lOMoARcPSD| 58794847
- Trình độ về CNTT của đại đa số nhân dân một bộ phận CB, CC còn
thấp.Một số cán bộ lãnh đạo yếu vê trình độ CNTT va thiếu hiếu biết triên
khai ứng dụng CNTT.
Nhiều cán bộ ít tiếp cận với những công nghệ tiên tiến, ngại thay đổi ứng dụng CNTT
trong công tác chuyên môn. Điều này làm cho CNTT dù đã được đưa vào quy trình
quản lý vận hành các hệ thống, lĩnh vực QLĐT nhưng vẫn chưa phát huy hiệu quả.
Tuy nhiên, nhiều đơn vị chỉ chú trọng và tập trung công tác đào tạo về chuyên môn
nghiệp vụ, luận chính trị, quản Nhà nước không chủ trương đào tạo về tin
học, ngoại ngữ. Điều này dẫn đến sự thiếu hụt rất lớn đội ngũ trình độ chuyên
ngành về CNTT đáp ứng yêu cầu công tác.
Vd hiện nay việc tiếp cận với máy tính internet đối với đồng bào DTTS cũng còn
rất hạn chế. Các dân tộc Si La, Chứt, La Hủ, Xinh Mun chỉ dưới 1% số hộ máy
vi tính. Các dân tộc La Hủ, Kháng, Khơ Mú, Măm… rất hiếm hộ máy tính
kết nối internet.
-sở hạ tầng về CNTT-TT còn thấp, tuy đã vượt qua mức trung bình thế giới.
Hạ tầng CNTT còn rất yếu, không đảm bảo cho việc triển khai ứng dụng CNTT m
rộng từ tỉnh xuống huyện, xã. Nhiều sở, ban, ngành chưa chủ động xây dựng các hệ
thống thông tin, sở dliệu và phần mềm chuyên ngành để nâng cao năng lực
quản lý và phục vụ công tác chuyên môn.
Tại cấp xã, đa số vẫn chưa ứng dụng CNTT vào công tác quản lý, điều hành và tác
nghiệp. Việc đầu tư trang thiết bị ứng dụng CNTT vào thực hiện thủ tục hành chính
hoạt động QLĐT còn dàn trải, thiếu tập trung thiếu sự kết nối giữa các cấp
chính quyền, các cơ quan đơn vị; chưa có giải pháp xây dựng hạ tầng tập trung với
dữ liệu dùng chung để phục vụ. Các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 mặc dù đã
được triển khai và tổ chức cung cấp trên mạng Internet, tuy nhiên sự tham gia của
công dân, tổ chức còn hạn chế. Nhiều địa phương hiện đang xếp hạng mức thấp
về triển khai ứng dụng hình một cửa, một cửa liên thông điện tử hiện đại và hiệu
quả.
Vd:chỉ số cơ sở hạ tầng (CSHT) thông tin bình quân chung đạt mức 28,7 điểm. Tình
hình ứng dụng phần mềm trong các DN đang mức rất thấp, (bình quân chung
mức 9,74 trên thang điểm 100). Tình hình ứng dụng hạ tầng CNTT cũng rất khác
biệt giữa các ngành nghề kinh doanh. Trong đó, ứng dụng CNTT ở mức rất thấp đối
với các DN hoạt động trong ngành Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
-Cải cách hành chính vẫn đang diễn ra.
lOMoARcPSD| 58794847
cải cách hành chính công việc khó khăn, phức tạp. Phương pháp tổ chức triển khai
thực hiện chưa có nhiều giải pháp tập trung, quyết liệt. Công tác truyền thông phục
vụ cho việc triển khai các chương trình, nhiệm vụ cải cách hành chính chưa tạo ra
sự thống nhất cao vnhận thức trong toàn bộ hệ thống chính trị cũng như sự đồng
thuận trong nhân dân.
- Cải cách hành chính có mối quan hệ hữu cơ với cải cách lập pháp và cải cách
pháp và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Hiện tại, chưa có giải pháp phù
hợp để bảo đảm sự kết nối hiệu quả các nội dung cải cách, đổi mới của cả hệ
thống chính trị. Một số mục tiêu cải cách hành chính xây dựng định tính nên rất k
đánh giá đúng hiệu quả và trách nhiệm của cơ quan, tập thể, cá nhân liên quan trong
tổ chức thực hiện.
- Quá trình triển khai cải cách hành chính còn “lúng túng”. Nhiệm vđề ra
nhiều nhưng chưa thực sự gắn với các biện pháp và điều kiện bảo đảm cần thiết.
Việc tổ chức mô hình thí điểm còn có nơi làm chưa đồng bộ, thiếu tổng kết, rút kinh
nghiệm kịp thời.
- Nguồn lực và những điều kiện bảo đảm cần thiết cho cải cách hành chính còn
nhiều hạn chế. Tính chuyên nghiệp, kỹ năng hành chính của cán bộ công chức còn
thấp. Việc áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động hành chính, trang thiết bị công
sở còn lạc hậu so với mặt bằng chung trong khu vực và thế giới.
- Vai trò, trách nhiệm người đứng đầu quan hành chính đối với cải cách hành
chính tại một số quan, đơn vị còn hạn chế; chưa quyết liệt trong chỉ đạo, điều
hành, chưa đầu thời gian, nguồn lực thích đáng cho thực hiện cải cách hành chính..
- Công tác tuyên truyền về cải cách hành chính hiệu quả chưa cao, người n
và doanh nghiệp còn tâm e dè khi tham gia hoạt động cải cách hành chính, trình
độ sử dụng công nghệ thông tin còn yếu, bên cạnh đó, phần mềm dịch vụ phục vụ
cải cách hành chính có những hạn chế nhất định.
Vd:Cải cách thủ tục hành chính đang được diễn ra trong từng giai đoạn , để TTHC
gần dân, sát dân, tiết kiệm và hiệu quả cũng là một trong những điều kiện giúp nâng
cao năng lực, hiệu quả vai trò quản của bộ máy QLHC nnước nói riêng vị
thế của nhà nước nói chung. TTHC không minh bạch, nhiều tầng nấc, rườm rà, nặng
nề, không hợp lý, không sát dân thì không những gây ra tốn kém, lãng phí sức người,
sức của của ngân sách nhà nước, tài sản hội, tiền bạc của dân, còn kìm hãm
sự năng động trong các hoạt động của mọi mặt đời sống, đồng thời, tạo điều kiện
thuận lợi cho phát sinh tiêu cực và tham nhũng. Do đó, cải cách hành chính (CCHC)
lOMoARcPSD| 58794847
trong đó cốt lõi cải cách các TTHC nhằm làm cho các TTHC trở nên minh
bạch, đơn giản, thuận tiện cho các chủ thể, thể thực hiện trực tuyến trên i
trường điện tử qua Cổng dịch vụ quốc gia và sử dụng dữ liệu từ các sở dữ liệu
nền tảng như Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
-Ứng dụng CNTT trong các CQNN còn một số mặt hạn chế
Chưa khai thác, phát huy được tối đa tính năng, lợi ích của các phương tiện công
nghệ thông tin sở hạ tầng, thiết bị công nghệ thông tin hiện để nâng cao
hiệu quả trong công việc cũng như trong quản lý điều hành.
- Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của đài truyền thanh – truyền hình, các
trạmtruyền thanh cơ sở, cổng thông tin điện tử, đội thông tin lưu động, tuyên truyền
quảng cáo, cổ động trực quan…chưa được đầu đúng mức. Chưa chính sách
thu hút nhân tài, kinh phí cho công tác thông tin tuyên truyền còn rất hạn hẹp. - Chưa
Chế tài cụ thể về công tác thi đua khen thưởng nên chưa khích lệ động viên kịp
thời những tập thể cá nhân tích cực, đồng thời phê bình đánh giá với những tập thể
cá nhân chưa tích cực trong việc ứng dụng công nghệ thông tin Truyền thông vào
nâng cao hiệu quả công tác.
- Lãnh đạo một số quan đơn vị chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, vị trí, tác
dụngcủa việc ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông vào công việc trong
điều hành quản lý. Chưa quan tâm đầu đúng mức, kịp thời cho công tác này
tại cơ quan, đơn vị mình. Trình độ, năng lực của một số lãnh đạo, cán bộ công chức,
viên chức nhân dân chưa bắt kịp với tốc độ phát triển cao của công nghệ thông
tin.
Vd:Theo báo cáo đánh giá về chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông Việt Namtỉnh Tây Ninh đứng vị trí thứ 35/63 tỉnh thành trên
địa bàn cả nước, nằm trong nhóm các tỉnh thành ứng dụng phát triển công nghệ
thông tin ở mức trung bình. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản
Nhà nước mới chỉ bước khởi đầu, hiệu quả chưa cao; các doanh nghiệp chưa
nhận thức đầy đủ về tác động của công nghệ thông tin đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh, vậy đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế. Về htầng
công nghệ thông tin chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho các đơn vị cấp sở, ban, ngành,
huyện, thị; nhiều máy tính đã được trang bị từ lâu, tốc độ xử lý chậm, số đơn vị kết
nối mạng diện rộng của tỉnh còn hạn chế. Đối với cấp xã, phường chưa được đầu tư
đúng mức nên việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác chuyên môn chưa
cao. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong các cơ quan Nhà nước
hiện vẫn còn hạn chế, đội ngũ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin còn thiếu.
Cơ chế, chính sách của tỉnh dành cho cán bộ
lOMoARcPSD| 58794847
-Thanh tra, kiểm tra còn hình thức, yếu về xử lý và thiếu các hệ thống giám sát
hiện đại.
VD:Cơ quan thuế cũng đã nghiên cứu và áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong
công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tuân thủ người nộp thuế trên sở ứng dụng
công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu quản thuế hiện đại. Tuy nhiên, hoạt động
thanh kiểm tra vẫn còn một số tồn tại như cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ cho công
tác quản thuế đối với các doanh nghiệp giao dịch liên kết còn chưa đầy đủ.
Nguồn nhân lực làm công tác thanh tra, kiểm tra còn chưa đáp ứng về số lượng
chất lượng so với mục tiêu đề ra. Việc thu thập, khai thác thông tin về người nộp
thuế phục vụ cho phân tích, đánh giá rủi ro giám sát tuân thủ người nộp thuế còn
chưa sự tập trung, thống nhất kết nối giữa các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ
quản lý thuế. Ngoài ra, ngành thuế chưa được bổ sung chức năng điều tra thuế, làm
hạn chế hiệu quả trong việc xử lý các trường hợp trốn tránh thuế tinh vi phức tạp.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58794847
- Trình độ về CNTT của đại đa số nhân dân và một bộ phận CB, CC còn
thấp.Một số cán bộ lãnh đạo yếu vê trình độ CNTT va thiếu hiếu biết vê triên khai ứng dụng CNTT.
Nhiều cán bộ ít tiếp cận với những công nghệ tiên tiến, ngại thay đổi ứng dụng CNTT
trong công tác chuyên môn. Điều này làm cho CNTT dù đã được đưa vào quy trình
quản lý vận hành các hệ thống, lĩnh vực QLĐT nhưng vẫn chưa phát huy hiệu quả.
Tuy nhiên, nhiều đơn vị chỉ chú trọng và tập trung công tác đào tạo về chuyên môn
nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý Nhà nước không có chủ trương đào tạo về tin
học, ngoại ngữ. Điều này dẫn đến sự thiếu hụt rất lớn đội ngũ có trình độ chuyên
ngành về CNTT đáp ứng yêu cầu công tác.
Vd hiện nay việc tiếp cận với máy tính và internet đối với đồng bào DTTS cũng còn
rất hạn chế. Các dân tộc Si La, Chứt, La Hủ, Xinh Mun chỉ có dưới 1% số hộ có máy
vi tính. Các dân tộc La Hủ, Kháng, Khơ Mú, Rơ Măm… rất hiếm hộ có máy tính kết nối internet.
-sở hạ tầng về CNTT-TT còn thấp, tuy đã vượt qua mức trung bình thế giới.
Hạ tầng CNTT còn rất yếu, không đảm bảo cho việc triển khai ứng dụng CNTT mở
rộng từ tỉnh xuống huyện, xã. Nhiều sở, ban, ngành chưa chủ động xây dựng các hệ
thống thông tin, cơ sở dữ liệu và phần mềm chuyên ngành để nâng cao năng lực
quản lý và phục vụ công tác chuyên môn.
Tại cấp xã, đa số vẫn chưa ứng dụng CNTT vào công tác quản lý, điều hành và tác
nghiệp. Việc đầu tư trang thiết bị ứng dụng CNTT vào thực hiện thủ tục hành chính
và hoạt động QLĐT còn dàn trải, thiếu tập trung và thiếu sự kết nối giữa các cấp
chính quyền, các cơ quan đơn vị; chưa có giải pháp xây dựng hạ tầng tập trung với
dữ liệu dùng chung để phục vụ. Các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 mặc dù đã
được triển khai và tổ chức cung cấp trên mạng Internet, tuy nhiên sự tham gia của
công dân, tổ chức còn hạn chế. Nhiều địa phương hiện đang xếp hạng ở mức thấp
về triển khai ứng dụng mô hình một cửa, một cửa liên thông điện tử hiện đại và hiệu quả.
Vd:chỉ số cơ sở hạ tầng (CSHT) thông tin bình quân chung đạt mức 28,7 điểm. Tình
hình ứng dụng phần mềm trong các DN đang ở mức rất thấp, (bình quân chung ở
mức 9,74 trên thang điểm 100). Tình hình ứng dụng hạ tầng CNTT cũng rất khác
biệt giữa các ngành nghề kinh doanh. Trong đó, ứng dụng CNTT ở mức rất thấp đối
với các DN hoạt động trong ngành Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
-Cải cách hành chính vẫn đang diễn ra. lOMoAR cPSD| 58794847
cải cách hành chính là công việc khó khăn, phức tạp. Phương pháp tổ chức triển khai
thực hiện chưa có nhiều giải pháp tập trung, quyết liệt. Công tác truyền thông phục
vụ cho việc triển khai các chương trình, nhiệm vụ cải cách hành chính chưa tạo ra
sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ hệ thống chính trị cũng như sự đồng thuận trong nhân dân. -
Cải cách hành chính có mối quan hệ hữu cơ với cải cách lập pháp và cải cách
tư pháp và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Hiện tại, chưa có giải pháp phù
hợp để bảo đảm sự kết nối có hiệu quả các nội dung cải cách, đổi mới của cả hệ
thống chính trị. Một số mục tiêu cải cách hành chính xây dựng định tính nên rất khó
đánh giá đúng hiệu quả và trách nhiệm của cơ quan, tập thể, cá nhân liên quan trong tổ chức thực hiện. -
Quá trình triển khai cải cách hành chính còn “lúng túng”. Nhiệm vụ đề ra
nhiều nhưng chưa thực sự gắn với các biện pháp và điều kiện bảo đảm cần thiết.
Việc tổ chức mô hình thí điểm còn có nơi làm chưa đồng bộ, thiếu tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời. -
Nguồn lực và những điều kiện bảo đảm cần thiết cho cải cách hành chính còn
nhiều hạn chế. Tính chuyên nghiệp, kỹ năng hành chính của cán bộ công chức còn
thấp. Việc áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động hành chính, trang thiết bị công
sở còn lạc hậu so với mặt bằng chung trong khu vực và thế giới. -
Vai trò, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính đối với cải cách hành
chính tại một số cơ quan, đơn vị còn hạn chế; chưa quyết liệt trong chỉ đạo, điều
hành, chưa đầu tư thời gian, nguồn lực thích đáng cho thực hiện cải cách hành chính.. -
Công tác tuyên truyền về cải cách hành chính hiệu quả chưa cao, người dân
và doanh nghiệp còn tâm lý e dè khi tham gia hoạt động cải cách hành chính, trình
độ sử dụng công nghệ thông tin còn yếu, bên cạnh đó, phần mềm dịch vụ phục vụ
cải cách hành chính có những hạn chế nhất định.
Vd:Cải cách thủ tục hành chính đang được diễn ra trong từng giai đoạn , để TTHC
gần dân, sát dân, tiết kiệm và hiệu quả cũng là một trong những điều kiện giúp nâng
cao năng lực, hiệu quả và vai trò quản lý của bộ máy QLHC nhà nước nói riêng vị
thế của nhà nước nói chung. TTHC không minh bạch, nhiều tầng nấc, rườm rà, nặng
nề, không hợp lý, không sát dân thì không những gây ra tốn kém, lãng phí sức người,
sức của của ngân sách nhà nước, tài sản xã hội, tiền bạc của dân, mà còn kìm hãm
sự năng động trong các hoạt động của mọi mặt đời sống, đồng thời, tạo điều kiện
thuận lợi cho phát sinh tiêu cực và tham nhũng. Do đó, cải cách hành chính (CCHC) lOMoAR cPSD| 58794847
mà trong đó cốt lõi là cải cách các TTHC nhằm làm cho các TTHC trở nên minh
bạch, đơn giản, thuận tiện cho các chủ thể, có thể thực hiện trực tuyến trên môi
trường điện tử qua Cổng dịch vụ quốc gia và sử dụng dữ liệu từ các Cơ sở dữ liệu
nền tảng như Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
-Ứng dụng CNTT trong các CQNN còn một số mặt hạn chế
Chưa khai thác, phát huy được tối đa tính năng, lợi ích của các phương tiện công
nghệ thông tin và cơ sở hạ tầng, thiết bị công nghệ thông tin hiện có để nâng cao
hiệu quả trong công việc cũng như trong quản lý điều hành. -
Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của đài truyền thanh – truyền hình, các
trạmtruyền thanh cơ sở, cổng thông tin điện tử, đội thông tin lưu động, tuyên truyền
quảng cáo, cổ động trực quan…chưa được đầu tư đúng mức. Chưa có chính sách
thu hút nhân tài, kinh phí cho công tác thông tin tuyên truyền còn rất hạn hẹp. - Chưa
có Chế tài cụ thể về công tác thi đua khen thưởng nên chưa khích lệ động viên kịp
thời những tập thể cá nhân tích cực, đồng thời phê bình đánh giá với những tập thể
cá nhân chưa tích cực trong việc ứng dụng công nghệ thông tin – Truyền thông vào
nâng cao hiệu quả công tác. -
Lãnh đạo một số cơ quan đơn vị chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, vị trí, tác
dụngcủa việc ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông vào công việc và trong
điều hành quản lý. Chưa quan tâm và đầu tư đúng mức, kịp thời cho công tác này
tại cơ quan, đơn vị mình. Trình độ, năng lực của một số lãnh đạo, cán bộ công chức,
viên chức và nhân dân chưa bắt kịp với tốc độ phát triển cao của công nghệ thông tin.
Vd:Theo báo cáo đánh giá về chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông Việt Namtỉnh Tây Ninh đứng vị trí thứ 35/63 tỉnh thành trên
địa bàn cả nước, nằm trong nhóm các tỉnh thành ứng dụng và phát triển công nghệ
thông tin ở mức trung bình. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản
lý Nhà nước mới chỉ là bước khởi đầu, hiệu quả chưa cao; các doanh nghiệp chưa
nhận thức đầy đủ về tác động của công nghệ thông tin đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh, vì vậy đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế. Về hạ tầng
công nghệ thông tin chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho các đơn vị cấp sở, ban, ngành,
huyện, thị; nhiều máy tính đã được trang bị từ lâu, tốc độ xử lý chậm, số đơn vị kết
nối mạng diện rộng của tỉnh còn hạn chế. Đối với cấp xã, phường chưa được đầu tư
đúng mức nên việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác chuyên môn chưa
cao. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong các cơ quan Nhà nước
hiện vẫn còn hạn chế, đội ngũ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin còn thiếu.
Cơ chế, chính sách của tỉnh dành cho cán bộ lOMoAR cPSD| 58794847
-Thanh tra, kiểm tra còn hình thức, yếu về xử lý và thiếu các hệ thống giám sát hiện đại.
VD:Cơ quan thuế cũng đã nghiên cứu và áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong
công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tuân thủ người nộp thuế trên cơ sở ứng dụng
công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế hiện đại. Tuy nhiên, hoạt động
thanh kiểm tra vẫn còn một số tồn tại như cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ cho công
tác quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết còn chưa đầy đủ.
Nguồn nhân lực làm công tác thanh tra, kiểm tra còn chưa đáp ứng về số lượng và
chất lượng so với mục tiêu đề ra. Việc thu thập, khai thác thông tin về người nộp
thuế phục vụ cho phân tích, đánh giá rủi ro giám sát tuân thủ người nộp thuế còn
chưa có sự tập trung, thống nhất kết nối giữa các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ
quản lý thuế. Ngoài ra, ngành thuế chưa được bổ sung chức năng điều tra thuế, làm
hạn chế hiệu quả trong việc xử lý các trường hợp trốn tránh thuế tinh vi phức tạp.