cần phải hiểu
sâu v văn hoá. Trong tiể ận này, em đi sâu nghiên cứu lu u nội dung: “Đng
lãnh đạ ền văn hóa Việ ến, đậm đà bo xây dựng n t Nam tiên ti n sắc dân
tộc trách nhi m c a sinh viên trong gi gìn phát huy b n s c sinh
viên trường Đảng t i H c vi n Báo chí & Tuyên truy ền”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. M u ục đích nghiên cứ
Trên cơ slàm rõ cơ sở ủa đ đó đưa lý luận, thực trạng c tài tiểu luận, từ
ra phương hướ ải pháp bng một số gi n nhằm xây d ng n ền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân t c
2
2.2. Nhi m v nghiên c u
Để đạt được mục tiêu đã đề ra ở trên, bài ti u lu n th c hi n m t s nhi ệm
vụ sau:
 Làm rõ khái ni m quan tr ng và th c tr ng c t ệm văn hóa, tầ ủa văn hóa Việ
Nam
 Nêu rõ n i dung, m ục tiêu, phương thức và đề ra giải pháp Đảng xây d ng
văn hóa.
Trách nhi m c a sinh viên trong phát huy và gi gin b n s c dân t ộc.
3. i m nghiên c u Đố tượng phạ vi
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài tiểu luận này chính là về Đảng lãnh đạo
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và trách
nhiệm của sinh viên Học viện Báo chí & Tuyên truyền.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu quan điểm của ĐCSVN về xây dựng nền văn
hóa theo hướng tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
4.1. Cơ sở lý luận
sở ủa đề ựa trên quan điể luận c tài tiểu luận d m c ng v xây ủa Đả
dựng nền văn hóa Việt Nam hòa nh p nh ng v n gi được đặc trưng bản sắc
Việt Nam
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
u lu n s d ng m t s Ti phương pháp nghiên cứu như kết h p gi a các
phương pháp duy vật l ch s , logic, phân tích, nghiên c u, so sánh, t ng h p,
điều tra h i h c cùng v i tham kh o m t s tài li ệu đến t các ngu n chính
thống để cho đề làm rõ tài.
5. K t c u cế a ti u lu ận
Tiểu lu n có k t c u ngoài các ph u, K t thúc và Tài ế ần cơ bản như Mở đ ế
liệu tham kh o thì ph n N i dung bao g m nh ững v sau: ấn đề
Phần 1: Văn hóa Việt Nam
3
Phần 2: Đảng lãnh đọa v văn hóa
Phầ n 3: Trách nhiệm của sinh viên trong gi gìn và phát huy bản s c
sinh viên trường Đảng t i H c vi n Báo chí & Tuyên
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. N HÓA VIỆ T NAM
1.1. Khái ni m
nhi n ánh ều định nghĩa khác nhau vvăn hóa, mỗi định nghĩa phả
một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau.
Theo GS Tr n Ng ọc Thêm: “Văn hóa 1 hệ ữu các giá trị thống h
vật ch t tinh th i sáng t ần do con ngườ ạo tích y qua quá trình hoạt
động th c ti n trong s tương tác giữa con người với Môi trường t nhiên
Môi trường hội”. Khái niệm này đã nêu ra 4 đặc trưng bản của văn hóa
là tính h ng, tính giá tr , tính l ch s và tính nhân sinh. thố
Với Từ Chi, ông cho rằng “Tất cả những gì không ph i t nhiên đều
là văn hóa”, t c nh n m nh vào vai trò c i vủa con người đố ới vi c sáng tạo
văn hóa.
Còn theo ch t ịch HCM, Người lại quan niệm:
Định nghĩa củ ểu văn hóa cụa Hồ Chí Minh giúp chúng ta hi thể và đầy
đủ hơn. Suy cho cùng, mọi hoạt động c a c on người trước hết đều “vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích củ ống”, nhữ ạt độ ống đó trảa cuộc s ng ho ng s i qua
thự c ti n th c l p lời gian đượ ặp đi, l i thành nh ng thói quen, tập quán,
chắ t lọc thành nh ng chu n mự c, nh ng giá trị v t ch t tinh thần được
tích lũy, lưu truyề đời này qua đờn từ i khác thành kh
“Vì l sinh t a cu c s i m i sáng ồn cũng như mục đích củ ống, loài ngư
tạo phát minh ra ngôn ng , ch viết, đạo đức, pháp lu t, khoa h c, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ phục vụ cho sinh hoạt hàng
ngày v m c s d ng. Toàn b ng sáng t ặt ăn ở và các phương thứ ộ nhữ ạo
và phát minh đó tức là văn hóa”. [1]
5
th hiểu, văn hóa là tổng th những giá tr v t ch t tinh th n do con
ngườ i sáng t o ra trong lịch s nhằm vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái t t, cái
hợp lý và s phát tri n b n v ng, an toàn cho cá nhân, c ng, xã h i và ộng đồ
nhân lo ại.
1.2. Tầm quan trọng của văn hóa
Về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác
định: Văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu, động lực phát
triển bền vững đất nước. Quan điểm này được thể hiện qua mấy nội dung cơ
bản sau đây:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Quan diểm này một lần nữa khẳng định vai trò của văn hóa trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa
dân tộc chăm lo nền tảng tinh thần của hội. Thiếu nền tảng tinh thần
tiến bộ lành mạnh thì không sự phát triển kinh tế hội bền -
vững, Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, một trong
những mục tiêu quan trọng mà Đảng ta nhấn mạnh là: xây dựng nền văn
hóa con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân thiện - -
mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa
thật sự trở thành n ảng tinh thần vững chắc của xã ội, sức mạnh nội n t h
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững bảo vệ vững chắc Tổ quốc
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân ch, công bằng, văn minh”[2].
Do vậy, phát triển bền vững phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả
của kinh tế, là sức mạnh nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế -
hội, xây dựng phát triển văn hóa cũng một mục tiêu quan trọng trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Các giá trị văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của hội được
thấm nhuần trong mỗi con người và cả dân tộc. Các giá trị văn hóa được nối
6
tiếp, trao truyền phát huy qua các thế hngười Việt Nam, đó tất yếu
của dòng chảy lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và hướng đến tương lai, tương
lai của những giá trị phổ quát C Thiện Mỹ. Vì vậy, chúng ta làm cho hân - -
văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa
trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.
Mặt khác, để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, chúng ta cần phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp
thụ có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong tinh hoa văn hóa các dân tộc khác
để làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, làm
cho văn hóa Việt Nam bắt kịp sự phát triển của văn hóa nhân loại trong thời
đại ngày nay và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với văn hóa.
Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi
trọng nguồn lực văn hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di
sản văn hóa, các giá trị văn hóa “tài sản” vô giá, tận cho sự phát triển
kinh tế hội, đó còn sở tinh thần cho sự ổn định hội sự bền -
vững của chế độ ta.
Hai là, văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước.
Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
xây dựng một hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” Đây cũng chính là mục tiêu của văn hóa, nếu hiểu theo nghĩa rộng
nhất của văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế hội đến năm 2020 xác -
định: Mục tiêu động lực chính của sphát triển con người, do con
người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến
bộ công bằng hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”, ngày nay
không thể phát triển bằng mọi giá, nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi
ích hôm nay mà làm tổn hại đến tương lai. C. Mác đã chỉ dẫn “Nếu canh tác
được tiến hành một cách tự phát mà không được hướng dẫn một cách ý
thức….thì sẽ để lại sau đất hoang”[3]. Điều đó nghĩa là, muốn phát
7
triển kinh tế một cách hiệu quả, bền vững, thì không thể thiếu văn hóa, nên
văn hóa chính là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa còn có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người xây dựng
xã hội mới.
Bản chất của văn hóa sáng tạo, đổi mới để vươn tới các giá trị phổ
quát đó Chân - Thiện - mỹ, tạo nên tinh thần nhân văn cho con người, đem
hạnh phúc đến cho mỗi người. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội theo định -
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thực hiện sự nghiệp nhân dân - con
người. Nói đến văn hóa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội cũng có
nghĩa toàn bộ sự phát triển kinh tế hội phải hướng tới sự phát triển -
con người, phát triển hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân
dân. Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của sphát triển, mục tiêu của
sự phát triển.
Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa, đó phải nền kinh tế giải quyết hài hòa các
mối quan hệ lợi ích giữa nhân hội, giữa kinh tế với tiến bộ, công
bằng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng
vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó phải cần đến văn hóa, sự
tham gia của văn hóa vào trong tổ chức và hoạt động của nền kinh tế vì mục
tiêu phát triển hội, phát triển con người, đó chính là vai trò của văn hóa
trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa.
Văn hóa với tư cách đời sống tinh thần hội, một mục tu đặc biệt
quan trọng, nhu cầu phong phú, cùng, tận, tinh tế của con
người, nhu cầu tinh thần còn nhu cầu nhân văn và cứu cánh của con
người, văn a ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con người, xã hội tiến bộ, vừa
thúc đẩy con người đạt được niềm tin, sự khác vọng hạnh phúc.
Ba là, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.
Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài
nguyên thiên nhiên, thậm chí n nghèo nàn hạn hẹp nhưng lại giàu về
8
kinh tế, kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ chính nhờ coi trọng yếu tvăn
hóa, con người, thông qua việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài mở đường cho sự phát triển.
Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm
sâu trong văn hóa, con người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới
cái mới, cái tốt, cái tiến bộ nhưng không thể tách rời, bỏ qua cội nguồn, phát
triển phải vựa trên cội nguồn, cội nguồn đó của mỗi dân tc là văn hóa. kinh
nghiệm qua hơn 30 m sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh rằng,
ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy
kinh tế tạo ra, động lực của sự đổi mới kinh tế đó một phần quan trọng
nằm trong văn hóa.
Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động và làm
thay đổi quan niệm về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không
đơn thuần chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu
tố này phong phú, đa dạng nhưng đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt,
mà dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho sự phát triển chính là trí tuệ,
tri thức, thông tin, là sáng tạo đổi mới không ngừng tạo ra những giá trị
vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân và
hội, đó tức là văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển, chỉ có sự tham
gia của văn hóa mới đưa đến sự phát triển bền vững.
Với những thành tựu ý nghĩa lịch sử qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng
minh rằng, văn hóa từ trong bản chất của mình có vai trò hết sức quan trọng
đối sự phát triển kinh tế hội, phát triển bền vững đất nước, nền tảng -
tinh thần của xã hội, mục tiêu, động lực của sự phát triển gắn với tiến
bộ công bằng xã hội hướng tới phát triển văn hóa và phát triển toàn diện cá
nhân con người.
1.3. Thực tiễn xây dựng phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc
1.3.1. Thành tựu
9
Trong điều kiện đất nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa, trải qua hơn 30 năm
đổi mới, cùng với những thay đổi tích cực của nền kinh tế hội, văn hóa
Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Trong lĩnh vực
tưởng, lối sống và đạo đức, chúng ta luôn đi theo con đường ch nghĩa Mác
Lênin tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính con đường đúng đắn
nước ta đã kiên định từ đầu, vận dụng sáng tạo để phát triển nền văn hóa dân
tộc, đảm bảo cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng. Đảng ta
luôn lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tương Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Các cán bộ, đảng viên luôn ý
thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa hội, tinh thần trách nhiệm
và năng lực tổ chức thực tiễn. Nhiều nét mới trong giá trị văn hóa chuẩn
mực đạo đức từng bước hình thành. Mỗi công dân được khuyến khích và có
cơ hội phát huy tính năng động, tích cực, sở trườngnăng lực cá nhân. Do
đó, không khí dân chủ trong hội ngày càng tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu
nhanh những kiến thức mới và ý chí vươn lên lâp thân, lập nghiệp, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Những việc làm thiết thực ớng về cội nguồn, về
cách mạng kháng chiến, nhớ ơn các anh hùng dân tộc, quý trọng danh
nhân văn hóa, đền ơn đáp nghĩa những người công với đất nước, lá lành
đùm lá rách trở thành phong trào quần chúng. Mọi công dân có quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, không ai được xâm
phạm quyền tự do ấy.
Sự nghiệp giáo dục thu được những thành tựu quan trọng, góp phần
nâng cao dân trí, trình độ học vấn của nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh nội
sinh. Ứng dụng khoa học kĩ thuật ngày càng phổ biến trong hoạt động sản -
xuất đời sống giúp nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, hiệu quả
sản xuất. Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước
phát triển mới. Các bộ môn nghệ thuật truyền thống được giữ gìn, phát huy
nhiều bộ môn nghệ thuật mới được sáng tạo thêm hoặc học hỏi từ các
10
nước bạn bè trên thế giới. Hoạt động luận, phê bình đã đạt được những kết
quả tích cực, khẳng định mạnh mẽ văn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy
lùi một bước những quan điểm sai trái. Số đông văn nghệ sĩ được rèn luyện
thử thách trong thực tiễn cách mạng, có vốn sống, giàu lòng yêu nước;
trước những biến động của thời cuộc và những khó khăn của đời sống vẫn
giữ gìn được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân,
làm sứ mệnh người nghệ sĩ chiến sĩ. Nhiều văn nghệ tuổi cao, vẫn tiếp -
tục sự nghiệp sáng tạo, lớp trẻ nhiều cố gắng tìm i cái mới. Văn học,
nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể. Đội ngũ những nhà văn
hoá người dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng, chất lượng, đã những
đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Thông tin đại chúng phát triển nhanh cả về s lượng và quy mô, về nội
dung và hình thức, về in ấn, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai
trò quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của hội. Hệ thống mạng
thông tin trong nước và quốc tế được thiết lập, tạo khả năng lựa chọn, khai
thác các nguồn thông tin bổ ích phục vụ đông đảo công chúng. Đội ngũ các
nhà báo ngày càng đông có bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng
nghiệp vụ.
Hoạt động giao lưu văn hoá với nước ngoài được mở rộng. Chúng ta
dịp tiếp xúc rộng rãi với những thành tựu n hoá nhân loại, đồng thời giới
thiệu với nhân dân các nước khác những giá trị tốt đẹp, đc đáo của văn hoá
Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban
hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành văn
hoá. Cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động văn hóa được nâng cao, xây
dựng thêm nhiều nhà văn hoá, câu lạc bộ, bảo tàng, thư viện, cửa hàng sách
báo, khu vui chơi giải trí…và đã những phương thức hoạt động mới
hiệu quả.
1.3.2. Hạn chế
11
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền văn hóa nước ta vẫn còn
tồn tại.
Trước hết là ở trong nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống của
người dân, ngay cả trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Trước những biến động
chính trị phức tạp trên thế giới, một số người dao động, hoài nghi về con
đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực
trên thế giới, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa hội nước ta, phủ
nhận lịch sử cách mạng hào hùng của nước Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản.
Nhiều người còn sùng bái nước ngoài, coi thường những gtrị văn h
dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, nhân vị kỷ…đang gây hại đến thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị
chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, bạn bè, đồng chí, đồng
nghiệp. Hoạt động buôn lậu và nạn tham nhũng phát triển. Ma tuý, mại dâm
các tệ nạn hội khác gia tăng. Nạn tín dị đoan khá phổ biến, gây
nghiều hậu quả xấu cho nhân dân. Nhiều hủ tục và mới lan tràn, nhất
trong việc cưới xin, tang lễ, lễ hội…Nghiêm trọng hơn sự suy thoái vđạo
đức, lối sống một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó cả cán
bộ chức, quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài
phung phí, ăn chơi sa đoạ không được ngăn chặn hiệu quả. Hiện tượng
quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa
vị, cục bộ, địa phương, bè phái mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó
gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà nước.
Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm chohội lo
lắng như sự suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bạn bè, môi trường giáo
dục xuống cấp, lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn chơi, nghiện ma tuý…ở
một bộ phận học sinh, sinh viên. Nhiều học sinh, sinh viên hiện tượng coi
nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ môn chính trị, khoa học xã hội và
nhân văn, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
12
Đời sống văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Nhiều tác phẩm
được tạo ra chỉ với mục đích thương mại không mang tính nghệ thuật,
nhân văn . Trong sáng tác luận, phê bình, đã lúc nảy sinh khuynh
hướng phủ nhận thành tựu văn học cách mạng kháng chiến, đối lập văn
nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một số ngành nghệ thuật
như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống gặp rất nhiều khó
khăn, chưa hướng tới được đông đảo nhân dân.Lãnh đạo quản lý trong xuất
bản văn học, nghệ thuật còn nhiều sơ sở. Thiếu sự đầu tư trọng điểm và lâu
dài cho sự ra đời những tác phẩm lớn, cho việc giữ gìn phát triển những
ngành nghệ thuật truyền thống.
Về thông tin đại chúng, còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp
thời phát hiện và lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa
biểu dương đúng mức những điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng như
thiếu sự phê phán kịp thời những việc làm trái với đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước đạo đức hội. Không ít trường hợp thông tin thiếu
chính xác, làm lộ bí mật quốc gia. Xu hướng lạm dụng quảng cáo để thu lợi
còn khá phổ biến. Một số ít nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông
tin thiếu trung thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội, nhưng chưa được
xử lý kịp thời theo pháp luật.
Giao lưu văn hoá với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều
sơ hở. Số văn hoá phẩm đồi trụy, phản động xâm nhập vào nước ta còn quá
lớn, trong khi đó, số tác phẩm văn hoá có giá trị của ta đưa ra bên ngoài còn
quá ít. Lực lượng hoạt động văn hoá văn nghệ trong cộng đồng người Việt -
Nam ở nước ngoài hiện nay không nhỏ, đã có những công trình nghiên cứu,
tác phẩm văn học, nghệ thuật tốt hướng về Tổ quốc. Song chúng ta còn thiếu
những biện pháp tích cực giúp đồng bào tìm hiểu sâu văn hoá dân tộc, liên
hệ mật thiết với tổ quốc, góp phần đấu tranh với những hoạt động chống p
đối với Tổ quốc
13
Chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển văn
hoá còn chưa rõ. nhiều vùng nông thôn, nhất vùng sâu,vùng xa, vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước
đây, đời sống văn hoá còn quá nghèo nàn
Để khắc phục được những yếu kém, phát huy những lợi thế đó, Đảng
và nhà nước ta phải có những chính sách đúng đắn, hợp lý, từ đó xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tn sở vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
CHƯƠNG II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO V Ề VĂN HÓA
2.1. N i dung ng Đả lãnh đạo n hóa
Đảng ta đã lãnh đạo lĩnh vực văn hóa một cách toàn diện trên các mặt
chính tr ng, t ị, tư tưở chức, chuyên môn và các đoàn thể nhân dân.
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo lĩnh vực văn hóa trên mặt chính trị, tư tưởng:
Đảng đề ra lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương xây dựng
nền văn hóa phục dân tộc, phục vụ nhân dân, phù hợp với mục đích chính trị
của Đảng và của giai cấp công nhân.
Tại nghị quyết Trung ương khóa VIII đã khẳng định rằng “Văn hóa
một mặt trận, xây dựng phát triển văn hóa một sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng, kiên trì, thận trọng.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo về chuyên môn:
Đảng đã đưa ra các chủ trương, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp công tác xóa những cán b
hoạt động trên lĩnh vực văn hóa. Người nghệ chiến luôn phải đổi mới, -
học hỏi, sáng tạo, nâng cao hơn nữa trình độ của bản thân. Đem lại những
giá trị tốt đẹp, phù hợp với thực tiễn của nhân dân thời bình. Vì vậy, những
phương hướng, biện pháp Đảng đưa ra phải bức thiết, phù hợp với yêu
cầu của xã hội.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo về tổ chức, cán bộ:
14
Đảng tìm ra được các đảng viên ưu vào vị trí lãnh đạo, quản chủ
chốt trên lĩnh vực văn hóa. Đồng thời lựa chọn người hoạt động văn hóa vào
các vị trí của Đảng phù hợp với năng lực của từng cá nhân.
Đại hội VIII của Đảng đặt ra yêu cầu “đánh giá đúng cán bộ, lựa chọn
đúng người, sắp xếp đúng việc, bố trí đúng chỗ”. Đó là căn cốt làm nên đội
ngũ cán bộ kiên trung, toàn trí, toàn lực, toàn tâm dẫn dắt nhân dân đến với
nền văn hóa văn minh, hiện đại.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức Đảng đảng viên trong lĩnh
vực văn hóa:
Đảng chủ trương đra mục tiêu, phương pháp làm nên một đảng trong
sạch, vững mạnh trong các cơ quan, đơn v trên lĩnh vực văn hóa. Chú trọng
xây dựng tổ chức Đảng trong các đơn vị nghệ thuật quần chúng, phát triển
Đảng viên trong khối văn nghệ sĩ,...
Một Đảng có tổ chức sắp xếp khoa học, thống nhất sẽ phát huy toàn diện
năng lực của từng Đảng viên trong lĩnh vực văn hóa làm nên một hội phát
triển về mọi mặt về cả chính trị, kinh tế,...
Thứ năm, Đảng lãnh đạo Mặt trận tổ quốc và đoàn thể nhân dân:
Đảng đưa ra các chủ trương biện pháp lãnh đạo của đoàn thể nhân dân
trong lĩnh vực văn hóa đồng thời tiếp thu các ý kiến đóng góp cho công tác
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
2.2. Phương thức Đảng lãnh đạo văn hóa
Thông qua định hướng phát triển văn hóa thể hiện đường lối, quan
điểm chung các chỉ thị, nghị quyết và văn kiện của Đảng.
Thông qua việc lãnh đạo nhà nước xây dựng và thực hiện các thể chế,
thiết chế về văn hóa.
Đảng lãnh đạo thể chế hóa đường lối, quan điểm về văn hóa bằng
pháp luật, chính sách của nhà nước và giới thiệu cán bộ Đảng viên nắm
giữ các cương vị trong bộ máy nhà nước quản lý văn hóa các cấp. “Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn
15
hóa, văn học nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, -
tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ nhân trong
sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn”.
Song cần lưu ý Đảng không can thiệp sâu vào nhng vấn đề cụ thể
như cá tính sáng tạo, cảm hứng sáng tác, các tác nghiệp, kỹ năng thực
hành văn hóa.
Thông qua công tác cán bộ tại các cơ quan trong ngành văn hóa.
Là việc đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ của Đảng trong các lĩnh vực
văn hóa, rèn luyệncán bộ trong việc chấp hành đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, phápluật của Nhà nước về phát triển văn hóa.
Thông qua các tổ chức chính trị xã hội trong lĩnh vực văn hóa- .
Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú của mình vào các vị trí lãnh
đạo, quản của các tổ chức chính trị xã hội. Đồng thời, Đảng hết sức
coi trọng phát huy dân chủ, coi trọng những ý kiến đóng góp của Mặt
trận Tổ quốc các đoàn thể nhân dân trong lãnh đạo đối với lĩnh vực
văn hóa.
Thông qua hệ thống các tổ chức Đảng sự gương mẫu của đội ngũ
Đảng viên.
Thông qua các tổ chức của Đảng trong các tổ chức chuyên môn, các
cơ quan đoàn thể chính trị xã hội tác động vào đội ngũ văn nghệ sĩ, tác
động vào đời sống văn hóa. Cán bộ, đảng viên phải coi trọng rèn luyện
tưởng đạo đức lối sống, gương mẫu, nói đi đôi với làm. Xây dựng văn
hóa trong từng tổ chức Đảng là sở để đánh thức, lan tỏa văn hóa Đảng
ra toàn xã hội, cộng đồng. Không xây dựng văn hóa Đảng thì khó có thể
xây dựng văn hóa ngoài xã hội, cơ quan, đơn vị…
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát hoạt động văn hóa.
Việc kiểm tra, giám sát thực hiện các đường lối, quan điểm của
Đảng trong thực tiễn xây dựng phát triển văn hóa để nắm bắt tình
hình, đánh giá chính xác mức độ đi vào đời sống của các đường lối, quan
16
điểm và đặc biệt là có thể chỉ đạo kịp thời, sắc bén và giải quyết những
vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện xây dựng văn hóa. Qua kiểm tra,
giám sát, thanh tra kịp thời phát hiện những sai sót, lệch chuẩn để kịp
thời chỉ đạo chính quyền, ngành văn hóa khắc phục sửa chữa. Không để
các dấu hiệu vi phạm trở thành bản chất nghiêm trọng, từ mộtngười liên
quan đến nhiều người.
2.3. Mục tiêu của Đảng phát triển nền văn hóa
Đảng ta đưa ra 5 quan điểm về xây dựng, phát triển văn hóa, con người
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Một là, văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực
phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, hội. Quan điểm này được khẳng định trong Nghị quyết Trung
ương 9 khóa XI nhằm khắc phục tình trạng coi nhẹ yếu tố văn hóa so với
kinh tế, chính trị, hạn chế được hiện tượng suy thoái về tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các
đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ khoa học. Quan điểm này thể hiện
mô hình hài hòa giữa đặc trưng “tiên tiến” và “bản sắc dân tộc”, thống nhất
với tính chất của nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.
Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa. Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ
bản, cốt lõi, trọng tâm của việc xây dựng nền văn hóa đó xây dựng,
hoàn thiện nhân cách con người bởi lẽ. Đồng thời, quan điểm này có ý nghĩa
luận thực tiễn sâu sắc, nếu không xác định mục tiêu hướng mọi
hoạt động văn hóa vào hoàn thiện con người thì dẫn đến nguy cơ xa rời bản
chất đích thực của văn hóa, là tha hóa con người. Con người là chủ thể sáng
tạo nên giá trị văn hóa, là sản phẩm của môi trường văn hóa do mình tạo ra
17
nên nhân cách con người ý nghĩa quyết định đối với việc tạo nên chất
lượng văn hóa. thế, xây dựng nhân cách con người đứng vững trước
những khó khăn, thách thức của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, dám
xả thân sự nghiệp chung vấn đề hệ trọng của văn hóa Việt Nam hiện
nay.
Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai
trò của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần
chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Quan
điểm này xác định trọng tâm của xây dựng môi trường văn hóa là xây dựng
gia đình, cộng đồng và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa.
Năm là, xây dựng phát triển văn hóa sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí
thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm này đã khẳng định các chủ thể trọng
yếu vai trò to lớn, nguồn lực động lực để xây dựng, phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Nhìn một cách tổng quát, 5 quan điểm trên đã phản ánh tư tưởng chỉ đạo
vừa cơ bản, lâu dài, vừa cụ thể, cấp bách của Đảng ta nhằm định hướng cho
quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Các quan điểm
này đã phản ánh một bước phát triển mới vduy luận văn hóa của Đảng.
Nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận thể hiện tập trung
các quan điểm này sgiúp cho hoạt động thực tiễn của chúng ta đạt hiệu
quả tốt hơn.
2.4. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đng với văn hóa
Trước hết, tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn
hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững.
Thứ hai, tập trung nghiên cứu, xác định triển khai xây dựng hệ gtrị quốc
gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát
18
huy hệ giá trị gia đình trong thời kỳ mới; từng bước khắc phục các hạn chế
của người Việt.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản văn hóa, cải cách bộ máy
quản nhà nước về văn hóa. Trong đó, phạm vi can thiệp của nhà nước
trong lĩnh vực văn hóa cần được quy định, tạođịa phù hợp cho sáng tạo
và hưởng thụ văn hóa chính đáng của người dân. Hệ thống quản lý văn hóa
được chuyển đổi chủ yếu từ mệnh lệnh hành chính sang cơ chế quản lý bằng
luật pháp và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực ngành văn a, văn nghệ, nhất nguồn
nhân lực chất lượng cao; nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý; cho
các lĩnh vực then chốt, đặc thù.
Thứ năm, xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế, đặc biệt văn hóa trong
Đảng trở thành tấm gương đạo đức cho hội; văn hóa doanh nghiệp trở
thành hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Theo Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, việc chăm lo xây dựng văn hóa
trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể sẽ được chú trọng;
tự do cá nhân gắn với trách nhiệm hội nghĩa vụ công dân. Tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
công chức, đảng viên cần được ngăn chặn, đẩy lùi.
Thứ sáu, phát triển thị trường văn hóa, các ngành công nghiệp văn hóa để
đáp ứng nhu cầu tiếp nhận, hưởng thụ của người tiêu dùng thị trường
ngoài nước. Việc tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật quốc tế tại Việt
Nam sẽ trở thành các sự kiện thường niên, có uy tín khu vực và thế giới, thu
hút sự tham gia của các nghệ sĩ và các tổ chức văn hóa nghệ thuật có uy tín,
được đông đảo công chúng quan tâm.

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG ------------------------- TIỂU LUẬN
KẾT THÚC HỌC PHẦN MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG Đề tài:
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NỀN VĂN
HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN
SẮC DÂN TỘC VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH
VIÊN TRONG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN
SẮC SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẢNG TẠI HỌC
VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
Sinh viên thực hiện: Trần Thu Ngân Mã sinh viên: 2156110040
Lớp hành chính: Quan hệ chính trị & Truyền thông quốc tế K41 HÀ NỘI – 2022 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Mục đích v
à nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 1 3. Đối tượn g v
à phạm vi nghiên cứu ............................................................ 2 4. C ơ sở lý luận v
à phương pháp nghiên cứu ............................................. 2
5. Kết cấu của tiểu luận ................................................................................ 2
NỘI DUNG ..................................................................................................... 3
CHƯƠNG I. VĂN HÓA VIỆT NAM .......................................................... 3
1.1. Khái niệm ........................................................................................... 3
1.2. Tầm quan trọng của văn hóa ........................................................... 5
1.3. Thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc ................................................................................ 8
CHƯƠNG II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO VỀ VĂN HÓA................................. 13 2.1. Nội dung Đản
g lãnh đạo văn hóa ................................................... 13
2.2. Phương thức Đảng lãnh đạo văn hóa ............................................ 14 2
.3. Mục tiêu của Đảng phát triển nền văn hóa................................... 16
2.4. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với văn hóa ........... 17
CHƯƠNG III. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG GIỮ GÌNVÀ
PHÁT HUY BẢN SẮC SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẢNG TẠI HỌC VIỆN
BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN .............................................................. 20
KẾT LUẬN ................................................................................................. 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 24 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Văn hoá là một lĩnh vực xã hội rộng lớn, văn hoá gắn liền với con người,
do con người sáng tạo ra và phục vụ cho cuộc sống con người. Vì vậy, có
thể coi lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển của văn hoá. Văn hoá
đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển hưng thịnh, suy vong của một
quốc gia, một dân tộc hay một thời đại.
Đối với Việt Nam, trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn quan tâm
đến xây dựng, phát triển, phát huy vai trò của văn hoá để giành độc lập tự do
và bảo vệ nền độc lập tự do của đất nước, ngày nay là xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Hai văn kiện nổi bật là Đề cương về văn hoá Việt Nam (1943) và
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII của Đảng Về xây dựng và phát triển nền
văn hoa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998), đặc biệt văn kiện
thứ hai này đã và sẽ đáp ứng yêu cầu phát triển của nước ta trong thời kỳ đổi
mới, mở cửa và hội nhập với khu vực và thế giới.
Thực tiễn chỉ ra rằng, văn hoá đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước trong trường kỳ lịch sử và trong sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ở thời hiện đại.
Để văn hoá phục vụ tốt hơn cho mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, chúng ta cần phải hiểu
sâu về văn hoá. Trong tiểu luận này, em đi sâu nghiên cứu nội dung: “Đảng
lãnh đạo xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc và trách nhiệm của sinh viên trong giữ gìn và phát huy bản sắc sinh
viên trường Đảng tại Học viện Báo chí & Tuyên truyền”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng của đề tài tiểu luận, từ đó đưa
ra phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc 2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đã đề ra ở trên, bài tiểu luận thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Làm rõ khái niệm văn hóa, tầm quan trọng và thực trạng của văn hóa Việt Nam
Nêu rõ nội dung, mục tiêu, phương thức và đề ra giải pháp Đảng xây dựng văn hóa.
Trách nhiệm của sinh viên trong phát huy và giữ gin bản sắc dân tộc. 3. Đối tượn g v à phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài tiểu luận này chính là về Đảng lãnh đạo
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và trách
nhiệm của sinh viên Học viện Báo chí & Tuyên truyền. 3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu quan điểm của ĐCSVN về xây dựng nền văn
hóa theo hướng tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài tiểu luận dựa trên quan điểm của Đảng về xây
dựng nền văn hóa Việt Nam hòa nhập những vẫn giữ được đặc trưng bản sắc Việt Nam
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như kết hợp giữa các
phương pháp duy vật lịch sử, logic, phân tích, nghiên cứu, so sánh, tổng hợp,
điều tra xã hội học cùng với tham khảo một số tài liệu đến từ các nguồn chính
thống để làm rõ cho đề tài.
5. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận có kết cấu ngoài các phần cơ bản như Mở đầu, Kết thúc và Tài
liệu tham khảo thì phần Nội dung bao gồm những vấn đề sau:
Phần 1: Văn hóa Việt Nam 3
Phần 2: Đảng lãnh đọa về văn hóa
Phần 3: Trách nhiệm của sinh viên trong giữ gìn và phát huy bản sắc
sinh viên trường Đảng tại Học viện Báo chí & Tuyên 4 NỘI DUNG
CHƯƠNG I. VĂN HÓA VIỆT NAM 1.1. Khái niệm
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh
một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau.
Theo GS Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là 1 hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với Môi trường tự nhiên và
Môi trường xã hội”. Khái niệm này đã nêu ra 4 đặc trưng cơ bản của văn hóa
là tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân sinh.
Với Từ Chi, ông cho rằng “Tất cả những gì không phải là tự nhiên đều
là văn hóa”, tức nhấn mạnh vào vai trò của con người đối với việc sáng tạo văn hóa.
Còn theo chủ tịch HCM, Người lại quan niệm:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ phục vụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặt ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa”. [1]
Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu văn hóa cụ thể và đầy
đủ hơn. Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết đều “vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống”, những hoạt động sống đó trải qua
thực tiễn và thời gian được lặp đi, lặp lại thành những thói quen, tập quán,
chắt lọc thành những chuẩn mực, những giá trị vật chất và tinh thần được
tích lũy, lưu truyền từ đời này qua đời khác thành kh 5
Có thể hiểu, văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong lịch sử nhằm vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái tốt, cái
hợp lý và sự phát triển bền vững, an toàn cho cá nhân, cộng đồng, xã hội và nhân loại.
1.2. Tầm quan trọng của văn hóa
Về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác
định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát
triển bền vững đất nước. Quan điểm này được thể hiện qua mấy nội dung cơ bản sau đây:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Quan diểm này một lần nữa khẳng định vai trò của văn hóa trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa
dân tộc là chăm lo nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần
tiến bộ và lành mạnh thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, một trong
những mục tiêu quan trọng mà Đảng ta nhấn mạnh là: “xây dựng nền văn
hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện -
mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa
thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[2].
Do vậy, phát triển bền vững phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả
của kinh tế, là sức mạnh nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế -
xã hội, xây dựng và phát triển văn hóa cũng là một mục tiêu quan trọng trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Các giá trị văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được
thấm nhuần trong mỗi con người và cả dân tộc. Các giá trị văn hóa được nối 6
tiếp, trao truyền và phát huy qua các thế hệ người Việt Nam, đó là tất yếu
của dòng chảy lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và hướng đến tương lai, tương
lai của những giá trị phổ quát Chân - Thiện - Mỹ. Vì vậy, chúng ta làm cho
văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa
trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.
Mặt khác, để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, chúng ta cần phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp
thụ có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong tinh hoa văn hóa các dân tộc khác
để làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, làm
cho văn hóa Việt Nam bắt kịp sự phát triển của văn hóa nhân loại trong thời
đại ngày nay và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với văn hóa.
Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi
trọng nguồn lực văn hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di
sản văn hóa, các giá trị văn hóa là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, đó còn là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.
Hai là, văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước.
Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” Đây cũng chính là mục tiêu của văn hóa, nếu hiểu theo nghĩa rộng
nhất của văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 xác
định: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con
người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến
bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”, ngày nay
không thể phát triển bằng mọi giá, nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi
ích hôm nay mà làm tổn hại đến tương lai. C. Mác đã chỉ dẫn “Nếu canh tác
được tiến hành một cách tự phát mà không được hướng dẫn một cách có ý
thức….thì sẽ để lại sau nó đất hoang”[3]. Điều đó có nghĩa là, muốn phát 7
triển kinh tế một cách hiệu quả, bền vững, thì không thể thiếu văn hóa, nên
văn hóa chính là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa còn có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.
Bản chất của văn hóa là sáng tạo, đổi mới để vươn tới các giá trị phổ
quát đó là Chân - Thiện - mỹ, tạo nên tinh thần nhân văn cho con người, đem
hạnh phúc đến cho mỗi người. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là thực hiện sự nghiệp vì nhân dân - con
người. Nói đến văn hóa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội cũng có
nghĩa là toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới sự phát triển
con người, phát triển xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân. Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, là mục tiêu của sự phát triển.
Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các
mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh tế với tiến bộ, công
bằng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng
vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó phải cần đến văn hóa, sự
tham gia của văn hóa vào trong tổ chức và hoạt động của nền kinh tế vì mục
tiêu phát triển xã hội, phát triển con người, đó chính là vai trò của văn hóa
trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa.
Văn hóa với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt
quan trọng, vì nó là nhu cầu phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế của con
người, nhu cầu tinh thần còn là nhu cầu nhân văn và là cứu cánh của con
người, văn hóa ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con người, xã hội tiến bộ, vừa
thúc đẩy con người đạt được niềm tin, sự khác vọng hạnh phúc.
Ba là, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.
Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài
nguyên thiên nhiên, thậm chí còn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về 8
kinh tế, kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ chính là nhờ coi trọng yếu tố văn
hóa, con người, thông qua việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài mở đường cho sự phát triển.
Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm
sâu trong văn hóa, con người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới
cái mới, cái tốt, cái tiến bộ nhưng không thể tách rời, bỏ qua cội nguồn, phát
triển phải vựa trên cội nguồn, cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa. kinh
nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh rằng,
ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy
kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới kinh tế đó một phần quan trọng nằm trong văn hóa.
Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động và làm
thay đổi quan niệm về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không
đơn thuần chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu
tố này phong phú, đa dạng nhưng đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt,
mà dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho sự phát triển chính là trí tuệ,
tri thức, thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng tạo ra những giá trị
vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân và
xã hội, đó tức là văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển, chỉ có sự tham
gia của văn hóa mới đưa đến sự phát triển bền vững.
Với những thành tựu có ý nghĩa lịch sử qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng
minh rằng, văn hóa từ trong bản chất của mình có vai trò hết sức quan trọng
đối sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển bền vững đất nước, là nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực của sự phát triển gắn với tiến
bộ công bằng xã hội hướng tới phát triển văn hóa và phát triển toàn diện cá nhân con người.
1.3. Thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc 1.3.1. Thành tựu 9
Trong điều kiện đất nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa, trải qua hơn 30 năm
đổi mới, cùng với những thay đổi tích cực của nền kinh tế xã hội, văn hóa
Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Trong lĩnh vực tư
tưởng, lối sống và đạo đức, chúng ta luôn đi theo con đường chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là con đường đúng đắn mà
nước ta đã kiên định từ đầu, vận dụng sáng tạo để phát triển nền văn hóa dân
tộc, đảm bảo cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng. Đảng ta
luôn lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tương Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Các cán bộ, đảng viên luôn có ý
thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm
và năng lực tổ chức thực tiễn. Nhiều nét mới trong giá trị văn hóa và chuẩn
mực đạo đức từng bước hình thành. Mỗi công dân được khuyến khích và có
cơ hội phát huy tính năng động, tích cực, sở trường và năng lực cá nhân. Do
đó, không khí dân chủ trong xã hội ngày càng tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu
nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lâp thân, lập nghiệp, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về
cách mạng và kháng chiến, nhớ ơn các anh hùng dân tộc, quý trọng danh
nhân văn hóa, đền ơn đáp nghĩa những người có công với đất nước, lá lành
đùm lá rách trở thành phong trào quần chúng. Mọi công dân có quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, không ai được xâm phạm quyền tự do ấy.
Sự nghiệp giáo dục thu được những thành tựu quan trọng, góp phần
nâng cao dân trí, trình độ học vấn của nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh nội
sinh. Ứng dụng khoa học - kĩ thuật ngày càng phổ biến trong hoạt động sản
xuất và đời sống giúp nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, hiệu quả
sản xuất. Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước
phát triển mới. Các bộ môn nghệ thuật truyền thống được giữ gìn, phát huy
và nhiều bộ môn nghệ thuật mới được sáng tạo thêm hoặc học hỏi từ các 10
nước bạn bè trên thế giới. Hoạt động lý luận, phê bình đã đạt được những kết
quả tích cực, khẳng định mạnh mẽ văn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy
lùi một bước những quan điểm sai trái. Số đông văn nghệ sĩ được rèn luyện
và thử thách trong thực tiễn cách mạng, có vốn sống, giàu lòng yêu nước;
trước những biến động của thời cuộc và những khó khăn của đời sống vẫn
giữ gìn được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân,
làm sứ mệnh người nghệ sĩ - chiến sĩ. Nhiều văn nghệ sĩ tuổi cao, vẫn tiếp
tục sự nghiệp sáng tạo, lớp trẻ có nhiều cố gắng tìm tòi cái mới. Văn học,
nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể. Đội ngũ những nhà văn
hoá người dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng, chất lượng, đã có những
đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Thông tin đại chúng phát triển nhanh cả về số lượng và quy mô, về nội
dung và hình thức, về in ấn, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai
trò quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của xã hội. Hệ thống mạng
thông tin trong nước và quốc tế được thiết lập, tạo khả năng lựa chọn, khai
thác các nguồn thông tin bổ ích phục vụ đông đảo công chúng. Đội ngũ các
nhà báo ngày càng đông và có bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ.
Hoạt động giao lưu văn hoá với nước ngoài được mở rộng. Chúng ta có
dịp tiếp xúc rộng rãi với những thành tựu văn hoá nhân loại, đồng thời giới
thiệu với nhân dân các nước khác những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hoá
Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban
hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành văn
hoá. Cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động văn hóa được nâng cao, xây
dựng thêm nhiều nhà văn hoá, câu lạc bộ, bảo tàng, thư viện, cửa hàng sách
báo, khu vui chơi giải trí…và đã có những phương thức hoạt động mới có hiệu quả. 1.3.2. Hạn chế 11
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền văn hóa nước ta vẫn còn tồn tại.
Trước hết là ở trong nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống của
người dân, ngay cả trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Trước những biến động
chính trị phức tạp trên thế giới, một số người dao động, hoài nghi về con
đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực
trên thế giới, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phủ
nhận lịch sử cách mạng hào hùng của nước Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Nhiều người còn sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá
dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ…đang gây hại đến thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà
chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, bạn bè, đồng chí, đồng
nghiệp. Hoạt động buôn lậu và nạn tham nhũng phát triển. Ma tuý, mại dâm
và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến, gây
nghiều hậu quả xấu cho nhân dân. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là
trong việc cưới xin, tang lễ, lễ hội…Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo
đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán
bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài
phung phí, ăn chơi sa đoạ không được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng
quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa
vị, cục bộ, địa phương, bè phái mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó
gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà nước.
Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội lo
lắng như sự suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bạn bè, môi trường giáo
dục xuống cấp, lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn chơi, nghiện ma tuý…ở
một bộ phận học sinh, sinh viên. Nhiều học sinh, sinh viên có hiện tượng coi
nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ môn chính trị, khoa học xã hội và
nhân văn, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. 12
Đời sống văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Nhiều tác phẩm
được tạo ra chỉ với mục đích thương mại mà không mang tính nghệ thuật,
nhân văn . Trong sáng tác và lý luận, phê bình, đã có lúc nảy sinh khuynh
hướng phủ nhận thành tựu văn học cách mạng và kháng chiến, đối lập văn
nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một số ngành nghệ thuật
như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống gặp rất nhiều khó
khăn, chưa hướng tới được đông đảo nhân dân.Lãnh đạo quản lý trong xuất
bản văn học, nghệ thuật còn nhiều sơ sở. Thiếu sự đầu tư trọng điểm và lâu
dài cho sự ra đời những tác phẩm lớn, cho việc giữ gìn và phát triển những
ngành nghệ thuật truyền thống.
Về thông tin đại chúng, còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp
thời phát hiện và lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa
biểu dương đúng mức những điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng như
thiếu sự phê phán kịp thời những việc làm trái với đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và đạo đức xã hội. Không ít trường hợp thông tin thiếu
chính xác, làm lộ bí mật quốc gia. Xu hướng lạm dụng quảng cáo để thu lợi
còn khá phổ biến. Một số ít nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông
tin thiếu trung thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội, nhưng chưa được
xử lý kịp thời theo pháp luật.
Giao lưu văn hoá với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều
sơ hở. Số văn hoá phẩm đồi trụy, phản động xâm nhập vào nước ta còn quá
lớn, trong khi đó, số tác phẩm văn hoá có giá trị của ta đưa ra bên ngoài còn
quá ít. Lực lượng hoạt động văn hoá - văn nghệ trong cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài hiện nay không nhỏ, đã có những công trình nghiên cứu,
tác phẩm văn học, nghệ thuật tốt hướng về Tổ quốc. Song chúng ta còn thiếu
những biện pháp tích cực giúp đồng bào tìm hiểu sâu văn hoá dân tộc, liên
hệ mật thiết với tổ quốc, góp phần đấu tranh với những hoạt động chống phá đối với Tổ quốc 13
Chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển văn
hoá còn chưa rõ. Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu,vùng xa, vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước
đây, đời sống văn hoá còn quá nghèo nàn
Để khắc phục được những yếu kém, phát huy những lợi thế đó, Đảng
và nhà nước ta phải có những chính sách đúng đắn, hợp lý, từ đó xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
CHƯƠNG II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO VỀ VĂN HÓA
2.1. Nội dung Đảng lãnh đạo văn hóa
Đảng ta đã lãnh đạo lĩnh vực văn hóa một cách toàn diện trên các mặt
chính trị, tư tưởng, tổ chức, chuyên môn và các đoàn thể nhân dân.
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo lĩnh vực văn hóa trên mặt chính trị, tư tưởng:
Đảng đề ra và lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương xây dựng
nền văn hóa phục dân tộc, phục vụ nhân dân, phù hợp với mục đích chính trị
của Đảng và của giai cấp công nhân.
Tại nghị quyết Trung ương khóa VIII đã khẳng định rằng “Văn hóa là
một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng, kiên trì, thận trọng.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo về chuyên môn:
Đảng đã đưa ra các chủ trương, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp công tác xóa những cán bộ
hoạt động trên lĩnh vực văn hóa. Người nghệ - chiến sĩ luôn phải đổi mới,
học hỏi, sáng tạo, nâng cao hơn nữa trình độ của bản thân. Đem lại những
giá trị tốt đẹp, phù hợp với thực tiễn của nhân dân thời bình. Vì vậy, những
phương hướng, biện pháp mà Đảng đưa ra phải bức thiết, phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo về tổ chức, cán bộ: 14
Đảng tìm ra được các đảng viên ưu tú vào vị trí lãnh đạo, quản lý chủ
chốt trên lĩnh vực văn hóa. Đồng thời lựa chọn người hoạt động văn hóa vào
các vị trí của Đảng phù hợp với năng lực của từng cá nhân.
Đại hội VIII của Đảng đặt ra yêu cầu “đánh giá đúng cán bộ, lựa chọn
đúng người, sắp xếp đúng việc, bố trí đúng chỗ”. Đó là căn cốt làm nên đội
ngũ cán bộ kiên trung, toàn trí, toàn lực, toàn tâm dẫn dắt nhân dân đến với
nền văn hóa văn minh, hiện đại.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức Đảng và đảng viên trong lĩnh vực văn hóa:
Đảng chủ trương đề ra mục tiêu, phương pháp làm nên một đảng trong
sạch, vững mạnh trong các cơ quan, đơn vị trên lĩnh vực văn hóa. Chú trọng
xây dựng tổ chức Đảng trong các đơn vị nghệ thuật quần chúng, phát triển
Đảng viên trong khối văn nghệ sĩ,...
Một Đảng có tổ chức sắp xếp khoa học, thống nhất sẽ phát huy toàn diện
năng lực của từng Đảng viên trong lĩnh vực văn hóa làm nên một xã hội phát
triển về mọi mặt về cả chính trị, kinh tế,...
Thứ năm, Đảng lãnh đạo Mặt trận tổ quốc và đoàn thể nhân dân:
Đảng đưa ra các chủ trương biện pháp lãnh đạo của đoàn thể nhân dân
trong lĩnh vực văn hóa đồng thời tiếp thu các ý kiến đóng góp cho công tác
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
2.2. Phương thức Đảng lãnh đạo văn hóa
Thông qua định hướng phát triển văn hóa thể hiện ở đường lối, quan
điểm chung các chỉ thị, nghị quyết và văn kiện của Đảng.
Thông qua việc lãnh đạo nhà nước xây dựng và thực hiện các thể chế, thiết chế về văn hóa.
Đảng lãnh đạo thể chế hóa đường lối, quan điểm về văn hóa bằng
pháp luật, chính sách của nhà nước và giới thiệu cán bộ Đảng viên nắm
giữ các cương vị trong bộ máy nhà nước quản lý văn hóa các cấp. “Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn 15
hóa, văn học - nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị,
tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong
sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn”.
Song cần lưu ý Đảng không can thiệp sâu vào những vấn đề cụ thể
như cá tính sáng tạo, cảm hứng sáng tác, các tác nghiệp, kỹ năng thực hành văn hóa.
Thông qua công tác cán bộ tại các cơ quan trong ngành văn hóa.
Là việc đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ của Đảng trong các lĩnh vực
văn hóa, rèn luyệncán bộ trong việc chấp hành đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, phápluật của Nhà nước về phát triển văn hóa.
Thông qua các tổ chức chính trị - xã hội trong lĩnh vực văn hóa.
Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú của mình vào các vị trí lãnh
đạo, quản lý của các tổ chức chính trị xã hội. Đồng thời, Đảng hết sức
coi trọng phát huy dân chủ, coi trọng những ý kiến đóng góp của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong lãnh đạo đối với lĩnh vực văn hóa.
Thông qua hệ thống các tổ chức Đảng và sự gương mẫu của đội ngũ Đảng viên.
Thông qua các tổ chức của Đảng trong các tổ chức chuyên môn, các
cơ quan đoàn thể chính trị xã hội tác động vào đội ngũ văn nghệ sĩ, tác
động vào đời sống văn hóa. Cán bộ, đảng viên phải coi trọng rèn luyện
tư tưởng đạo đức lối sống, gương mẫu, nói đi đôi với làm. Xây dựng văn
hóa trong từng tổ chức Đảng là cơ sở để đánh thức, lan tỏa văn hóa Đảng
ra toàn xã hội, cộng đồng. Không xây dựng văn hóa Đảng thì khó có thể
xây dựng văn hóa ngoài xã hội, cơ quan, đơn vị…
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát hoạt động văn hóa.
Việc kiểm tra, giám sát thực hiện các đường lối, quan điểm của
Đảng trong thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa để nắm bắt tình
hình, đánh giá chính xác mức độ đi vào đời sống của các đường lối, quan 16
điểm và đặc biệt là có thể chỉ đạo kịp thời, sắc bén và giải quyết những
vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện xây dựng văn hóa. Qua kiểm tra,
giám sát, thanh tra kịp thời phát hiện những sai sót, lệch chuẩn để kịp
thời chỉ đạo chính quyền, ngành văn hóa khắc phục sửa chữa. Không để
các dấu hiệu vi phạm trở thành bản chất nghiêm trọng, từ mộtngười liên quan đến nhiều người.
2.3. Mục tiêu của Đảng phát triển nền văn hóa
Đảng ta đưa ra 5 quan điểm về xây dựng, phát triển văn hóa, con người
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực
phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, xã hội. Quan điểm này được khẳng định trong Nghị quyết Trung
ương 9 khóa XI nhằm khắc phục tình trạng coi nhẹ yếu tố văn hóa so với
kinh tế, chính trị, hạn chế được hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các
đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Quan điểm này thể hiện
mô hình hài hòa giữa đặc trưng “tiên tiến” và “bản sắc dân tộc”, thống nhất
với tính chất của nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.
Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa. Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ
cơ bản, cốt lõi, trọng tâm của việc xây dựng nền văn hóa đó là xây dựng,
hoàn thiện nhân cách con người bởi lẽ. Đồng thời, quan điểm này có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc, vì nếu không xác định rõ mục tiêu hướng mọi
hoạt động văn hóa vào hoàn thiện con người thì dẫn đến nguy cơ xa rời bản
chất đích thực của văn hóa, là tha hóa con người. Con người là chủ thể sáng
tạo nên giá trị văn hóa, là sản phẩm của môi trường văn hóa do mình tạo ra 17
nên nhân cách con người có ý nghĩa quyết định đối với việc tạo nên chất
lượng văn hóa. Vì thế, xây dựng nhân cách con người đứng vững trước
những khó khăn, thách thức của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, dám
xả thân vì sự nghiệp chung là vấn đề hệ trọng của văn hóa Việt Nam hiện nay.
Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai
trò của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần
chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Quan
điểm này xác định trọng tâm của xây dựng môi trường văn hóa là xây dựng
gia đình, cộng đồng và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa.
Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí
thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm này đã khẳng định các chủ thể trọng
yếu có vai trò to lớn, là nguồn lực và động lực để xây dựng, phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Nhìn một cách tổng quát, 5 quan điểm trên đã phản ánh tư tưởng chỉ đạo
vừa cơ bản, lâu dài, vừa cụ thể, cấp bách của Đảng ta nhằm định hướng cho
quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Các quan điểm
này đã phản ánh một bước phát triển mới về tư duy lý luận văn hóa của Đảng.
Nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận thể hiện tập trung
ở các quan điểm này sẽ giúp cho hoạt động thực tiễn của chúng ta đạt hiệu quả tốt hơn.
2.4. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với văn hóa
Trước hết, tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn
hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững.
Thứ hai, tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc
gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát 18
huy hệ giá trị gia đình trong thời kỳ mới; từng bước khắc phục các hạn chế của người Việt.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý văn hóa, cải cách bộ máy
quản lý nhà nước về văn hóa. Trong đó, phạm vi can thiệp của nhà nước
trong lĩnh vực văn hóa cần được quy định, tạo dư địa phù hợp cho sáng tạo
và hưởng thụ văn hóa chính đáng của người dân. Hệ thống quản lý văn hóa
được chuyển đổi chủ yếu từ mệnh lệnh hành chính sang cơ chế quản lý bằng
luật pháp và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực ngành văn hóa, văn nghệ, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao; nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý; cho
các lĩnh vực then chốt, đặc thù.
Thứ năm, xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế, đặc biệt là văn hóa trong
Đảng trở thành tấm gương đạo đức cho xã hội; văn hóa doanh nghiệp trở
thành hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Theo Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, việc chăm lo xây dựng văn hóa
trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể sẽ được chú trọng;
tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
công chức, đảng viên cần được ngăn chặn, đẩy lùi.
Thứ sáu, phát triển thị trường văn hóa, các ngành công nghiệp văn hóa để
đáp ứng nhu cầu tiếp nhận, hưởng thụ của người tiêu dùng và thị trường
ngoài nước. Việc tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật quốc tế tại Việt
Nam sẽ trở thành các sự kiện thường niên, có uy tín khu vực và thế giới, thu
hút sự tham gia của các nghệ sĩ và các tổ chức văn hóa nghệ thuật có uy tín,
được đông đảo công chúng quan tâm.