



















Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG ------------------------- TIỂU LUẬN MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG
ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN NHỮNG BIỂU HIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”,
“TỰ CHUYỂN HÓA” CỦA ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY Sinh viên: VŨ MINH TÂM Mã sinh viên: 2156100052
Lớp hành chính: Thông tin đối ngoại K41
Lớp tín chỉ: XD01001_K41.12 Hà Nội – 2022 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lý do lựa chọn đề tài.......................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu....................................................3
5. Kết cấu tiểu luận..............................................................................................4
NỘI DUNG...........................................................................................................4
Chương 1..............................................................................................................4
ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN NHỮNG BIỂU HIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”,
“TỰ CHUYỂN HÓA” CỦA ĐẢNG VIÊN........................................................4
1. Khái niệm.........................................................................................................4
1.1. Tự diễn biến...................................................................................................4
1.2. Tự chuyển hóa...............................................................................................5
1.3. Đấu tranh ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”................................6
2. Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở đảng viên................................6
3. Nội dung đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
ở đảng viên...........................................................................................................8
4. Phương thức đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” ở đảng viên................................................................................................11
Chương 2............................................................................................................17
ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN BIỂU HIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ
CHUYỂN HÓA” CỦA ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC
TẾ HIỆN NAY...................................................................................................17
1. Thực trạng đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay..................................................................17
1.1. Thành tựu.....................................................................................................18
1.2. Hạn chế........................................................................................................23
2. Giải pháp đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế hiện nay..................................................................................24
KẾT LUẬN........................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................30 1 MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Suốt hành trình hơn 90 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh
đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn giữ vững bản chất cách
mạng, bản lĩnh chính trị. Đảng ta luôn kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, với mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội. Điều đó đòi hỏi
phải luôn thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để Đảng ngày một lớn mạnh.
Muốn Đảng lớn mạnh, Đảng ta chủ trương trước hết phải xây dựng đội
ngũ đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và ngang tầm nhiệm vụ. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí đánh giá cao vai trò của đội ngũ đảng viên trong sự
nghiệp cách mạng và chỉ rõ: “Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi
nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do
đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều
do đảng viên cố gắng thực hiện”. Bởi vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm, chăm lo công tác giáo dục, rèn luyện,
nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên.
Có thể nói, đảng viên luôn giữ vai trò rất quan trọng trong việc góp phần
xây dựng đường lối, chủ trương; chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm
tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách đó. Họ là người trực
tiếp cùng tổ chức cơ sở đảng nơi sinh hoạt, dân chủ thảo luận đề ra nhiệm vụ
chính trị của đảng bộ và là người tiên phong, gương mẫu, dẫn dắt quần chúng
trong phong trào cách mạng cũng như lãnh đạo quần chúng thực hiện tốt chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó,
trên cơ sở phản ánh, kiến nghị với tổ chức đảng nhằm giải quyết kịp thời những
vướng mắc, bức xúc của người dân, đảng viên nói riêng và đội ngũ đảng viên
nói chung rất am hiểu tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của quần chúng. Có thể
nói, đảng viên chính là nhân tố quan trọng giúp tăng cường mối quan hệ gắn bó
máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Hơn thế nữa, đảng viên còn là tế bào cấu thành tổ chức đảng, năng lực lãnh đạo, 2
sức chiến đấu của tổ chức đảng phụ thuộc và được quyết định bởi chất lượng đội
ngũ đảng viên. Đảng viên có chất lượng cao là cơ sở để xây dựng tổ chức đảng
vững mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng mạnh là do các chi bộ
mạnh. Chi bộ mạnh là do các đảng viên hăng hái và gương mẫu”.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo mọi mặt đời sống xã hội thì vai trò
của người Đảng viên lại cần được nêu cao hơn bao giờ hết. Ngày nay, khi Việt
Nam đang bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế kéo theo đó là sự phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu xây dựng
Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới đã đặt ra cho đội ngũ đảng viên những
yêu cầu mới. Nhờ thường xuyên quan tâm công tác xây dựng, chính đốn Đảng,
đa số đảng viên đã có ý thức đoàn kết cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định với nguyên tắc của Đảng, thực sự là lực lượng tiên phong của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, đưa công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to
lớn. Tuy vậy, một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đang diễn ra sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đặc biệt là xuất hiện những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm giảm lòng tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước, gây tổn hại nghiêm trọng đến công tác xây dựng Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ: “Những biểu hiện xa rời
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn
biến phức tạp”. Có thể nói, việc đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã trở thành nhiệm vụ cấp bách của Đảng
và Nhà nước trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng và nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển ngày nay.
Trên cơ sở kiến thức tiếp thu từ bài học cùng với việc tiếp cận từ một số những
tài liệu liên quan, em xin đi sâu vào tìm hiểu về: “Đấu tranh ngăn chặn những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Tiểu luận phân tích, làm sáng tỏ những nội dung
cơ bản về việc đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển 3
hóa” trong đội ngũ đảng viên hiện nay. Qua đó, phân tích thực trạng và đề suất
một số giải pháp nhằm đấu tranh, phòng chống, khắc phục sự suy thoái về tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ đảng viên trong giai đoạn
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. - Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ các khái niệm, các nội dung và phân tích liên quan về việc
ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ đảng viên.
+ Đánh giá đặc điểm tình hình mới và ảnh hưởng của nó đến việc suy
thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ đảng viên.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng về việc đấu tranh chống các biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đội ngũ đảng viên hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận đảng viên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đội ngũ đảng viên. - Phạm vi nghiên cứu:
+ Thời gian: Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay.
+ Không gian: Trên toàn đất nước Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Tiểu luận nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về việc đấu tranh chống biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” của đội ngũ đảng viên.
- Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng kết hợp phương pháp:
phân tích - tổng hợp trên cơ sở thực tiễn, nghiên cứu lý luận,…. 4 5. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu thành 2 chương.
Chương 1: Đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên.
Chương 2: Đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên tr
ong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. NỘI DUNG Chương 1
ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN NHỮNG BIỂU HIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”,
“TỰ CHUYỂN HÓA” CỦA ĐẢNG VIÊN 1. Khái niệm 1.1. Tự diễn biến
Theo từ điển Tiếng Việt: “Diễn biến là diễn ra sự biến đổi theo chiều
hướng nào đó. Ví dụ: diễn biến tư tưởng, tư tưở có
ng nhiều diễn biến phức tạp”.
Khái niệm “tự diễn biến” dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng.
Đó là quá trình tự biến đổi từ bên trong của một sự vật theo chiều hướng nhất
định: tích cực hoặc tiêu cực, tiến bộ hoặc phản tiến bộ. Dựa vào quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng Cộng
sản Việt Nam, “tự diễn biến” được hiểu là sự biến chất, suy thoái về tư tưởng
chính trị, về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
“Tự diễn biến” trong cán bộ, đảng viên là quá trình đấu tranh giữa mặt
tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong
nội tâm mỗi người cán bộ, đảng viên trước những tác động phức tạp của tình
hình trong nước và quốc tế. Trong đó, những yếu tố tiêu cực và tư tưởng tư bản
chủ nghĩa ngày một tăng lên; các yếu tố tích cực, cách mạng, tư tưởng xã hội 5
chủ nghĩa dần biến mất. Quá trình này biến đổi bên trong chủ thể và đến một
thời điểm nhất định, sự biến đổi này sẽ chuyển sang hành động của chủ thể.
Qua đó, thuật ngữ “tự diễn biến” có thể được hiểu như sau: “Tự diễn
biến” là quá trình diễn ra sự thay đổi ngay từ trong nội bộ tổ chức và cá nhân
theo chiều hướng xấu đi, tiêu cực, đi ngược lại với chuẩn mực và giá trị của xã hội” 1.2. Tự chuyển hóa
Theo từ điển Tiếng Việt: “Chuyển hóa là biến đổi sang dạng hoặc hình
thái khác”. Khái niệm “tự chuyển hóa” dùng để chỉ quá trình tự biến đổi của một
sự vật, hiện tượng sang một chất mới hoặc một cấu trúc, một dạng tồn tại mới.
Các văn kiện của Đảng ta đã định nghĩa “tự chuyển hóa” là sự biến đổi về lập
trường, quan điểm, tư tưởng, thái độ, hành vi, lối sống của cán bộ, đảng viên
theo hướng đối lập với trạng thái ban đầu.
“Tự chuyển hóa” là sự nối tiếp của quá trình “tự diễn biến” nhưng ở một
cấp độ cao hơn. Đó là khi sự biến đổi về chất đã làm thay đổi quan điểm tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên và chuyển hóa thành
những hành động chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Giống với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá trình diễn ra trong
chính nội bộ ta ở cả phạm vi tổ chức và cá nhân; là sự thay đổi về chất của tổ
chức và cá nhân, khiến cho mỗi cá nhân không còn là chính mình, đánh mất vai
trò tiên phong, tệ hơn là trở thành phản bội, chống lại Đảng và Nhà nước, thậm chí
chuyển sang hàng ngũ kẻ thù.
Từ các cách tiếp cận trên, có thể đi đến kết luận: “Tự chuyển hóa” là hệ
quả tất yếu của quá trình “tự diễn biến”, diễn ra trong nội bộ ta ở phạm vi cá
nhân và tổ chức. Đó là sự thay đổi về bản chất của tổ chức và của mỗi con
người; làm cho tổ chức, cá nhân đó bị tha hóa, biến chất, đối lập với bản chất
tốt đẹp của xã hội và tệ hơn là gây nên những hậu quả hết sức nguy hại cho xã hội” 6
1.3. Đấu tranh ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Đấu tranh là dùng sức mạnh để chống lại hay
diệt trừu hoặc bảo vệ hay giành lấy” [5,tr.68] và “Ngăn chặn là chặn lại từ đầu,
không để cho gây tác hại” [4,tr.671]. Đấu tranh, ngăn chặn trên lĩnh vực tư
tưởng hiện nay đang diễn ra hết sức cam go, quyết liệt và phức tạp, đây là cuộc
đấu tranh với những luận điệu sai trái của thế lực thù địch.
Đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
chính là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, phản bác các
quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch; đồng thời ngăn chặn sự
suy thoái, xuống cấp của chế độ, dẫn đến phải chuyển hóa về bản chất của thế
chế chính trị xã hội chủ nghĩa. Tính chất quyết liệt của cuộc đấu tranh này là
cuộc đấu tranh giữa hai lý tưởng, giữa hai hệ tư tưởng, giữa hai chế độ xã hội
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Đấu tranh tư tưởng là bộ phận quan trọng của
đấu tranh giai cấp và phản ánh rõ nét bản chất của cuộc đấu tranh giai cấp.
2. Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở đảng viên
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ là quá trình diễn biến bên
trong một bộ phận đảng viên, theo hướng tiêu cực, từ tiến bộ sang lạc hậu. Nếu
không nhận diện rõ được các biểu hiện để kịp thời ngăn chặn, khắc phục có thể
dẫn đến làm biến chất đảng viên, biến chất Đảng và chế độ xã hội, trượt sang
quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong cả một
quá trình lâu dài và tiềm ẩn, khó nhận biết, thông thường biểu hiện qua các dấu hiệu nhận biết như:
- Về lĩnh vực tư tưởng, chính trị: Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” diễn ra trên lĩnh vực này rất đa dạng, phức tạp và nhiều cấp độ. Cụ thể, đó
là tình trạng dao động về lập trường, phai nhạt lý tưởng cách mạng, quan điểm
chính trị, sa sút ý chí chiến đấu, mơ hồ, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Qua đó, không ngừng phủ nhận các giá trị truyền thống cách
mạng, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Không thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, nói và làm trái với
đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Không còn ý 7
thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.
Vi phạm những điều quy định đảng viên không được làm; thấy đúng không bảo
vệ, thấy sai không đấu tran, ngăn cản, tệ hơn là những cá nhân có ý thức chính
trị kém, bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, phụ họa, cổ súy cho những
quan điểm sai trái, lệch lac, chống phá sự nghiệp các mạng, gây tổn hại đến uy
tín và vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước ta.
- Về lĩnh vực văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống: biểu hiện sùng bái, chạy
theo lối sống tư sản; từ bỏ các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, các giá trị xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”
còn được biểu hiện ở việc xuyên tạc trắng trợn lịch sử, phủ nhận nền văn hóa
dân tộc; thương mại hóa các hoạt động văn hóa một cách thái quá, đánh mất bản
sắc văn hóa dân tộc; đề cao chủ nghĩa cá nhân, thói đạo đức giả, vị kỷ, xa hoa, trụy lạc,…
- Về lĩnh vực kinh tế: Phản bác, phủ nhận và làm thay đổi kinh tế xã hội
chủ nghĩa bằng kinh tế tư bản chủ nghĩa. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; tìm cách hạ thấp, làm mất vai trò quản lý kinh tế của
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đòi đẩy nhanh tư nhân hoá nền kinh tế, xoá bỏ chế
độ công hữu tư liệu sản xuất, thay bằng chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa...
- Về lĩnh vực quân sự, quốc phòng an ninh: Bóp méo, xuyên tạc, thay đổi
bản chất nền quốc phòng, thay đổi bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang,
quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản; đánh đồng bản chất Quân đội nhân dân
Việt Nam với bản chất quân đội tư sản... Chống phá về đường lối, chính sách
quốc phòng, an ninh, thúc đẩy chuyển hoá lực lượng vũ trang, thực hiện “phi
chính trị hoá” quân đội và công an; lợi dụng chính sách mở cửa, hợp tác, hội
nhập để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ bên trong. Tuyên truyền
xuyên tạc các vấn đề nội bộ của quốc gia, hướng dư luận quốc tế ủng hộ cho
mục đích can dự lật đổ từ bên ngoài của các thế lực thù địch. Móc nối các đối
tượng phản động trong nước với các tổ chức lưu vong ở nước ngoài nhằm tăng
cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự 8
chuyển hóa” bằng cách lập hàng nghìn trang web, blog, trang Facebook,
Fanpage, Youtube, giả mạo các trang thông tin chính thống; lập ra hàng trăm cơ
quan báo chí, nhà xuất bản và các đài phát thanh, truyền hình có trụ sở, máy chủ
ở nước ngoài để xuyên tạc, vu khống tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong
nước. Qua đó, tạo sự hoài nghi, gây mất lòng tin của cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Nội dung đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở đảng viên
Đấu tranh ngăn chặn “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” là một quá trình
lâu dài, cần xác định rõ lộ trình, bước đi thích hợp, xác định các nội dung đấu
tranh hợp lý và hiệu quả. Nội dung đấu tranh bao gồm có các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, đấu tranh ngăn chặn suy thoái tư tưởng, chính trị. Đây là quá
trình đấu tranh với sự phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng, xa rời chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, làm cho những cái tốt,
ưu việt của chế độ ta bị xuyên tạc trở thành méo mó, thực hư, thật giả, trắng đen
lẫn lộn, bị lợi dụng để thực hiện mục đích cá nhân, biến cái tốt thành xấu từ đó
cái xấu có cơ hội nảy nở, lấn át cái tốt. Suy thoái tư tưởng chính trị phản ánh sai
lệch quan điểm, lập trường của người cộng sản; phản ánh sai lệch các chuẩn
mực đạo đức, lối sống của người đảng viên, do lương tâm, danh dự của họ đã bị
lu mờ, hoen ố; tự thân, không thể nhận thức, phân biệt rõ ràng phải trái, đúng
sai, không thể điều chỉnh thái độ, hành vi trong các quan hệ giao tiếp, ứng xử để
đạt đến sự chuẩn mực đạo đức vốn có của người cộng sản. Vì vậy, họ dễ dàng
rơi vào lối sống buông thả, “quên tình nghĩa, xa rời đạo lý”; đề cao vật chất,
sùng bái đồng tiền, nặng về hưởng lạc, ham chức, cậy quyền, đề cao “cái tôi”,
coi thường tổ chức, chà đạp lên tập thể...
Thứ hai, đấu tranh ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí. Tình trạng
này đang diễn biến phức tạp và gây bức xúc xã hội trong thời gian qua. Hành vi
tham nhũng là hành vi vi phạm pháp luật của người có chức, quyền. Đảng viên
có chức, quyền là những người đáng ra phải làm gương cho cả xã hội về việc 9
tuân thủ, thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và chí công, vô tư trong
công tác thì lại tham nhũng, tư lợi, vi phạm pháp luật và đi ngược lại các cương
lĩnh, đường lối của Đảng về xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa. Quá trình
Đảng ta lãnh đạo đổi mới đất nước, đã và đang mang lại những thành tựu to lớn
về mọi mặt của đời sống xã hội, tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, vận hành
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm phát sinh những
mặt tiêu cực, thách thức mà trước hết là nạn tham nhũng ngày càng nghiêm
trọng, phức tạp. Cùng với quá trình đổi mới, phát triển của đất nước, đã xuất
hiện một bộ phận đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, lợi dụng chức
quyền, vụ lợi cá nhân, xói mòn đạo đức cách mạng. Qua đó, tình trạng tham
nhũng phổ biến, nghiêm trọng, kéo dài sẽ thúc đẩy nguy cơ “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong Đảng. Bên cạnh đó, nó sẽ làm gia tăng bức xúc xã hội, làm
giảm sút niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước và là mối đe dọa đối
với sự tồn vong của Đảng, của chế độ.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn lãng phí là việc quản lý, sử
dụng tiền của, sức lao động, thời gian kém hiệu quả; lãng phí có nhiều cách như
lãng phí sức lao động, lãng phí thì giờ; lãng phí tiền của. Lãng phí là mắc phải
bệnh “Phô trương hình thức” gây tốn kém không cần thiết. Lãng phí có thể xảy
ra ở các ngành, các lĩnh vực, các địa phương, ở mọi cấp từ Trung ương, đến cơ
sở; ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị
xã hội, trong các gia đình và từng người dân. Lãng phí có thể xảy ra mọi lúc,
mọi nơi, mọi đối tượng. Lãng phí có thể xảy ra từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều.
Lãng phí và tham nhũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tham nhũng và lãng
phí là nguyên nhân dẫn đến thất thoát tài sản, thâm thục ngân sách, tiền của, tài
nguyên, mất lòng tin của nhân dân, là nguy cơ cho tình trạng bất ổn kinh tế,
nguy cơ đối với sự tồn vong của đất nước. Nếu lãng phí không được ngăn chặn
thì tham nhũng có nhiều cơ hội phát triển.
Hiện nay, lãng phí là một căn bệnh mà một bộ phận không nhỏ đảng viên
mắc phải với nhiều mức độ khác nhau. Điều đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta
cần phải có các biện pháp chống lãng phí quyết liệt, cụ thể, toàn diện, triệt để, 10
thống nhất, đồng bộ và thường xuyên. Phải trở thành ý thức tự giác đối với mỗi
đảng viên trên cơ sở nhận thức đúng đắn về bản chất, tác hại của lãng phí đối
với nhà nước, xã hội và nhân dân.
Thứ ba, đấu tranh ngăn chặn suy thoái về đạo đức lối sống. Suy thoái tư
tưởng chính trị là dấu hiệu đầu tiên dẫn đến hình thức biểu hiện của suy thoái về
đạo đức, lối sống. Nếu suy thoái về tư tưởng, chính trị được loại bỏ thì suy thoái
về phẩm chất đạo đức, nhân cách và lối sống, cũng sẽ mất theo. Sự suy thoái về
đạo đức, lối sống biểu hiện ngấm ngầm hay công khai theo những con đường,
cách thức riêng. Công tác tuyên truyền, giáo dục không thể phát huy công dụng,
hiệu quả trong trường hợp này mà chỉ đến khi luật pháp vạch mặt, sai trái ấy ở
một số người mới bị phơi bày, buộc phải thừa nhận. Nếu coi suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống là một cơ thể mang mầm bệnh ghép thì nó sẽ bao
gồm ba chứng bệnh: suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, suy
thoái về lối sống. Cả ba căn bệnh ấy đều bám nhau, dính chặt trên cơ thể người;
rất khó phân biệt một cách rạch ròi bản chất, nguyên nhân của từng loại bệnh.
Biểu hiện rõ nhất, dễ nhìn thấy nhất sẽ bắt đầu từ các hành vi thoái hóa đạo đức,
lối sống thông qua các hành động “lệch chuẩn” của nó.
Thứ tư, đấu tranh phòng, chống âm mưu của các thế lực bên ngoài. Từ
việc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) của Đảng ta bàn về một số vấn đề cấp
bách trong xây dựng Đảng hiện nay, các thế lực thù địch bên ngoài đã lợi dụng
một số người có quan điểm bất đồng, thậm chí đối lập với Đảng, Nhà nước ta để
xuyên tạc sự thật, thổi phồng khuyết điểm, khuếch đại thiếu sót, hạn chế trong
lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng,
Nhà nước ta. Các đối tượng này muốn phủ nhận thành quả cách mạng, phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng ta; xóa bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam; đưa nước ta đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa có lợi cho phương
Tây. Ý đồ của họ đã lộ diện, âm mưu, thủ đoạn của họ đã được công khai từ
nhiều năm nay thông qua thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, kết hợp với
bạo loạn lật đổ. Vì vậy, cần nghiêm túc xem xét mọi vấn đề và xem đây như một
loại “giặc nội xâm” để ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới khắc phục suy thoái tư tưởng 11
chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận đảng viên, xây dựng Đảng ta
trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ là một vấn đề rất quan trọng và cấp
bách trong tình hình hiện nay.
4. Phương thức đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở đảng viên
Trong bối cảnh, tình hình mới nâng cao năng lực đấu tranh ngăn chặn
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bằng cách sử dụng các phương thức đấu tranh
phù hợp và cần phối hợp hài hòa các phương thức đấu tranh để mang lại hiệu quả cao nhất:
- Đấu tranh thông qua việc giáo dục, học tập nâng cao trình độ lý luận
chính trị: Lý luận chính trị là hệ thống các tri thức khoa học của chính trị học và
các khoa học chính trị, chúng hợp thành nội dung của lý luận chính trị, vừa là tri
thức chuyên ngành, vừa là tri thức liên ngành, bao quát toàn bộ lĩnh vực chính
trị, một trong bốn lĩnh vực của đời sống xã hội. Lý luận chính trị là hệ thống tri
thức về lĩnh vực chính trị, thể hiện và thái độ và lợi ích của một giai cấp đối với
quyền lực nhà nước trong xã hội có giai cấp. Học tập nâng cao trình độ lý luận
chính trị là học tập những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
của mỗi đảng viên nhằm hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan
cộng sản, phương pháp tư duy và phương pháp làm việc biện chứng, khoa học
và góp phần thúc đẩy tính tích cực chính trị - xã hội.
Giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên là một nội dung quan trọng
trong hoạt động tư tưởng của Đảng và là hoạt động giáo dục diễn ra trong Đảng
và các tổ chức chính trị - xã hội. Do đó, các cấp ủy phải đặc biệt quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo đến hoạt động này. Đảng ta coi công tác xây dựng Đảng là then
chốt thì không được xem nhẹ công tác giáo dục lý luận chính trị trong Đảng
cũng như lãnh đạo công tác này trong toàn xã hội. Đó là cách tốt nhất, trực tiếp
nhất để tạo ra sự thống nhất nhận thức tư tưởng, tăng cường ý chí, thống nhất tổ
chức và hành động, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, năng lực lãnh đạo của Đảng. 12
- Đấu tranh thông qua các tổ chức chính trị - xã hội: Các tổ chức chính
trị - xã hội được thành lập trên cơ sở đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên
khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là nơi phát huy tối
đa dân chủ, khuyến khích thảo luận, tôn trọng mọi ý kiến khác nhau, không phân
biệt đa số hay thiểu số, đồng tình hay phản đối. Thông qua các tổ chức này nhằm
mở rộng phương thức xã hội hóa, động viên các cá nhân và tập thể tích cực tham
gia các cuộc vận động, các phong trào, các chương trình mục tiêu quốc gia và
của địa phương. Kết hợp các hình thức tuyên truyền thông qua báo chí, phát
thanh, truyền hình, hội nghị, hội thảo với việc trang bị tài liệu, đối thoại, tiếp xúc
với đảng viên, chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ.
Các tổ chức chính trị - xã hội tích cực tham gia quản lý Nhà nước, quản
lý kinh tế, quản lý xã hội, thực hiện quyền giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, đại biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước theo quy định của Pháp luật.
Phối hợp, tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp lý,
vận động các tầng lớp nhân dân, phát huy quyền làm chủ, tham gia xây dựng
Nhà nước, xây dựng chính quyền nhân dân các cấp. Vận động thực hiện trách
nhiệm mỗi đảng viên là một cán bộ dân vận tốt, dân vận khéo, rèn luyện tư duy
và phong cách công tác dân vận.
- Thông qua tạo lập dư luận xã hội, phương tiện truyền thông đại chúng:
Dư luận xã hội là tổng thể các ý kiến, trong đó chủ yếu là các ý kiến thể hiện sự
phán xét đánh giá, sự nhận định (bằng lời hoặc không bằng lời), phản ánh ý
nghĩa của các thực tế, quá trình, hiện tượng, sự kiện đối với các tập thể, giai cấp,
xã hội nói chung và thái độ công khai hoặc che đậy của các nhóm xã hội lớn,
nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội có động chạm đến các lợi ích chung
của họ. Là một hoạt động quan trọng trong lĩnh vực tuyên giáo, hoạt động định
hướng dư luận xã hội là việc sử dụng các phương thức thông tin nhất định tác
động vào các nhóm đề tài mang tính thời sự. Ở nước ta việc định hướng dư luận
xã hội được thực hiện nhằm hướng tới mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, 13
hướng tới hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế xã hội của đất nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Định hướng dư luận sử dụng các nguồn thông tin chính thống tác
động đến cá nhân, nhóm và cộng đồng làm thay đổi nhận thức, thái độ của họ,
tạo ra sự nhất trí và đồng thuận thực hiện thắng lợi các mục tiêu, phương hướng
đề ra, định hướng dư luận có phạm vi tác động ở 3 cấp độ: Cấp độ cá nhân, cấp
độ nhóm xã hội và cấp độ cộng đồng, xã hội.
+ Định hướng ở cấp độ cá nhân là việc cung cấp thông tin, cơ sở chứng
cứ, lý lẽ phù hợp với nhận thức của chủ thể có vai trò hết sức quan trọng trong
quá trình chuyển đổi trạng thái nhận thức: từ không hiểu đến hiệu, từ chưa nhận
thức rõ đến nhận thức rất rõ, từ phản đối đến tán thành ...hoặc quá trình chuyển
đổi trạng thái tâm lý, như: Từ ghét đến yêu, từ không chấp nhận đến chấp nhận,.
Trên thực tế các cá nhân có thể hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của tập thể, của
cộng đồng nếu như họ được giác ngộ và ý thức rõ ràng về sự hy sinh đó...Ngược
lại, khi chưa có sự giác ngộ và ý thức rõ ràng về mục đích rất dễ dẫn đến sự
chống đối bằng mọi giá. Định hướng ở cấp độ cá nhân cần phải chú ý đến mối
quan hệ giữa cá nhân và tập thể đặc biệt là các quan hệ về lợi ích
+ Cấp độ định hướng nhóm xã hội: Khi định hướng dư luận trong nhóm
xã hội thì việc thông qua những người có uy tín, địa vị cao trong nhóm có vai trò
hết sức quan trọng. Ví dụ bí thư đoàn thanh niên định hướng dư luận cho đoàn
viên, chủ tịch công đoàn định hướng dư luận xã hội cho công nhân. Những
người đứng đầu tổ chức, đơn vị thường có vai trò định hướng rất rõ đối với các
thành viên thuộc tổ chức của mình vì vậy việc trang bị cho người định hướng
những thông tin có định hướng rõ ràng, chính xác, đầy đủ ý nghĩa về nội dung
một thông điệp nào đó đặc biệt trong lĩnh vực tư tưởng là rất quan trọng.
+ Cấp độ định hướng cộng đồng. Với phạm vi tác động rộng, định hướng
cộng đồng là hoạt động định hướng mang tính chất liên nhóm, các thông điệp
đưa vào quá trình này sẽ mang lợi ích chung của cộng đồng. Phương tiện chủ
đạo tham gia vào quá trình định hướng cộng đồng thường là báo chí và các
phương tiện truyền thông đại chúng, đây cũng là những phương tiện phổ biến có
sức lan tỏa nhanh, có tác động trên diện rộng và trực tiếp đến các nhóm đối 14
tượng khác nhau. Hiện nay, sự phát triển đa dạng của các loại hình truyền thông
đại chúng, các loại ấn phẩm, xuất bản phẩm đang tạo ra những điều kiện rất
thuận lợi cho công tác định hướng dư luận xã hội, những nội dung cần định
hướng được chuyển tải dễ dàng hơn, dưới nhiều hình thức phong phú hơn. Điều
đó cũng tạo ra những khó khăn nhất định đặc biệt trong công tác quản lý, giám
sát hoạt động của quá trình truyền thông vì nếu sản phẩm truyền thông mang nội
dung định hướng dư luận tốt sẽ tạo ra sự đồng thuận, nhất trí cao trong các tầng
lớp nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước. Ngược lại, nếu nội dung các sản phẩm truyền thông
không mang tính định hướng rõ ràng hoặc tính định hướng về tư tưởng, về giá
trị không cao sẽ có thể phản tác dụng việc định hướng dư luận thậm chí tạo ra
những tâm trạng hoang mang, lo lắng trong dư luận xã hội vì vậy việc giám sát
hoạt động truyền thông đang là vấn đề hết sức quan trọng hiện nay.
Truyền thông đại chúng là hoạt động giao tiếp xã hội thông qua hệ thống
các phương tiện truyền thông, hướng tác động vào đông đảo công chúng xã hội
nhằm thông tin, chia sẽ, nhằm lôi kéo, tập hợp, giáo dục, thuyết phục và tổ chức
đối tượng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội đã và đang đặt ra. Ngoài ra,
phương tiện truyền thông đại chúng còn phát hiện, ngăn chặn những hành vi sai
trái của các cá nhân và tổ chức trong các cơ quan công quyền Nhà nước. Vì vậy,
phương tiện truyền thông đại chúng đã trở thành tai mắt của nhân dân, tạo thành
dự luận mạnh mẽ của công chúng nhằm vạch trần, lên án, phê phán các hành vi
sai trái, tiêu cực của các cá nhân và tổ chức trong bộ máy công quyền; cổ vũ
nhân dân tham gia quản lý xã hội. Sự tham gia của nhân dân vào quá trình quản
lý xã hội vừa là mục đích hướng tới, vừa là điều kiện để thực hiện dân chủ hóa
đời sống xã hội. Do đó, các phương tiện truyền thông đại chúng phải phản ánh
tâm tư nguyện vọng của nhân dân; phải trở thành diễn đàn trao đổi, đóng góp ý
kiến của nhân dân vào tiến trình xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước và là nơi bày tỏ thái độ của nhân dân về hoạt động và trách nhiệm
thực thi nhiệm vụ của các cơ quan quản lý xã hội. 15
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên nhất là đảng
viên có chức, có quyền: Công tác kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, sự đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện
dân chủ trong Đảng, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, phòng ngừa, ngăn
chặn sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của đảng viên, bảo vệ
quan điểm, đường lối của Đảng, tránh các nguy hại sai lầm về đường lối, quan
liêu, xa dân của Đảng cầm quyền, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội Đảng và các Nghị quyết của Trung ương, của cấp ủy. Điều này nhằm tạo sự
chuyển biến tích cực về tư tưởng, nhận thức và hành động trong Đảng, đặc biệt
là tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với người đứng đầu cấp ủy, tổ
chức đảng, tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp. Từng bước
hoàn thiện, quan điểm, nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả của công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng trong tình hình mới; đồng thời gắn chặt với công tác
tư tưởng, công tác tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phải thực
hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Phải thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và giám sát, “giám sát phải mở
rộng”, “kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm” để chủ động phòng ngừa vi
phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy, khắc phục thiếu sót,
khuyết điểm, vi phạm ngay từ lúc mới manh nha. Công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là chính. Khi các vụ
việc vi phạm được phát hiện, phải kiên quyết xử lý nghiêm minh để răn đe và giáo dục.
- Phương thức giám sát của quần chúng nhân dân: Tổ chức Đảng và
đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng và chịu sự giám sát của nhân
dân. Thông qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”,
Đảng ta không ngừng chăm lo xây dựng, mở rộng, tăng cường và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Biểu hiện tập trung của cơ chế này chính là việc
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Nhờ việc thực hiện tốt quy chế này mà
Đảng ta đã phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận 16
cao trong xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, đưa đất nước từng bước
vượt qua khó khăn và giành nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Cùng với việc tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc cùng
cấp, phải coi trọng, đề cao vai trò giám sát của các tầng lớp nhân dân, nhất là
người dân ở xã, phường, thị trấn và các đơn vị cơ sở. Tăng cường và trao quyền
giám sát cho nhân dân là trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng cơ sở chính trị
vững mạnh, qua đó góp phần xây dựng tổ chức đảng, bộ máy chính quyền các
cấp trong sạch, vững mạnh, hoạt động vì dân và mang lại lợi ích tối đa cho nhân
dân. Tình hình tham nhũng, lãng phí và một bộ phận đảng viên sống xa dân,
quan liêu, cửa quyền... vẫn là một trong những vấn đề xã hội nhức nhối và gây
bức xúc trong dư luận. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đáng buồn này là nhiều
nơi chưa coi trọng vai trò giám sát của nhân dân. Do vậy, động viên, khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi để người dân được tham gia giám sát hoạt động
của bộ máy Đảng, Chính quyền và giám sát cán bộ, công chức là một trong
những biện pháp ngăn ngừa, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực có
hiệu quả. Người dân càng giám sát chặt chẽ bao nhiêu, nguy cơ sai phạm của bộ
máy công quyền và đội ngũ cán bộ, công chức càng bị đẩy lùi bấy nhiêu.
Coi trọng và phát huy vai trò giám sát của nhân dân càng trở nên cấp
thiết vì trong xã hội hiện đại và tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
tinh thần dân chủ được coi trọng, đề cao nên người dân càng phải được tạo điều
kiện tham gia quản lý xã hội, giám sát mọi mặt hoạt động của bộ máy công
quyền. Đó là đòi hỏi tất yếu để xây dựng Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân và đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là “công bộc, đầy tớ”
trung thành, tận tụy của nhân dân.
Tóm lại, giám sát là một trong những quyền cơ bản của công dân dưới
chế độ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Muốn
hoạt động giám sát của nhân dân có hiệu quả thiết thực, cần phải đề ra cơ chế,
quy định giám sát rõ ràng, cụ thể để người dân hiểu rõ quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm, phạm vi, nội dung giám sát của mình. Coi trọng quyền giám sát của nhân 17
dân vừa góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, chính
quyền với nhân dân, vừa tạo động lực giúp nhân dân vươn lên và thể hiện vai trò
làm chủ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chương 2
ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN BIỂU HIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ
CHUYỂN HÓA” CỦA ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
1. Thực trạng đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu, khách
quan, lôi cuốn mạnh mẽ sự tham gia của tất cả các quốc gia và khu vực trên thế
giới. Với tính chất rộng lớn và phức tạp, xu thế ấy đã và đang tác động mạnh mẽ
đến tất cả các quốc gia dân tộc, đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến
từng giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Đối với Việt Nam, ngoài những tác động
tích cực mà quá trình này đem lại cho nền kinh tế, cho đời sống xã hội, thì vẫn
còn những mặt trái. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc tồn tại những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ đảng viên. Lợi dụng
những vướng mắc, tồn tại trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình hội nhập quốc tế, các thế lực thù địch đã
truyền bá những giá trị dân chủ, nhân quyền, đạo đức, lối sống sai lệch, không
phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể tại Việt Nam hiện nay, đi ngược lại với
chuẩn mực, với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã kéo theo sự bùng nổ của
Internet và đặc biệt là mạng xã hội, điều này ít nhiều đã tác động trực tiếp đến
nhận thức của một bộ phận không nhỏ các cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân. Internet, mạng xã hội ngoài việc cung cấp thông tin, tri thức bổ ích từ
khắp các quốc gia trên thế giới thì nó còn là nơi con người có thể tự do chia sẻ