lOMoARcPSD| 58933639
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN KINH TẾ ĐẦU TƯ 2
ĐỀ TÀI: Đầu tư công và thực trạng tại Hà Nội giai đoạn 2020-2023
lOMoARcPSD| 58933639
Họ và tên
Mã sinh viên
Công việc
Ma Thị Phương Chinh
11200650
Phần 1,2 mục II
Thảo Hương
11212549
Phần 3 mục II + 1,2 mục III
Nguyễn Quỳnh Trang
11215836
Phần 3 mục III
Thu Hằng
11216651
Phần 1 mục IV
Phạm Nguyễn Khánh Ly
11213609
Lời mở đầu và Giải pháp
lOMoARcPSD| 58933639
I. Lời mở đầu
Từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu to lớn toàn diện trên các mặt kinh tế - xã hội và chính thức trở thành nước thu nhập trung
bình trên thế giới. Tuy nhiên, việc kéo dài quá lâu hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng,
chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, đặc biệt đầu tư công hiệu quả thấp, góp phần khiến nền kinh
tế luôn đối diện với những mất cân đối quan trọng như chênh lệch tiết kiệm - đầu tư, thâm
hụt thương mại, thâm hụt ngân sách trong thời gian dài v.v Đây chính những nguyên nhân
bản gây ra những bất ổn kinh tế như lạm phát tăng cao, tỷ giá biến động mạnh khô lường,
nợ công và nợ nước ngoài đang dần đến ngưỡng nguy hiểm, thị trường tài chính tiền tệ có những
biến động mạnh về lãi suất, niềm tin của thị trường vào điều hành kinh tế vĩ mô bị suy giảm v.v
Nội thủ đô, trái tim của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trung tâm chính trị văn hóa,
xã hội và khoa học của cả nước. Tuy nhiên trải qua hơn nửa thế kỷ bị chiến tranh tàn phá hiện nay
Nội vẫn một trong những thủ đô lạc hậu nhất trên thế giới đặc biệt là về sở hạ tầng. Do
vậy việc thúc đẩy sự phát triển đầu công của Nội một đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn
hiện nay. Chính vậy đề án “Thực trạng đầu công Hà Nội hiện nay" được thực hiện, xuất
phát dựa trên các cơ sở lí thuyết của hoạt động đầu tư công, phân tích thực trạng trên một số khía
cạnh của hoạt động đầu tư công Nội, từ đó đưa ra một số giải pháp tổng thể và một số kiến
nghị cần làm ngay để có thể tiến hành tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công một cách có hiệu
quả, góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế.
II. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm và mục tiêu của đầu tư công
1.1 Khái niệm
Đầu tư công việc sử dụng vốn Nhà nước để đầu vào các chương trình, dự án không
mục tiêu lợi nhuận (hoặc) không khả năng hoàn vốn trực tiếp. Đầu công đầu phát
triển do khu vực nhà ớc thực hiện hoặc dẫn dắt nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội
và thực hiện các chương trình dự án phát triển kinh tế-xã hội.
Đầu tư công: Là 1 dạng của đầu tư, là 1 trong những bộ phận quan trọng nhất trong chi tiêu
nhà nước hàng năm cũng như chiến lược phát triển lâu dài của Chính phủ ở mỗi quốc gia.
Hoạt động đầu tư công bao gồm:
Lập, phê duyệt kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công.
Triển khai thực hiện đầu tư.
Quản khai thác, thực hiện dự án.
Đánh giá sau đầu tư công.
1.2 Đặc điểm
Luôn gắn với chủ thể là nhà nước.
Luôn hướng tới mục tiêu cộng đồng.
lOMoARcPSD| 58933639
Được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật chặt chẽ.
1.3 Mục tiêu
Tạo mới, nâng cấp, củng cố các tài sản (khác với chi tiêu thường xuyên).
Góp phần thực hiện 1 số mục tiêu xã hội, văn hóa, môi trường.
Góp phần điều tiết nền kinh tế thông qua việc tác động trực tiếp đến tổng cầu của nền kinh tế.
2.Nội dung đầu tư công
2.1 Đầu tư theo chương trình mục tiêu
a)Khái niệm:
Đầu theo chương trình là tập hợp các dự án đầu nhằm thực hiện 1 hoặc 1 số mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội cụ thcủa đất nước hoặc vùng lãnh thổ trong thời gian nhất định. Nếu không
có chương trình mục tiêu sẽ không có sự tham gia của các ngành, các cấp để giải quyết vấn đề lớn
của đất nước.
Bao gồm: Chương trình mục tiêu cấp quốc gia (do Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư,
trong kế hoạch 10 năm cấp quốc gia). Chương trình mục tiêu cấp tỉnh (do Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh quyết định chủ trương, trong kế hoạch 5 năm cấp tỉnh). Cơ cấu nguồn vốn đầu tư: Ngân sách
trung ương, ngân sách địa phương, nguồn vốn nước ngoài, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ và dự
phòng.
b)Căn cứ lập chương trình mục tiêu
Đối với chương trình mục tiêu quốc gia: Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của cả nước thời
kì 10 năm đã được thông qua. Tính cấp bách của mục tiêu. Khả năng đảm bảo nguồn vốn.
Đối với chương trình mục tiêu cấp tỉnh: Mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội của tỉnh 5 năm đã được phê duyệt. Tính cấp thiết của việc thực hiện. Khả năng đảm bảo
nguồn vốn. c)Yêu cầu
Đối với chương trình mục tiêu quốc gia: Đạt được những mục tiêu quan trọng, cấp bách, cần
ưu tiên. Nội dung phải ràng, không trùng lặp với các chương trình đầu khác. Xác định
phân bổ vốn đầu phải tuân thủ theo danh mục dự án. Tiến độ triển khai phải phù hợp với điều
kiện thực tế. Việc tổ chức thực hiện phải phân công ràng. Quá trình triển khai cần được theo
dõi, kiểm tra, giám sát thường xuyên. Các vấn đề hội Chính phủ Việt Nam cam kết với quốc
tế phải thực hiện theo chương trình chung của quốc tế về các vấn đề liên quan.
Đối với chương trình mục tiêu cấp tỉnh: Đạt được những mục tiêu quan trọng, cấp bách, cần
ưu tiên. Nội dung phải ràng, cụ thể, có chủ ý tới việc lồng ghép với nội dung khác của chương
trình đầu tư khác của tỉnh.
2.2 Đầu tư theo các dự án đầu tư công
a)Khái niệm:
lOMoARcPSD| 58933639
Đầu theo các dự án dự án đầu sử dụng vốn nhà nước để thực hiện c mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.
Bao gồm: Dự án phát triển kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, hội, môi trường, quốc phòng, an
ninh. Dự án đầu tư không có điều kiện xã hội hóa thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, y
tế, khoa học, giáo dục, đào tạo. b)Yêu cầu
Phải phù hợp
Có các giải pháp kinh tế-kỹ thuật khả thi
Đảm bảo hiệu quả kinh tế-xã hội, phát triển bền vững
c)Trình tự, thủ tục
B1: Tổ chức lập dự án đầu tư rồi trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư.
B2: Người có thẩm quyền quyết định đầu tư tổ chức thẩm định dự án đầu tư công, hồ sơ thẩm
định dự án.
B3: Ra quyết định đầu tư.
B4: Thực hiện đầu tư.
B5: Nghiệm thu, bàn giao dự án đầu tư công.
B6: Thanh quyết toán vốn đầu tư.
B7: Tổ chức khai thác, vận hành.
B8: Kết thúc đầu tư và duy trì năng lực hoạt động của tài sản đầu tư công.
3. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng
3.1. Vai trò
Đối với nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như
nước ta nói riêng thì đầu công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước một trong những công cụ
điều hành của Nhà nước góp phần tạo nền tảng cơ bản cho sự phát triển của nền kinh tế dẫn dắt
đầu tư của các thành phần kinh tế khác… Vai trò của đầu tư công được thể hiện qua các khía cạnh
sau:
Thứ nhất, đầu công giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa vào việc đầu cho các công
trình hạ tầng, sở vật chất kỹ thuật tối thiểu chung cho hội. Đồng thời nó cũng tạo những điều
kiện thiết yếu cho các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đầu tư và phát triển.
Thứ hai, đầu công góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo, giảm bất bình đẳng
các bất công trong hội thông qua các chương trình, dự án kinh tế hỗ trợ các vùng khó khăn,
vùng sâu vùng xa,… từ đó nâng cao và ổn định đời sống của người dân.
Thứ ba, đầu công góp phần đảm bảo ổn định và tăng cường quốc phòng, an ninh. Các công
trình, dự án an ninh quốc phòng là cơ sở quan trọng của đất nước để bảo vệ tổ quốc, giữ vững độc
lập, chủ quyền quốc gia.
Nói tóm lại, đầu công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước vai trò quan trọng với sự tăng
trưởng những mặt của nền kinh tế tài chính đời sống hội, giúp củng cố bảo mật an ninh quốc
phòng và một công cụ góp thêm phần điều tiết kinh tế tài chính, bảo vệ không thay đổi kinh tế
tài chính vĩ mô. Nó mang tính khuynh hướng, dẫn dắt và tương hỗ tăng trưởng cho hàng loạt nền
kinh tế tài chính quốc dân.
lOMoARcPSD| 58933639
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng
Năng lực của quan nhà nước: Năng lực của quan nhà nước (cơ quan quản đầu
công) là yếu tố quan trọng mang tính quyết định đối với sự thành công của dự án đầu tư công. Để
dự án đạt được kết quả như mong đợi các quan thực hiện đầu công quan quản
đầu công cần phải phối hợp một cách hiệu quả, đảm bảo nguồn nhân lực về số lượng chất
lượng. Đặc biệt, những người phụ trách chính trong dự án phải đảm bảo họ những người
năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu của dự án.
Kinh phí: Vấn đề kinh phí một nhân tố không thể thiếu trong quá trình thực hiện các dự
án đầu tư công bởi đầu tư công chủ yếu là các hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản quy mô lớn. Do
đó, trước khi tiến hành thực hiện hoạt động đầu tư công cần phải lên kế hoạch chuẩn bị đảm bảo
đáp ứng đầy đủ kinh phí một cách chặt chẽ. Nguồn kinh phí phục vụ cho các hoạt động đầu
công chủ yếu đến từ ngân sách nhà nước. Tn thực tế, nguồn ngân sách nhà nước cần phải chi
đồng thời cho nhiều dự án khác nhau, nhiều khoản chi khác nhau; do đó việc bảo đảm đủ kinh phí
cho hoạt động đầu tư diễn ra đúng tiến độ là vô cùng quan trọng.
Môi trường pháp lý: Mọi hoạt động kinh tế nói chung hoạt động đầu công nói riêng
đều chịu tác động của quy luật kinh tế thị trường cần tuân thủ luật pháp hoạt động trong
khuôn khổ luật pháp. Do vậy, hệ thống pháp luật hiện hành của Nhà nước các quy định riêng
của từng ngành, từng địa phương,… chuẩn mực pháp khung pháp trong quá trình
quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Hệ thống pháp luật càng hoàn thiện sẽ tạo
hành lang pháp lý rõ ràng, đầy đủ sẽ tạo điều kiện cho quá trình quản lý đầu tư công.
Tổ chức: Công tác quản đầu tư của địa phương, đơn vị cùng trình độ quản lý và sử dụng
vốn của cán bộ quản lý đầu tư và thực hiện đầu tư tại địa phương. Năng lực của cơ quan nhà nước
yếu tố quyết định đến nh hiệu quả quản đầu công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước
hiệu quả đạt được của dự án.
Bối cảnh thực tế: Quá trình quản đầu công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước phụ thuộc
vào các nhân tố khách quan như: điều kiện tự nhiên, lịch sử, kinh tế, chính trị, trình độ xã hội, sự
phát triển của khoa học công nghệ… Ngoài ra, quá trình quản n chịu ảnh hưởng không nhỏ
bởi các yếu tố không lường trước được như thiên tai, rủi ro hệ từ biến động kinh tế thế giới,…Các
nhân tố này thể xảy ra đối với bất kỳ một địa phương nào. Do đó, cần tính toán, lường trước
các rủi ro để giảm thiệt hại xảy ra trong quá trình thực hiện.
Công luận và thái độ của các nhóm liên quan: Sự ủng hộ hay phản đối của công luận
tác động không nhỏ đến việc thực hiện dự án. Các dự án công bị người dân phản đối ngay từ đầu
sẽ gặp nhiều khó khăn. Mỗi dự án được thực hiện sẽ mang lại lợi ích và bất lợi cho các nhóm đối
tượng khác nhau nên sẽ nhận được sự ủng hộ hoặc phản đối của các nhóm đối tượng liên quan.
III. Xu hướng đầu tư công trên thế giới và Việt Nam
1. Trên thế giới
1.1. Trung Quốc:
Đầu tư công phải duy trì quy mô hợp lý: Hiện nay, thị trường vốn của Trung Quốc có
trình độ phát triển thấp, khả năng tài trợ dựa trên thị trường còn hạn chế đầu vào xây dựng
cơ sở hạ tầng như năng lượng và giao thông rõ ràng là không đủ, điều này làm gia tăng những hạn
chế mất cân đối cơ cấu trong phát triển kinh tế. Đồng thời, nền kinh tế quốc doanh của Trung
lOMoARcPSD| 58933639
Quốc luôn chiếm vị trí thống trị trong tổng thể kinh tế Chính phủ nhiều trách nhiệm
hơn trong việc điều tiết kinh tế. Điều này xác định rằng, nền tài chính của Trung Quốc phải chịu
nhiều trách nhiệm chi tiêu hơn trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Đánh giá từ
hiện tại và một thời gian dài trong tương lai của Trung Quốc, Chính phủ cũng chịu trách nhiệm về
các nhiệm vụ chiến lược như xây dựng sở hạ tầng, tái cấu tối ưu hóa nền kinh tế, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế phối hợp giữa các khu vực thúc đẩy quá trình hiện đại hóa. Do đó, trong
dưới tiền đề xác định hợp lý phạm vi đầu tư công và điều chỉnh, tối ưu hóa cơ cấu chi đầu tư công,
đầu tư công của Chính phủ cần tiếp tục duy trì ở quy mô đáng kể. Qua mô tả thống kê về tổng vốn
đầu tư công, thể thấy quy đầu công của Trung Quốc đang xu hướng tăng dần, bất kể
là về mức độ hay tốc độ.
Thực hiện các biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả đầu tư công: Khởi động nguồn vốn
tư nhân tham gia vào lĩnh vực đầu tư công. Hiện nay, nguồn vốn cho các dự án đầu tư công và xây
dựng Trung Quốc chủ yếu trích lập trong ngân sách tài khóa, vốn tự huy động từ các doanh
nghiệp nhà nước và vốn vay ngân hàng thương mại. Các kênh tài trợ khác tương đối đơn giản, chủ
yếu từ phát hành trái phiếu nhà nước thông qua hình thức hợp tác cổ phần…chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển của đầu công quốc gia. Tác động lấn át của đầu công đối với đầu nhân
không đáng kể, nhưng vốn công làm tăng tỷ suất sinh lợi của khu vực nhân, tức việc mở
rộng đầu tư công của Chính phủ, thể hiện chính sách tài khóa chủ động, đã mang lại “hiệu ứng thu
hút” cho đầu tư tư nhân. Như vậy, có thể kết luận rằng, những thay đổi về nhu cầu đầu tư và trọng
tâm của các chính sách tài khóa chủ động phải được chuyển từ mở rộng đầu công của Chính
phủ, sang mở rộng hơn nữa đầu nhân. Bên cạnh đó, đầu nhân nên được sử dụng như
một động lực mới cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo trong việc kích thích tổng cầu xã hội.
1.2. Hàn Quốc:
Chính phủ Hàn Quốc đã nỗ lực nâng cao hiệu quả đầu tư công bằng cách thực hiện một hệ
thống quản đầu công thống nhất, bao gồm quy trình đánh giá trước, trong sau khi thực
hiện dự án. Đặc điểm chính của kế hoạch là tìm cách tiếp quản những nghiên cứu khả thi hiện
của các bộ chủ quản kể từ thập kỷ 1970, cụ thể như việc chuyển giao sở hữu cho các cơ quan ngân
sách. Đây các khái niệm được đề cập cụ thể tại báo cáo nghiên cứu khả thi bộ về hệ thống
đánh giá đầu tư. Thông qua báo cáo đó, nhóm đặc trách tiến hành triển khai hệ thống đánh giá đầu
tư trước khi thực hiện dự án; đánh giá tính khả thi tổng thể của dự án đầu tư công quy mô lớn hơn
từ quan điểm của nền kinh tế quốc gia và giúp Chính phủ thiết kế được một dự án cụ thể.
Hệ thống đánh giá đầu tư được cấp vốn bởi Trung tâm Quản lý đầu kết cấu hạ tầng công
và tư - Đơn vị trực thuộc Viện Phát triển Hàn Quốc. Bằng cách này, Chính phủ Hàn Quốc đã tăng
cường hệ thống đánh giá trước khi triển khai các dự án đầu tư công.
1.3. Nhật Bản:
Với Nhật Bản, chính sách tài khóa mở rộng của Chính phủ đã giúp đất nước này quản lý
đầu công hiệu quả bằng cam kết tăng nhu cầu trong nước nhằm hạn chế thặng thương mại
với Mỹ và chủ động triển khai thực hiện kế hoạch về đầu tư công. Để hoàn thành mục tiêu đặt ra,
Chính phủ Nhật Bản đã triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó tập trung quản
chặt chẽ ngân sách Trung ương và địa phương. Kết quả là đến năm 2015, tổng thâm hụt ngân sách
của Chính phủ cấp Trung ương địa phương được cắt giảm một nửa so với năm 2010 dự
lOMoARcPSD| 58933639
kiến chuyển sang thặng ngân sách vào năm 2020. Bên cạnh đó, Chiến lược này cũng đề ra tỷ
lệ nợ đến năm 2021 phải giảm so với GDP. Đây định hướng lớn nhằm tạo sự chuyển biến
cho hoạt động đầu ng Nhật Bản, tạo thêm lợi ích kinh tế trong dài hạn. Mặt khác, các
quan chức năng Nhật Bản sử dụng nhiều phương pháp phân tích chi phí - lợi ích để thẩm định hiệu
quả của các dự án đầu tư công.
Ngoài ra, các cơ quan chức năng của Nhật Bản cũng đã công khai phương pháp thẩm định
các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Chẳng hạn, đối với các dự án đường bộ/đường nội đô, Bộ Đất
đai, Hạ tầng và Giao thông Nhật Bản trước đây đã thực hiện các phương pháp thẩm định khác nhau
không công bố chi tiết về các phương pháp. Theo đó, phương pháp thẩm định dự án đầu tư công
cũng được ban hành thống nhất. Điều này giúp bảo đảm lựa chọn được các dự án tốt hơn, nhất là
trong bối cảnh nguồn lực đầu công hạn chế các dự án hạ tầng thường quy lớn. Đặc
biệt, để đảm bảo tính minh bạch, Nhật Bản đã chuẩn hóa và công khai quy trình phương pháp
thẩm định, với việc ban hành những hướng dẫn chi tiết về việc thẩm định dự án đầu tư công theo
từng lĩnh vực cụ thể và thống nhất. Điều này giúp bảo đảm lựa chọn được các dự án tốt hơn, nhất
là trong bối cảnh nguồn lực đầu tư công hạn chế và các dự án hạ tầng thường có quy mô lớn.
2. Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đầu tư công trong vài thập kỷ qua luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng đầutoàn xã hội và tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào đầu tư công trong
một thời gian tương đối dài. Do vậy, vấn đề tiếp tục hoàn thiện chính sách nâng cao hiệu quả đầu
tư công là việc làm cần thiết trong bối cảnh mới.
Năm 2022, Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng kinh tế khả quan, giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô, kiểm soát hiệu quả lạm phát nhờ sự phục hồi chi tiêu của người tiêu dùng, xuất
khẩu tăng mạnh và hoạt động du lịch quốc tế dần trở lại. Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công
chỉ đạt 60% tổng số vốn tính đến tháng 11/2022. Thúc đẩy tiến độ đầu tư công cùng với nâng cao
chất lượng đầu tư công cần phải được xem là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. IV. Tổng nguồn vốn và
tình hình phân bổ vốn
1. Tổng nguồn vốn cả nước tính đến năm 2023
Báo cáo từ Bộ Tài chính cho biết, tổng nguồn vốn kế hoạch đầu công từ nguồn ngân sách nhà
nước (NSNN) năm 2023 756.111,862 tỷ đồng (không bao gồm 6.753 tỷ đồng dự toán chi đầu
phát triển đã giao tại Nghị quyết số 70/2022/QH15 ngày 18/11/2022 về phân bổ ngân sách trung
ương năm 2023 hỗ trợ cho Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển nông thôn Việt Nam thực hiện
các nhiệm vụ nhà nước giao). Trong đó, vốn trong nước là 727.111,86 tỷ đồng, vốn nước ngoài là
29.000 tỷ đồng. 2. Tình hình phân bổ vốn chung
Theo báo cáo từ Bộ Tài chính, đến ngày 31/1/2023, tổng số vốn đầu công thuộc nguồn
NSNN năm 2023 đã phân bổ là 638.613,081 tỷ đồng, đạt 90,32% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính
phủ đã giao (707.044,198 tỷ đồng). Nếu không tính số kế hoạch vốn cân đối ngân sách địa phương
mà các địa phương giao tăng là 36.180,476 tỷ đồng, thì tổng số vốn đã phân bổ là 602.432,605 tỷ
đồng, đạt 85,20% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ đã giao.
Tổng số vốn chưa phân bổ chi tiết 104.611,593 tỷ đồng, chiếm 14,80% kế hoạch Thủ
tướng Chính phủ giao. Cụ thể, số vốn chưa phân bổ của các bộ, cơ quan trung ương là 22.751,426
tỷ đồng, chiếm 11,71% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (vốn trong nước 21.682,581 tỷ
lOMoARcPSD| 58933639
đồng, vốn nước ngoài 1.068,845 tỷ đồng). Số vốn chưa phân bổ tại các địa phương 81.860,167
tỷ đồng, chiếm 15,96% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (vốn trong nước 79.951,771 tỷ
đồng, vốn nước ngoài là 1.908,396 tỷ đồng).
Báo cáo của Bộ Tài chính cũng nêu rõ, đối với nguồn vốn ngân sách trung ương (không
bao gồm vốn Chương trình MTQG), trong số bộ, quan trung ương địa phương đã gửi báo
cáo phân bổ kế hoạch vốn năm 2023, 14/33 bộ, quan trung ương 40/63 tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương chưa phân bổ hết kế hoạch vốn ngân sách trung ương đã được Thủ tướng
Chính phủ giao. Đáng chú ý, một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương có tỷ lệ vốn chưa phân
bổ khá cao như: Hải Phòng (100%), Ninh Bình (100%), Văn phòng Trung ương Đảng (80,2%).
Nguyên nhân vốn trong nước chưa phân bổ chủ yếu là do các dự án chưa đảm bảo thủ tục
đầu nên chưa đủ điều kiện để giao chi tiết kế hoạch vốn (trong đó chủ yếu các dự án thuộc
Chương trình phục hồi phát triển kinh tế hội); vốn nước ngoài chưa phân bổ do chưa hoàn
thành thủ tục hiệp định vay, chưa được thỏa thuận vay với nhà tài trợ hoặc đang lấy ý kiến
nhà tài trợ để hoàn thiện thủ tục sử dụng vốn dư.
3. Phân bổ vốn tại Hà Nội
Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, năm 2023, tổng nguồn vốn đầu tư công Trung ương
giao cho thành phố Hà Nội là 46.956 tỷ đồng. Đến nay, Hà Nội đã phân bổ toàn bộ kế hoạch vốn
Trung ương giao. Trong đó, ngân sách cấp thành phố hơn 26.000 tỷ đồng; ngân sách cấp huyện
gần 20.000 tỷ đồng; chi đầu trở lại cho các quận, huyện, thịtừ tiền thuê đất trả tiền một lần
là 900 tỷ đồng. Tính đến hết ngày 31-1-2023, Hà Nội lũy kế giải ngân kế hoạch vốn năm 2023 đạt
hơn 2.600 tỷ đồng, đạt 5,5% kế hoạch (cao hơn cùng kỳ năm 2022 là 443,9 tỷ đồng, tương đương
20%). Những tháng đầu năm 2023, Hà Nội tiếp tục tập trung chỉ đạo triển khai nhiều dự án quan
trọng, đặc biệt dự án đầu xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô; tiếp tục tập trung đầu
xây dựng, cải tạo trường học công lập, nâng cấp hệ thống y tế tu bổ, tôn tạo di tích. Năm
2022, Hà Nội đã thực hiện kế hoạch đầu công 51.583 tỷ đồng, kết quả giải ngân kế hoạch đầu
tư công năm 2022 đã có nhiều tiến triển tích cực so với năm 2021.
V. Một số dự án lớn, trọng điểm
1. Đã hoàn thành
a. Dự án Đường sắt đô thị Hà Nội đoạn Cát Linh - Hà Đông
Bắt đầu từ năm 2020 khi dịch covid bùng nổ, công việc xây dựng, hoàn thiện các dự án đã gặp
rất nhiều khó khăn. Nhưng để nói đến dự án lớn, trọng điểm đã hoàn thành trong giai đoạn 2020-
2023 thì không thể không kể đến dự án đường sắt trên cao.
Đường sắt đô thị Nội (tiếng Anh: Hanoi Metro) là tên gọi của hệ thống đường sắt đô thị
Nội. Hệ thống được vận hành bởi Công ty Đường sắt Nội (Hanoi Metro Company HMC),
bao gồm 8 tuyến đường sắt đô thị với tổng chiều dài khoảng 318 km, và 3 tuyến tàu điện một ray.
Đây là hệ thống đường sắt đô thị trên cao đầu tiên tại Việt Nam.
Hai tuyến đường sắt đầu tiên được xây dựng tuyến số 2A, đoạn Cát Linh Đông,
tuyến số 3, đoạn Nhổn Ga Hà Nội. Tính tới tháng 11 năm 2021, Tuyến số 2A sau 8 lần điều chỉnh
tiến độ dự án, đã chính thức đi vào khai thác thương mại vào ngày 6 tháng 11 năm 2021. Trong
khi đó, Tuyến số 3 đoạn Nhổn – Ga Nội dự kiến sẽ khai thác thương mại đoạn tuyến trên cao
lOMoARcPSD| 58933639
vào cuối năm 2022 và toàn tuyến năm 2024-2025. Quá trình xây dựng hai tuyến đường sắt gặp
nhiều khó khăn về tài chính, vỡ tiến độ cũng như tai nạn xây dựng.
Tuyến số 2A có chiều dài 13,1 km, được khởi công xây dựng vào ngày 10 tháng 10 năm 2011
và do Bộ Giao thông Vận tải làm chủ đầu tư. Tuyến có hướng đi Cát Linh Hà Đông, với 12 nhà
ga thuộc ba quận Đống Đa, Thanh Xuân Đông. Tuyến đường sắt được đầu xây dựng bằng
vốn vay ODA của Trung Quốc, ký năm 2008.Dự án có tổng mức đầu tư 552,86 triệu USD (8.770
tỉ đồng) vào năm 2008 trong đó vốn vay ưu đãi của Trung Quốc 419 triệu USD.Tổng mức đầu
sau điều chỉnh tính đến năm 2019 868,04 triệu USD (18.001,6 tỷ VND, tăng 9.231,6 tỷ VND),
trong đó, phần vốn vay Trung Quốc là 669,62 triệu USD (hơn 13.800 tỷ VND).
Ý tưởng thực hiện tuyến đường sắt đô thị Cát Linh Đông xuất hiện từ năm 2003, được kỳ
vọng sẽ cầu nối liên kết vùng để giải quyết áp lực giao thông áp lực dân số giữa thành phố
Đông thuộc tỉnh Tây thành phố Hà Nội.Tháng 7 năm 2008, Thtướng chính phủ phê
duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải Thđô Nội đến năm 2020, trong đó tuyến
đường sắt đô thị Hà Nội – Hà Đông. Dù được khởi công xây dựng vào tháng 10 năm 2011, những
hạng mục đầu tiên của dự án tại hồ Đống Đa và phố Hoàng Cầu đã được tổ chức thi công trước từ
tháng 4 năm 2010 nhằm đồng bộ với hạng mục kè hồ, cải tạo thoát nước của thành phố.
Ngày 20 tháng 10 năm 2015, Ban Quản dự án đường sắt đô thị Nội đã cho trưng bày
mẫu tàu điện Cát Linh – Hà Đông tại Triển lãm Giảng Võ. Theo đó, tuyến số 2A sẽ 13 đoàn tàu,
mỗi đoàn tàu có 4 toa tàu. Quá trình xây dựng dự án bị chậm tiến độ nhiều lần và gây ra nhiều tai
nạn lao động ảnh hưởng tới người dân. Từ ngày 6 tháng 11 năm 2021, tuyến đường sắt đô thị này
chính thức đưa vào vận hành và khai thác.
Tuy nhiên, đến nay Hanoi Metro vẫn vận hành với đơn giá tạm, chưa chính thức được TP
Nội đặt hàng. Theo báo cáo tài chính đã kiểm toán 2021 vừa được công bố, doanh thu của Hanoi
Metro khi vận hành chính thức đoàn tàu chạy tuyến đường sắt Cát Linh - Đông đạt hơn 5 tỷ
đồng. Tuy nhiên, chi phí vận hành, quản khiến doanh nghiệp lỗ ròng 64 tỷ đồng. Vào năm 2020,
công ty báo lỗ 23 tỷ đồng khi chưa vận hành. Tính lũy kế, doanh nghiệp đang lỗ tổng cộng 160 tỷ
đồng. Và đây chính là một vấn đề đáng lo ngại.
b. Dự án Vành đai 2 đoạn từ cầu Vĩnh Tuy - Ngã Tư Sở
Tuyến đường dài 5.0 km với mỗi chiều xe chạy gồm 2 làn xe giới rộng 3,75m dải an toàn
trong rộng 0,5m, dải an toàn ngoài 0,67m. Đối với các nhánh lên/xuống bề rộng 7m, bố trí 1
làn đường xe chạy là 6m, dải an toàn hai bên 0,5m , bắt đầu từ nút giao Ngã Tư Sở tại phường
Ngã Sở, quận Đống Đa và kết thúc tại phía nam cầu Vĩnh Tuy trước cửa khu đô thị Times City
tại phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng. Công trình gồm cầu chính rộng 19m với 4 làn xe và các
cầu dẫn rộng 7 m. Các nhánh cầu dẫn kết nối với các tuyến đường bên dưới tại các vị trí như phía
Nam Vĩnh Tuy, Ngã Tư Vọng, Ngã Tư Sở. Đơn vị thiết kế đã tính toán cao độ mặt cầu của tuyến
đường này cách đường bên dưới khoảng 10m, đảm bảo tĩnh không của đường bên dưới tối thiểu
4,75m.
Dự án tổng mức đầu tư hơn 4.700 tỷ đồng theo hình thức BT, trong đó chi phí chuẩn bị
đầu từ ngân sách thành phố, còn chi phí thực hiện dự án sẽ huy động từ nhà đầu tư. Trước đó,
Hà Nội đã có quyết định chỉ định Tập đoàn Vingroup là nhà đầu cho dự án này. Từ năm 2010,
Công ty CP Vincom (nay Tập đoàn Vingroup) đã kiến nghị Thủ tướng UBND Nội xin
lOMoARcPSD| 58933639
được là chủ đầu tư tuyến đường trên cao vành đai 2. Công trình khởi công xây dựng vào ngày 22
tháng 4 năm 2018. Đoạn trên cao Ngã Tư Sở Ngã Tư Vọng được thông xe kỹ thuật vào ngày 9
tháng 11 năm 2022 và toàn tuyến được thông xe vào ngày 11 tháng 1 năm 2023.
Tính đến cuối năm 2019, mặc mới đang trong giai đoạn thi công, giải phóng mặt bằng
nhưng dọc đường vành đai 2, đoạn từ cầu Vĩnh Tuy đến Ngã S(xung quanh khu vực Cầu
Mai Động) đã và đang mọc lên hàng loạt cao ốc, chung cư dày đặc hai bên đường, bổ sung thêm
một lượng cư dân và phương tiện rất lớn trong tương lai cho khu vực vốnmật độ dân cư cao,
hiện hữu nguy quá tải về hạ tầng, ùn tắc giao thông nghiêm trọng. c. Dự án kết nối đường Vành
đai 3 với cao tốc Hà Nội - Hải Phòng
Dự án đầu tư xây dựng hoàn chỉnh nút giao đường Vành đai 3 với đường cao tốc Hà Nội - Hải
Phòng có chiều dài 1,5 km kết nối với đường Cổ Linh, tổng vốn đầu tư là hơn 400 tỷ đồng, được
khởi công vào ngày 6/1/2020, dài gần 1,5 km, chiều rộng mặt đường từ 33-51 m.
Theo Ban quản lý dự án, công trình vượt tiến độ 2 tháng, bảo đảm chất lượng, tuyệt đối an toàn
lao động, an toàn giao thông và vệ sinh môi trường, đồng thời cũng thực hiện giải ngân đạt 100%
vốn kế hoạch đã giao.
Việc khánh thành công trình giúp phát huy tối đa hiệu quả của đường vành đai 3, cao tốc Hà
Nội-Hải Phòng, giảm thiểu ùn tắc giao thông, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô. d.
Hầm chui Lê Văn Lương
8h ngày 5/10, hầm chui Lê Văn Lương với vốn đầu tư 700 tỷ đồng bắt đầu thông xe, góp phần
giảm ùn tắc tại nút giao với vành đai 3.
Hầm có kết cấu bê tông cốt thép, xây dựng trục thông theo hướng đường Văn Lương. Tổng
chiều dài hầm và gờ chắn hai đầu là 475 m, trong đó hầm kín dài 95m, hầm hở gờ chắn dẫn vào
dài 380 m (mỗi bên 190 m). Mặt cắt ngang gồm hai hầm riêng biệt, mỗi hầm rộng 7,75 m, gồm
hai làn xe giới, mỗi làn rộng 3,5 m. Phần hầm hở mỗi chiều rộng 7,75m, phân cách hai chiều
bằng dải phân cách rộng một mét. Đơn vị thi công đã xén mở rộng đường Văn Lương với
chiều dài trên 300 m; xén hè mở rộng đường Tố Hữu khoảng 400 m.
Việc xây dựng hầm chui đã góp phần cải thiện đáng kể tình trạng ách tách giao thông tại nút
giao Lê Văn Lương- Tố Hữu- Vanh đai 3. Hiện nay cảnh hàng dài xe cộ dừng chờ trên đường Tố
Hữu để băng qua Vành đai 3 đã không còn, thay vào đó người dân có thể đi thẳng về phía Lê Văn
Lương thông qua hầm chui.
2. Đang thực hiện
Trong năm 2022, thành phố Nội đã chỉ đạo, đôn đốc các nhà thầu, các đơn vị thi công tập
trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình, dự án trọng điểm , phát triển hạ tầng
góp phần thúc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư. Trong đó có 3 dự án lớn đang trong quá trình hoàn
thiện là dự án tuyến đường sắt Hà Nội, đoạn Nhổn - Ga Hà Nội dự án cầu Vĩnh Tuy giai đoạn
2 và dự án hầm chui Vành đai 2,5 với đường Giải Phóng.
Thứ nhất, dự án tuyến đường sắt đô thị thành phố Hà Nôi, đoạn Nhổn - Ga Hà Nộ i
chiều  dài 12,5 km, gồm 8,5 km đường trên cao và 4 km đi ngầm với tổng mức đầu tư 32,9 nghìn
lOMoARcPSD| 58933639
tỷ đồng. Đến thời điểm hiện tại, tiến độ tổng thể chung của dự án đạt khoảng 75,4%. Trong đó,
tiến độ thi công đoạn trên cao đạt 97,2%, đoạn ngầm đạt 33%.
Ngày 5/12/2022 vừa qua, đoạn trên cao 8,5 km từ Nhổn - Cầu Giấy được thành phố cùng chủ
đầu kiểm tra, đánh giá chất lượng, chạy thử tích hợp toàn tuyến trong môi trường hạn chế, dự
kiến đưa vào sử dụng phục vụ người dân Thủ đô đầu năm 2023, đồng thời tiếp tục thực hiện đoạn
đi ngầm theo kế hoạch.
Thứ hai, dự án cầu Vĩnh Tuy (giai đoạn 2) được khởi công tháng 1/2021 với tổng mức đầu
hơn 2,5 nghìn tỷ đồng. Cầu tổng chiều dài đường dẫn hơn 3,5 km, mặt cắt ngang 19,3 m;
điểm đầu giao với đường Nguyễn Khoái và phố Minh Khai, điểm cuối giao với đường Long Biên
- Thạch Bàn, đường Cổ Linh.
Đến nay, dự án giải ngân được 62,5% kế hoạch vốn, dự án đang tập trung đẩy nhanh tiến độ
xây dựng các trụ cầu giữa lòng sông. Dự kiến thời gian hoàn thành toàn dự án vào tháng 9/2023.
Thứ ba, dự án hầm chui Vành đai 2,5 với đường Giải Phóng: Khởi công ngày 6/10/2022, điểm
đầu nối với dự án vành đai 2,5 đoạn Đầm Hồng - quốc lộ 1A, điểm cuối nối với đường Kim Đồng,
quận Hoàng Mai.
Với quy 4 làn xe, tổng chiều dài 890 m, trong đó 460m đường hầm 430m đường dẫn.
Đoạn qua hầm mỗi chiều 2 làn xe rộng 3,5m/làn, đoạn ngoài hầm mỗi chiều 3 làn xe rộng 3,5m/làn.
Dự án có tổng mức đầu tư hơn 778 tỷ đồng, dự kiến hoàn thành sau 3 năm.
Tuy nhiên theo báo cáo vào cuối tháng 12 năm 2022 thì sau 2 tháng khởi công, dự án vẫn chưa
có hoạt động xây dựng nào. Dự án do liên danh Công ty CP Tập đoàn Cienco 4 - Công ty CP Đầu
tư và Xây dựng công trình 3 thực hiện. Tư vấn giám sát là liên danh Công ty CP Tư vấn xây dựng
công trình giao thông 2 và Công ty CP Tư vấn đầu tư và Xây dựng đường sắt. Tuy nhiên, sau hơn
2 tháng khởi công, hiện dự án này chưa có hoạt động xây dựng. Trên công trường dự án cũng chỉ
có một chiếc máy ép cọc.
3. Tương lai
a. Dự án đường Vành đai 4
Đường Vành đai 4 Nội (ký hiệu toàn tuyến ) dự án xây dựng tuyến đường bộ
vành đai phục vụ giao thông của Vùng thủ đô Hà Nội.
Theo thiết kế, đường nh đai 4 Nội sẽ gồm 6 làn xe cao tốc đường gom đô thị. Mặt
đường rộng từ 90 m đến 135 m. Chiều dài toàn tuyến là 136,6 km; đi qua 16 quận, huyện, thị xã,
thành phố gồm: Phúc Yên (Vĩnh Phúc), Linh, Đan Phượng, Hoài Đức, Hà Đông, Thanh Oai,
Thường Tín, Sóc Sơn (Hà Nội), Văn Giang, Yên Mỹ, Văn Lâm, Khoái Châu (Hưng Yên); Từ Sơn,
Tiên Du, Yên Phong, Thuận Thành (Bắc Ninh). Đường vành đai 4 sẽ vượt các sông Hồng, sông
Đuống. Chi phí dự kiến cho dự án là 65 nghìn tỷ đồng, được đầu theo hình thức BOT (Build-
Operate-Transfer). Thời gian xây dựng đường vành đai 4 sẽ bắt đầu từ khoảng năm 2021, hoàn
thành trước 2025.
Đầu xây dựng tuyến đường Vành đai 4 - Vùng thủ đô Nội, vành đai liên vùng kinh tế
trọng điểm Vùng Thủ đô Hà Nội, kết nối Thủ đô Hà Nội với tỉnh Hưng Yên, tỉnh Bắc Ninh và các
địa phương khác trong vùng, phát huy hiệu quả đầu tư đối với các dự án đã và đang được đầu tư,
tạo không gian phát triển mới giải quyết các vấn đề tồn tại của Thủ đô Nội, khai thác tiềm
lOMoARcPSD| 58933639
năng sử dụng đất, xây dựng hệ thống đô thị bền vững, hiện đại; góp phần thực hiện thắng lợi các
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng.
Hiện nay, Sở kế hoạch đầu Nội đã đưa ra thông báo khảo sát sự quan tâm của các nhà
đầu tư đối với Dự án thành phần 3: Đầu xây dựng hệ thống đường cao tốc theo phương thức đối
tác công tư thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4.
Đầu xây dựng đường cao tốc với tổng chiều dài 112,8km (Hà Nội: 58.2 Km; Hưng Yên:
19,3Km; Bắc Ninh: 25,6 Km tuyến nối 9,7km). Mặt cắt ngang trên tuyến cao tốc đảm bảo 04
làn xe (mặt cắt ngang 17,0m, bề rộng cầu 17,5m theo chủ trương đầu dự án tại Nghị quyết số
56/2022/QH15 ngày 16/6/2022 của Quốc hội) 08 nút giao liên thông hoàn chỉnh giao cắt với
đường hiện trạng (nút giao cao tốc Nội- Lào Cai; nút giao trục Mê Linh; nút giao trục đại lộ
Thăng Long; nút giao QL6; nút giao Pháp Vân- Cầu Giẽ; nút giao cao tốc Nội Hải Phòng;
nút giao QL38; nút giao cao tốc Nội Bài Bắc Ninh) cùng với các lối ra vào đường cao tốc bảo
đảm khai thác an toàn, hiệu quả. Tổng mức đầu 56.536 tỷ đồng; trong đó, trên tuyến có các
cầu vượt sông chính, bao gồm: (i) Cầu Hồng (cách cầu Thăng Long về thượng lưu 11,5km):
tổng chiều dài khoảng 5.015m, kết cấu cầu BTCT dự ứng lực, nhịp lớn nhất 135m, Bn = 17,5m;
(ii) Cầu Mễ Sở (cách cầu Thanh Trì về hạ lưu khoảng 16km): tổng chiều dài khoảng 2.647m, kết
cấu cầu BTCT dự ứng lực, nhịp lớn nhất 135m, Bn = 17,5m. (iii) Cầu Hoài Thượng (cách cầu
Đuống về hạ lưu 32km): tổng chiều dài khoảng 990m, kết cấu cầu BTCT dự ứng lực, nhịp lớn nhất
120m, Bn = 17,5m.
Về thời gian thực hiện dự án. Tổ chức lập, thẩm định phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi:
Hoàn thành vào tháng 01/2023. Lựa chọn nhà đầu tư: Hoàn thành vào tháng 6/2023. Khởi công
xây dựng: Tháng 6/2023. Dự định bản hoàn thành năm 2026 và đưao khai thác từ năm 2027.
Dự án dự kiến với mức vốn ngân sách nhà nước 27.089 tỷ đồng, trong đó 18.313 tỷ
đồng từ ngân sách trung ương và 8.776 tỷ đồng. Ngoài ra vốn nhà đầu tư thu xếp ở mức 29.447
tỷ đồng.
b. Đường Vành đai 5
Đường Vành đai 5 Nội quy hoạch đi qua địa giới hành chính của 36 quận, huyện, thành phố
trực thuộc 8 tỉnh, thành: Nội, Hòa Bình, Nam, Thái Bình, Hải Dương, Bắc Giang, Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc.
Trong đó, đoạn qua thành phố Hà Nội dài khoảng 48km; qua tỉnh Hòa Bình 35,4km; qua tỉnh
Nam 35,3km; qua tỉnh Thái Bình 28,5 km; qua tỉnh Hải Dương 52,7km; qua tỉnh Bắc Giang
51,3km; qua tỉnh Thái Nguyên 28,9 km, qua địa phận tỉnh Vĩnh Phúc 51,5 km.
Tổng chiều dài toàn tuyến đường Vành đai 5 khoảng 331,5km (không bao gồm khoảng 41 km
đi trùng các đường cao tốc Nội Bài - Hạ Long, Nội - Thái Nguyên, Nội Bài - Lào Cai quốc
lộ 3).
Đường Vành đai 5 chính tuyến có đường gom, đường song hành, quy mô 4 ÷ 6 làn xe, bề rộng
nền đường tối thiểu 25,5 ÷ 33,0 m cho các đoạn Sơn Tây - Phủ (từ đường Hồ Chí Minh đến
cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình) và Phủ Lý - Bắc Giang (từ cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình đến cao tốc
Nội - Lạng Sơn) thuộc địa phận thành phố Hà Nội, các tỉnh Hòa Bình, Hà Nam, Thái Bình, Hải
Dương Bắc Giang; tiêu chuẩn đường ô cấp II, quy 4 ÷ 6 làn xe, bề rộng nền đường tối
lOMoARcPSD| 58933639
thiểu 22,5 ÷ 32,5m cho các đoạn Bắc Giang - Thái Nguyên (từ đường cao tốc Nội Lạng Sơn
đến cao tốc Nội - Thái Nguyên) đoạn Thái Nguyên - Vĩnh Phúc - Sơn Tây (từ đường cao
tốc Nội - Thái Nguyên đến đường Hồ Chí Minh) thuộc địa phận các tỉnh Bắc Giang, Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc thành phố Nội (đoạn qua thị Sơn Tây). TVĩnh Phúc sang Thái
Nguyên, đường vành đai 5 sẽ đi qua hầm đường bộ Tam Đảo. c. Khác:
Ngoài 2 dự án xây dựng đường vành đai kể trên, trong tương lai Nội sẽ còn tiếp tục thực
hiện các dự án còn lại của hệ thống đường sắt đô thị Hà Nội bao gồm 8 tuyến và 3 dự án tàu điện
1 ray. Tuy nhiên loạt dự án này vẫn chỉ mới ở mức tầm nhìn trong tương lai.
VI. Những tồn tại hạn chế của đầu tư công, nguyên nhân, giải pháp
1. Những tồn tại
a. Thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả vì “lợi ích nhóm” trong đầu tư công
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "t
chuyển hóa" trong nội bộ” nêu rõ: “Đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua
sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc”… Phát biểu
tại Hội nghị đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước tổ chức ngày 16-10
vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ ra một số yếu kém trong đầu công,
bởi còn hiện tượng “sân trước, sân sau”, thậm chí “vườn sau” trong doanh nghiệp nhà nước…
nước ta, đầu công được chia thành 3 nhóm, gồm các hoạt động kinh tế, hội hành
chính. Thực tế thời gian qua cho thấy, lĩnh vực đầu công nào cũng phát hiện tham nhũng,
lãng phí mà nguyên nhân chủ yếu là quản lý yếu kém và “lợi ích nhóm”.
Báo cáo Chính phủ ngày 3-7-2019 về công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu năm 2018,
do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thống kê cho thấy, vẫn còn rất nhiều dự án sử dụng vốn nhà nước có vi
phạm, gây thất thoát, lãng phí. Cụ thể, trong năm 2018, 30.521 dự án kết thúc đầu tư đưa vào
khai thác sử dụng, chiếm 54% số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ.
Tuy nhiên, trong số các dự án đó, có 245 dự án có vấn đề về kỹ thuật, không hiệu quả. Những
tỉnh có số dự án thất thoát, lãng phí nhiều nhất là Bắc Giang (196 dự án), Phú Thọ (111 dự án),
Quảng Ngãi (58 dự án)…
Ngày 2-10-2017, tại phiên giải trình trước Thường vụ Quốc hội về tình hình triển khai thực
hiện Luật Đầu công (bản năm 2014) kế hoạch đầu công trung hạn giai đoạn 2016-2020,
đại diện Bộ Kế hoạch Đầu đã công bố 72 dự án với tổng số vốn đầu 42.700 tỷ đồng
dấu hiệu không hiệu quả ở các bộ, ngành, địa phương, trong đó nhiều nhất là ở Bộ Công Thương
với 12 đại dự án thua lỗ hàng chục nghìn tỷ đồng.
Bộ Giao thông - Vận tải cũng nhiều dán đầu công kém hiệu quả, điển hình Dự án
đường sắt đô thị Cát Linh - Đông đội vốn 205,27%, chậm tiến độ 6 năm so với kế hoạch
chưa chốt được thời gian đưa vào sử dụng.
lOMoARcPSD| 58933639
Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn công trình thủy lợi dự tính tưới tiêu 1.000ha, nhưng
làm xong chỉ tưới được cho 500ha... Đây mới chỉ là số thống kê từ 30% dự án trên tổng dự án cần
rà soát.
Thất thoát, lãng phí trong đầu công kéo dài nhiều năm khiến hiệu quả đầu bị hạn chế, làm
thâm hụt ngân sách và tăng nợ công quốc gia. Lo ngại hơn cả là những tiêu cực như tham nhũng,
hối lộ, rút ruột công trình... dẫn đến phá hoại ngầm giá trị của hội, làm mất lòng tin của người
dân đối với Đảng, Nhà nước.
b. Cơ cấu đầu tư công chưa hợp lý
Trong cơ cấu đầu tư phát triển toàn xã hội, vốn đầu tư khu vực nhà nước mặc dù có xu hướng
giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao (trung bình giai đoạn 2010-2018 khoảng 37,8%). Trong một số
ngành như Giáo dục Đào tạo, ngành Y tế, vốn đầu tư nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ quá lớn trong tổng
vốn đầu toàn xã hội. Theo PGS.TS Bùi Tất Thắng (2018), tỷ trọng vốn đầu công năm 2015
trên tổng đầu tư cho lĩnh vực giáo dục đào tạo là 78,7%; y tế: 67,2%; sản xuất và phân phối điện,
khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hòa không khí: 74%; thông tin truyền thông: 63,5%; hoạt
động chuyên môn khoa học công nghệ: 61,2%; nghệ thuật vui chơi và giải trí: 71,7%. Cơ cấu
đầu tư nội bộ ngành, lĩnh vực còn chưa hợp lý (chi nông nghiệp chủ yếu vào hệ thống thủy lợi, chi
giao thông vận tải chủ yếu vào đường bộ...) và chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa chi đầu tư và chi
thường xuyên (đảm bảo trang thiết bị, vận hành, duy tu, bảo dưỡng...). Đầu tư vốn ngân sách nhà
nước vẫn dựa chủ yếu vào nguồn bội chi ngân sách (vay nợ trong nước và nước ngoài) do cân đối
ngân sách gặp khó khăn. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển trên tổng chi ngân sách nhà nước giảm dần
theo mức giảm bội chi ngân sách nhà nước, năm 2015 khoảng 17,4% (so với năm 2011 là 26,4%).
Trong phân bổ vốn đầu phát triển từ Ngân sách Nhà nước, vẫn còn nh trạng giao vốn nhiều
lần chưa đúng quy định, giao vốn cho dự án không có trong danh mục đầu tư công trung hạn, giao
vốn đối ứng ODA khi chưa có quyết định đầu tư 100 tỷ đồng, xác định nguồn vốn ngân sách trung
ương trong tổng mức đầu tư vượt tỷ lệ được hỗ trợ 543 tỷ đồng.. c. Tốc độ giải ngân đầu tư công
còn chậm
lOMoARcPSD| 58933639
Báo cáo của Bộ KH&ĐT tại cuộc họp ngày 30/11/2022 cho biết tổng kế hoạch đầu vốn ngân
sách Nhà nước (NSNN) năm 2022 là trên 580.261 tỷ đồng; số vốn đã được Thủ tướng
Chính phủ giao là 580.064 tỷ đồng.
Theo Bộ Tài chính, ước tỉ lệ giải ngân kế hoạch đầu vốn NSNN đến ngày 31/11
338.319,81 tỷ đồng, đạt 58,33% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, so với mức 63,86% cùng
kỳ năm 2021.
6 bộ, cơ quan Trung ương 14 địa phương có tỉ lệ giải ngân đạt trên 80% kế hoạch Thủ
tướng giao. Tuy nhiên, 34/51 bộ, cơ quan Trung ương 22/63 địa phương tỉ lệ giải ngân đạt
dưới mức trung bình của cả nước (58.33%), trong đó 5 bộ, quan Trung ương tỉ lệ giải
ngân dưới 25% kế hoạch Thủ tướng giao.
Bộ KH&ĐT cho biết, đối với các dự án chuyển tiếp, việc giải ngân chậm do năng lực tổ chức
thực hiện dự án còn yếu, nhất là năng lực cán bộ quản dự án còn hạn chế. Vướng mắc về giải
phóng mặt bằng, giá cả nguyên vật liệu tăng cao dẫn đến nhà thầu thi công chầm chừng. Một số
dự án cho ảnh hưởng biến động tăng giá dẫn đến vượt chi phí dự phòng làm tăng tổng mức đầu tư
phải rà soát lại các hạng mục.
Hầu hết các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương thuộc Tổ công tác số 1 đều có dự án khởi
công mới trong năm 2022. Các dự án đã quyết định đầu đủ điều kiện giao kế hoạch vốn,
nhưng chưa thể triển khai thực hiện, giải ngân vốn do sau khi có quyết định đầu tư, các dự án tiếp
tục thực hiện bước lập, thẩm định, phê duyệt bản vẽ thi công, phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà
thầu mới thể kết được hợp đồng, khởi công công trình, tạm ứng thanh toán vốn. Bộ
KH&ĐT cho biết, thời gian đấu thầu khoảng 4 tháng để lựa chọn đơn vị tư vấn thiết kế bản vẽ thi
công và nhà thầu thi công.
Chính quyền địa phương một số nơi chậm giải phóng mặt bằng, bàn giao đất sạch. Việc điều
chỉnh quy hoạch làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân vốn các dự án của Tòa án nhân
dân Tối cao, Bộ Tư pháp.
Về thể chế, các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương dự họp kiến nghị đối với việc thẩm định
báo cáo nghiên cứu khả thi đầu xây dựng của quan chuyên môn về xây dựng, cần sửa đổi
theo hướng giao cơ quan chuyên môn xây dựng cấp tỉnh thẩm định báo cáo này.
Về thẩm quyền kiểm tra công tác nghiệm thu trong quá trình thi công và khi hoàn thành công
trình, các bộ, quan Trung ương, địa phương đề nghị sửa đổi theo hướng giao quan chuyên
môn xây dựng của địa phương kiểm tra công tác nghiệm thu để tiết kiệm thời gian, đẩy nhanh tiến
độ giải ngân vốn.
Liên quan đến đất san lấp có phải là khoáng sản hay không, cần sửa đổi quy định về khái niệm
"khoáng sản" theo hướng tài nguyên đất hay đất đồi, đất san lấp không phải là khoáng sản; cần có
quy định riêng biệt về trình tự, thủ tục, thành phần hồ cấp phép hoạt động khoáng sản đối với
từng nhóm, loại khoáng sản tổ chức cá nhân được cấp phép phù hợp.
lOMoARcPSD| 58933639
d. Dự án chậm tiến độ
Trong kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí giai đoạn 2016-2021” Đoàn giám sát Quốc hội đã cảnh báo về việc hàng nghìn dự án đầu
tư công chậm tiến độ, xu hướng tăng dần qua các năm. Tổng hợp báo cáo không đầy đủ của các
bộ, ngành, địa phương giai đoạn 2016-2021, số dự án chậm tiến độ như sau: năm 2016 là 1.448 dự
án, năm 2017 1.609 dự án, năm 2018 1.778 dự án, năm 2019 1.878 dự án, năm 2020
1.867 dự án, năm 2021 là 1.962 dự án.
Trong đó, đáng chú ý hầu hết các dự án quan trọng quốc gia, các dự án lớn, trọng điểm đều
chậm tiến độ, điển hình là: Dự án tuyến đường sắt thí điểm Thành phố, đoạn Nhổn-ga Nội;
Tuyến đường sắt đô thị số 2 đoạn Nam Thăng Long-Trần Hưng Đạo; Tuyến đường sắt số 1: Bến
Thành - Suối Tiên; Tuyến đường sắt số 2: Bến Thành - Tham Lương,...
Nhiều dự án triển khai kéo dài, đầu tư không dứt điểm, kém hiệu quả. Ví dụ, tỉnh Bình Dương
có 55 dự án chậm tiến độ; 15 công trình, dự án phải tạm dừng sau khi được cấp thẩm quyền chấp
thuận chủ trương đầu tư; 225 lượt dự án được các cơ quan chức năng thực hiện kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán. Trong đó 109 lượt dự án phát hiện có sai phạm với tổng số tiền thực hiện không phù
hợp được các cơ quan chức năng kiến nghị xử lý là trên 442 tỷ đồng.
Cụ thể, Dự án nhóm B nhưng kéo dài quá 5 năm, nhóm C quá 3 năm. Tỉnh Thanh Hóa dự
án nhóm B kéo dài 13 năm (Dự án đê, biển xã Hải Châu, tỉnh Thanh Hóa); Tỉnh Long An có 17
dự án nhóm B bố trí vốn kéo dài từ 6 đến 17 năm, 15 dự án nhóm C bố trí vốn o dài từ 4 đến 9
năm.
Theo đoàn giám sát, đây vấn đề tồn tại kéo dài nhiều năm, chưa được khắc phục đáng kể,
gây lãng phí lớn trong sử dụng vốn đầu công. do chậm tiến độ chủ yếu bởi công tác giải
phóng mặt bằng, bố trí vốn không kịp thời, do năng lực của chủ đầu tư, ban quản lý dự án và các
nhà thầu...
2. Nguyên nhân
- Thể chế pháp luật về đầu tư công ty đã khá đồng bộ, nhưng vẫn còn tồn tại c quy
định chồng chéo giữa các văn bản pháp luật liên quan đến đầu công, như: quy định
lOMoARcPSD| 58933639
về đất đai, về môi trường, xây dựng (bất cập này đã được xử lý cơ bản tại Luật Đầu công
số 39/2019/QH14).
- Lúng túng trong những năm đầu của kỳ trung hạn giai đoạn 2016-2020 trong việc
triển khaiLuật Đầu công văn bản hướng dẫn, đặc biệt lúng túng trong quá trình chuẩn
bị và hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án.
- Chất lượng chuẩn bị dự án chưa tốt, một số bộ, quan trung ương địa
phương phê duyệt dự án chưa đảm bảo đầy đủ các quy định hiện hành. Trong công tác lập
dự án, vẫn còn tình trạng một số dự án chuẩn bị đầu tư và phê duyệt dự án mang tính hình
thức để có điều kiện ghi vốn.
- Chất lượng quy hoạch còn thấp, tính dự báo còn hạn chế, thiếu tính liên kết, đồng
bộ gây lãng phí và kém hiệu quả đầu tư đặc biệt là các dự án hạ tầng. Công tác giải phóng
mặt bằng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, mất nhiều thời gian, làm chậm tiến độ của hầu
hết các dự án.
- Kỷ luật đầu công không nghiêm, các bộ, quan trung ương địa phương
không chấp hành nghiêm các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn đầu công, dẫn đến phải
điều chỉnh phương án phân bổ nhiều lần, ảnh hưởng tiến độ giao kế hoạch của cả nước, lập
kế hoạch đầu tư công không sát với khả năng thực hiện dẫn đến phải điều chỉnh kế hoạch
trong quá trình thực hiện.
- Chất lượng cán bộ, trách nhiệm người đứng đầu, năng lực quản của một số chủ
đầu tư ở một số nơi còn hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến việc hoàn thiện thủ tục đầu tư, thi
công triển khai thực hiện dự án. Công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra chưa được quan tâm
đúng mức...
- Công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều trở ngại, vướng mắc, mất nhiều thời gian
nên làm chậm tiến độ của hầu hết các dự án. Nhiều dự án phải điều chỉnh tăng tổng mức
đầu do chi phí giải phóng mặt bằng tăng cao, gây khó khăn trong việc cân đối vốn
hoàn thành dự án theo đúng tiến độ.
3. Giải pháp
-Khẩn trương hoàn thiện thủ tục đầu tư của các dự án; đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng,
tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc liên quan đến đất đai, tài nguyên; đôn đốc, đẩy nhanh tiến
độ thi công; thực hiện nghiệm thu, lập hồ thanh toán ngay khi khối lượng; soát, điều
chuyển kế hoạch vốn giữa các dự án chậm giải ngân sang các dự án có tiến độ giải ngân tốt, còn
thiếu vốn.
-Xây dựng kế hoạch đầu hằng năm; trong đó yêu cầu quan trọng xác định dự án trọng
tâm, trọng điểm cùng nguồn lực. Nói cách khác, vốn đầu tư công như “miếng bánh”, nếu dàn trải
mỗi nơi một chút, nguồn vốn khó trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển trở nên lãng phí.
Ngược lại, nếu lựa chọn đúng dự án ưu tiên, đầu tư có trọng điểm, mỗi dự án sẽ tạo ra sức bật mới
mạnh mẽ cho phát triển.
- Bên cạnh đó, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công,
gồm nângchất lượng thể chế quản lý, nghiêm túc thực hiện quy định pháp luật về đầu
công, kịp thời đôn đốc, tháo gỡ vướng mắc cho từng dự án. Công tác chuẩn bị dự án đòi
lOMoARcPSD| 58933639
hỏi phải kỹ lưỡng, đúng quy định, nhưng cũng cần nhanh chóng, kịp thời thông qua đẩy
mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền.
- Mặt khác, công tác phối hợp giữa các sở, ngành, địa phương cũng cần chú trọng,
bởi việc phối hợp tốt là “chìa khóa” giúp các dự án đầu tư được triển khai đúng kế hoạch,
tiến độ, bảo đảm chất lượng.
- Khâu theo dõi, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu phải được thực hiện
quyết liệt, sâu sát; cách làm linh hoạt, mang tính đột phá, khi cần thiết sẽ điều chuyển vốn
giữa các dự án để tránh đọng vốn, đọng việc ở nơi trì trệ...
- Cần linh hoạt trong một số vấn đề liên quan đến Luật Đầu tư công, không chỉ riêng
Nội các tỉnh, thành khác cũng đang vướng, đó câu chuyện phải đủ vốn mới
được phê duyệt chủ đầu tư. Nội nhiệm kỳ này 250.000 tỷ vốn đầu công, với số
tiền này, Hà Nội chỉ bố trí cho 5-7 công trình đã hết số tiền này mà cũng phải làm trong ít
nhất 2 nhiệm kỳ.
- Tuân thủ các quy chuẩn về thủ tục và quy trình đầu tư, thực hiện đấu thầu thực chất
rộng rãi cho các thành phần kinh tế với các nguồn lực đầu công. Tăng cường giám
sát, phản biện kiểm tra, xử kịp thời nghiêm minh các vi phạm đầu công bằng
các công cụ chế tài về tài chính và hành chính.
- Đổi mới phân bổ đầu tư công gắn với tài chính công và tái cấu trúc nền kinh tế với
chính sách tài khoá và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch trên cơ sở tôn trọng tính tự
phát triển của địa phương, tăng cường hơn nữa vai trò tổng n đối chung của Chính phủ…
VII. Tổng kết

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58933639
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------- TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN KINH TẾ ĐẦU TƯ 2
ĐỀ TÀI: Đầu tư công và thực trạng tại Hà Nội giai đoạn 2020-2023 lOMoAR cPSD| 58933639 Họ và tên Mã sinh viên Công việc Ma Thị Phương Chinh 11200650 Phần 1,2 mục II Tô Thảo Hương 11212549
Phần 3 mục II + 1,2 mục III Nguyễn Quỳnh Trang 11215836 Phần 3 mục III Vũ Thu Hằng 11216651 Phần 1 mục IV Phạm Nguyễn Khánh Ly 11213609
Lời mở đầu và Giải pháp lOMoAR cPSD| 58933639 I. Lời mở đầu
Từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu to lớn và toàn diện trên các mặt kinh tế - xã hội và chính thức trở thành nước có thu nhập trung
bình trên thế giới. Tuy nhiên, việc kéo dài quá lâu mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng,
chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư công hiệu quả thấp, góp phần khiến nền kinh
tế luôn đối diện với những mất cân đối vĩ mô quan trọng như chênh lệch tiết kiệm - đầu tư, thâm
hụt thương mại, thâm hụt ngân sách trong thời gian dài v.v Đây chính là những nguyên nhân cơ
bản gây ra những bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát tăng cao, tỷ giá biến động mạnh và khô lường,
nợ công và nợ nước ngoài đang dần đến ngưỡng nguy hiểm, thị trường tài chính tiền tệ có những
biến động mạnh về lãi suất, niềm tin của thị trường vào điều hành kinh tế vĩ mô bị suy giảm v.v
Hà Nội là thủ đô, trái tim của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trung tâm chính trị văn hóa,
xã hội và khoa học của cả nước. Tuy nhiên trải qua hơn nửa thế kỷ bị chiến tranh tàn phá hiện nay
Hà Nội vẫn là một trong những thủ đô lạc hậu nhất trên thế giới đặc biệt là về cơ sở hạ tầng. Do
vậy việc thúc đẩy sự phát triển đầu tư công của Hà Nội là một đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn
hiện nay. Chính vì vậy đề án “Thực trạng đầu tư công ở Hà Nội hiện nay" được thực hiện, xuất
phát dựa trên các cơ sở lí thuyết của hoạt động đầu tư công, phân tích thực trạng trên một số khía
cạnh của hoạt động đầu tư công ở Hà Nội, từ đó đưa ra một số giải pháp tổng thể và một số kiến
nghị cần làm ngay để có thể tiến hành tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công một cách có hiệu
quả, góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế.
II. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm và mục tiêu của đầu tư công 1.1 Khái niệm
Đầu tư công là việc sử dụng vốn Nhà nước để đầu tư vào các chương trình, dự án không vì
mục tiêu lợi nhuận và (hoặc) không có khả năng hoàn vốn trực tiếp. Đầu tư công là đầu tư phát
triển do khu vực nhà nước thực hiện hoặc dẫn dắt nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội
và thực hiện các chương trình dự án phát triển kinh tế-xã hội.
Đầu tư công: Là 1 dạng của đầu tư, là 1 trong những bộ phận quan trọng nhất trong chi tiêu
nhà nước hàng năm cũng như chiến lược phát triển lâu dài của Chính phủ ở mỗi quốc gia.
 Hoạt động đầu tư công bao gồm:
Lập, phê duyệt kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công.
Triển khai thực hiện đầu tư.
Quản lý khai thác, thực hiện dự án.
Đánh giá sau đầu tư công. 1.2 Đặc điểm
Luôn gắn với chủ thể là nhà nước.
Luôn hướng tới mục tiêu cộng đồng. lOMoAR cPSD| 58933639
Được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật chặt chẽ. 1.3 Mục tiêu
Tạo mới, nâng cấp, củng cố các tài sản (khác với chi tiêu thường xuyên).
Góp phần thực hiện 1 số mục tiêu xã hội, văn hóa, môi trường.
Góp phần điều tiết nền kinh tế thông qua việc tác động trực tiếp đến tổng cầu của nền kinh tế. 2.Nội dung đầu tư công
2.1 Đầu tư theo chương trình mục tiêu a)Khái niệm:
Đầu tư theo chương trình là tập hợp các dự án đầu tư nhằm thực hiện 1 hoặc 1 số mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội cụ thể của đất nước hoặc vùng lãnh thổ trong thời gian nhất định. Nếu không
có chương trình mục tiêu sẽ không có sự tham gia của các ngành, các cấp để giải quyết vấn đề lớn của đất nước.
Bao gồm: Chương trình mục tiêu cấp quốc gia (do Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư,
trong kế hoạch 10 năm cấp quốc gia). Chương trình mục tiêu cấp tỉnh (do Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh quyết định chủ trương, trong kế hoạch 5 năm cấp tỉnh). Cơ cấu nguồn vốn đầu tư: Ngân sách
trung ương, ngân sách địa phương, nguồn vốn nước ngoài, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ và dự phòng.
b)Căn cứ lập chương trình mục tiêu
Đối với chương trình mục tiêu quốc gia: Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của cả nước thời
kì 10 năm đã được thông qua. Tính cấp bách của mục tiêu. Khả năng đảm bảo nguồn vốn.
Đối với chương trình mục tiêu cấp tỉnh: Mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội của tỉnh 5 năm đã được phê duyệt. Tính cấp thiết của việc thực hiện. Khả năng đảm bảo
nguồn vốn. c)Yêu cầu
Đối với chương trình mục tiêu quốc gia: Đạt được những mục tiêu quan trọng, cấp bách, cần
ưu tiên. Nội dung phải rõ ràng, không trùng lặp với các chương trình đầu tư khác. Xác định và
phân bổ vốn đầu tư phải tuân thủ theo danh mục dự án. Tiến độ triển khai phải phù hợp với điều
kiện thực tế. Việc tổ chức thực hiện phải phân công rõ ràng. Quá trình triển khai cần được theo
dõi, kiểm tra, giám sát thường xuyên. Các vấn đề xã hội mà Chính phủ Việt Nam cam kết với quốc
tế phải thực hiện theo chương trình chung của quốc tế về các vấn đề liên quan.
Đối với chương trình mục tiêu cấp tỉnh: Đạt được những mục tiêu quan trọng, cấp bách, cần
ưu tiên. Nội dung phải rõ ràng, cụ thể, có chủ ý tới việc lồng ghép với nội dung khác của chương
trình đầu tư khác của tỉnh.
2.2 Đầu tư theo các dự án đầu tư công a)Khái niệm: lOMoAR cPSD| 58933639
Đầu tư theo các dự án là dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước để thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.
Bao gồm: Dự án phát triển kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, xã hội, môi trường, quốc phòng, an
ninh. Dự án đầu tư không có điều kiện xã hội hóa thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, y
tế, khoa học, giáo dục, đào tạo. b)Yêu cầu Phải phù hợp
Có các giải pháp kinh tế-kỹ thuật khả thi
Đảm bảo hiệu quả kinh tế-xã hội, phát triển bền vững
c)Trình tự, thủ tục
B1: Tổ chức lập dự án đầu tư rồi trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư.
B2: Người có thẩm quyền quyết định đầu tư tổ chức thẩm định dự án đầu tư công, hồ sơ thẩm định dự án.
B3: Ra quyết định đầu tư. B4: Thực hiện đầu tư.
B5: Nghiệm thu, bàn giao dự án đầu tư công.
B6: Thanh quyết toán vốn đầu tư.
B7: Tổ chức khai thác, vận hành.
B8: Kết thúc đầu tư và duy trì năng lực hoạt động của tài sản đầu tư công.
3. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng 3.1. Vai trò
Đối với nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như
nước ta nói riêng thì đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước là một trong những công cụ
điều hành của Nhà nước góp phần tạo nền tảng cơ bản cho sự phát triển của nền kinh tế và dẫn dắt
đầu tư của các thành phần kinh tế khác… Vai trò của đầu tư công được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, đầu tư công giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa vào việc đầu tư cho các công
trình hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật tối thiểu chung cho xã hội. Đồng thời nó cũng tạo những điều
kiện thiết yếu cho các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đầu tư và phát triển.
Thứ hai, đầu tư công góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo, giảm bất bình đẳng và
các bất công trong xã hội thông qua các chương trình, dự án kinh tế hỗ trợ các vùng khó khăn,
vùng sâu vùng xa,… từ đó nâng cao và ổn định đời sống của người dân.
Thứ ba, đầu tư công góp phần đảm bảo ổn định và tăng cường quốc phòng, an ninh. Các công
trình, dự án an ninh quốc phòng là cơ sở quan trọng của đất nước để bảo vệ tổ quốc, giữ vững độc
lập, chủ quyền quốc gia.
Nói tóm lại, đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng với sự tăng
trưởng những mặt của nền kinh tế tài chính và đời sống xã hội, giúp củng cố bảo mật an ninh quốc
phòng và là một công cụ góp thêm phần điều tiết kinh tế tài chính, bảo vệ không thay đổi kinh tế
tài chính vĩ mô. Nó mang tính khuynh hướng, dẫn dắt và tương hỗ tăng trưởng cho hàng loạt nền
kinh tế tài chính quốc dân. lOMoAR cPSD| 58933639
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng
Năng lực của cơ quan nhà nước: Năng lực của cơ quan nhà nước (cơ quan quản lý đầu tư
công) là yếu tố quan trọng mang tính quyết định đối với sự thành công của dự án đầu tư công. Để
dự án đạt được kết quả như mong đợi các cơ quan thực hiện đầu tư công và cơ cơ quan quản lý
đầu tư công cần phải phối hợp một cách hiệu quả, đảm bảo nguồn nhân lực về số lượng và chất
lượng. Đặc biệt, những người phụ trách chính trong dự án phải đảm bảo họ là những người có
năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu của dự án.
Kinh phí: Vấn đề kinh phí là một nhân tố không thể thiếu trong quá trình thực hiện các dự
án đầu tư công bởi đầu tư công chủ yếu là các hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản quy mô lớn. Do
đó, trước khi tiến hành thực hiện hoạt động đầu tư công cần phải lên kế hoạch chuẩn bị đảm bảo
đáp ứng đầy đủ kinh phí một cách chặt chẽ. Nguồn kinh phí phục vụ cho các hoạt động đầu tư
công chủ yếu đến từ ngân sách nhà nước. Trên thực tế, nguồn ngân sách nhà nước cần phải chi
đồng thời cho nhiều dự án khác nhau, nhiều khoản chi khác nhau; do đó việc bảo đảm đủ kinh phí
cho hoạt động đầu tư diễn ra đúng tiến độ là vô cùng quan trọng.
Môi trường pháp lý: Mọi hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư công nói riêng
đều chịu tác động của quy luật kinh tế thị trường và cần tuân thủ luật pháp và hoạt động trong
khuôn khổ luật pháp. Do vậy, hệ thống pháp luật hiện hành của Nhà nước và các quy định riêng
của từng ngành, từng địa phương,… là chuẩn mực pháp lý và là khung pháp lý trong quá trình
quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Hệ thống pháp luật càng hoàn thiện sẽ tạo
hành lang pháp lý rõ ràng, đầy đủ sẽ tạo điều kiện cho quá trình quản lý đầu tư công.
Tổ chức: Công tác quản lý đầu tư của địa phương, đơn vị cùng trình độ quản lý và sử dụng
vốn của cán bộ quản lý đầu tư và thực hiện đầu tư tại địa phương. Năng lực của cơ quan nhà nước
là yếu tố quyết định đến tính hiệu quả quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và
hiệu quả đạt được của dự án.
Bối cảnh thực tế: Quá trình quản lý đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước phụ thuộc
vào các nhân tố khách quan như: điều kiện tự nhiên, lịch sử, kinh tế, chính trị, trình độ xã hội, sự
phát triển của khoa học công nghệ… Ngoài ra, quá trình quản lý còn chịu ảnh hưởng không nhỏ
bởi các yếu tố không lường trước được như thiên tai, rủi ro hệ từ biến động kinh tế thế giới,…Các
nhân tố này có thể xảy ra đối với bất kỳ một địa phương nào. Do đó, cần tính toán, lường trước
các rủi ro để giảm thiệt hại xảy ra trong quá trình thực hiện.
Công luận và thái độ của các nhóm có liên quan: Sự ủng hộ hay phản đối của công luận có
tác động không nhỏ đến việc thực hiện dự án. Các dự án công bị người dân phản đối ngay từ đầu
sẽ gặp nhiều khó khăn. Mỗi dự án được thực hiện sẽ mang lại lợi ích và bất lợi cho các nhóm đối
tượng khác nhau nên sẽ nhận được sự ủng hộ hoặc phản đối của các nhóm đối tượng liên quan.
III. Xu hướng đầu tư công trên thế giới và Việt Nam 1. Trên thế giới 1.1. Trung Quốc:
Đầu tư công phải duy trì quy mô hợp lý: Hiện nay, thị trường vốn của Trung Quốc có
trình độ phát triển thấp, khả năng tài trợ dựa trên thị trường còn hạn chế và đầu tư vào xây dựng
cơ sở hạ tầng như năng lượng và giao thông rõ ràng là không đủ, điều này làm gia tăng những hạn
chế và mất cân đối cơ cấu trong phát triển kinh tế. Đồng thời, nền kinh tế quốc doanh của Trung lOMoAR cPSD| 58933639
Quốc luôn chiếm vị trí thống trị trong tổng thể kinh tế vĩ mô và Chính phủ có nhiều trách nhiệm
hơn trong việc điều tiết kinh tế. Điều này xác định rằng, nền tài chính của Trung Quốc phải chịu
nhiều trách nhiệm chi tiêu hơn trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Đánh giá từ
hiện tại và một thời gian dài trong tương lai của Trung Quốc, Chính phủ cũng chịu trách nhiệm về
các nhiệm vụ chiến lược như xây dựng cơ sở hạ tầng, tái cơ cấu và tối ưu hóa nền kinh tế, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế phối hợp giữa các khu vực và thúc đẩy quá trình hiện đại hóa. Do đó, trong
dưới tiền đề xác định hợp lý phạm vi đầu tư công và điều chỉnh, tối ưu hóa cơ cấu chi đầu tư công,
đầu tư công của Chính phủ cần tiếp tục duy trì ở quy mô đáng kể. Qua mô tả thống kê về tổng vốn
đầu tư công, có thể thấy quy mô đầu tư công của Trung Quốc đang có xu hướng tăng dần, bất kể
là về mức độ hay tốc độ.
Thực hiện các biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả đầu tư công: Khởi động nguồn vốn
tư nhân tham gia vào lĩnh vực đầu tư công. Hiện nay, nguồn vốn cho các dự án đầu tư công và xây
dựng ở Trung Quốc chủ yếu là trích lập trong ngân sách tài khóa, vốn tự huy động từ các doanh
nghiệp nhà nước và vốn vay ngân hàng thương mại. Các kênh tài trợ khác tương đối đơn giản, chủ
yếu từ phát hành trái phiếu nhà nước và thông qua hình thức hợp tác cổ phần…chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển của đầu tư công quốc gia. Tác động lấn át của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân
là không đáng kể, nhưng vốn công làm tăng tỷ suất sinh lợi của khu vực tư nhân, tức là việc mở
rộng đầu tư công của Chính phủ, thể hiện chính sách tài khóa chủ động, đã mang lại “hiệu ứng thu
hút” cho đầu tư tư nhân. Như vậy, có thể kết luận rằng, những thay đổi về nhu cầu đầu tư và trọng
tâm của các chính sách tài khóa chủ động phải được chuyển từ mở rộng đầu tư công của Chính
phủ, sang mở rộng hơn nữa đầu tư tư nhân. Bên cạnh đó, đầu tư tư nhân nên được sử dụng như
một động lực mới cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo trong việc kích thích tổng cầu xã hội. 1.2. Hàn Quốc:
Chính phủ Hàn Quốc đã nỗ lực nâng cao hiệu quả đầu tư công bằng cách thực hiện một hệ
thống quản lý đầu tư công thống nhất, bao gồm quy trình đánh giá trước, trong và sau khi thực
hiện dự án. Đặc điểm chính của kế hoạch là tìm cách tiếp quản những nghiên cứu khả thi hiện có
của các bộ chủ quản kể từ thập kỷ 1970, cụ thể như việc chuyển giao sở hữu cho các cơ quan ngân
sách. Đây là các khái niệm được đề cập cụ thể tại báo cáo nghiên cứu khả thi sơ bộ về hệ thống
đánh giá đầu tư. Thông qua báo cáo đó, nhóm đặc trách tiến hành triển khai hệ thống đánh giá đầu
tư trước khi thực hiện dự án; đánh giá tính khả thi tổng thể của dự án đầu tư công quy mô lớn hơn
từ quan điểm của nền kinh tế quốc gia và giúp Chính phủ thiết kế được một dự án cụ thể.
Hệ thống đánh giá đầu tư được cấp vốn bởi Trung tâm Quản lý đầu tư kết cấu hạ tầng công
và tư - Đơn vị trực thuộc Viện Phát triển Hàn Quốc. Bằng cách này, Chính phủ Hàn Quốc đã tăng
cường hệ thống đánh giá trước khi triển khai các dự án đầu tư công. 1.3. Nhật Bản:
Với Nhật Bản, chính sách tài khóa mở rộng của Chính phủ đã giúp đất nước này quản lý
đầu tư công hiệu quả bằng cam kết tăng nhu cầu trong nước nhằm hạn chế thặng dư thương mại
với Mỹ và chủ động triển khai thực hiện kế hoạch về đầu tư công. Để hoàn thành mục tiêu đặt ra,
Chính phủ Nhật Bản đã triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó tập trung quản lý
chặt chẽ ngân sách Trung ương và địa phương. Kết quả là đến năm 2015, tổng thâm hụt ngân sách
của Chính phủ ở cấp Trung ương và địa phương được cắt giảm một nửa so với năm 2010 và dự lOMoAR cPSD| 58933639
kiến chuyển sang thặng dư ngân sách vào năm 2020. Bên cạnh đó, Chiến lược này cũng đề ra tỷ
lệ dư nợ đến năm 2021 phải giảm so với GDP. Đây là định hướng lớn nhằm tạo sự chuyển biến
cho hoạt động đầu tư công ở Nhật Bản, tạo thêm lợi ích kinh tế trong dài hạn. Mặt khác, các cơ
quan chức năng Nhật Bản sử dụng nhiều phương pháp phân tích chi phí - lợi ích để thẩm định hiệu
quả của các dự án đầu tư công.
Ngoài ra, các cơ quan chức năng của Nhật Bản cũng đã công khai phương pháp thẩm định
các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Chẳng hạn, đối với các dự án đường bộ/đường nội đô, Bộ Đất
đai, Hạ tầng và Giao thông Nhật Bản trước đây đã thực hiện các phương pháp thẩm định khác nhau
và không công bố chi tiết về các phương pháp. Theo đó, phương pháp thẩm định dự án đầu tư công
cũng được ban hành thống nhất. Điều này giúp bảo đảm lựa chọn được các dự án tốt hơn, nhất là
trong bối cảnh nguồn lực đầu tư công hạn chế và các dự án hạ tầng thường có quy mô lớn. Đặc
biệt, để đảm bảo tính minh bạch, Nhật Bản đã chuẩn hóa và công khai quy trình và phương pháp
thẩm định, với việc ban hành những hướng dẫn chi tiết về việc thẩm định dự án đầu tư công theo
từng lĩnh vực cụ thể và thống nhất. Điều này giúp bảo đảm lựa chọn được các dự án tốt hơn, nhất
là trong bối cảnh nguồn lực đầu tư công hạn chế và các dự án hạ tầng thường có quy mô lớn. 2. Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đầu tư công trong vài thập kỷ qua luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng đầu tư toàn xã hội và tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào đầu tư công trong
một thời gian tương đối dài. Do vậy, vấn đề tiếp tục hoàn thiện chính sách nâng cao hiệu quả đầu
tư công là việc làm cần thiết trong bối cảnh mới.
Năm 2022, Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng kinh tế khả quan, giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô, kiểm soát có hiệu quả lạm phát nhờ sự phục hồi chi tiêu của người tiêu dùng, xuất
khẩu tăng mạnh và hoạt động du lịch quốc tế dần trở lại. Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công
chỉ đạt 60% tổng số vốn tính đến tháng 11/2022. Thúc đẩy tiến độ đầu tư công cùng với nâng cao
chất lượng đầu tư công cần phải được xem là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. IV. Tổng nguồn vốn và
tình hình phân bổ vốn

1. Tổng nguồn vốn cả nước tính đến năm 2023
Báo cáo từ Bộ Tài chính cho biết, tổng nguồn vốn kế hoạch đầu tư công từ nguồn ngân sách nhà
nước (NSNN) năm 2023 là 756.111,862 tỷ đồng (không bao gồm 6.753 tỷ đồng dự toán chi đầu tư
phát triển đã giao tại Nghị quyết số 70/2022/QH15 ngày 18/11/2022 về phân bổ ngân sách trung
ương năm 2023 hỗ trợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam thực hiện
các nhiệm vụ nhà nước giao). Trong đó, vốn trong nước là 727.111,86 tỷ đồng, vốn nước ngoài là
29.000 tỷ đồng. 2. Tình hình phân bổ vốn chung
Theo báo cáo từ Bộ Tài chính, đến ngày 31/1/2023, tổng số vốn đầu tư công thuộc nguồn
NSNN năm 2023 đã phân bổ là 638.613,081 tỷ đồng, đạt 90,32% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính
phủ đã giao (707.044,198 tỷ đồng). Nếu không tính số kế hoạch vốn cân đối ngân sách địa phương
mà các địa phương giao tăng là 36.180,476 tỷ đồng, thì tổng số vốn đã phân bổ là 602.432,605 tỷ
đồng, đạt 85,20% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ đã giao.
Tổng số vốn chưa phân bổ chi tiết là 104.611,593 tỷ đồng, chiếm 14,80% kế hoạch Thủ
tướng Chính phủ giao. Cụ thể, số vốn chưa phân bổ của các bộ, cơ quan trung ương là 22.751,426
tỷ đồng, chiếm 11,71% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (vốn trong nước là 21.682,581 tỷ lOMoAR cPSD| 58933639
đồng, vốn nước ngoài là 1.068,845 tỷ đồng). Số vốn chưa phân bổ tại các địa phương là 81.860,167
tỷ đồng, chiếm 15,96% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (vốn trong nước là 79.951,771 tỷ
đồng, vốn nước ngoài là 1.908,396 tỷ đồng).
Báo cáo của Bộ Tài chính cũng nêu rõ, đối với nguồn vốn ngân sách trung ương (không
bao gồm vốn Chương trình MTQG), trong số bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã gửi báo
cáo phân bổ kế hoạch vốn năm 2023, có 14/33 bộ, cơ quan trung ương và 40/63 tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương chưa phân bổ hết kế hoạch vốn ngân sách trung ương đã được Thủ tướng
Chính phủ giao. Đáng chú ý, một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương có tỷ lệ vốn chưa phân
bổ khá cao như: Hải Phòng (100%), Ninh Bình (100%), Văn phòng Trung ương Đảng (80,2%).
Nguyên nhân vốn trong nước chưa phân bổ chủ yếu là do các dự án chưa đảm bảo thủ tục
đầu tư nên chưa đủ điều kiện để giao chi tiết kế hoạch vốn (trong đó chủ yếu là các dự án thuộc
Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội); vốn nước ngoài chưa phân bổ do chưa hoàn
thành thủ tục ký hiệp định vay, chưa được ký thỏa thuận vay với nhà tài trợ hoặc đang lấy ý kiến
nhà tài trợ để hoàn thiện thủ tục sử dụng vốn dư.
3. Phân bổ vốn tại Hà Nội
Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, năm 2023, tổng nguồn vốn đầu tư công Trung ương
giao cho thành phố Hà Nội là 46.956 tỷ đồng. Đến nay, Hà Nội đã phân bổ toàn bộ kế hoạch vốn
Trung ương giao. Trong đó, ngân sách cấp thành phố hơn 26.000 tỷ đồng; ngân sách cấp huyện
gần 20.000 tỷ đồng; chi đầu tư trở lại cho các quận, huyện, thị xã từ tiền thuê đất trả tiền một lần
là 900 tỷ đồng. Tính đến hết ngày 31-1-2023, Hà Nội lũy kế giải ngân kế hoạch vốn năm 2023 đạt
hơn 2.600 tỷ đồng, đạt 5,5% kế hoạch (cao hơn cùng kỳ năm 2022 là 443,9 tỷ đồng, tương đương
20%). Những tháng đầu năm 2023, Hà Nội tiếp tục tập trung chỉ đạo triển khai nhiều dự án quan
trọng, đặc biệt là dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô; tiếp tục tập trung đầu
tư xây dựng, cải tạo trường học công lập, nâng cấp hệ thống y tế và tu bổ, tôn tạo di tích. Năm
2022, Hà Nội đã thực hiện kế hoạch đầu tư công là 51.583 tỷ đồng, kết quả giải ngân kế hoạch đầu
tư công năm 2022 đã có nhiều tiến triển tích cực so với năm 2021.
V. Một số dự án lớn, trọng điểm 1. Đã hoàn thành
a. Dự án Đường sắt đô thị Hà Nội đoạn Cát Linh - Hà Đông
Bắt đầu từ năm 2020 khi dịch covid bùng nổ, công việc xây dựng, hoàn thiện các dự án đã gặp
rất nhiều khó khăn. Nhưng để nói đến dự án lớn, trọng điểm đã hoàn thành trong giai đoạn 2020-
2023 thì không thể không kể đến dự án đường sắt trên cao.
Đường sắt đô thị Hà Nội (tiếng Anh: Hanoi Metro) là tên gọi của hệ thống đường sắt đô thị ở
Hà Nội. Hệ thống được vận hành bởi Công ty Đường sắt Hà Nội (Hanoi Metro Company – HMC),
bao gồm 8 tuyến đường sắt đô thị với tổng chiều dài khoảng 318 km, và 3 tuyến tàu điện một ray.
Đây là hệ thống đường sắt đô thị trên cao đầu tiên tại Việt Nam.
Hai tuyến đường sắt đầu tiên được xây dựng là tuyến số 2A, đoạn Cát Linh – Hà Đông, và
tuyến số 3, đoạn Nhổn – Ga Hà Nội. Tính tới tháng 11 năm 2021, Tuyến số 2A sau 8 lần điều chỉnh
tiến độ dự án, đã chính thức đi vào khai thác thương mại vào ngày 6 tháng 11 năm 2021. Trong
khi đó, Tuyến số 3 đoạn Nhổn – Ga Hà Nội dự kiến sẽ khai thác thương mại đoạn tuyến trên cao lOMoAR cPSD| 58933639
vào cuối năm 2022 và toàn tuyến năm 2024-2025. Quá trình xây dựng hai tuyến đường sắt gặp
nhiều khó khăn về tài chính, vỡ tiến độ cũng như tai nạn xây dựng.
Tuyến số 2A có chiều dài 13,1 km, được khởi công xây dựng vào ngày 10 tháng 10 năm 2011
và do Bộ Giao thông Vận tải làm chủ đầu tư. Tuyến có hướng đi Cát Linh – Hà Đông, với 12 nhà
ga thuộc ba quận Đống Đa, Thanh Xuân và Hà Đông. Tuyến đường sắt được đầu tư xây dựng bằng
vốn vay ODA của Trung Quốc, ký năm 2008.Dự án có tổng mức đầu tư 552,86 triệu USD (8.770
tỉ đồng) vào năm 2008 trong đó vốn vay ưu đãi của Trung Quốc 419 triệu USD.Tổng mức đầu tư
sau điều chỉnh tính đến năm 2019 là 868,04 triệu USD (18.001,6 tỷ VND, tăng 9.231,6 tỷ VND),
trong đó, phần vốn vay Trung Quốc là 669,62 triệu USD (hơn 13.800 tỷ VND).
Ý tưởng thực hiện tuyến đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông xuất hiện từ năm 2003, được kỳ
vọng sẽ là cầu nối liên kết vùng để giải quyết áp lực giao thông và áp lực dân số giữa thành phố
Hà Đông thuộc tỉnh Hà Tây và thành phố Hà Nội.Tháng 7 năm 2008, Thủ tướng chính phủ phê
duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải Thủ đô Hà Nội đến năm 2020, trong đó có tuyến
đường sắt đô thị Hà Nội – Hà Đông. Dù được khởi công xây dựng vào tháng 10 năm 2011, những
hạng mục đầu tiên của dự án tại hồ Đống Đa và phố Hoàng Cầu đã được tổ chức thi công trước từ
tháng 4 năm 2010 nhằm đồng bộ với hạng mục kè hồ, cải tạo thoát nước của thành phố.
Ngày 20 tháng 10 năm 2015, Ban Quản lý dự án đường sắt đô thị Hà Nội đã cho trưng bày
mẫu tàu điện Cát Linh – Hà Đông tại Triển lãm Giảng Võ. Theo đó, tuyến số 2A sẽ có 13 đoàn tàu,
mỗi đoàn tàu có 4 toa tàu. Quá trình xây dựng dự án bị chậm tiến độ nhiều lần và gây ra nhiều tai
nạn lao động ảnh hưởng tới người dân. Từ ngày 6 tháng 11 năm 2021, tuyến đường sắt đô thị này
chính thức đưa vào vận hành và khai thác.
Tuy nhiên, đến nay Hanoi Metro vẫn vận hành với đơn giá tạm, chưa chính thức được TP Hà
Nội đặt hàng. Theo báo cáo tài chính đã kiểm toán 2021 vừa được công bố, doanh thu của Hanoi
Metro khi vận hành chính thức đoàn tàu chạy tuyến đường sắt Cát Linh - Hà Đông đạt hơn 5 tỷ
đồng. Tuy nhiên, chi phí vận hành, quản lý khiến doanh nghiệp lỗ ròng 64 tỷ đồng. Vào năm 2020,
công ty báo lỗ 23 tỷ đồng khi chưa vận hành. Tính lũy kế, doanh nghiệp đang lỗ tổng cộng 160 tỷ
đồng. Và đây chính là một vấn đề đáng lo ngại.
b. Dự án Vành đai 2 đoạn từ cầu Vĩnh Tuy - Ngã Tư Sở
Tuyến đường dài 5.0 km với mỗi chiều xe chạy gồm 2 làn xe cơ giới rộng 3,75m và dải an toàn
trong rộng 0,5m, dải an toàn ngoài 0,67m. Đối với các nhánh lên/xuống có bề rộng 7m, bố trí 1
làn đường xe chạy là 6m, dải an toàn hai bên là 0,5m , bắt đầu từ nút giao Ngã Tư Sở tại phường
Ngã Tư Sở, quận Đống Đa và kết thúc tại phía nam cầu Vĩnh Tuy trước cửa khu đô thị Times City
tại phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng. Công trình gồm cầu chính rộng 19m với 4 làn xe và các
cầu dẫn rộng 7 m. Các nhánh cầu dẫn kết nối với các tuyến đường bên dưới tại các vị trí như phía
Nam Vĩnh Tuy, Ngã Tư Vọng, Ngã Tư Sở. Đơn vị thiết kế đã tính toán cao độ mặt cầu của tuyến
đường này cách đường bên dưới khoảng 10m, đảm bảo tĩnh không của đường bên dưới tối thiểu 4,75m.
Dự án có tổng mức đầu tư là hơn 4.700 tỷ đồng theo hình thức BT, trong đó chi phí chuẩn bị
đầu tư từ ngân sách thành phố, còn chi phí thực hiện dự án sẽ huy động từ nhà đầu tư. Trước đó,
Hà Nội đã có quyết định chỉ định Tập đoàn Vingroup là nhà đầu tư cho dự án này. Từ năm 2010,
Công ty CP Vincom (nay là Tập đoàn Vingroup) đã kiến nghị Thủ tướng và UBND Hà Nội xin lOMoAR cPSD| 58933639
được là chủ đầu tư tuyến đường trên cao vành đai 2. Công trình khởi công xây dựng vào ngày 22
tháng 4 năm 2018. Đoạn trên cao Ngã Tư Sở – Ngã Tư Vọng được thông xe kỹ thuật vào ngày 9
tháng 11 năm 2022 và toàn tuyến được thông xe vào ngày 11 tháng 1 năm 2023.
Tính đến cuối năm 2019, mặc dù mới đang trong giai đoạn thi công, giải phóng mặt bằng
nhưng dọc đường vành đai 2, đoạn từ cầu Vĩnh Tuy đến Ngã Tư Sở (xung quanh khu vực Cầu
Mai Động) đã và đang mọc lên hàng loạt cao ốc, chung cư dày đặc hai bên đường, bổ sung thêm
một lượng cư dân và phương tiện rất lớn trong tương lai cho khu vực vốn có mật độ dân cư cao,
hiện hữu nguy cơ quá tải về hạ tầng, ùn tắc giao thông nghiêm trọng. c. Dự án kết nối đường Vành
đai 3 với cao tốc Hà Nội - Hải Phòng
Dự án đầu tư xây dựng hoàn chỉnh nút giao đường Vành đai 3 với đường cao tốc Hà Nội - Hải
Phòng có chiều dài 1,5 km kết nối với đường Cổ Linh, tổng vốn đầu tư là hơn 400 tỷ đồng, được
khởi công vào ngày 6/1/2020, dài gần 1,5 km, chiều rộng mặt đường từ 33-51 m.
Theo Ban quản lý dự án, công trình vượt tiến độ 2 tháng, bảo đảm chất lượng, tuyệt đối an toàn
lao động, an toàn giao thông và vệ sinh môi trường, đồng thời cũng thực hiện giải ngân đạt 100% vốn kế hoạch đã giao.
Việc khánh thành công trình giúp phát huy tối đa hiệu quả của đường vành đai 3, cao tốc Hà
Nội-Hải Phòng, giảm thiểu ùn tắc giao thông, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô. d. Hầm chui Lê Văn Lương
8h ngày 5/10, hầm chui Lê Văn Lương với vốn đầu tư 700 tỷ đồng bắt đầu thông xe, góp phần
giảm ùn tắc tại nút giao với vành đai 3.
Hầm có kết cấu bê tông cốt thép, xây dựng trục thông theo hướng đường Lê Văn Lương. Tổng
chiều dài hầm và gờ chắn hai đầu là 475 m, trong đó hầm kín dài 95m, hầm hở và gờ chắn dẫn vào
dài 380 m (mỗi bên 190 m). Mặt cắt ngang gồm hai hầm riêng biệt, mỗi hầm rộng 7,75 m, gồm
hai làn xe cơ giới, mỗi làn rộng 3,5 m. Phần hầm hở mỗi chiều rộng 7,75m, phân cách hai chiều
bằng dải phân cách rộng một mét. Đơn vị thi công đã xén hè mở rộng đường Lê Văn Lương với
chiều dài trên 300 m; xén hè mở rộng đường Tố Hữu khoảng 400 m.
Việc xây dựng hầm chui đã góp phần cải thiện đáng kể tình trạng ách tách giao thông tại nút
giao Lê Văn Lương- Tố Hữu- Vanh đai 3. Hiện nay cảnh hàng dài xe cộ dừng chờ trên đường Tố
Hữu để băng qua Vành đai 3 đã không còn, thay vào đó người dân có thể đi thẳng về phía Lê Văn
Lương thông qua hầm chui. 2. Đang thực hiện
Trong năm 2022, thành phố Hà Nội đã chỉ đạo, đôn đốc các nhà thầu, các đơn vị thi công tập
trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình, dự án trọng điểm , phát triển hạ tầng
góp phần thúc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư. Trong đó có 3 dự án lớn đang trong quá trình hoàn
thiện là dự án tuyến đường sắt Hà Nội, đoạn Nhổn - Ga Hà Nội và dự án cầu Vĩnh Tuy giai đoạn
2 và dự án hầm chui Vành đai 2,5 với đường Giải Phóng.
Thứ nhất, dự án tuyến đường sắt đô thị thành phố Hà Nôi, đoạn Nhổn - Ga Hà Nộ i có
chiều ̣ dài 12,5 km, gồm 8,5 km đường trên cao và 4 km đi ngầm với tổng mức đầu tư 32,9 nghìn lOMoAR cPSD| 58933639
tỷ đồng. Đến thời điểm hiện tại, tiến độ tổng thể chung của dự án đạt khoảng 75,4%. Trong đó,
tiến độ thi công đoạn trên cao đạt 97,2%, đoạn ngầm đạt 33%.
Ngày 5/12/2022 vừa qua, đoạn trên cao 8,5 km từ Nhổn - Cầu Giấy được thành phố cùng chủ
đầu tư kiểm tra, đánh giá chất lượng, chạy thử tích hợp toàn tuyến trong môi trường hạn chế, dự
kiến đưa vào sử dụng phục vụ người dân Thủ đô đầu năm 2023, đồng thời tiếp tục thực hiện đoạn đi ngầm theo kế hoạch.
Thứ hai, dự án cầu Vĩnh Tuy (giai đoạn 2) được khởi công tháng 1/2021 với tổng mức đầu tư
hơn 2,5 nghìn tỷ đồng. Cầu có tổng chiều dài và đường dẫn hơn 3,5 km, mặt cắt ngang 19,3 m;
điểm đầu giao với đường Nguyễn Khoái và phố Minh Khai, điểm cuối giao với đường Long Biên
- Thạch Bàn, đường Cổ Linh.
Đến nay, dự án giải ngân được 62,5% kế hoạch vốn, dự án đang tập trung đẩy nhanh tiến độ
xây dựng các trụ cầu giữa lòng sông. Dự kiến thời gian hoàn thành toàn dự án vào tháng 9/2023.
Thứ ba, dự án hầm chui Vành đai 2,5 với đường Giải Phóng: Khởi công ngày 6/10/2022, điểm
đầu nối với dự án vành đai 2,5 đoạn Đầm Hồng - quốc lộ 1A, điểm cuối nối với đường Kim Đồng, quận Hoàng Mai.
Với quy mô 4 làn xe, tổng chiều dài 890 m, trong đó 460m đường hầm và 430m đường dẫn.
Đoạn qua hầm mỗi chiều 2 làn xe rộng 3,5m/làn, đoạn ngoài hầm mỗi chiều 3 làn xe rộng 3,5m/làn.
Dự án có tổng mức đầu tư hơn 778 tỷ đồng, dự kiến hoàn thành sau 3 năm.
Tuy nhiên theo báo cáo vào cuối tháng 12 năm 2022 thì sau 2 tháng khởi công, dự án vẫn chưa
có hoạt động xây dựng nào. Dự án do liên danh Công ty CP Tập đoàn Cienco 4 - Công ty CP Đầu
tư và Xây dựng công trình 3 thực hiện. Tư vấn giám sát là liên danh Công ty CP Tư vấn xây dựng
công trình giao thông 2 và Công ty CP Tư vấn đầu tư và Xây dựng đường sắt. Tuy nhiên, sau hơn
2 tháng khởi công, hiện dự án này chưa có hoạt động xây dựng. Trên công trường dự án cũng chỉ
có một chiếc máy ép cọc. 3. Tương lai
a. Dự án đường Vành đai 4
Đường Vành đai 4 Hà Nội (ký hiệu toàn tuyến là
) là dự án xây dựng tuyến đường bộ
vành đai phục vụ giao thông của Vùng thủ đô Hà Nội.
Theo thiết kế, đường vành đai 4 Hà Nội sẽ gồm 6 làn xe cao tốc và đường gom đô thị. Mặt
đường rộng từ 90 m đến 135 m. Chiều dài toàn tuyến là 136,6 km; đi qua 16 quận, huyện, thị xã,
thành phố gồm: Phúc Yên (Vĩnh Phúc), Mê Linh, Đan Phượng, Hoài Đức, Hà Đông, Thanh Oai,
Thường Tín, Sóc Sơn (Hà Nội), Văn Giang, Yên Mỹ, Văn Lâm, Khoái Châu (Hưng Yên); Từ Sơn,
Tiên Du, Yên Phong, Thuận Thành (Bắc Ninh). Đường vành đai 4 sẽ vượt các sông Hồng, sông
Đuống. Chi phí dự kiến cho dự án là 65 nghìn tỷ đồng, được đầu tư theo hình thức BOT (Build-
Operate-Transfer). Thời gian xây dựng đường vành đai 4 sẽ bắt đầu từ khoảng năm 2021, hoàn thành trước 2025.
Đầu tư xây dựng tuyến đường Vành đai 4 - Vùng thủ đô Hà Nội, vành đai liên vùng kinh tế
trọng điểm Vùng Thủ đô Hà Nội, kết nối Thủ đô Hà Nội với tỉnh Hưng Yên, tỉnh Bắc Ninh và các
địa phương khác trong vùng, phát huy hiệu quả đầu tư đối với các dự án đã và đang được đầu tư,
tạo không gian phát triển mới và giải quyết các vấn đề tồn tại của Thủ đô Hà Nội, khai thác tiềm lOMoAR cPSD| 58933639
năng sử dụng đất, xây dựng hệ thống đô thị bền vững, hiện đại; góp phần thực hiện thắng lợi các
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng.
Hiện nay, Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội đã đưa ra thông báo khảo sát sự quan tâm của các nhà
đầu tư đối với Dự án thành phần 3: Đầu tư xây dựng hệ thống đường cao tốc theo phương thức đối
tác công tư thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4.
Đầu tư xây dựng đường cao tốc với tổng chiều dài 112,8km (Hà Nội: 58.2 Km; Hưng Yên:
19,3Km; Bắc Ninh: 25,6 Km và tuyến nối 9,7km). Mặt cắt ngang trên tuyến cao tốc đảm bảo 04
làn xe (mặt cắt ngang 17,0m, bề rộng cầu 17,5m theo chủ trương đầu tư dự án tại Nghị quyết số
56/2022/QH15 ngày 16/6/2022 của Quốc hội) và 08 nút giao liên thông hoàn chỉnh giao cắt với
đường hiện trạng (nút giao cao tốc Hà Nội- Lào Cai; nút giao trục Mê Linh; nút giao trục đại lộ
Thăng Long; nút giao QL6; nút giao Pháp Vân- Cầu Giẽ; nút giao cao tốc Hà Nội – Hải Phòng;
nút giao QL38; nút giao cao tốc Nội Bài – Bắc Ninh) cùng với các lối ra vào đường cao tốc bảo
đảm khai thác an toàn, hiệu quả. Tổng mức đầu tư là 56.536 tỷ đồng; trong đó, trên tuyến có các
cầu vượt sông chính, bao gồm: (i) Cầu Hồng Hà (cách cầu Thăng Long về thượng lưu 11,5km):
tổng chiều dài khoảng 5.015m, kết cấu cầu BTCT dự ứng lực, nhịp lớn nhất 135m, Bn = 17,5m;
(ii) Cầu Mễ Sở (cách cầu Thanh Trì về hạ lưu khoảng 16km): tổng chiều dài khoảng 2.647m, kết
cấu cầu BTCT dự ứng lực, nhịp lớn nhất 135m, Bn = 17,5m. (iii) Cầu Hoài Thượng (cách cầu
Đuống về hạ lưu 32km): tổng chiều dài khoảng 990m, kết cấu cầu BTCT dự ứng lực, nhịp lớn nhất 120m, Bn = 17,5m.
Về thời gian thực hiện dự án. Tổ chức lập, thẩm định và phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi:
Hoàn thành vào tháng 01/2023. Lựa chọn nhà đầu tư: Hoàn thành vào tháng 6/2023. Khởi công
xây dựng: Tháng 6/2023. Dự định cơ bản hoàn thành năm 2026 và đưa vào khai thác từ năm 2027.
Dự án dự kiến với mức vốn ngân sách nhà nước là 27.089 tỷ đồng, trong đó có 18.313 tỷ
đồng từ ngân sách trung ương và 8.776 tỷ đồng. Ngoài ra vốn nhà đầu tư thu xếp ở mức 29.447 tỷ đồng. b. Đường Vành đai 5
Đường Vành đai 5 Hà Nội quy hoạch đi qua địa giới hành chính của 36 quận, huyện, thành phố
trực thuộc 8 tỉnh, thành: Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương, Bắc Giang, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc.
Trong đó, đoạn qua thành phố Hà Nội dài khoảng 48km; qua tỉnh Hòa Bình 35,4km; qua tỉnh
Hà Nam 35,3km; qua tỉnh Thái Bình 28,5 km; qua tỉnh Hải Dương 52,7km; qua tỉnh Bắc Giang
51,3km; qua tỉnh Thái Nguyên 28,9 km, qua địa phận tỉnh Vĩnh Phúc 51,5 km.
Tổng chiều dài toàn tuyến đường Vành đai 5 khoảng 331,5km (không bao gồm khoảng 41 km
đi trùng các đường cao tốc Nội Bài - Hạ Long, Hà Nội - Thái Nguyên, Nội Bài - Lào Cai và quốc lộ 3).
Đường Vành đai 5 chính tuyến có đường gom, đường song hành, quy mô 4 ÷ 6 làn xe, bề rộng
nền đường tối thiểu 25,5 ÷ 33,0 m cho các đoạn Sơn Tây - Phủ Lý (từ đường Hồ Chí Minh đến
cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình) và Phủ Lý - Bắc Giang (từ cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình đến cao tốc
Hà Nội - Lạng Sơn) thuộc địa phận thành phố Hà Nội, các tỉnh Hòa Bình, Hà Nam, Thái Bình, Hải
Dương và Bắc Giang; tiêu chuẩn đường ô tô cấp II, quy mô 4 ÷ 6 làn xe, bề rộng nền đường tối lOMoAR cPSD| 58933639
thiểu 22,5 ÷ 32,5m cho các đoạn Bắc Giang - Thái Nguyên (từ đường cao tốc Hà Nội Lạng Sơn
đến cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên) và đoạn Thái Nguyên - Vĩnh Phúc - Sơn Tây (từ đường cao
tốc Hà Nội - Thái Nguyên đến đường Hồ Chí Minh) thuộc địa phận các tỉnh Bắc Giang, Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc và thành phố Hà Nội (đoạn qua thị xã Sơn Tây). Từ Vĩnh Phúc sang Thái
Nguyên, đường vành đai 5 sẽ đi qua hầm đường bộ Tam Đảo. c. Khác:
Ngoài 2 dự án xây dựng đường vành đai kể trên, trong tương lai Hà Nội sẽ còn tiếp tục thực
hiện các dự án còn lại của hệ thống đường sắt đô thị Hà Nội bao gồm 8 tuyến và 3 dự án tàu điện
1 ray. Tuy nhiên loạt dự án này vẫn chỉ mới ở mức tầm nhìn trong tương lai.
VI. Những tồn tại hạn chế của đầu tư công, nguyên nhân, giải pháp 1. Những tồn tại
a. Thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả vì “lợi ích nhóm” trong đầu tư công
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ” nêu rõ: “Đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua
sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc”… Phát biểu
tại Hội nghị đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước tổ chức ngày 16-10
vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ ra một số yếu kém trong đầu tư công,
bởi còn hiện tượng “sân trước, sân sau”, thậm chí “vườn sau” trong doanh nghiệp nhà nước…
Ở nước ta, đầu tư công được chia thành 3 nhóm, gồm các hoạt động kinh tế, xã hội và hành
chính. Thực tế thời gian qua cho thấy, lĩnh vực đầu tư công nào cũng phát hiện có tham nhũng,
lãng phí mà nguyên nhân chủ yếu là quản lý yếu kém và “lợi ích nhóm”.
Báo cáo Chính phủ ngày 3-7-2019 về công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư năm 2018,
do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thống kê cho thấy, vẫn còn rất nhiều dự án sử dụng vốn nhà nước có vi
phạm, gây thất thoát, lãng phí. Cụ thể, trong năm 2018, có 30.521 dự án kết thúc đầu tư đưa vào
khai thác sử dụng, chiếm 54% số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ.
Tuy nhiên, trong số các dự án đó, có 245 dự án có vấn đề về kỹ thuật, không hiệu quả. Những
tỉnh có số dự án thất thoát, lãng phí nhiều nhất là Bắc Giang (196 dự án), Phú Thọ (111 dự án),
Quảng Ngãi (58 dự án)…
Ngày 2-10-2017, tại phiên giải trình trước Thường vụ Quốc hội về tình hình triển khai thực
hiện Luật Đầu tư công (bản năm 2014) và kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020,
đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công bố 72 dự án với tổng số vốn đầu tư 42.700 tỷ đồng có
dấu hiệu không hiệu quả ở các bộ, ngành, địa phương, trong đó nhiều nhất là ở Bộ Công Thương
với 12 đại dự án thua lỗ hàng chục nghìn tỷ đồng.
Bộ Giao thông - Vận tải cũng có nhiều dự án đầu tư công kém hiệu quả, điển hình là Dự án
đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông đội vốn 205,27%, chậm tiến độ 6 năm so với kế hoạch và
chưa chốt được thời gian đưa vào sử dụng. lOMoAR cPSD| 58933639
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có công trình thủy lợi dự tính tưới tiêu 1.000ha, nhưng
làm xong chỉ tưới được cho 500ha... Đây mới chỉ là số thống kê từ 30% dự án trên tổng dự án cần rà soát.
Thất thoát, lãng phí trong đầu tư công kéo dài nhiều năm khiến hiệu quả đầu tư bị hạn chế, làm
thâm hụt ngân sách và tăng nợ công quốc gia. Lo ngại hơn cả là những tiêu cực như tham nhũng,
hối lộ, rút ruột công trình... dẫn đến phá hoại ngầm giá trị của xã hội, làm mất lòng tin của người
dân đối với Đảng, Nhà nước.
b. Cơ cấu đầu tư công chưa hợp lý
Trong cơ cấu đầu tư phát triển toàn xã hội, vốn đầu tư khu vực nhà nước mặc dù có xu hướng
giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao (trung bình giai đoạn 2010-2018 khoảng 37,8%). Trong một số
ngành như Giáo dục Đào tạo, ngành Y tế, vốn đầu tư nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ quá lớn trong tổng
vốn đầu tư toàn xã hội. Theo PGS.TS Bùi Tất Thắng (2018), tỷ trọng vốn đầu tư công năm 2015
trên tổng đầu tư cho lĩnh vực giáo dục đào tạo là 78,7%; y tế: 67,2%; sản xuất và phân phối điện,
khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hòa không khí: 74%; thông tin và truyền thông: 63,5%; hoạt
động chuyên môn và khoa học công nghệ: 61,2%; nghệ thuật vui chơi và giải trí: 71,7%. Cơ cấu
đầu tư nội bộ ngành, lĩnh vực còn chưa hợp lý (chi nông nghiệp chủ yếu vào hệ thống thủy lợi, chi
giao thông vận tải chủ yếu vào đường bộ...) và chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa chi đầu tư và chi
thường xuyên (đảm bảo trang thiết bị, vận hành, duy tu, bảo dưỡng...). Đầu tư vốn ngân sách nhà
nước vẫn dựa chủ yếu vào nguồn bội chi ngân sách (vay nợ trong nước và nước ngoài) do cân đối
ngân sách gặp khó khăn. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển trên tổng chi ngân sách nhà nước giảm dần
theo mức giảm bội chi ngân sách nhà nước, năm 2015 khoảng 17,4% (so với năm 2011 là 26,4%).
Trong phân bổ vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước, vẫn còn tình trạng giao vốn nhiều
lần chưa đúng quy định, giao vốn cho dự án không có trong danh mục đầu tư công trung hạn, giao
vốn đối ứng ODA khi chưa có quyết định đầu tư 100 tỷ đồng, xác định nguồn vốn ngân sách trung
ương trong tổng mức đầu tư vượt tỷ lệ được hỗ trợ 543 tỷ đồng.. c. Tốc độ giải ngân đầu tư công còn chậm lOMoAR cPSD| 58933639
Báo cáo của Bộ KH&ĐT tại cuộc họp ngày 30/11/2022 cho biết tổng kế hoạch đầu tư vốn ngân
sách Nhà nước (NSNN) năm 2022 là trên 580.261 tỷ đồng; số vốn đã được Thủ tướng
Chính phủ giao là 580.064 tỷ đồng.
Theo Bộ Tài chính, ước tỉ lệ giải ngân kế hoạch đầu tư vốn NSNN đến ngày 31/11 là
338.319,81 tỷ đồng, đạt 58,33% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, so với mức 63,86% cùng kỳ năm 2021.
Có 6 bộ, cơ quan Trung ương và 14 địa phương có tỉ lệ giải ngân đạt trên 80% kế hoạch Thủ
tướng giao. Tuy nhiên, 34/51 bộ, cơ quan Trung ương và 22/63 địa phương có tỉ lệ giải ngân đạt
dưới mức trung bình của cả nước (58.33%), trong đó có 5 bộ, cơ quan Trung ương có tỉ lệ giải
ngân dưới 25% kế hoạch Thủ tướng giao.
Bộ KH&ĐT cho biết, đối với các dự án chuyển tiếp, việc giải ngân chậm do năng lực tổ chức
thực hiện dự án còn yếu, nhất là năng lực cán bộ quản lý dự án còn hạn chế. Vướng mắc về giải
phóng mặt bằng, giá cả nguyên vật liệu tăng cao dẫn đến nhà thầu thi công chầm chừng. Một số
dự án cho ảnh hưởng biến động tăng giá dẫn đến vượt chi phí dự phòng làm tăng tổng mức đầu tư
phải rà soát lại các hạng mục.
Hầu hết các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương thuộc Tổ công tác số 1 đều có dự án khởi
công mới trong năm 2022. Các dự án đã có quyết định đầu tư đủ điều kiện giao kế hoạch vốn,
nhưng chưa thể triển khai thực hiện, giải ngân vốn do sau khi có quyết định đầu tư, các dự án tiếp
tục thực hiện bước lập, thẩm định, phê duyệt bản vẽ thi công, phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà
thầu mới có thể ký kết được hợp đồng, khởi công công trình, tạm ứng và thanh toán vốn. Bộ
KH&ĐT cho biết, thời gian đấu thầu khoảng 4 tháng để lựa chọn đơn vị tư vấn thiết kế bản vẽ thi
công và nhà thầu thi công.
Chính quyền địa phương một số nơi chậm giải phóng mặt bằng, bàn giao đất sạch. Việc điều
chỉnh quy hoạch làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân vốn các dự án của Tòa án nhân
dân Tối cao, Bộ Tư pháp.
Về thể chế, các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương dự họp kiến nghị đối với việc thẩm định
báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng của cơ quan chuyên môn về xây dựng, cần sửa đổi
theo hướng giao cơ quan chuyên môn xây dựng cấp tỉnh thẩm định báo cáo này.
Về thẩm quyền kiểm tra công tác nghiệm thu trong quá trình thi công và khi hoàn thành công
trình, các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương đề nghị sửa đổi theo hướng giao cơ quan chuyên
môn xây dựng của địa phương kiểm tra công tác nghiệm thu để tiết kiệm thời gian, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn.
Liên quan đến đất san lấp có phải là khoáng sản hay không, cần sửa đổi quy định về khái niệm
"khoáng sản" theo hướng tài nguyên đất hay đất đồi, đất san lấp không phải là khoáng sản; cần có
quy định riêng biệt về trình tự, thủ tục, thành phần hồ sơ cấp phép hoạt động khoáng sản đối với
từng nhóm, loại khoáng sản tổ chức cá nhân được cấp phép phù hợp. lOMoAR cPSD| 58933639
d. Dự án chậm tiến độ
Trong kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí giai đoạn 2016-2021” Đoàn giám sát Quốc hội đã cảnh báo về việc hàng nghìn dự án đầu
tư công chậm tiến độ, có xu hướng tăng dần qua các năm. Tổng hợp báo cáo không đầy đủ của các
bộ, ngành, địa phương giai đoạn 2016-2021, số dự án chậm tiến độ như sau: năm 2016 là 1.448 dự
án, năm 2017 là 1.609 dự án, năm 2018 là 1.778 dự án, năm 2019 là 1.878 dự án, năm 2020 là
1.867 dự án, năm 2021 là 1.962 dự án.
Trong đó, đáng chú ý hầu hết các dự án quan trọng quốc gia, các dự án lớn, trọng điểm đều
chậm tiến độ, điển hình là: Dự án tuyến đường sắt thí điểm Thành phố, đoạn Nhổn-ga Hà Nội;
Tuyến đường sắt đô thị số 2 đoạn Nam Thăng Long-Trần Hưng Đạo; Tuyến đường sắt số 1: Bến
Thành - Suối Tiên; Tuyến đường sắt số 2: Bến Thành - Tham Lương,...
Nhiều dự án triển khai kéo dài, đầu tư không dứt điểm, kém hiệu quả. Ví dụ, tỉnh Bình Dương
có 55 dự án chậm tiến độ; 15 công trình, dự án phải tạm dừng sau khi được cấp thẩm quyền chấp
thuận chủ trương đầu tư; 225 lượt dự án được các cơ quan chức năng thực hiện kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán. Trong đó có 109 lượt dự án phát hiện có sai phạm với tổng số tiền thực hiện không phù
hợp được các cơ quan chức năng kiến nghị xử lý là trên 442 tỷ đồng.
Cụ thể, Dự án nhóm B nhưng kéo dài quá 5 năm, nhóm C quá 3 năm. Tỉnh Thanh Hóa có dự
án nhóm B kéo dài 13 năm (Dự án đê, kè biển xã Hải Châu, tỉnh Thanh Hóa); Tỉnh Long An có 17
dự án nhóm B bố trí vốn kéo dài từ 6 đến 17 năm, 15 dự án nhóm C bố trí vốn kéo dài từ 4 đến 9 năm.
Theo đoàn giám sát, đây là vấn đề tồn tại kéo dài nhiều năm, chưa được khắc phục đáng kể,
gây lãng phí lớn trong sử dụng vốn đầu tư công. Lý do chậm tiến độ chủ yếu bởi công tác giải
phóng mặt bằng, bố trí vốn không kịp thời, do năng lực của chủ đầu tư, ban quản lý dự án và các nhà thầu... 2. Nguyên nhân
- Thể chế pháp luật về đầu tư công ty đã khá đồng bộ, nhưng vẫn còn tồn tại các quy
định chồng chéo giữa các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư công, như: quy định lOMoAR cPSD| 58933639
về đất đai, về môi trường, xây dựng (bất cập này đã được xử lý cơ bản tại Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14).
- Lúng túng trong những năm đầu của kỳ trung hạn giai đoạn 2016-2020 trong việc
triển khaiLuật Đầu tư công và văn bản hướng dẫn, đặc biệt lúng túng trong quá trình chuẩn
bị và hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án.
- Chất lượng chuẩn bị dự án chưa tốt, một số bộ, cơ quan và trung ương và địa
phương phê duyệt dự án chưa đảm bảo đầy đủ các quy định hiện hành. Trong công tác lập
dự án, vẫn còn tình trạng một số dự án chuẩn bị đầu tư và phê duyệt dự án mang tính hình
thức để có điều kiện ghi vốn.
- Chất lượng quy hoạch còn thấp, tính dự báo còn hạn chế, thiếu tính liên kết, đồng
bộ gây lãng phí và kém hiệu quả đầu tư đặc biệt là các dự án hạ tầng. Công tác giải phóng
mặt bằng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, mất nhiều thời gian, làm chậm tiến độ của hầu hết các dự án.
- Kỷ luật đầu tư công không nghiêm, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương
không chấp hành nghiêm các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn đầu tư công, dẫn đến phải
điều chỉnh phương án phân bổ nhiều lần, ảnh hưởng tiến độ giao kế hoạch của cả nước, lập
kế hoạch đầu tư công không sát với khả năng thực hiện dẫn đến phải điều chỉnh kế hoạch
trong quá trình thực hiện.
- Chất lượng cán bộ, trách nhiệm người đứng đầu, năng lực quản lý của một số chủ
đầu tư ở một số nơi còn hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến việc hoàn thiện thủ tục đầu tư, thi
công triển khai thực hiện dự án. Công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra chưa được quan tâm đúng mức...
- Công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều trở ngại, vướng mắc, mất nhiều thời gian
nên làm chậm tiến độ của hầu hết các dự án. Nhiều dự án phải điều chỉnh tăng tổng mức
đầu tư do chi phí giải phóng mặt bằng tăng cao, gây khó khăn trong việc cân đối vốn và
hoàn thành dự án theo đúng tiến độ. 3. Giải pháp
-Khẩn trương hoàn thiện thủ tục đầu tư của các dự án; đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng,
tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc liên quan đến đất đai, tài nguyên; đôn đốc, đẩy nhanh tiến
độ thi công; thực hiện nghiệm thu, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng; rà soát, điều
chuyển kế hoạch vốn giữa các dự án chậm giải ngân sang các dự án có tiến độ giải ngân tốt, còn thiếu vốn.
-Xây dựng kế hoạch đầu tư hằng năm; trong đó yêu cầu quan trọng là xác định dự án trọng
tâm, trọng điểm cùng nguồn lực. Nói cách khác, vốn đầu tư công như “miếng bánh”, nếu dàn trải
mỗi nơi một chút, nguồn vốn khó trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển và trở nên lãng phí.
Ngược lại, nếu lựa chọn đúng dự án ưu tiên, đầu tư có trọng điểm, mỗi dự án sẽ tạo ra sức bật mới
mạnh mẽ cho phát triển.
- Bên cạnh đó, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công,
gồm nângchất lượng thể chế quản lý, nghiêm túc thực hiện quy định pháp luật về đầu tư
công, kịp thời đôn đốc, tháo gỡ vướng mắc cho từng dự án. Công tác chuẩn bị dự án đòi lOMoAR cPSD| 58933639
hỏi phải kỹ lưỡng, đúng quy định, nhưng cũng cần nhanh chóng, kịp thời thông qua đẩy
mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền.
- Mặt khác, công tác phối hợp giữa các sở, ngành, địa phương cũng cần chú trọng,
bởi việc phối hợp tốt là “chìa khóa” giúp các dự án đầu tư được triển khai đúng kế hoạch,
tiến độ, bảo đảm chất lượng.
- Khâu theo dõi, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư phải được thực hiện
quyết liệt, sâu sát; cách làm linh hoạt, mang tính đột phá, khi cần thiết sẽ điều chuyển vốn
giữa các dự án để tránh đọng vốn, đọng việc ở nơi trì trệ...
- Cần linh hoạt trong một số vấn đề liên quan đến Luật Đầu tư công, không chỉ riêng
Hà Nội mà các tỉnh, thành khác cũng đang vướng, đó là câu chuyện phải có đủ vốn mới
được phê duyệt chủ đầu tư. Hà Nội nhiệm kỳ này có 250.000 tỷ vốn đầu tư công, với số
tiền này, Hà Nội chỉ bố trí cho 5-7 công trình đã hết số tiền này mà cũng phải làm trong ít nhất 2 nhiệm kỳ.
- Tuân thủ các quy chuẩn về thủ tục và quy trình đầu tư, thực hiện đấu thầu thực chất
và rộng rãi cho các thành phần kinh tế với các nguồn lực đầu tư công. Tăng cường giám
sát, phản biện và kiểm tra, xử lý kịp thời và nghiêm minh các vi phạm đầu tư công bằng
các công cụ chế tài về tài chính và hành chính.
- Đổi mới phân bổ đầu tư công gắn với tài chính công và tái cấu trúc nền kinh tế với
chính sách tài khoá và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch trên cơ sở tôn trọng tính tự
phát triển của địa phương, tăng cường hơn nữa vai trò tổng cân đối chung của Chính phủ… VII. Tổng kết