lOMoARcPSD| 58702377
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
~~~~~~~~*~~~~~~~~
BÀI TẬP NHÓM
KINH TẾ ĐẦU TƯ
ĐỀ TÀI:
Đánh giá hiệu ứng lấn át và hiệu ứng thay thế của đầu tư công
đối với đầu tư tư nhân
Lớp học phần: DTKT1154(125)_06
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 5
Họ và tên
MSV
Nguyễn Ngọc Anh
11243008
Trần Thị Quỳnh Anh
11243013
Nguyễn Thị Mai Chi
11243032
Nguyễn Thị Ngọc Bích
11243027
Ngô Minh Châu
11243030
HÀ NỘI -2025
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 3
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................................................. 3
lOMoARcPSD| 58702377
2.1. Đầu tư công ................................................................................................................... 3
2.2. Đầu tư tư nhân ............................................................................................................... 4
2.3. Hiệu ứng lấn át .............................................................................................................. 5
2.4. Hiệu ứng thay thế .......................................................................................................... 5
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hai hiệu ứng ...................................................................... 6
III. THỰC TRẠNG ................................................................................................................ 7
3.1. Tổng quan về quy mô và cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội tại Việt Nam ......................... 7
3.2. Thực trạng giải ngân và hiệu quả đầu tư ..................................................................... 10
3.3. Các kênh thúc đẩy đầu tư tư nhân ............................................................................... 12
IV. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG ............................................................................................... 13
4.1 Tình hình chung ở Việt Nam ........................................................................................ 13
4.2 Phân tích đánh giá tác động theo ngành: hạ tầng giao thông và bất động sản/hạ tầng 14
đô thị .................................................................................................................................. 14
4.2.1. Hạ tầng giao thông ............................................................................................... 14
4.2.2. Bất động sản/ Hạ tầng đô thị ................................................................................ 14
4.3 Nhận định ..................................................................................................................... 15
V. GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT
NAM (2025-2030).....................................................................................................155.1.
Cải thiện giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn ......................................................................... 15
5.2. Tăng cường hợp tác công - tư (PPP) ........................................................................... 16
5.3. Cải cách thể chế và minh bạch .................................................................................... 16
5.4. Quản lý Nợ Công và Mở rộng Dư địa Tài khóa ......................................................... 17
VI. KẾT
LUẬN..................................................................................................................17
lOMoARcPSD| 58702377
I. PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, Việt Nam đang nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua
việc đẩy mạnh giải ngân đầu tư công – công cụ tài khóa chủ lực của Nhà nước. Hàng loạt d
án trọng điểm quốc gia như cao tốc Bắc Nam, sân bay Long Thành, cảng Cái Mép Thị
Vải... đã đang được triển khai, không chỉ nhằm hoàn thiện kết cấu hạ tầng, còn tạo
động lực lan tỏa cho toàn bộ nền kinh tế.
Tuy nhiên, đầu tư công không chỉ là “đòn bẩy kích thích” mà còn có thể tạo ra những tác
động hai mặt đối với đầu nhân. Tùy thuộc vào quy mô, cấu hiệu quả đầu tư, khu
vực công thể thúc đẩy hoặc kìm m hoạt động đầu của khu vực . Hai hiện tượng kinh
tế tiêu biểu phản ánh rõ nét mối quan hệ này chính hiệu ứng lấn át hiệu ng thay thế.
Việc phân tích hai hiệu ứng này không chỉ giúp làm sáng tỏ cơ chế tác động của đầu tư công
đối với đầu tư tư nhân, mà còn mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong việc thiết kế chính sách
tài khóa hợp lý, bảo đảm sự phối hợp hài hòa giữa khu vực công khu vực tư, hướng tới
tăng trưởng kinh tế bền vững và hiệu quả sử dụng vốn cao hơn.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu khái quát về đầu tư công, đầu
nhân, đồng thời phân tích sâu hai hiệu ứng nổi bật hiệu ứng lấn át hiệu ứng thay
thế, để từ đó đánh giá tác động thực tế của đầu công đối với khu vực nhân trong nền
kinh tế Việt Nam hiện nay.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Đầu tư công
Đầu công là hoạt động đầu của nhà nước vào các chương trình, dự án và đối tượng
đầu công khác không mục tiêu, lợi nhuận (hoặc) không có khả năng hoàn vốn trực
tiếp.
Đầu tư công đóng vai trò then chốt trong việc định hình và thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế, không chỉ đơn thuần việc chi tiêu của chính phủ. Thay vào đó, nó là một công cụ
chiến lược khả năng tạo ra những tác động lan tỏa mạnh mẽ ảnh hưởng sâu rộng đến
mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội.
Đặc điểm nổi bật của đầu ng luôn hướng tới mục tiêu công cộng, không đặt
nặng lợi nhuận mà chú trọng đến hiệu quả kinh tế xã hội việc tối đa hóa phúc lợi chung
cho người dân. Bên cạnh đó, các hoạt động đầu tư công luôn được thực hiện trong khuôn khổ
pháp luật chặt chẽ, sự giám sát của cộng đồng phản biện hội nhằm đảm bảo tính
minh bạch, hiệu quả và tránh thất thoát nguồn vốn. Một số dụ tiêu biểu về đầu công
Việt Nam có thể kể đến như dự án tuyến đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông, dự án đầu
xây dựng Nhà máy Công nghiệp tàu thủy Dung Quất, hay dự án cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ,
đều những công trình góp phần quan trọng vào việc phát triển hạ tầng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế quốc gia.
lOMoARcPSD| 58702377
Tớc hết, đầu ng tạo ra sở hạ tầng vững chắc, nền tảng cho sphát triển của
các ngành kinh tế khác. Việc xây dựng đường xá, cầu cống, cảng biển, sân bay không chỉ giúp
kết nối các ng miền, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương, còn giảm chi phí vận
chuyển, tăng tính cạnh tranh cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đầu tư vào các công trình năng
lượng, viễn thông giúp đảm bảo nguồn cung ổn định, đáp ứng nhu cầu sản xuất sinh hoạt
tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư và kinh doanh.
Thứ hai, đầu tư công đóng vai trò quan trọng trong việc kích cầu, tạo việc làm và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn suy thoái. Khi chính phủ tăng cường đầu tư
vào các dự án công cộng, tạo ra nhu cầu đối với nguyên vật liệu, lao động dịch vụ, từ
đó kích thích sản xuất, tạo ra thu nhập và việc làm cho người dân. Điều này không chỉ giúp
giảm tỷ lệ thất nghiệp, mà còn tăng sức mua của người tiêu dùng, tạo động lực cho các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất và đầu tư.
Thứ ba, đầu công góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, tạo ra
những giá trị hội bền vững. Đầu vào giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao không chgiúp
nâng cao trình độ dân trí, cải thiện sức khỏe cộng đồng, còn tạo ra một môi trường sống
văn minh, hiện đại. Đầu o các công trình bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí
hậu giúp đảm bảo sự phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho thế hệ tương lai.
Đầu tư công không chỉ là một khoản chi tiêu đơn thuần mà là một công cụ quan trọng
có khả năng tạo ra những tác động tích cực và lan tỏa mạnh mẽ đến nền kinh tế. Việc quản lý
sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu công sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân và tạo ra một tương lai tươi sáng cho đất nước.
2.2. Đầu tư tư nhân
Đầu tư tư nhân là hoạt động đầu tư do các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân
hoặc các tổ chức ngoài khu vực nhà nước thực hiện, bằng nguồn vốn của chính họ, nhằm mục
tiêu sinh lời mở rộng sản xuất – kinh doanh. Nói cách khác, nếu đầu công phục vụ lợi
ích hội mục tiêu phát triển chung, thì đầu nhân chyếu ớng đến lợi nhuận
hiệu quả kinh tế trực tiếp.
Một đặc điểm quan trọng của đầu tư tư nhân là tính tự chủ và linh hoạt cao: nhà đầu tư
hoàn toàn tự quyết định về lĩnh vực, quy mô, thời điểm và hình thức đầu tư, đồng thời có thể
rút vốn hoặc chuyển hướng nhanh chóng theo biến động thị trường (OECD, 2019). Các ch
thể đầu nhân tự chịu rủi ro trách nhiệm tài chính, không được Nhà nước bảo lãnh
trong trường hợp thua lỗ.
Ngoài ra, quy mô và xu hướng của đầu tư tư nhân phụ thuộc mạnh mẽ vào môi trường
kinh doanh — bao gồm chính sách thuế, lãi suất, tín dụng, đất đai, cũng như mức độ ổn định
kinh tế mô. Đầu ng hiệu quả hạ tầng phát triển tốt thường tạo ra hiệu ng “crowding-
in”, thu hút thêm vốn tư nhân tham gia (Bộ Kế hoạch Đầu tư, 2020). Nhìn chung, đầu
nhân là khu vực năng động, đóng vai trò chđạo trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
đổi mới công nghệ và nâng cao năng suất lao động.
lOMoARcPSD| 58702377
Đầu nhân đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của một
quốc gia. Thông qua việc mở rộng quy sản xuất, đổi mới công nghệ phát triển sản phẩm
– dịch vụ mới, khu vực tư nhân góp phần làm tăng GDP và năng suất lao động, đồng thời gia
tăng nguồn thu ngân sách nhà nước thông qua các khoản thuế phí. Khi doanh nghiệp
nhân đầu mở rộng, nhu cầu tuyển dụng lao động cũng tăng lên, góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp cải thiện thu nhập của người n. Với đặc trưng năng động linh hoạt, khu vực
tư nhân thường tạo ra nhiều hội việc làm hơn so với khu vực công. Bên cạnh đó, sự tham
gia mạnh mẽ của khu vực nhân thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, buộc các doanh nghiệp
phải không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, từ đó cải thiện hiệu quả
chung của nền kinh tế. Nguồn vốn nhân còn được phân bổ dựa trên tín hiệu thị trường, giúp
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực xã hội và hạn chế tình trạng lãng phí. Ngoài ra, đầu
nhân cũng góp phần chia sẻ gánh nặng với đầu công, đặc biệt trong các lĩnh vực có
khả năng sinh lời như hạ tầng, năng lượng, giáo dục hay y tế. Sự kết hợp hài hòa giữa hai khu
vực này tạo nền tảng cho phát triển kinh tế bền vững. Cuối cùng, sự phát triển mạnh mẽ của
khu vực nhân giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong ớc, thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao vị thế của quốc gia trên trường thế giới.
2.3. Hiệu ứng lấn át
Hiệu ứng lấn át (Crowding out effect) một khái niệm trong lĩnh vực kinh tế, tả
tình huống khi tăngờng chi tiêu của chính phủ trong một nền kinh tế dẫn đến giảm sự đầu
của các cá nhân doanh nghiệp nhân. Khi chính phủ tăng cường chi tiêu, thường thông
qua việc tăng cường chi tiêu công cộng hoặc chính sách tiền tệ, lượng tiền được chi tiêu này
sẽ tạo ra nhu cầu tăng cao hơn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, để tài trcho việc chi tiêu này,
chính phủ thường phải tăng thuế hoặc vay nợ, đồng nghĩa với việc cạnh tranh với các nguồn
tài chính từ phía các cá nhân và doanh nghiệp.
Trong tình huống này, các nhân doanh nghiệp thể gặp khó khăn trong việc tiếp
cận nguồn vốn để đầu vào các dự án riêng của họ. Lãi suất thể tăng do sự cạnh tranh
tăng cao trong thị trường tài chính, khiến cho việc vay ợn trở nên đắt đỏ không hấp dẫn.
Điều này dẫn đến giảm đầu tư từ phía cá nhân và doanh nghiệp, và sự giảm đầu tư này gọi là
hiệu ứng lấn át. Vì vậy, hiệu ứng lấn át thường được xem như một khái niệm tiêu cực trong
kinh tế, vì nó ảnh hưởng đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế bằng cách giới hạn khả năng
đầu tư của các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân.
Khi chính phủ tăng chi tiêu công cộng, lượng tiền được chi tiêu sẽ tạo ra một nhu cầu
cao hơn trong nền kinh tế. Điều này thường dẫn đến tăng lãi suất, vì các tổ chức tài chính sẽ
tăng lãi suất để thu hút các khoản tiền vốn đóng góp cho việc tài trợ chi tiêu công cộng của
chính phủ. Tăng lãi suất này sẽ làm giảm sự hấp dẫn của việc vay mượn cho các cá nhân và
doanh nghiệp tư nhân.
2.4. Hiệu ứng thay thế
Hiệu ứng thay thế (Crowding-in effect) là khi đầu tư công của nhà ớc tạo điều kiện
thuận lợi cho, hoặc trực tiếp thúc đẩy đầu của khu vực tư nhân, trái ngược với hiệu ứng lấn
lOMoARcPSD| 58702377
át (crowding-out effect) khiến đầu công làm giảm đầu nhân. Theo thuyết Keynes
và trường phái kinh tế phát triển, khi Nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực có tính nền tảng như
kết cấu hạ tầng, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học…, sẽ giúp giảm chi phí đầu tư, rủi ro và
tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực nhân mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, đầu tư
công đóng vai trò “dẫn dắt”, khơi thông và kích hoạt dòng vốn nhân trong nền kinh tế. Một
ví dụ điển hình là khi chính phủ đầu tư xây dựng sở hạ tầng như đường xá, cầu cống, nhà
máy điện, giúp giảm chi phí sản xuất và vận chuyển, từ đó thu hút các doanh nghiệp tư nhân
đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại khu vực đó.
Khi chính phủ đầu mạnh vào các dự án cơ sở hạ tầng như đường bộ, đường sắt, cảng
biển, sân bay, hệ thống điện nước, điều này tạo ra môi trường kinh doanh tốt hơn, hạ thấp chi
phí logistics cho doanh nghiệp tư nhân. Việc sẵn các tiện ích công cộng, hạ tầng hiện đại
sẽ làm giảm chi phí đầu tư ban đầu và vận hành cho các dự án tư nhân, làm tăng tính hấp dẫn
lợi nhuận của các khoản đầu tư. Một số dự án đầu tư công có thể tạo ra thị trường mới hoặc
mở rộng quy mô thị trường, thu hút các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào các ngành nghề liên
quan hoặc khai thác các nguồn lực mới.
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hai hiệu ứng
Trong nền kinh tế, đầu công thể tạo ra hai hiệu ng trái ngược: hiệu ứng lấn át
(Crowding-out) và hiệu ứng thay thế hay lan tỏa tích cực (Crowding-in). Sự xuất hiện của hai
hiệu ứng này phụ thuộc vào hiệu quả đầu tư công, nguồn tài trợ, chính sách tài khóa – tiền tệ,
chất lượng thể chế và mức độ ổn định vĩ mô. Khi đầu tư công được thực hiện minh bạch, tập
trung vào các lĩnh vực nền tảng như hạ tầng, giáo dục, y tế, năng ợng, sẽ giảm chi phí
đầu tư, nâng cao năng suất khuyến khích khu vực nhân mở rộng sản xuất đầu tư, từ
đó tạo hiệu ứng Crowding-in tích cực. Ngược lại, nếu đầu công dàn trải, kém hiệu quả hoặc
lOMoARcPSD| 58702377
tài trợ bằng vay nợ quá mức, thể làm ng lãi suất, chiếm dụng nguồn lực gây mất
ổn định tài chính, dẫn đến hiệu ứng Crowding-out.
Do đó, để phát huy vai trò dẫn dắt của đầu tư công, Nhà nước cần nâng cao hiệu quả
đầu tư, cải thiện thể chế, bảo đảm ổn định phối hợp hài hòa chính sách tài khóa
tiền tệ, qua đó tối đa hóa hiệu ứng Crowding-in hạn chế hiệu ứng lấn át, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế bền vững.
III. THỰC TRẠNG
3.1. Tổng quan về quy mô và cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội tại Việt Nam
Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Đổi mới kinh tế
từ những năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt nam từ một trong
những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Giá trị
tổng sản phẩm quốc nội năm 2000 từ 31,17 tỷ USD lên 268,4 tỷ USD năm 2020. Thu nhập
bình quân đầu người tăng trên 2,7 lần, đạt trên 2.750 USD năm 2020, với hơn 45 triệu người
thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ ngày theo
sức mua ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam dân tộc thiểu số, chiếm
86% ( Theo Ngân hàng Thế giới, 2021).
Với chính sách mở của kinh tế tích cực, ngoài nguồn vốn khu vực nhà nước, các dòng
vốn nhân trong nước cũng như dòng vốn đầu nước ngoài đã được khơi thông, tăng trưởng
liên tục qua các năm. Tốc độ tăng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội các năm giai đoạn 2017 -
2021: năm 2017 tăng 13,5%, năm 2018 tăng 11%, năm 2019 tăng 10,1%, năm 2020 tăng 5%,
năm 2021 tăng 3,2%. Theo Nguyễn Thị Hương, Tổng cục Thống kê nêu: “ Tuy đây
mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua, nhưng kết quả khả quan trong bối cảnh dịch Covid
- 19 diễn biến phúc tạp trong nước và trên thế giới”.
Cũng theo quan thống trung ương, vốn đầu thực hiện toàn xã hội quý IV/ 2021
theo giá hiện nh ước tính đạt 999,8 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2% so với cùng kỳ m trước,
trong đó vốn khu vực nhà nước giảm 2,5%, khu vực ngoài nhà nước tăng 10,8%, khu vực có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 4%.
lOMoARcPSD| 58702377
Ước tính năm 2021, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành đạt 2.891,9 nghìn tỷ
đồng, tăng 3,2% so với năm trước. Trong đó, vốn khu vực nhà nước đạt 713,6 nghìn tỷ đồng,
chiếm 24,7% tổng vốn giảm 2,9% so với năm trước; khu vực ngoài nhà nước đạt 1.720,2
nghìn tỷ đồng, bằng 59,5% tăng 7,2%; khu vực vốn đầu trực tiếp nước ngoài đạt
458,1 nghìn tỷ đồng, bằng 15,8% và giảm 1,1%.
lOMoARcPSD| 58702377
Tích lũy tài sản tiền đề của đầu phát triển toàn hội. Tuy nhiên, trong nhiều năm
qua, tỷ lệ so với GDP của vốn đầu phát triển toàn hội thường cao hơn của tích lũy i
sản (Hình 1).
Do đầu cao hơn tích lũy, nên phải ng nợ công, nợ Chính phủ, nợ quốc gia. Trong
khi đó, thu, chi ngân sách nhà nước trong nhiều năm thường bội chi, tác động tiêu cực đến an
toàn tài chính của đất nước. Kết quả của nửa đầu năm 2024, tích lũy tài sản tăng cao hơn
GDP, trong khi tốc độ tăng vốn đầu phát triển toàn hội tính theo giá thực tế chỉ tăng
6,8%, nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ còn tăng chưa đến 3%, thấp khá xa so với tốc độ tăng
GDP.
Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP trong nửa đầu năm 2024 chỉ đạt 27,67%,
thấp khá xa so với các năm trước khả năng cả năm sẽ thấp hơn tỷ lệ tích lũy tài sản/GDP.
Sự chuyển trạng thái này vừa có tính tích cực, vừa tính tiêu cực. Tính tích cực là giảm áp
lực đối với gánh nặng nợ công, nợ chính phủ, nợ quốc gia; tính tiêu cực giảm lượng vốn
đầu tư phát triển, mà vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng
GDP.
Sự chuyển dịch này mang hàm ý hai chiều. Về mặt tích cực, đây có thể là tín hiệu của
quá trình củng cố nền tài chính quốc gia, giảm phụ thuộc vào vay nợ và giảm áp lực nợ công,
tạo dư địa tài khóa cho các giai đoạn sau. Tuy nhiên, xét trên góc độ tăng trưởng dài hạn, sự
sụt giảm tương đối của vốn đầu tư toàn xã hội có thể làm suy yếu động lực tăng trưởng GDP,
bởi đầu yếu tố vật chất trực tiếp quyết định quy năng lực sản xuất của nền kinh
tế. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao hiệu qusử dụng vốn đầu tư, tối ưu hóa
phân bổ nguồn lực tạo ra các kênh huy động vốn mới từ khu vực nhân, FDI, thị
trường tài chính để bù đắp khoảng trống đầu tư công.
lOMoARcPSD| 58702377
3.2. Thực trạng giải ngân và hiệu quả đầu tư
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thực trạng giải ngân vốn ĐTC ở Việt Nam giai
đoạn 2019 - 2023 đạt tỷ lệ thấp, theo đó, năm 2019 đạt 67%, năm 2020 là 82%, năm 2021 là
72%, năm 2022 đạt 67,27% năm 2023 đạt 73,5% kế hoạch. Đặc biệt trong năm 2023, trong
khi một số đơn vị đạt kết quả tích cực, có khả năng hoàn thành kế hoạch giải ngân như:
Ngân hàng Nhà nước (94,74%), Bộ Giao thông vận tải (86,08%), Bộ Quốc Phòng (85,055),
Quảng Ngãi (98,94%), Long An (94, 78%), Đồng Tháp (91,68%), Cà Mau (90,49%) ; thì còn
63/115 và địa phương kết quả giải ngân ước 12 tháng thấp hơn bình quân cả nước trong đó
nhiều bộ, cơ quan trung ương và địa phương có tỷ lệ giải ngân rất thấp (12 bộ, cơ quan trung
ương chỉ giải ngân được dưới 20%, 02 địa phương dưới 40%)
Tỷ lệ đầu của ngân sách trung ương so với tổng ĐTC giảm từ 40% vào năm 2017
xuống còn 20% vào năm 2022, Chính sách phân cấp như vậy đã dịch chuyển 80% vốn ĐTC
xuống cho các địa phương (giai đoạn 2017 - 2022), tỷ lệ này cao hơn gấp đôi so với mức bình
quân ở các quốc gia có hệ thống ngân sách được quản lý tập trung thống nhất (34,5%) và các
quốc gia nói chung (39,5%). Thẩm quyền quyết định chỉ tiêu được phân cấp cho chính quyền
địa phương, tuy đem lại nhiều kết quả tích cực, nhất trong cung cấp dịch vụ công, nhưng
cũng dẫn đến hạn chế trong phối hợp giữa địa phương và trung ương và giữa 63 địa phương.
Phân cấp ngân sách cao đã dẫn đến hạn chế trong phối hợp giữa các vùng/ miền, giữa quan
trung ương chính quyền địa phương, đồng thời làm phát sinh những dự án đầu trùng lặp
giữa 63 địa phương, bởi mỗi tỉnh/ thành trở thành một nền kinh tế gần như độc lập với kinh
tế trung ương. Các dịa phương đã và đang đầu tư vào nhiều dự án giá trị thấp, phân tán, hình
thành tài sản lãng phí, có thể gây tác động tiêu cực về môi trường
( chẳng hạn xây dựng các khu công nghiệp tỷ lệ lấp đầy thấp hoặc cảng biển của địa phương
không dùng hết công suất). Hệ quả là, hiệu suất bị suy giảm do các nguyên nhân như trùng
lặp trong phân bổ, khó khăn trong triển khai thực hiện, phát sinh tác động ngoại ứng tiêu cực,
huy động sự tham gia nguồn tài chính của khu vực nhân chưa tối ưu. Việt Nam đã
đang theo đuổi các cách tiếp cận khác nhau về điều phối chính sách đầu theo vùng,
nhưng chưa phương án nào đem lại kết quả như mong muốn do một số hạn chế về khuôn
khổ pháp luật và do thiếu chế huy động và phân bổ tài chính, chế phối hợp vùng hiệu
quả.
Nhìn chung, mặc Chính phủ đã vào cuộc rất quyết liệt, song tình trạng chậm giải
ngân xảy ra hầu hết trên tất cả các lĩnh vực, ngành, địa phương trong thời gian dài vừa qua là
rất đáng báo động, hệ lụy của không chỉ làm giảm hiệu quả sự vận động của dòng tiền
trong vòng chu chuyển giá trị của nền kinh tế, còn làm chậm sự phát triển bền vững của
đất nước.
Quan sát thực trạng cho thấy, tiến độ giải ngân vốn ĐTC thường chậm vào những tháng
đầu năm, giải ngân dồn dập rơi vào những tháng cuối năm, gây áp lực cho điều hành kinh tế
vĩ mô của Chính phủ. Tỷ lệ giải ngân thấp chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn ĐTC, gây
lãng phí nguồn lực, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, tác động tiêu cực đến việc triển khai
lOMoARcPSD| 58702377
phối hợp các chính sách tài khóa chính sách tiền tệ, đặc biệt trong bối cảnh Chính phủ và
các địa phương đang triển khai lộ trình phục hồi thúc đẩy phát triển kinh tế sau đại dịch
Covid 19.
Vấn đề giải ngân chậm của vốn đầu công một thực trạng kéo dài mang tính chu
kỳ, gây ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đầu tư của khu vực tư nhân. Đầu tiên, sự chậm trễ
này tạo ra chi phí hội về mặt kinh tế, khi nguồn vốn không được luân chuyển kịp thời, làm
trì hoãn việc hình thành các tài sản công nền tảng như đường giao thông hay mạng lưới điện,
vốn là yếu tố giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp tư nhân. Hệ quả nguy hiểm hơn là hiện
tượng nút thắt cổ chai. Khi Chính phủ và các địa phương dồn dập giải ngân vào các quý cuối
năm nhằm hoàn thành chỉ tiêu, nó tạo ra nhu cầu vật chất đột ngột và cực lớn trên thị trường.
Sự tăng cầu bất ngờ này dẫn đến việc khu vực Nhà ớc tranh chấp trực tiếp nguồn
lực với khu vực nhân, chủ yếu là vật liệu xây dựng, đất đai phục vụ giải phóng mặt bằng,
nhân công kỹ thuật cao. Việc này ngay lập tức đẩy giá cả các yếu tố đầu vào tăng vọt, buộc
khu vực nhân phải chấp nhận chi phí sản xuất cao hơn, làm giảm tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng,
hoặc phải trì hoãn các dự án mình. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, sự gia tăng chi phí do
lấn át nguồn lực này là yếu tố quyết định khiến nhiều dự án tư nhân bị hủy bỏ hoặc chueyenr
sang trạng thái “chờ”, minh chứng cho hiệu ứng lấn át trong ngắn hạn.
Chất lượng và suất sinh lời của ĐTC đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra hiệu ứng
thúc đẩy dài hạn, nhưng đây lại là một điểm nghẽn tại Việt Nam. Tình trạng ĐTC bị phân b
dàn trải và không tập trung vào các công trình trọng điểm có tính lan tỏa đã dẫn đến suất sinh
lời cận biên thấp. Theo Phạm Thị Hồng (2024), chỉ số ICOR cao của khu vực Nhà nước cho
thấy sự lãng phí nguồn lực so với suất sinh lời của khu vực nhân. Khi hạ tầng công kém
chất lượng hoặc không đồng bộ, thất bại trong việc tạo ra các ngoại ứng tích cực như giảm
chi phí logistics vận tải, khiến kênh thúc đẩy về hạ tầng bị tắc nghẽn. Điều này buộc doanh
nghiệp tư nhân phải tự đầu tư vào các hạng mục thay thế hoặc chấp nhận hiệu suất thấp, làm
giảm động lực đầu tư.
Sự kém hiệu quả này còn dẫn đến lấn át niềm tin, một lực cản hình nhưng mạnh
mẽ. Vấn đề ĐTC dàn trải, kém minh bạch hoặc liên quan đến tiêu cực, tham nhũng (Báo cáo
Thanh tra Chính phủ, 2023) đã gửi một tín hiệu xấu về quản trị kinh tế mô. Nhà đầu
nhân, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, coi đây là dấu hiệu của rủi ro chính sách và rủi ro tài
khóa gia tăng (do nguy cơ nợ công hoặc phải tăng thuế trong tương lai). Trong môi trường rủi
ro cao, c quyết định đầu tư dài hạn bị hoãn lại, khiến khu vực tư nhân thu hẹp sản xuất
chờ đợi sự cải thiện rõ rệt từ môi trường kinh doanh.
Cuối cùng, việc Chính phủ tăng cường huy động vốn để tài trợ cho ĐTC có thể gây ra
lấn át tài chính (Financial Crowding-out). Mặc Chính phủ Việt Nam khả năng kiểm soát
thị trường, nhu cầu vốn lớn từ khu vực công, nhất thông qua phát hành trái phiếu chính
phủ, thể làm thu hẹp nguồn vốn tín dụng khả dụng cho khu vực nhân, đặc biệt khi
vốn ĐTC lại được đổ vào các dự án kém hiệu quả. Theo thuyết, khi nhu cầu vốn công tăng,
chi phí vay vốn của khu vực tư nhân có xu hướng bị đẩy lên hoặc yêu cầu về tài sản đảm bảo
lOMoARcPSD| 58702377
trở nên khắt khe hơn. Dù Ngân hàng Nhà nước đã giảm lãi suất điều hành trong năm , chi phí
vốn thực tế cho doanh nghiệp vẫn mức cao khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp tư
nhân lại suy giảm, phản ánh áp lực từ các yếu tố vĩ mô và rủi ro nội tại của doanh nghiệp.
3.3. Các kênh thúc đẩy đầu tư tư nhân
Mặc dù các hạn chế về giải ngân và hiệu quả đầu tư công (ĐTC) có thể tạo ra nguy cơ
“lấn át” nhất định, song vai trò thúc đẩy đầu tư nhân của ĐTC vẫn rất nét và được truyền
dẫn qua nhiều kênh tác động quan trọng.
Thứ nhất, kênh ngoại ứng hạ tầng là cơ chế truyền dẫn nền tảng. Khi Nhà nước đầu tư
vào các dự án hạ tầng thiết yếu như đường bộ cao tốc Bắc Nam, đường vành đai đô thị, cảng
biển logistics, chi phí vận chuyển, chi phí thời gian rủi ro vận hành của doanh nghiệp
nhân giảm đáng kể. Theo Báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải (2023), chỉ riêng các đoạn
cao tốc Bắc – Nam hoàn thành giai đoạn 1 đã giúp rút ngắn 30–40% thời gian di chuyển, tiết
kiệm hàng triệu USD chi phí logistics mỗi năm. Điều này trực tiếp làm tăng tỷ suất lợi nhuận
cận biên kỳ vọng của các dự án nhân, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu phân
phối hàng hóa. Kết quả khu vực nhân có động lực mở rộng quy sản xuất, đầu tư máy
móc thiết bị và mở thêm cơ sở tại các vùng kinh tế trọng điểm.
Thứ hai, kênh kích cầu vĩ mô theo lý thuyết Keynes. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế
hoặc tăng trưởng chậm (như giai đoạn 2020–2023), đầu tư công trở thành công cụ kích thích
tổng cầu hiệu quả. Các gói chi tiêu công lớn tạo việc làm, tăng thu nhập và tiêu dùng, qua đó
thúc đẩy cầu đối với hàng hóa dịch vụ. Khi công suất sử dụng của doanh nghiệp nhân
tăng lên, tín hiệu thtrường ràng rằng đầu mở rộng cần thiết có lợi nhuận. Đây
một chế đặc biệt hiệu quả trong ngắn hạn, lan tỏa mạnh đến các ngành công nghiệp phụ
trợ, vật liệu xây dựng, dịch vụ và thương mại nội địa (Nguyễn Ngọc Toàn, 2024).
Thứ ba, kênh tạo lập “vốn mồi” và cơ sở công nghệ. Nhà nước thường đầu tư vào các
lĩnh vực rủi ro cao, thời gian thu hồi vốn dài hoặc tính chất ng hóa công những
lĩnh vực mà khu vực tư nhân không đủ nguồn lực hoặc động lực tham gia. Các khoản đầu tư
công vào R&D, trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm công nghệ hoặc hạ tầng xanh không
chỉ tạo ra tri thức công cộng mà còn hình thành một hệ sinh thái công nghệ - đổi mới. Doanh
nghiệp nhân thể tận dụng các nền tảng này để thương mại hóa công nghệ với chi phí
thấp hơn, rút ngắn chu kỳ đổi mới giảm rủi ro đầu (Báo cáo Bộ KH&ĐT, 2022). Bên
cạnh đó, đầu công vào môi trường, năng ợng sạch thích ứng biến đổi khí hậu ng
đóng vai trò bảo đảm n định nền tảng sản xuất, tạo sự an tâm cho nhà đầu nhân dài hạn.
Thứ tư, kênh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng vai trò chiến lược. Đầu
công vào giáo dục, y tế, đào tạo nghề làm ng chất lượng năng suất lao động cận biên.
Điều này không chỉ giảm chi phí đào tạo lại cho doanh nghiệp mà còn tăng khả năng hấp thụ
công nghệ của lực lượng lao động. Khi nhân công có kỹ năng tốt hơn, doanh nghiệp tư nhân
có xu hướng đầu tư vào các dây chuyền hiện đại, công nghệ cao, từ đó tạo ra một chu kỳ đầu
tư tích cực kéo dài.
lOMoARcPSD| 58702377
Tóm lại, thể thấy đầu công không chỉ tác động đơn lẻ còn tạo hiệu ứng lan
tỏa (multiplier effect): hạ tầng tốt chi phí thấp n lợi nhuận kvọng cao hơn đầu
tư tư nhân tăng; đồng thời, cầu tăng → công suất sử dụng tăng → doanh nghiệp mở rộng sản
xuất → tạo việc làm tăng trưởng. Đây bằng chứng ràng về hiệu ứng thúc đẩy đầu
nhân trong cả ngắn hạn dài hạn, nếu đầu công được thực hiện đúng trọng tâm
hiệu quả giải ngân tốt.
IV. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
4.1 Tình hình chung ở Việt Nam
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, nhìn chung hiệu ứng thay thế (crowding-in) của đầu
công đang chiếm ưu thế, mặc dù hiệu ứng lấn át (crowding-out) vẫn xuất hiện trong ngắn
hạn. Đầu tư công, đặc biệt khi tập trung vào các dự án hạ tầng thiết yếu như giao thông, cảng
biển, đường sắt năng lượng, đã tạo ra hiệu ứng thay thế rõ rệt, giảm chi phí vận tải, rút
ngắn thời gian giao thương thúc đẩy doanh nghiệp nhân mrộng sản xuất dịch vụ.
Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công và tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016 - 2022
Từ biểu đồ trên có thể thấy trong giai đoạn 2016–2020, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công
đạt trung bình 83,4% so với kế hoạch, góp phần duy trì mức tăng trưởng GDP bình quân
6,01%. Đặc biệt, m 2021 chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, tỷ lệ giải
ngân vẫn đạt 93,47%, giúp Việt Nam duy trì mức tăng trưởng dương 2,56%. Đây được coi là
kết quả đáng ghi nhận khi dịch bệnh COVID-19 tác động nặng nề. Việt Nam hiện một trong
số ít quốc gia duy trì được mức tăng trưởng ơng xếp trong nhóm những nước tăng trưởng
cao trên thế giới. Bước sang năm 2022, tỷ lệ giải ngân tiếp tục mức cao 93,5%, đóng góp
tích cực vào mức tăng trưởng GDP 8,02%; trong nửa đầu năm 2023, tỷ lệ này vẫn duy trì
đà tích cực, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh cho khu vực tư nhân và nền kinh tế hậu dịch.
Trong giai đoạn phục hồi sau COVID-19, khi việc giải ngân đầu ng nhanh và hiệu
quả đã thúc đẩy các ngành vật liệu xây dựng, logistics và khu công nghiệp tăng trưởng, đồng
lOMoARcPSD| 58702377
thời khu vực nhân tận dụng sở hạ tầng mới để mở rộng hoạt động. Tuy nhiên, không thể
phủ nhận rằng trong những giai đoạn Nhà nước mở rộng quy đầu công mạnh mẽ
dàn trải, nguồn vốn, tín dụng đất đai có thể bị hút vào các dự án công, làm tăng chi phí đầu
vào và lãi suất, khiến một số doanh nghiệp tư nhân khó tiếp cận vốn.
Như vậy, có thể nhận định rằng đầu tư công ở Việt Nam vừa hỗ trợ vừa cạnh tranh với
đầu tư tư nhân, và hiệu ứng thay thế chiếm ưu thế dài hạn nhờ khả năng tạo nền tảng hạ tầng
và lan tỏa lợi ích. Tuy nhiên, để hạn chế hiện tượng lấn át trong các ngành vốn nhạy cảm với
chi phí n dụng, việc quản lý, lựa chọn dự án định hướng đầu công vẫn là yếu tố then
chốt, đồng thời khuyến khích mô hình đối tác công – tư (PPP) để huy động thêm vốn tư nhân
và nâng cao hiệu quả đầu tư.
4.2 Phân tích đánh giá tác động theo ngành: hạ tầng giao thông và bất động sản/hạ
tầng đô thị
4.2.1. Hạ tầng giao thông
Khi đi sâu phân tích theo ngành, thể thấy rằng hiệu ứng của đầu tư công đối với đầu
nhân tại Việt Nam không đồng đều. Trong lĩnh vực hạ tầng giao thông, đầu công
thường tạo ra hiệu ứng thay thế mạnh mẽ. Trong giai đoạn 2009–2011, mặc nền kinh tế
chịu tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, Chính phủ đã triển khai gói kích cầu đầu
tư công gần 145 nghìn tỷ đồng, tập trung vào các công trình giao thông trọng điểm như Quốc
lộ 1A, cầu Cần Thơ, cao tốc Nội Bài Lào Cai. Nhờ đó, chi phí logistics giảm bình quân
khoảng 10–15%, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân mở rộng sản xuất và thương mại.
Bước sang giai đoạn 2020–2023, trong bối cảnh hậu COVID-19, đầu công tiếp tục
được đẩy mạnh. Tỷ lệ giải ngân đạt 93,5% năm 2022, trong đó vốn cho hạ tầng giao thông
chiếm khoảng 47% tổng đầu tư công quốc gia. Việc hoàn thiện các tuyến cao tốc Bắc – Nam,
sân bay Long Thành giai đoạn 1, hàng loạt dự án đường ven biển đã giúp tăng năng lực
vận tải hàng hóa 8–10%/năm, kéo theo sự bùng nổ của đầu nhân trong các ngành
logistics, khu công nghiệp và vật liệu xây dựng. Như vậy, hạ tầng giao thông là lĩnh vực điển
hình thể hiện rõ hiệu ứng thay thế, khi đầu công không những không cạnh tranh với nhân
mà còn tạo đà cho khu vực này mở rộng và tăng trưởng.
4.2.2. Bất động sản/ Hạ tầng đô thị
Trái ngược với lĩnh vực giao thông, đầu công vào hạ tầng đô thị bất động sản
(như nhà xã hội, khu đô thị hành chính, khu tái định ) trong nhiều giai đoạn lại thể hiện
hiệu ứng lấn át đối với khu vực nhân. Trong thời kỳ kích cầu 2009–2011, nguồn vốn đầu
tư công tăng nhanh, kéo theo mức lãi suất cho vay thương mại tăng lên tới 22-25%/năm, làm
suy giảm khả năng huy động vốn của doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực bất động sản. Tình
trạng dàn trải vốn đầu công vào các dự án bất động sản công quy lớn đã khiến dòng
vốn tín dụng bị “hút” khỏi khu vực nhân, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh về nguồn
lực.
lOMoARcPSD| 58702377
Tương tự, trong giai đoạn 2020–2022, khi Chính phủ đẩy mạnh đầu hạ tầng đô thị
nhằm kích thích phục hồi sau COVID-19, nhiều địa phương đồng thời mở rộng các dự án
công quy mô lớn (như khu hành chính, công trình công cộng), dẫn đến giá đất và giá nguyên
vật liệu xây dựng tăng 15–20%, khiến doanh nghiệp nhân nhỏ vừa gặp khó khăn trong
tiếp cận quỹ đất và vốn tín dụng. Do đó, đầu tư công trong khu vực này dù vẫn đóng góp vào
tăng trưởng tổng thể, nhưng hiệu ứng lấn át thể hiện rõ rệt thông qua việc chiếm dụng nguồn
lực và làm tăng chi phí đầu tư của khu vực tư nhân.
4.3 Nhận định
Nhìn chung, đầu công tác động hai chiều đối với đầu nhân, vừa mang tính
hỗ trợ, vừa tiềm ẩn khả năng lấn át. Khi được thực hiện đúng hướng, đầu công đóng vai trò
như chất xúc tác quan trọng, tạo dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từ đó khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng quy mô và
đa dạng hóa hoạt động đầu tư. Trong bối cảnh đó, khu vực công khu vực thể hình
thành mối quan hệ bổ trợ lẫn nhau, cùng thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới.
Ngược lại, nếu đầu tư công được triển khai dàn trải, thiếu trọng tâm hoặc trùng lặp với
các lĩnh vực nhân khả năng tham gia, thì sẽ dẫn đến tình trạng cạnh tranh nguồn lực,
méo tín hiệu thị trường làm giảm hiệu quả phân bổ vốn. Khi đó, đầu công không
còn là động lực thúc đẩy mà trở thành yếu tố cản trở sự phát triển của khu vực tư nhân. Điều
này cho thấy hiệu ứng lấn át không xuất phát từ bản chất của đầu công, từ cách thức
quản lý, lựa chọn và điều hành đầu tư của Nhà nước.
Vì vậy, có thể khẳng định rằng, đầu tư công chỉ thực sự phát huy được vai trò dẫn dắt
lan tỏa tích cực khi được định hướng vào những lĩnh vực tính nền tảng tạo địa
phát triển cho nhân. Yếu tố quyết định nằm chất lượng thể chế, tính minh bạch trong
quản lý đầu sự phối hợp hiệu quả giữa khu vực công khu vực nhân. Chỉ khi đảm
bảo được điều đó, đầu tư công mới trở thành động lực bền vững cho tăng trưởng kinh tế, đồng
thời hạn chế được nguy lấn át tạo nền tảng vững chắc cho khu vực nhân phát triển
lâu dài.
V. GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO ĐẦU TƯ CÔNG TẠI
VIỆT NAM (2025-2030)
5.1. Cải thiện giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn
Trong giai đoạn vừa qua, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của Việt Nam bình quân chỉ
đạt khoảng 82,5% kế hoạch, ảnh hưởng lớn đến tiến độ triển khai dự án làm giảm hiệu quả
đầu tư. Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục hành chính còn rườm rà và năng lực quảndự án
tại địa phương còn hạn chế. Để khắc phục, cần tăng cường giám sát và trách nhiệm giải trình
thông qua ứng dụng công nghệ số như hệ thống e-GP hoặc Hệ thống quản đầu tư công quốc
gia, giúp theo dõi tiến độ giải ngân theo thời gian thực. Bên cạnh đó, áp dụng cơ chế thưởng
lOMoARcPSD| 58702377
phạt dựa trên kết quả thực hiện nhằm tạo động lực cho các bộ, ngành địa phương hoàn
thành kế hoạch.
Đồng thời, cần đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn quy trình xuống còn 10–15
bước, tập trung vào các khâu then chốt như giải phóng mặt bằng thẩm định môi trường,
đồng thời ưu tiên vốn cho các dự án trọng điểm. Song song, nâng cao năng lực cán bộ quản
lý thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu về quản lý dự án và tài chính công, hướng
tới mục tiêu ng tỷ lệ giải ngân lên trên 95% vào năm 2027. Về chính sách, nên sớm ban
hành nghị định về cơ chế “một cửa” giải ngân đầu tư công tích hợp trí tuệ nhân tạo để dự báo
rủi ro chậm trễ, đồng thời tăng ngân sách đào tạo cán bộ từ 0,5% lên 1% tổng vốn đầu
công, ưu tiên cho các địa phương miền núi và đồng bằng sông Cửu Long.
5.2. Tăng cường hợp tác công - tư (PPP)
Mặc đến năm 2023 Việt Nam đã hơn 300 dự án đầu theo hình thức đối tác
công – tư (PPP) đi vào hoạt động, song hiệu quả vẫn còn hạn chế do rủi ro pháp lý và cơ chế
chia sẻ rủi ro chưa ràng. Để khắc phục, cần mở rộng PPP sang các lĩnh vực mới như chuyển
đổi số khoa học – công nghệ theo Nghị định 180/2025/NĐ-CP, trong đó Nhà ớc có thể
hỗ trợ đến 70% vốn hạ tầng chia sẻ rủi ro doanh thu trong ba năm đầu. Trọng tâm nên
hướng vào các dự án hạ tầng số (5G, dữ liệu lớn) năng lượng tái tạo, nhằm nâng tỷ trọng
vốn tư nhân lên 20% tổng đầu tư hạ tầng đến năm 2030.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện khung phápthông qua việc thành lập Quỹ bảo lãnh rủi ro
PPP quốc gia để giảm gánh nặng tài chính cho Nhà nước thu hút doanh nghiệp tham gia
các dự án lớn như sân bay Long Thành giai đoạn 2. Việt Nam cũng nên tăng cường hợp tác
quốc tế, kêu gọi vốn ODA FDI từ các đối tác như Nhật Bản (JICA) Hàn Quốc (KOICA),
đặc biệt cho các dự án metro tại Nội TP.HCM. Về chính sách, cần sửa đổi Luật PPP
2020 (dự kiến năm 2026) nhằm phân cấp mạnh hơn cho địa phương, đồng thời áp dụng ưu
đãi thuế 10 năm cho các nhà đầu trong lĩnh vực xanh, hướng tới mục tiêu đạt 500 dự án
PPP mới vào năm 2030, trong đó ít nhất 30% thuộc lĩnh vực số và phát triển bền vững.
5.3. Cải cách thể chế và minh bạch
Hiện tượng đầu tư công dàn trải và chồng chéo trong thời gian qua đã khiến năng suất
biên của vốn công chỉ đạt khoảng 70% so với vốn tư nhân, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn
lực quốc gia. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác minh bạch, giám sát và đánh giá dự án còn
hạn chế. Để khắc phục, cần chuyển hướng đầu theo hướng trọng điểm, ưu tiên 70% vốn
công cho ba lĩnh vực cốt lõi gồm giao thông (40%), năng lượng (20%) chuyển đổi số (10%)
theo Kế hoạch Đầu Công Trung hạn 2021–2025, mở rộng đến 2030; đồng thời giảm đầu
tư phân tán ở cấp huyện xuống dưới 5%.
Song song, cần tăng cường kiểm toán và đánh giá hiệu quả đầu thông qua việc mở rộng
vai trò của Kiểm toán Nhà nước, yêu cầu báo cáo hàng quý về hiệu quả dự án dựa trên chỉ số
ROI (Return on Investment). Ngoài ra, nên khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào các
dự án địa phương như đường nông thôn để ng tính minh bạch hạn chế tham nhũng. Về
lOMoARcPSD| 58702377
chính sách, Nhà ớc cần sớm ban hành Chiến lược Đầu Công Thông minh giai đoạn
2026–2030, tích hợp các tiêu chí ESG (Môi trường Xã hội – Quản trị) và yêu cầu đánh giá
tác động kinh tế hội trước khi phê duyệt dự án. Đồng thời, thành lập Hội đồng Tư vấn
Đầu tư Công cấp quốc gia gồm các chuyên gia trong và ngoài nước nhằm tư vấn, giám sát và
định hướng phân bổ vốn hiệu quả hơn.
5.4. Quản lý Nợ Công và Mở rộng Dư địa Tài khóa
Chi đầu tư công từ lâu đã đóng vai trò then chốt trong phát triển kinh tế Việt Nam, đặc
biệt trong việc thúc đẩy hạ tầng và các lĩnh vực trọng điểm. Tuy nhiên, đến năm 2023, chi đầu
tư công vẫn chiếm khoảng 30% tổng ngân sách nhà nước – một tỷ lệ khá cao so với khả năng
cân đối tài khóa hiện nay. Điều này tạo ra thách thức lớn khi địa i khóa để hỗ trợ khu vực
tư nhân ngày càng thu hẹp, dù nợ công đã giảm còn 37% GDP – mức tương đối an toàn theo
chuẩn quốc tế. Để nâng cao hiệu quả chi đầu tư công và bảo đảm tính bền vững tài chính quốc
gia, cần triển khai đồng bộ các giải pháp tối ưu.
Tớc hết, cần tối ưu hóa cấu trúc nợ, chuyển khoảng 20% nợ công sang trái phiếu
xanh và hình thức PPP nhằm giảm áp lực ngân sách, đồng thời thu hút vốn quốc tế thông qua
các quỹ như Green Climate Fund. Bên cạnh đó, đa dạng hóa nguồn thu phi thuế bằng cách
khai thác hiệu quả quỹ đất công thu phí sử dụng hạ tầng (như phí cao tốc) đbổ sung nguồn
vốn đầu tư. Về dài hạn, cần cân bằng chi tiêu, duy trì tỷ lệ chi đầu công mức khoảng 25%
GDP đến năm 2030 và dành 5% địa cho các gói tín dụng hỗ trợ khu vực tư nhân. Về chính
sách, nên sửa đổi Luật Quản lý NCông 2017 để cho phép phát hành trái phiếu PPP với lãi
suất ưu đãi, giữ nợ công ổn định dưới 40% GDP, đồng thời triển khai Chương trình “Tái cơ
cấu Tài khóa 2025–2030” với sự hỗ trợ của IMF WB, tập trung giảm chi thường xuyên
xuống còn 60% tổng ngân sách.
VI. KẾT LUẬN
Tổng thể, mối quan hệ giữa đầu công đầu nhân tại Việt Nam trong những
năm gần đây cho thấy xu hướng chuyển biến tích cực từ lấn át sang thay thế. Điều này phản
ánh sự cải thiện rõ nét trong quản trị tài chính công, hiệu quả đầu và điều hành kinh tế
mô của Chính phủ. Khi Nhà nước đầu tư có trọng điểm, minh bạch và định hướng phát triển
bền vững, vốn công sẽ không còn cạnh tranh với vốn tư, trở thành chất xúc tác lan tỏa,
khơi dậy tiềm năng và nguồn lực của khu vực tư nhân.
Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu đổi mới
hình tăng trưởng chuyển đổi xanh, đầu công cần được xem như “nguồn vốn dẫn
dắt”, khơi thông dòng chảy của khu vực nhân khu vực quốc tế. Khi mỗi dự án công
được đầu tư đúng trọng tâm, đúng thời điểm và đúng nhu cầu xã hội, nó không chỉ tạo ra giá
trị vật chất, mà còn gieo nền niềm tin và động lực phát triển cho toàn bộ nền kinh tế. Một nền
tài chính công hiệu quả, minh bạch và định hướng phát triển bền vững sẽ là chìa khóa để Việt
lOMoARcPSD| 58702377
Nam chuyển hóa vốn đầu công thành sức mạnh lan tỏa, tạo đà cho một giai đoạn tăng
trưởng năng động, tự chủ và bền vững hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch Đầu tư. (2020). Báo cáo đánh giá đầu nhân vai trò trong
tăngtrưởng kinh tế Việt Nam. Hà Nội.
2. OECD. (2019). OECD Investment Policy Review: Viet Nam 2019. Paris:
OECDPublishing.
3. Tờng Đại học Kinh tế Quốc dân. (2021). Giáo trình Kinh tế đầu . NXB Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
4. Tạp chí Kinh tế – Tài chính Việt Nam. (2023). “Tác động lan tỏa của đầu tư công tới
pháttriển kinh tế – xã hội”. Tạp chí Kinh tế – Tài chính Việt Nam.
5. World Bank. (2024). Regional Investment in Vietnam: Decentralization &
SpatialIntegration Advisory Program. Washington, DC: The World Bank.
6. Bộ Nội vụ (2024) Báo cáo tóm tắt kết quả Chsố cải cách hành chính năm 2023 của
cácbộ, quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (PAR INDEX
2023). Hà Nội: Bộ Nội vụ.
7. Nguyễn, T.C., Nguyễn, T.L. Nguyễn, T.T.L. (2018) ‘Tác động của đầu công
đếnthu hút đầu nhân tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam’, Tạp chí Khoa học Đại học
Mở Thành phố Hồ Chí Minh – Kinh tế và Quản trị kinh doanh, 13(2), tr. 91–105.
8. VnEconomy (2024) Trạng thái tích lũy đầu tư có sự thay đổi.
https://vneconomy.vn/trang-thai-tich-luy-dau-tuco-su-thay-doi.htm
9. Kinh tế Dự báo (2021) Vốn đầu thực hiện toàn hội theo giá hiện hành năm
2021 tăng 3,2%. https://kinhtevadubao.vn/von-dau-tu-thuc-hien-toan-xa-hoi-theo-gia-hien-
hanhnam-2021-tang-32-20774.html
10. World Bank (2024) Regional Investment in Vietnam: Decentralization &
SpatialIntegration Advisory Program. Washington. The World Bank.
11. Báo Chính phủ (2024) ‘Gói kích cầu của Chính phủ được sự ủng hộ của toàn dân
vàcộng đồng doanh nghiệp’. Báo Chính phủ.
12. Tạp chí Kinh tế Tài chính Việt Nam (2023.) ‘Tác động lan tỏa của đầu công tới
pháttriển kinh tế – xã hội’. Tạp chí Kinh tế – Tài chính Việt Nam
13. Tin nhanh Chứng khoán (2019) ‘Lãi suất điều hành được Ngân hàng Nhà nước
điềuchỉnh ra sao 8 năm qua?’. Tin nhanh Chứng khoán.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58702377
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ~~~~~~~~*~~~~~~~~ BÀI TẬP NHÓM KINH TẾ ĐẦU TƯ ĐỀ TÀI:
Đánh giá hiệu ứng lấn át và hiệu ứng thay thế của đầu tư công
đối với đầu tư tư nhân
Lớp học phần: DTKT1154(125)_06
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 5 Họ và tên MSV Nguyễn Ngọc Anh 11243008 Trần Thị Quỳnh Anh 11243013 Nguyễn Thị Mai Chi 11243032 Nguyễn Thị Ngọc Bích 11243027 Ngô Minh Châu 11243030 HÀ NỘI -2025 MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 3
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................................................. 3 lOMoAR cPSD| 58702377
2.1. Đầu tư công ................................................................................................................... 3
2.2. Đầu tư tư nhân ............................................................................................................... 4
2.3. Hiệu ứng lấn át .............................................................................................................. 5
2.4. Hiệu ứng thay thế .......................................................................................................... 5
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hai hiệu ứng ...................................................................... 6
III. THỰC TRẠNG ................................................................................................................ 7
3.1. Tổng quan về quy mô và cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội tại Việt Nam ......................... 7
3.2. Thực trạng giải ngân và hiệu quả đầu tư ..................................................................... 10
3.3. Các kênh thúc đẩy đầu tư tư nhân ............................................................................... 12
IV. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG ............................................................................................... 13
4.1 Tình hình chung ở Việt Nam ........................................................................................ 13
4.2 Phân tích đánh giá tác động theo ngành: hạ tầng giao thông và bất động sản/hạ tầng 14
đô thị .................................................................................................................................. 14
4.2.1. Hạ tầng giao thông ............................................................................................... 14
4.2.2. Bất động sản/ Hạ tầng đô thị ................................................................................ 14
4.3 Nhận định ..................................................................................................................... 15
V. GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT
NAM (2025-2030).....................................................................................................155.1.
Cải thiện giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn ......................................................................... 15
5.2. Tăng cường hợp tác công - tư (PPP) ........................................................................... 16
5.3. Cải cách thể chế và minh bạch .................................................................................... 16
5.4. Quản lý Nợ Công và Mở rộng Dư địa Tài khóa ......................................................... 17 VI. KẾT
LUẬN..................................................................................................................17 lOMoAR cPSD| 58702377 I. PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, Việt Nam đang nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua
việc đẩy mạnh giải ngân đầu tư công – công cụ tài khóa chủ lực của Nhà nước. Hàng loạt dự
án trọng điểm quốc gia như cao tốc Bắc – Nam, sân bay Long Thành, cảng Cái Mép – Thị
Vải... đã và đang được triển khai, không chỉ nhằm hoàn thiện kết cấu hạ tầng, mà còn tạo
động lực lan tỏa cho toàn bộ nền kinh tế.
Tuy nhiên, đầu tư công không chỉ là “đòn bẩy kích thích” mà còn có thể tạo ra những tác
động hai mặt đối với đầu tư tư nhân. Tùy thuộc vào quy mô, cơ cấu và hiệu quả đầu tư, khu
vực công có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động đầu tư của khu vực tư. Hai hiện tượng kinh
tế tiêu biểu phản ánh rõ nét mối quan hệ này chính là hiệu ứng lấn át và hiệu ứng thay thế.
Việc phân tích hai hiệu ứng này không chỉ giúp làm sáng tỏ cơ chế tác động của đầu tư công
đối với đầu tư tư nhân, mà còn mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong việc thiết kế chính sách
tài khóa hợp lý, bảo đảm sự phối hợp hài hòa giữa khu vực công và khu vực tư, hướng tới
tăng trưởng kinh tế bền vững và hiệu quả sử dụng vốn cao hơn.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu khái quát về đầu tư công, đầu
tư tư nhân, đồng thời phân tích sâu hai hiệu ứng nổi bật – hiệu ứng lấn át và hiệu ứng thay
thế, để từ đó đánh giá tác động thực tế của đầu tư công đối với khu vực tư nhân trong nền
kinh tế Việt Nam hiện nay. II. CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Đầu tư công
Đầu tư công là hoạt động đầu tư của nhà nước vào các chương trình, dự án và đối tượng
đầu tư công khác không vì mục tiêu, lợi nhuận và (hoặc) không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.
Đầu tư công đóng vai trò then chốt trong việc định hình và thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế, không chỉ đơn thuần là việc chi tiêu của chính phủ. Thay vào đó, nó là một công cụ
chiến lược có khả năng tạo ra những tác động lan tỏa mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng đến
mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội.
Đặc điểm nổi bật của đầu tư công là luôn hướng tới mục tiêu công cộng, không đặt
nặng lợi nhuận mà chú trọng đến hiệu quả kinh tế – xã hội và việc tối đa hóa phúc lợi chung
cho người dân. Bên cạnh đó, các hoạt động đầu tư công luôn được thực hiện trong khuôn khổ
pháp luật chặt chẽ, có sự giám sát của cộng đồng và phản biện xã hội nhằm đảm bảo tính
minh bạch, hiệu quả và tránh thất thoát nguồn vốn. Một số ví dụ tiêu biểu về đầu tư công ở
Việt Nam có thể kể đến như dự án tuyến đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông, dự án đầu tư
xây dựng Nhà máy Công nghiệp tàu thủy Dung Quất, hay dự án cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ,
đều là những công trình góp phần quan trọng vào việc phát triển hạ tầng và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế quốc gia. lOMoAR cPSD| 58702377
Trước hết, đầu tư công tạo ra cơ sở hạ tầng vững chắc, nền tảng cho sự phát triển của
các ngành kinh tế khác. Việc xây dựng đường xá, cầu cống, cảng biển, sân bay không chỉ giúp
kết nối các vùng miền, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương, mà còn giảm chi phí vận
chuyển, tăng tính cạnh tranh cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đầu tư vào các công trình năng
lượng, viễn thông giúp đảm bảo nguồn cung ổn định, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt
tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư và kinh doanh.
Thứ hai, đầu tư công đóng vai trò quan trọng trong việc kích cầu, tạo việc làm và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn suy thoái. Khi chính phủ tăng cường đầu tư
vào các dự án công cộng, nó tạo ra nhu cầu đối với nguyên vật liệu, lao động và dịch vụ, từ
đó kích thích sản xuất, tạo ra thu nhập và việc làm cho người dân. Điều này không chỉ giúp
giảm tỷ lệ thất nghiệp, mà còn tăng sức mua của người tiêu dùng, tạo động lực cho các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất và đầu tư.
Thứ ba, đầu tư công góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, tạo ra
những giá trị xã hội bền vững. Đầu tư vào giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao không chỉ giúp
nâng cao trình độ dân trí, cải thiện sức khỏe cộng đồng, mà còn tạo ra một môi trường sống
văn minh, hiện đại. Đầu tư vào các công trình bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí
hậu giúp đảm bảo sự phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho thế hệ tương lai.
Đầu tư công không chỉ là một khoản chi tiêu đơn thuần mà là một công cụ quan trọng
có khả năng tạo ra những tác động tích cực và lan tỏa mạnh mẽ đến nền kinh tế. Việc quản lý
và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư công sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân và tạo ra một tương lai tươi sáng cho đất nước.
2.2. Đầu tư tư nhân
Đầu tư tư nhân là hoạt động đầu tư do các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân
hoặc các tổ chức ngoài khu vực nhà nước thực hiện, bằng nguồn vốn của chính họ, nhằm mục
tiêu sinh lời và mở rộng sản xuất – kinh doanh. Nói cách khác, nếu đầu tư công phục vụ lợi
ích xã hội và mục tiêu phát triển chung, thì đầu tư tư nhân chủ yếu hướng đến lợi nhuận và
hiệu quả kinh tế trực tiếp.
Một đặc điểm quan trọng của đầu tư tư nhân là tính tự chủ và linh hoạt cao: nhà đầu tư
hoàn toàn tự quyết định về lĩnh vực, quy mô, thời điểm và hình thức đầu tư, đồng thời có thể
rút vốn hoặc chuyển hướng nhanh chóng theo biến động thị trường (OECD, 2019). Các chủ
thể đầu tư tư nhân tự chịu rủi ro và trách nhiệm tài chính, không được Nhà nước bảo lãnh
trong trường hợp thua lỗ.
Ngoài ra, quy mô và xu hướng của đầu tư tư nhân phụ thuộc mạnh mẽ vào môi trường
kinh doanh — bao gồm chính sách thuế, lãi suất, tín dụng, đất đai, cũng như mức độ ổn định
kinh tế vĩ mô. Đầu tư công hiệu quả và hạ tầng phát triển tốt thường tạo ra hiệu ứng “crowding-
in”, thu hút thêm vốn tư nhân tham gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2020). Nhìn chung, đầu tư
tư nhân là khu vực năng động, đóng vai trò chủ đạo trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
đổi mới công nghệ và nâng cao năng suất lao động. lOMoAR cPSD| 58702377
Đầu tư tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của một
quốc gia. Thông qua việc mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ và phát triển sản phẩm
– dịch vụ mới, khu vực tư nhân góp phần làm tăng GDP và năng suất lao động, đồng thời gia
tăng nguồn thu ngân sách nhà nước thông qua các khoản thuế và phí. Khi doanh nghiệp tư
nhân đầu tư mở rộng, nhu cầu tuyển dụng lao động cũng tăng lên, góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp và cải thiện thu nhập của người dân. Với đặc trưng năng động và linh hoạt, khu vực
tư nhân thường tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn so với khu vực công. Bên cạnh đó, sự tham
gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, buộc các doanh nghiệp
phải không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, từ đó cải thiện hiệu quả
chung của nền kinh tế. Nguồn vốn tư nhân còn được phân bổ dựa trên tín hiệu thị trường, giúp
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực xã hội và hạn chế tình trạng lãng phí. Ngoài ra, đầu
tư tư nhân cũng góp phần chia sẻ gánh nặng với đầu tư công, đặc biệt trong các lĩnh vực có
khả năng sinh lời như hạ tầng, năng lượng, giáo dục hay y tế. Sự kết hợp hài hòa giữa hai khu
vực này tạo nền tảng cho phát triển kinh tế bền vững. Cuối cùng, sự phát triển mạnh mẽ của
khu vực tư nhân giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao vị thế của quốc gia trên trường thế giới.
2.3. Hiệu ứng lấn át
Hiệu ứng lấn át (Crowding out effect) là một khái niệm trong lĩnh vực kinh tế, mô tả
tình huống khi tăng cường chi tiêu của chính phủ trong một nền kinh tế dẫn đến giảm sự đầu
tư của các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân. Khi chính phủ tăng cường chi tiêu, thường thông
qua việc tăng cường chi tiêu công cộng hoặc chính sách tiền tệ, lượng tiền được chi tiêu này
sẽ tạo ra nhu cầu tăng cao hơn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, để tài trợ cho việc chi tiêu này,
chính phủ thường phải tăng thuế hoặc vay nợ, đồng nghĩa với việc cạnh tranh với các nguồn
tài chính từ phía các cá nhân và doanh nghiệp.
Trong tình huống này, các cá nhân và doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc tiếp
cận nguồn vốn để đầu tư vào các dự án riêng của họ. Lãi suất có thể tăng do sự cạnh tranh
tăng cao trong thị trường tài chính, khiến cho việc vay mượn trở nên đắt đỏ và không hấp dẫn.
Điều này dẫn đến giảm đầu tư từ phía cá nhân và doanh nghiệp, và sự giảm đầu tư này gọi là
hiệu ứng lấn át. Vì vậy, hiệu ứng lấn át thường được xem như một khái niệm tiêu cực trong
kinh tế, vì nó ảnh hưởng đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế bằng cách giới hạn khả năng
đầu tư của các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân.
Khi chính phủ tăng chi tiêu công cộng, lượng tiền được chi tiêu sẽ tạo ra một nhu cầu
cao hơn trong nền kinh tế. Điều này thường dẫn đến tăng lãi suất, vì các tổ chức tài chính sẽ
tăng lãi suất để thu hút các khoản tiền vốn đóng góp cho việc tài trợ chi tiêu công cộng của
chính phủ. Tăng lãi suất này sẽ làm giảm sự hấp dẫn của việc vay mượn cho các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân.
2.4. Hiệu ứng thay thế
Hiệu ứng thay thế (Crowding-in effect) là khi đầu tư công của nhà nước tạo điều kiện
thuận lợi cho, hoặc trực tiếp thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân, trái ngược với hiệu ứng lấn lOMoAR cPSD| 58702377
át (crowding-out effect) khiến đầu tư công làm giảm đầu tư tư nhân. Theo lý thuyết Keynes
và trường phái kinh tế phát triển, khi Nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực có tính nền tảng như
kết cấu hạ tầng, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học…, sẽ giúp giảm chi phí đầu tư, rủi ro và
tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân mở rộng sản xuất – kinh doanh. Nhờ đó, đầu tư
công đóng vai trò “dẫn dắt”, khơi thông và kích hoạt dòng vốn tư nhân trong nền kinh tế. Một
ví dụ điển hình là khi chính phủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống, nhà
máy điện, giúp giảm chi phí sản xuất và vận chuyển, từ đó thu hút các doanh nghiệp tư nhân
đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại khu vực đó.
Khi chính phủ đầu tư mạnh vào các dự án cơ sở hạ tầng như đường bộ, đường sắt, cảng
biển, sân bay, hệ thống điện nước, điều này tạo ra môi trường kinh doanh tốt hơn, hạ thấp chi
phí logistics cho doanh nghiệp tư nhân. Việc có sẵn các tiện ích công cộng, hạ tầng hiện đại
sẽ làm giảm chi phí đầu tư ban đầu và vận hành cho các dự án tư nhân, làm tăng tính hấp dẫn
và lợi nhuận của các khoản đầu tư. Một số dự án đầu tư công có thể tạo ra thị trường mới hoặc
mở rộng quy mô thị trường, thu hút các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào các ngành nghề liên
quan hoặc khai thác các nguồn lực mới.
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hai hiệu ứng
Trong nền kinh tế, đầu tư công có thể tạo ra hai hiệu ứng trái ngược: hiệu ứng lấn át
(Crowding-out) và hiệu ứng thay thế hay lan tỏa tích cực (Crowding-in). Sự xuất hiện của hai
hiệu ứng này phụ thuộc vào hiệu quả đầu tư công, nguồn tài trợ, chính sách tài khóa – tiền tệ,
chất lượng thể chế và mức độ ổn định vĩ mô. Khi đầu tư công được thực hiện minh bạch, tập
trung vào các lĩnh vực nền tảng như hạ tầng, giáo dục, y tế, năng lượng, nó sẽ giảm chi phí
đầu tư, nâng cao năng suất và khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng sản xuất – đầu tư, từ
đó tạo hiệu ứng Crowding-in tích cực. Ngược lại, nếu đầu tư công dàn trải, kém hiệu quả hoặc lOMoAR cPSD| 58702377
tài trợ bằng vay nợ quá mức, nó có thể làm tăng lãi suất, chiếm dụng nguồn lực và gây mất
ổn định tài chính, dẫn đến hiệu ứng Crowding-out.
Do đó, để phát huy vai trò dẫn dắt của đầu tư công, Nhà nước cần nâng cao hiệu quả
đầu tư, cải thiện thể chế, bảo đảm ổn định vĩ mô và phối hợp hài hòa chính sách tài khóa –
tiền tệ, qua đó tối đa hóa hiệu ứng Crowding-in và hạn chế hiệu ứng lấn át, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế bền vững. III. THỰC TRẠNG
3.1. Tổng quan về quy mô và cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội tại Việt Nam
Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Đổi mới kinh tế
từ những năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt nam từ một trong
những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Giá trị
tổng sản phẩm quốc nội năm 2000 từ 31,17 tỷ USD lên 268,4 tỷ USD năm 2020. Thu nhập
bình quân đầu người tăng trên 2,7 lần, đạt trên 2.750 USD năm 2020, với hơn 45 triệu người
thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ ngày theo
sức mua ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm
86% ( Theo Ngân hàng Thế giới, 2021).
Với chính sách mở của kinh tế tích cực, ngoài nguồn vốn khu vực nhà nước, các dòng
vốn tư nhân trong nước cũng như dòng vốn đầu tư nước ngoài đã được khơi thông, tăng trưởng
liên tục qua các năm. Tốc độ tăng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội các năm giai đoạn 2017 -
2021: năm 2017 tăng 13,5%, năm 2018 tăng 11%, năm 2019 tăng 10,1%, năm 2020 tăng 5%,
năm 2021 tăng 3,2%. Theo bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục Thống kê nêu rõ : “ Tuy đây là
mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua, nhưng là kết quả khả quan trong bối cảnh dịch Covid
- 19 diễn biến phúc tạp trong nước và trên thế giới”.
Cũng theo cơ quan thống kê trung ương, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý IV/ 2021
theo giá hiện hành ước tính đạt 999,8 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó vốn khu vực nhà nước giảm 2,5%, khu vực ngoài nhà nước tăng 10,8%, khu vực có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 4%. lOMoAR cPSD| 58702377
Ước tính năm 2021, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành đạt 2.891,9 nghìn tỷ
đồng, tăng 3,2% so với năm trước. Trong đó, vốn khu vực nhà nước đạt 713,6 nghìn tỷ đồng,
chiếm 24,7% tổng vốn và giảm 2,9% so với năm trước; khu vực ngoài nhà nước đạt 1.720,2
nghìn tỷ đồng, bằng 59,5% và tăng 7,2%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt
458,1 nghìn tỷ đồng, bằng 15,8% và giảm 1,1%. lOMoAR cPSD| 58702377
Tích lũy tài sản là tiền đề của đầu tư phát triển toàn xã hội. Tuy nhiên, trong nhiều năm
qua, tỷ lệ so với GDP của vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thường cao hơn của tích lũy tài sản (Hình 1).
Do đầu tư cao hơn tích lũy, nên phải tăng nợ công, nợ Chính phủ, nợ quốc gia. Trong
khi đó, thu, chi ngân sách nhà nước trong nhiều năm thường bội chi, tác động tiêu cực đến an
toàn tài chính của đất nước. Kết quả của nửa đầu năm 2024, tích lũy tài sản tăng cao hơn
GDP, trong khi tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tính theo giá thực tế chỉ tăng
6,8%, nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ còn tăng chưa đến 3%, thấp khá xa so với tốc độ tăng GDP.
Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP trong nửa đầu năm 2024 chỉ đạt 27,67%,
thấp khá xa so với các năm trước và khả năng cả năm sẽ thấp hơn tỷ lệ tích lũy tài sản/GDP.
Sự chuyển trạng thái này vừa có tính tích cực, vừa có tính tiêu cực. Tính tích cực là giảm áp
lực đối với gánh nặng nợ công, nợ chính phủ, nợ quốc gia; tính tiêu cực là giảm lượng vốn
đầu tư phát triển, mà vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng GDP.
Sự chuyển dịch này mang hàm ý hai chiều. Về mặt tích cực, đây có thể là tín hiệu của
quá trình củng cố nền tài chính quốc gia, giảm phụ thuộc vào vay nợ và giảm áp lực nợ công,
tạo dư địa tài khóa cho các giai đoạn sau. Tuy nhiên, xét trên góc độ tăng trưởng dài hạn, sự
sụt giảm tương đối của vốn đầu tư toàn xã hội có thể làm suy yếu động lực tăng trưởng GDP,
bởi đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định quy mô và năng lực sản xuất của nền kinh
tế. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tối ưu hóa
phân bổ nguồn lực và tạo ra các kênh huy động vốn mới từ khu vực tư nhân, FDI, và thị
trường tài chính để bù đắp khoảng trống đầu tư công. lOMoAR cPSD| 58702377
3.2. Thực trạng giải ngân và hiệu quả đầu tư
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thực trạng giải ngân vốn ĐTC ở Việt Nam giai
đoạn 2019 - 2023 đạt tỷ lệ thấp, theo đó, năm 2019 đạt 67%, năm 2020 là 82%, năm 2021 là
72%, năm 2022 đạt 67,27% và năm 2023 đạt 73,5% kế hoạch. Đặc biệt trong năm 2023, trong
khi có một số đơn vị đạt kết quả tích cực, có khả năng hoàn thành kế hoạch giải ngân như:
Ngân hàng Nhà nước (94,74%), Bộ Giao thông vận tải (86,08%), Bộ Quốc Phòng (85,055),
Quảng Ngãi (98,94%), Long An (94, 78%), Đồng Tháp (91,68%), Cà Mau (90,49%) ; thì còn
63/115 và địa phương có kết quả giải ngân ước 12 tháng thấp hơn bình quân cả nước trong đó
nhiều bộ, cơ quan trung ương và địa phương có tỷ lệ giải ngân rất thấp (12 bộ, cơ quan trung
ương chỉ giải ngân được dưới 20%, 02 địa phương dưới 40%)
Tỷ lệ đầu tư của ngân sách trung ương so với tổng ĐTC giảm từ 40% vào năm 2017
xuống còn 20% vào năm 2022, Chính sách phân cấp như vậy đã dịch chuyển 80% vốn ĐTC
xuống cho các địa phương (giai đoạn 2017 - 2022), tỷ lệ này cao hơn gấp đôi so với mức bình
quân ở các quốc gia có hệ thống ngân sách được quản lý tập trung thống nhất (34,5%) và các
quốc gia nói chung (39,5%). Thẩm quyền quyết định chỉ tiêu được phân cấp cho chính quyền
địa phương, tuy đem lại nhiều kết quả tích cực, nhất là trong cung cấp dịch vụ công, nhưng
cũng dẫn đến hạn chế trong phối hợp giữa địa phương và trung ương và giữa 63 địa phương.
Phân cấp ngân sách cao đã dẫn đến hạn chế trong phối hợp giữa các vùng/ miền, giữa cơ quan
trung ương và chính quyền địa phương, đồng thời làm phát sinh những dự án đầu tư trùng lặp
giữa 63 địa phương, bởi mỗi tỉnh/ thành trở thành một nền kinh tế gần như độc lập với kinh
tế trung ương. Các dịa phương đã và đang đầu tư vào nhiều dự án giá trị thấp, phân tán, hình
thành tài sản lãng phí, có thể gây tác động tiêu cực về môi trường
( chẳng hạn xây dựng các khu công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy thấp hoặc cảng biển của địa phương
không dùng hết công suất). Hệ quả là, hiệu suất bị suy giảm do các nguyên nhân như trùng
lặp trong phân bổ, khó khăn trong triển khai thực hiện, phát sinh tác động ngoại ứng tiêu cực,
huy động sự tham gia và nguồn tài chính của khu vực tư nhân chưa tối ưu. Việt Nam đã và
đang theo đuổi các cách tiếp cận khác nhau về điều phối chính sách và đầu tư theo vùng,
nhưng chưa có phương án nào đem lại kết quả như mong muốn do một số hạn chế về khuôn
khổ pháp luật và do thiếu cơ chế huy động và phân bổ tài chính, cơ chế phối hợp vùng hiệu quả.
Nhìn chung, mặc dù Chính phủ đã vào cuộc rất quyết liệt, song tình trạng chậm giải
ngân xảy ra hầu hết trên tất cả các lĩnh vực, ngành, địa phương trong thời gian dài vừa qua là
rất đáng báo động, hệ lụy của nó không chỉ làm giảm hiệu quả sự vận động của dòng tiền
trong vòng chu chuyển giá trị của nền kinh tế, mà còn làm chậm sự phát triển bền vững của đất nước.
Quan sát thực trạng cho thấy, tiến độ giải ngân vốn ĐTC thường chậm vào những tháng
đầu năm, giải ngân dồn dập rơi vào những tháng cuối năm, gây áp lực cho điều hành kinh tế
vĩ mô của Chính phủ. Tỷ lệ giải ngân thấp và chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn ĐTC, gây
lãng phí nguồn lực, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, tác động tiêu cực đến việc triển khai lOMoAR cPSD| 58702377
phối hợp các chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, đặc biệt trong bối cảnh Chính phủ và
các địa phương đang triển khai lộ trình phục hồi và thúc đẩy phát triển kinh tế sau đại dịch Covid 19.
Vấn đề giải ngân chậm của vốn đầu tư công là một thực trạng kéo dài mang tính chu
kỳ, gây ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đầu tư của khu vực tư nhân. Đầu tiên, sự chậm trễ
này tạo ra chi phí cơ hội về mặt kinh tế, khi nguồn vốn không được luân chuyển kịp thời, làm
trì hoãn việc hình thành các tài sản công nền tảng như đường giao thông hay mạng lưới điện,
vốn là yếu tố giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp tư nhân. Hệ quả nguy hiểm hơn là hiện
tượng nút thắt cổ chai. Khi Chính phủ và các địa phương dồn dập giải ngân vào các quý cuối
năm nhằm hoàn thành chỉ tiêu, nó tạo ra nhu cầu vật chất đột ngột và cực lớn trên thị trường.
Sự tăng cầu bất ngờ này dẫn đến việc khu vực Nhà nước tranh chấp trực tiếp nguồn
lực với khu vực tư nhân, chủ yếu là vật liệu xây dựng, đất đai phục vụ giải phóng mặt bằng,
và nhân công kỹ thuật cao. Việc này ngay lập tức đẩy giá cả các yếu tố đầu vào tăng vọt, buộc
khu vực tư nhân phải chấp nhận chi phí sản xuất cao hơn, làm giảm tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng,
hoặc phải trì hoãn các dự án mình. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, sự gia tăng chi phí do
lấn át nguồn lực này là yếu tố quyết định khiến nhiều dự án tư nhân bị hủy bỏ hoặc chueyenr
sang trạng thái “chờ”, minh chứng cho hiệu ứng lấn át trong ngắn hạn.
Chất lượng và suất sinh lời của ĐTC đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra hiệu ứng
thúc đẩy dài hạn, nhưng đây lại là một điểm nghẽn tại Việt Nam. Tình trạng ĐTC bị phân bổ
dàn trải và không tập trung vào các công trình trọng điểm có tính lan tỏa đã dẫn đến suất sinh
lời cận biên thấp. Theo Phạm Thị Hồng (2024), chỉ số ICOR cao của khu vực Nhà nước cho
thấy sự lãng phí nguồn lực so với suất sinh lời của khu vực tư nhân. Khi hạ tầng công kém
chất lượng hoặc không đồng bộ, nó thất bại trong việc tạo ra các ngoại ứng tích cực như giảm
chi phí logistics và vận tải, khiến kênh thúc đẩy về hạ tầng bị tắc nghẽn. Điều này buộc doanh
nghiệp tư nhân phải tự đầu tư vào các hạng mục thay thế hoặc chấp nhận hiệu suất thấp, làm
giảm động lực đầu tư.
Sự kém hiệu quả này còn dẫn đến lấn át niềm tin, một lực cản vô hình nhưng mạnh
mẽ. Vấn đề ĐTC dàn trải, kém minh bạch hoặc liên quan đến tiêu cực, tham nhũng (Báo cáo
Thanh tra Chính phủ, 2023) đã gửi một tín hiệu xấu về quản trị kinh tế vĩ mô. Nhà đầu tư tư
nhân, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, coi đây là dấu hiệu của rủi ro chính sách và rủi ro tài
khóa gia tăng (do nguy cơ nợ công hoặc phải tăng thuế trong tương lai). Trong môi trường rủi
ro cao, các quyết định đầu tư dài hạn bị hoãn lại, khiến khu vực tư nhân thu hẹp sản xuất và
chờ đợi sự cải thiện rõ rệt từ môi trường kinh doanh.
Cuối cùng, việc Chính phủ tăng cường huy động vốn để tài trợ cho ĐTC có thể gây ra
lấn át tài chính (Financial Crowding-out). Mặc dù Chính phủ Việt Nam có khả năng kiểm soát
thị trường, nhu cầu vốn lớn từ khu vực công, nhất là thông qua phát hành trái phiếu chính
phủ, có thể làm thu hẹp nguồn vốn tín dụng khả dụng cho khu vực tư nhân, đặc biệt là khi
vốn ĐTC lại được đổ vào các dự án kém hiệu quả. Theo lý thuyết, khi nhu cầu vốn công tăng,
chi phí vay vốn của khu vực tư nhân có xu hướng bị đẩy lên hoặc yêu cầu về tài sản đảm bảo lOMoAR cPSD| 58702377
trở nên khắt khe hơn. Dù Ngân hàng Nhà nước đã giảm lãi suất điều hành trong năm , chi phí
vốn thực tế cho doanh nghiệp vẫn ở mức cao và khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp tư
nhân lại suy giảm, phản ánh áp lực từ các yếu tố vĩ mô và rủi ro nội tại của doanh nghiệp.
3.3. Các kênh thúc đẩy đầu tư tư nhân
Mặc dù các hạn chế về giải ngân và hiệu quả đầu tư công (ĐTC) có thể tạo ra nguy cơ
“lấn át” nhất định, song vai trò thúc đẩy đầu tư tư nhân của ĐTC vẫn rất rõ nét và được truyền
dẫn qua nhiều kênh tác động quan trọng.
Thứ nhất, kênh ngoại ứng hạ tầng là cơ chế truyền dẫn nền tảng. Khi Nhà nước đầu tư
vào các dự án hạ tầng thiết yếu như đường bộ cao tốc Bắc – Nam, đường vành đai đô thị, cảng
biển và logistics, chi phí vận chuyển, chi phí thời gian và rủi ro vận hành của doanh nghiệp
tư nhân giảm đáng kể. Theo Báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải (2023), chỉ riêng các đoạn
cao tốc Bắc – Nam hoàn thành giai đoạn 1 đã giúp rút ngắn 30–40% thời gian di chuyển, tiết
kiệm hàng triệu USD chi phí logistics mỗi năm. Điều này trực tiếp làm tăng tỷ suất lợi nhuận
cận biên kỳ vọng của các dự án tư nhân, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu và phân
phối hàng hóa. Kết quả là khu vực tư nhân có động lực mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư máy
móc thiết bị và mở thêm cơ sở tại các vùng kinh tế trọng điểm.
Thứ hai, kênh kích cầu vĩ mô theo lý thuyết Keynes. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế
hoặc tăng trưởng chậm (như giai đoạn 2020–2023), đầu tư công trở thành công cụ kích thích
tổng cầu hiệu quả. Các gói chi tiêu công lớn tạo việc làm, tăng thu nhập và tiêu dùng, qua đó
thúc đẩy cầu đối với hàng hóa và dịch vụ. Khi công suất sử dụng của doanh nghiệp tư nhân
tăng lên, tín hiệu thị trường rõ ràng rằng đầu tư mở rộng là cần thiết và có lợi nhuận. Đây là
một cơ chế đặc biệt hiệu quả trong ngắn hạn, lan tỏa mạnh đến các ngành công nghiệp phụ
trợ, vật liệu xây dựng, dịch vụ và thương mại nội địa (Nguyễn Ngọc Toàn, 2024).
Thứ ba, kênh tạo lập “vốn mồi” và cơ sở công nghệ. Nhà nước thường đầu tư vào các
lĩnh vực có rủi ro cao, thời gian thu hồi vốn dài hoặc có tính chất hàng hóa công — những
lĩnh vực mà khu vực tư nhân không đủ nguồn lực hoặc động lực tham gia. Các khoản đầu tư
công vào R&D, trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm công nghệ hoặc hạ tầng xanh không
chỉ tạo ra tri thức công cộng mà còn hình thành một hệ sinh thái công nghệ - đổi mới. Doanh
nghiệp tư nhân có thể tận dụng các nền tảng này để thương mại hóa công nghệ với chi phí
thấp hơn, rút ngắn chu kỳ đổi mới và giảm rủi ro đầu tư (Báo cáo Bộ KH&ĐT, 2022). Bên
cạnh đó, đầu tư công vào môi trường, năng lượng sạch và thích ứng biến đổi khí hậu cũng
đóng vai trò bảo đảm ổn định nền tảng sản xuất, tạo sự an tâm cho nhà đầu tư tư nhân dài hạn.
Thứ tư, kênh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng có vai trò chiến lược. Đầu tư
công vào giáo dục, y tế, đào tạo nghề làm tăng chất lượng và năng suất lao động cận biên.
Điều này không chỉ giảm chi phí đào tạo lại cho doanh nghiệp mà còn tăng khả năng hấp thụ
công nghệ của lực lượng lao động. Khi nhân công có kỹ năng tốt hơn, doanh nghiệp tư nhân
có xu hướng đầu tư vào các dây chuyền hiện đại, công nghệ cao, từ đó tạo ra một chu kỳ đầu tư tích cực kéo dài. lOMoAR cPSD| 58702377
Tóm lại, có thể thấy đầu tư công không chỉ tác động đơn lẻ mà còn tạo hiệu ứng lan
tỏa (multiplier effect): hạ tầng tốt → chi phí thấp hơn → lợi nhuận kỳ vọng cao hơn → đầu
tư tư nhân tăng; đồng thời, cầu tăng → công suất sử dụng tăng → doanh nghiệp mở rộng sản
xuất → tạo việc làm và tăng trưởng. Đây là bằng chứng rõ ràng về hiệu ứng thúc đẩy đầu tư
tư nhân trong cả ngắn hạn và dài hạn, nếu đầu tư công được thực hiện đúng trọng tâm và có
hiệu quả giải ngân tốt. IV.
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
4.1 Tình hình chung ở Việt Nam
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, nhìn chung hiệu ứng thay thế (crowding-in) của đầu
tư công đang chiếm ưu thế, mặc dù hiệu ứng lấn át (crowding-out) vẫn xuất hiện trong ngắn
hạn. Đầu tư công, đặc biệt khi tập trung vào các dự án hạ tầng thiết yếu như giao thông, cảng
biển, đường sắt và năng lượng, đã tạo ra hiệu ứng thay thế rõ rệt, giảm chi phí vận tải, rút
ngắn thời gian giao thương và thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân mở rộng sản xuất – dịch vụ.
Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công và tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016 - 2022
Từ biểu đồ trên có thể thấy trong giai đoạn 2016–2020, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công
đạt trung bình 83,4% so với kế hoạch, góp phần duy trì mức tăng trưởng GDP bình quân
6,01%. Đặc biệt, dù năm 2021 chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, tỷ lệ giải
ngân vẫn đạt 93,47%, giúp Việt Nam duy trì mức tăng trưởng dương 2,56%. Đây được coi là
kết quả đáng ghi nhận khi dịch bệnh COVID-19 tác động nặng nề. Việt Nam hiện là một trong
số ít quốc gia duy trì được mức tăng trưởng dương và xếp trong nhóm những nước tăng trưởng
cao trên thế giới. Bước sang năm 2022, tỷ lệ giải ngân tiếp tục ở mức cao 93,5%, đóng góp
tích cực vào mức tăng trưởng GDP 8,02%; và trong nửa đầu năm 2023, tỷ lệ này vẫn duy trì
đà tích cực, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh cho khu vực tư nhân và nền kinh tế hậu dịch.
Trong giai đoạn phục hồi sau COVID-19, khi việc giải ngân đầu tư công nhanh và hiệu
quả đã thúc đẩy các ngành vật liệu xây dựng, logistics và khu công nghiệp tăng trưởng, đồng lOMoAR cPSD| 58702377
thời khu vực tư nhân tận dụng cơ sở hạ tầng mới để mở rộng hoạt động. Tuy nhiên, không thể
phủ nhận rằng trong những giai đoạn Nhà nước mở rộng quy mô đầu tư công mạnh mẽ và
dàn trải, nguồn vốn, tín dụng và đất đai có thể bị hút vào các dự án công, làm tăng chi phí đầu
vào và lãi suất, khiến một số doanh nghiệp tư nhân khó tiếp cận vốn.
Như vậy, có thể nhận định rằng đầu tư công ở Việt Nam vừa hỗ trợ vừa cạnh tranh với
đầu tư tư nhân, và hiệu ứng thay thế chiếm ưu thế dài hạn nhờ khả năng tạo nền tảng hạ tầng
và lan tỏa lợi ích. Tuy nhiên, để hạn chế hiện tượng lấn át trong các ngành vốn nhạy cảm với
chi phí và tín dụng, việc quản lý, lựa chọn dự án và định hướng đầu tư công vẫn là yếu tố then
chốt, đồng thời khuyến khích mô hình đối tác công – tư (PPP) để huy động thêm vốn tư nhân
và nâng cao hiệu quả đầu tư.
4.2 Phân tích đánh giá tác động theo ngành: hạ tầng giao thông và bất động sản/hạ tầng đô thị
4.2.1. Hạ tầng giao thông
Khi đi sâu phân tích theo ngành, có thể thấy rằng hiệu ứng của đầu tư công đối với đầu
tư tư nhân tại Việt Nam không đồng đều. Trong lĩnh vực hạ tầng giao thông, đầu tư công
thường tạo ra hiệu ứng thay thế mạnh mẽ. Trong giai đoạn 2009–2011, mặc dù nền kinh tế
chịu tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, Chính phủ đã triển khai gói kích cầu đầu
tư công gần 145 nghìn tỷ đồng, tập trung vào các công trình giao thông trọng điểm như Quốc
lộ 1A, cầu Cần Thơ, cao tốc Nội Bài – Lào Cai. Nhờ đó, chi phí logistics giảm bình quân
khoảng 10–15%, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân mở rộng sản xuất và thương mại.
Bước sang giai đoạn 2020–2023, trong bối cảnh hậu COVID-19, đầu tư công tiếp tục
được đẩy mạnh. Tỷ lệ giải ngân đạt 93,5% năm 2022, trong đó vốn cho hạ tầng giao thông
chiếm khoảng 47% tổng đầu tư công quốc gia. Việc hoàn thiện các tuyến cao tốc Bắc – Nam,
sân bay Long Thành giai đoạn 1, và hàng loạt dự án đường ven biển đã giúp tăng năng lực
vận tải hàng hóa 8–10%/năm, kéo theo sự bùng nổ của đầu tư tư nhân trong các ngành
logistics, khu công nghiệp và vật liệu xây dựng. Như vậy, hạ tầng giao thông là lĩnh vực điển
hình thể hiện rõ hiệu ứng thay thế, khi đầu tư công không những không cạnh tranh với tư nhân
mà còn tạo đà cho khu vực này mở rộng và tăng trưởng.
4.2.2. Bất động sản/ Hạ tầng đô thị
Trái ngược với lĩnh vực giao thông, đầu tư công vào hạ tầng đô thị và bất động sản
(như nhà ở xã hội, khu đô thị hành chính, khu tái định cư) trong nhiều giai đoạn lại thể hiện
hiệu ứng lấn át đối với khu vực tư nhân. Trong thời kỳ kích cầu 2009–2011, nguồn vốn đầu
tư công tăng nhanh, kéo theo mức lãi suất cho vay thương mại tăng lên tới 22-25%/năm, làm
suy giảm khả năng huy động vốn của doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực bất động sản. Tình
trạng dàn trải vốn đầu tư công vào các dự án bất động sản công quy mô lớn đã khiến dòng
vốn tín dụng bị “hút” khỏi khu vực tư nhân, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh về nguồn lực. lOMoAR cPSD| 58702377
Tương tự, trong giai đoạn 2020–2022, khi Chính phủ đẩy mạnh đầu tư hạ tầng đô thị
nhằm kích thích phục hồi sau COVID-19, nhiều địa phương đồng thời mở rộng các dự án
công quy mô lớn (như khu hành chính, công trình công cộng), dẫn đến giá đất và giá nguyên
vật liệu xây dựng tăng 15–20%, khiến doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa gặp khó khăn trong
tiếp cận quỹ đất và vốn tín dụng. Do đó, đầu tư công trong khu vực này dù vẫn đóng góp vào
tăng trưởng tổng thể, nhưng hiệu ứng lấn át thể hiện rõ rệt thông qua việc chiếm dụng nguồn
lực và làm tăng chi phí đầu tư của khu vực tư nhân. 4.3 Nhận định
Nhìn chung, đầu tư công có tác động hai chiều đối với đầu tư tư nhân, vừa mang tính
hỗ trợ, vừa tiềm ẩn khả năng lấn át. Khi được thực hiện đúng hướng, đầu tư công đóng vai trò
như chất xúc tác quan trọng, tạo dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từ đó khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng quy mô và
đa dạng hóa hoạt động đầu tư. Trong bối cảnh đó, khu vực công và khu vực tư có thể hình
thành mối quan hệ bổ trợ lẫn nhau, cùng thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới.
Ngược lại, nếu đầu tư công được triển khai dàn trải, thiếu trọng tâm hoặc trùng lặp với
các lĩnh vực tư nhân có khả năng tham gia, thì sẽ dẫn đến tình trạng cạnh tranh nguồn lực,
méo mó tín hiệu thị trường và làm giảm hiệu quả phân bổ vốn. Khi đó, đầu tư công không
còn là động lực thúc đẩy mà trở thành yếu tố cản trở sự phát triển của khu vực tư nhân. Điều
này cho thấy hiệu ứng lấn át không xuất phát từ bản chất của đầu tư công, mà từ cách thức
quản lý, lựa chọn và điều hành đầu tư của Nhà nước.
Vì vậy, có thể khẳng định rằng, đầu tư công chỉ thực sự phát huy được vai trò dẫn dắt
và lan tỏa tích cực khi được định hướng vào những lĩnh vực có tính nền tảng và tạo dư địa
phát triển cho tư nhân. Yếu tố quyết định nằm ở chất lượng thể chế, tính minh bạch trong
quản lý đầu tư và sự phối hợp hiệu quả giữa khu vực công và khu vực tư nhân. Chỉ khi đảm
bảo được điều đó, đầu tư công mới trở thành động lực bền vững cho tăng trưởng kinh tế, đồng
thời hạn chế được nguy cơ lấn át và tạo nền tảng vững chắc cho khu vực tư nhân phát triển lâu dài. V.
GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT NAM (2025-2030)
5.1. Cải thiện giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn
Trong giai đoạn vừa qua, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của Việt Nam bình quân chỉ
đạt khoảng 82,5% kế hoạch, ảnh hưởng lớn đến tiến độ triển khai dự án và làm giảm hiệu quả
đầu tư. Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục hành chính còn rườm rà và năng lực quản lý dự án
tại địa phương còn hạn chế. Để khắc phục, cần tăng cường giám sát và trách nhiệm giải trình
thông qua ứng dụng công nghệ số như hệ thống e-GP hoặc Hệ thống quản lý đầu tư công quốc
gia, giúp theo dõi tiến độ giải ngân theo thời gian thực. Bên cạnh đó, áp dụng cơ chế thưởng lOMoAR cPSD| 58702377
– phạt dựa trên kết quả thực hiện nhằm tạo động lực cho các bộ, ngành và địa phương hoàn thành kế hoạch.
Đồng thời, cần đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn quy trình xuống còn 10–15
bước, tập trung vào các khâu then chốt như giải phóng mặt bằng và thẩm định môi trường,
đồng thời ưu tiên vốn cho các dự án trọng điểm. Song song, nâng cao năng lực cán bộ quản
lý thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu về quản lý dự án và tài chính công, hướng
tới mục tiêu nâng tỷ lệ giải ngân lên trên 95% vào năm 2027. Về chính sách, nên sớm ban
hành nghị định về cơ chế “một cửa” giải ngân đầu tư công tích hợp trí tuệ nhân tạo để dự báo
rủi ro chậm trễ, đồng thời tăng ngân sách đào tạo cán bộ từ 0,5% lên 1% tổng vốn đầu tư
công, ưu tiên cho các địa phương miền núi và đồng bằng sông Cửu Long.
5.2. Tăng cường hợp tác công - tư (PPP)
Mặc dù đến năm 2023 Việt Nam đã có hơn 300 dự án đầu tư theo hình thức đối tác
công – tư (PPP) đi vào hoạt động, song hiệu quả vẫn còn hạn chế do rủi ro pháp lý và cơ chế
chia sẻ rủi ro chưa rõ ràng. Để khắc phục, cần mở rộng PPP sang các lĩnh vực mới như chuyển
đổi số và khoa học – công nghệ theo Nghị định 180/2025/NĐ-CP, trong đó Nhà nước có thể
hỗ trợ đến 70% vốn hạ tầng và chia sẻ rủi ro doanh thu trong ba năm đầu. Trọng tâm nên
hướng vào các dự án hạ tầng số (5G, dữ liệu lớn) và năng lượng tái tạo, nhằm nâng tỷ trọng
vốn tư nhân lên 20% tổng đầu tư hạ tầng đến năm 2030.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện khung pháp lý thông qua việc thành lập Quỹ bảo lãnh rủi ro
PPP quốc gia để giảm gánh nặng tài chính cho Nhà nước và thu hút doanh nghiệp tham gia
các dự án lớn như sân bay Long Thành giai đoạn 2. Việt Nam cũng nên tăng cường hợp tác
quốc tế, kêu gọi vốn ODA và FDI từ các đối tác như Nhật Bản (JICA) và Hàn Quốc (KOICA),
đặc biệt cho các dự án metro tại Hà Nội và TP.HCM. Về chính sách, cần sửa đổi Luật PPP
2020 (dự kiến năm 2026) nhằm phân cấp mạnh hơn cho địa phương, đồng thời áp dụng ưu
đãi thuế 10 năm cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực xanh, hướng tới mục tiêu đạt 500 dự án
PPP mới vào năm 2030, trong đó ít nhất 30% thuộc lĩnh vực số và phát triển bền vững.
5.3. Cải cách thể chế và minh bạch
Hiện tượng đầu tư công dàn trải và chồng chéo trong thời gian qua đã khiến năng suất
biên của vốn công chỉ đạt khoảng 70% so với vốn tư nhân, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn
lực quốc gia. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác minh bạch, giám sát và đánh giá dự án còn
hạn chế. Để khắc phục, cần chuyển hướng đầu tư theo hướng trọng điểm, ưu tiên 70% vốn
công cho ba lĩnh vực cốt lõi gồm giao thông (40%), năng lượng (20%) và chuyển đổi số (10%)
theo Kế hoạch Đầu tư Công Trung hạn 2021–2025, mở rộng đến 2030; đồng thời giảm đầu
tư phân tán ở cấp huyện xuống dưới 5%.
Song song, cần tăng cường kiểm toán và đánh giá hiệu quả đầu tư thông qua việc mở rộng
vai trò của Kiểm toán Nhà nước, yêu cầu báo cáo hàng quý về hiệu quả dự án dựa trên chỉ số
ROI (Return on Investment). Ngoài ra, nên khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào các
dự án địa phương như đường nông thôn để tăng tính minh bạch và hạn chế tham nhũng. Về lOMoAR cPSD| 58702377
chính sách, Nhà nước cần sớm ban hành Chiến lược Đầu tư Công Thông minh giai đoạn
2026–2030, tích hợp các tiêu chí ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị) và yêu cầu đánh giá
tác động kinh tế – xã hội trước khi phê duyệt dự án. Đồng thời, thành lập Hội đồng Tư vấn
Đầu tư Công cấp quốc gia gồm các chuyên gia trong và ngoài nước nhằm tư vấn, giám sát và
định hướng phân bổ vốn hiệu quả hơn.
5.4. Quản lý Nợ Công và Mở rộng Dư địa Tài khóa
Chi đầu tư công từ lâu đã đóng vai trò then chốt trong phát triển kinh tế Việt Nam, đặc
biệt trong việc thúc đẩy hạ tầng và các lĩnh vực trọng điểm. Tuy nhiên, đến năm 2023, chi đầu
tư công vẫn chiếm khoảng 30% tổng ngân sách nhà nước – một tỷ lệ khá cao so với khả năng
cân đối tài khóa hiện nay. Điều này tạo ra thách thức lớn khi dư địa tài khóa để hỗ trợ khu vực
tư nhân ngày càng thu hẹp, dù nợ công đã giảm còn 37% GDP – mức tương đối an toàn theo
chuẩn quốc tế. Để nâng cao hiệu quả chi đầu tư công và bảo đảm tính bền vững tài chính quốc
gia, cần triển khai đồng bộ các giải pháp tối ưu.
Trước hết, cần tối ưu hóa cấu trúc nợ, chuyển khoảng 20% nợ công sang trái phiếu
xanh và hình thức PPP nhằm giảm áp lực ngân sách, đồng thời thu hút vốn quốc tế thông qua
các quỹ như Green Climate Fund. Bên cạnh đó, đa dạng hóa nguồn thu phi thuế bằng cách
khai thác hiệu quả quỹ đất công và thu phí sử dụng hạ tầng (như phí cao tốc) để bổ sung nguồn
vốn đầu tư. Về dài hạn, cần cân bằng chi tiêu, duy trì tỷ lệ chi đầu tư công ở mức khoảng 25%
GDP đến năm 2030 và dành 5% dư địa cho các gói tín dụng hỗ trợ khu vực tư nhân. Về chính
sách, nên sửa đổi Luật Quản lý Nợ Công 2017 để cho phép phát hành trái phiếu PPP với lãi
suất ưu đãi, giữ nợ công ổn định dưới 40% GDP, đồng thời triển khai Chương trình “Tái cơ
cấu Tài khóa 2025–2030” với sự hỗ trợ của IMF và WB, tập trung giảm chi thường xuyên
xuống còn 60% tổng ngân sách. VI. KẾT LUẬN
Tổng thể, mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Việt Nam trong những
năm gần đây cho thấy xu hướng chuyển biến tích cực từ lấn át sang thay thế. Điều này phản
ánh sự cải thiện rõ nét trong quản trị tài chính công, hiệu quả đầu tư và điều hành kinh tế vĩ
mô của Chính phủ. Khi Nhà nước đầu tư có trọng điểm, minh bạch và định hướng phát triển
bền vững, vốn công sẽ không còn cạnh tranh với vốn tư, mà trở thành chất xúc tác lan tỏa,
khơi dậy tiềm năng và nguồn lực của khu vực tư nhân.
Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu đổi mới
mô hình tăng trưởng và chuyển đổi xanh, đầu tư công cần được xem như “nguồn vốn dẫn
dắt”, khơi thông dòng chảy của khu vực tư nhân và khu vực quốc tế. Khi mỗi dự án công
được đầu tư đúng trọng tâm, đúng thời điểm và đúng nhu cầu xã hội, nó không chỉ tạo ra giá
trị vật chất, mà còn gieo nền niềm tin và động lực phát triển cho toàn bộ nền kinh tế. Một nền
tài chính công hiệu quả, minh bạch và định hướng phát triển bền vững sẽ là chìa khóa để Việt lOMoAR cPSD| 58702377
Nam chuyển hóa vốn đầu tư công thành sức mạnh lan tỏa, tạo đà cho một giai đoạn tăng
trưởng năng động, tự chủ và bền vững hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư. (2020). Báo cáo đánh giá đầu tư tư nhân và vai trò trong
tăngtrưởng kinh tế Việt Nam. Hà Nội. 2.
OECD. (2019). OECD Investment Policy Review: Viet Nam 2019. Paris: OECDPublishing. 3.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. (2021). Giáo trình Kinh tế đầu tư. NXB Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 4.
Tạp chí Kinh tế – Tài chính Việt Nam. (2023). “Tác động lan tỏa của đầu tư công tới
pháttriển kinh tế – xã hội”. Tạp chí Kinh tế – Tài chính Việt Nam. 5.
World Bank. (2024). Regional Investment in Vietnam: Decentralization &
SpatialIntegration Advisory Program. Washington, DC: The World Bank. 6.
Bộ Nội vụ (2024) Báo cáo tóm tắt kết quả Chỉ số cải cách hành chính năm 2023 của
cácbộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (PAR INDEX
2023). Hà Nội: Bộ Nội vụ. 7.
Nguyễn, T.C., Nguyễn, T.L. và Nguyễn, T.T.L. (2018) ‘Tác động của đầu tư công
đếnthu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam’, Tạp chí Khoa học Đại học
Mở Thành phố Hồ Chí Minh – Kinh tế và Quản trị kinh doanh, 13(2), tr. 91–105. 8.
VnEconomy (2024) Trạng thái tích lũy đầu tư có sự thay đổi.
https://vneconomy.vn/trang-thai-tich-luy-dau-tuco-su-thay-doi.htm 9.
Kinh tế và Dự báo (2021) Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành năm
2021 tăng 3,2%. https://kinhtevadubao.vn/von-dau-tu-thuc-hien-toan-xa-hoi-theo-gia-hien-
hanhnam-2021-tang-32-20774.html 10.
World Bank (2024) Regional Investment in Vietnam: Decentralization &
SpatialIntegration Advisory Program. Washington. The World Bank. 11.
Báo Chính phủ (2024) ‘Gói kích cầu của Chính phủ được sự ủng hộ của toàn dân
vàcộng đồng doanh nghiệp’. Báo Chính phủ. 12.
Tạp chí Kinh tế – Tài chính Việt Nam (2023.) ‘Tác động lan tỏa của đầu tư công tới
pháttriển kinh tế – xã hội’. Tạp chí Kinh tế – Tài chính Việt Nam 13.
Tin nhanh Chứng khoán (2019) ‘Lãi suất điều hành được Ngân hàng Nhà nước
điềuchỉnh ra sao 8 năm qua?’. Tin nhanh Chứng khoán.