Đề cương Cơ sở lý luận xuất bản | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Trình bày sự ra đời và phát triển của sách trong các giai đoạn lịch sử. Trình bày khái niệm xuất bản và xuất bản phẩm. Trình bày các lĩnh vực trong hoạt động xuất bản. Trình bày khái niệm đời sống chính trị xã hội. Trình bày khái niệm đời sống kinh tế xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
45 trang 1 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương Cơ sở lý luận xuất bản | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Trình bày sự ra đời và phát triển của sách trong các giai đoạn lịch sử. Trình bày khái niệm xuất bản và xuất bản phẩm. Trình bày các lĩnh vực trong hoạt động xuất bản. Trình bày khái niệm đời sống chính trị xã hội. Trình bày khái niệm đời sống kinh tế xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

52 26 lượt tải Tải xuống
Câu 1 : Trình bày sự ra đời phát triển của sách trong các giai đoạn lịch sử.
- Sách ra đời gắn liền với chữ viết (chữ ghi âm). => Công cụ lưu trữ thông tin truyền
thông. Sách sp văn hóa chứa đựng các tp văn hóa, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần để lưu
trữ, truyền các giá trị văn hóa tinh thần rộng rãi trong XH từ thế hệ này -> thế hệ khác.
- Sách được phát triển cùng với hội loài người.
+ Nhu cầu tinh thần tăng lên, nhu cầu dùng sách càng lớn, dân trí càng cao, sách càng
cần nhiều. => Công cụ thúc đẩy sự phát triển văn hóa, văn minh.
+ Sự pt của sách cũng phụ thuộc vào sự pt của lực lượng sx của khoa học công nghệ
chế tác sách các thời đại.
Sách thời cổ đại: chế tác trên các vật liệu tự nhiên như đá, vỏ cây papyrus, đất sét,...
Sách thời Trung cổ: sách chép tay trên da thú, giấy mỏng, sách in khắc gỗ thủ công.
Sau này, xuất hiện sách in công nghiệp: bước ngoặt ý nghĩa cách mạng trong
lịch sử sách. kết quả của 2 chiều của sự phát triển XH: 1 hệ thống thuật in mới cho
phép cải tiến sách thành vật thể chứa được những tp nội dung thông tin lớn, đc sx
nhanh tiện lợi; 2 sự biến đổi phong phú của thế giới duy khả năng truyền
rộng rãi những thành tựu văn hóa tinh thần trong thời kỳ VH Phục Hưng châu Âu.
Bước nhảy vọt trong xuất bản sách còn nhờ sự thúc đẩy của các động lực văn hóa tinh
thần. Chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng, sự pt của trí tuệ, việc dân chủ hóa trong đời
sống văn hóa tinh thần,... => tiền đề XH bản để ngành XB pt hoàn thiện mạnh mẽ
gồm 3 bộ phận: biên tập, in, phát hành.
Sách điện tử: loại hình sách mới của thời đại thông tin, sách của thời đương đại
tương lai. Sự ra đời của sách điện tử cũng bước pt cách mạng trong hoạt động XB.
(Sách in trên đĩa mềm vi tính, sách in trên các chíp nhớ, sách trên đĩa CD- Rom, sách điện
tử ebook, sách trực tuyến).
Câu 2: Trình bày khái niệm xuất bản xuất bản phẩm.
* Khái niệm xuất bản:
Khái niệm xuất bản với cách khái niệm của khoa học xuất bản sự khái quát hóa 1 quá trình
vừa sáng tạo tinh thần, vừa sáng tạo vật chất. Nội hàm XB do 3 yếu tố tạo thành:
+ Thứ nhất, XB hoạt động gia công biên tập đối với các tác phẩm, làm cho phù hợp
với nhu cầu của độc giả.
XB không phải sáng tác, sáng tác nằm ngoài khái niệm XB. XB khai thác đề tài từ các
tp đã có. XB hoạt động lựa chọn văn hóa sao cho những tác phẩm phù hợp với nhu
cầu tiếp nhận, nhu cầu tiêu dùng tinh thần của độc giả. Sp của xuất bản những tp văn
hóa tinh thần đã được gia công hoàn thiện để truyền bá. Nếu không qua lựa chọn, gia
công biên tập, các sp nhân bản đều kp xuất bản.
+ Thứ hai, XB hoạt động nhân bản hàng loạt tp đã đc gia công, làm cho 1 hình thức
vật phẩm xác định (vỏ vật chất) để cung cấp cho độc giả sử dụng.
XB việc thực hiện truyền thông bằng phương tiện, tác phẩm văn hóa đến với
độc giả kp trực tiếp bằng truyền miệng gián tiếp qua các “vật phẩm trung
gian”. Để truyền rộng rãi, bản thảo sẽ được chế bản nhân bản hàng loạt
theo nhu cầu bạn đọc.
SP được tạo ra hàng loạt trong nền sx hàng hóa, trở thành hàng hóa chịu sự
tác động bởi quy luật sx lưu thông hàng hóa. Nếu k nhân bản, kp xuất bản.
Trong công nghệ thông tin hiện đại, xuất bản phẩm thể truyền đi khắp thế giới
qua Internet.
+ Thứ ba, XB hoạt động truyền rộng rãi các sp XB đã hoàn thành sau qt sx, nhân bản.
Sp phải đc mang đến cho đông đảo bạn đọc nhu cầu. Phát hành XBP khâu
cuối cùng của qt truyền thông. Phát hành đến đông đảo bạn đọc mục đích của
xuất bản như 1 công cụ truyền thông, 1 hoạt động truyền thông đại chúng. =>
Bản chất XB hoạt động truyền bá.
Trong chế bao cấp, phát hành chỉ khâu nối tiếp, khâu kết thúc của XB, phục
vụ cho Xb, thụ động với XB. Trong chế thị trường, phát hành vừa hoạt động
kinh doanh thương mại, khâu tiêu thụ hoạt động XB, vừa hoạt động truyền
văn hóa.
=> Xuất bản công việc đứng trung gian giữa tác giả với độc giả. XB thực hiện 1 chức năng gồm
3 mặt: chức năng tri thức, chức năng mỹ thuật kỹ thuật, chức năng thương mại. XB hoạt động
truyền XH. Xb 1 tổ hợp hoạt động văn hóa vật chất tinh thần, 1 qt nối tiếp đồng bộ hoàn
chỉnh, gồm 3 khâu: biên tập, in, phát hành.
* Khái niệm xuất bản phẩm:
- Theo nghĩa thông thường, XBP sản phẩm của hoạt động Xb. XBP các tác phẩm sau khi
gia công biên tập, qua chế bản, nhân bản để phát hành tới công chúng.
- Theo Luật Xb năm 1993, XBP quy định tại luật này tp về chính trị, kinh tế, văn hóa,
hội, khoa học, công nghệ, văn học nghệ thuật các sp khác đc XB, in, nhân bản bằng các vật liệu,
phương tiện KT khác nhau, bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số, tiếng nc ngoài, đc XB
không định kỳ nhằm phổ biến cho nhiều người”.
- Điều 4 Luật XB 2004 định nghĩa lại: XBP tp, tài liệu về chính trị, kinh tế, VH, XH,
GD&ĐT, KH&CN, VH, NT đc xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số VN, tiếng nc ngoài
còn đc thể hiện bằng hình ảnh, âm thanh trên các vật liệu, phương tiện KT khác.
- So sánh với giáo trình Trung Quốc với định nghĩa Luật XB 2004, khái niệm XBP bao gồm
XBP định kỳ XBP k định kỳ.
XBP không định kỳ: bao gồm sách in, băng, đĩa nhạc, hình.
XBP định kỳ: gồm báo in, tạp chí.
=> XBP sp truyền thông để truyền cho nhiều người, để phổ biến ra XH.
Câu 3: Trình bày các lĩnh vực trong hoạt động xuất bản.
- Hoạt động xuất bản bao gồm các lĩnh vực:
+ Lĩnh vực đời sống chính trị hội: Xuất bản hoạt động sản xuất truyền các giá trị văn
hóa - tưởng. Trong hội giai cấp, tất yếu chịu sự ràng buộc chi phối của hoạt
động chính trị. Vai trò của công tác xuất bản trong lĩnh vực chính trị thể hiện trong việc đấu
tranh để giành quyền lực chính trị, cũng như trong việc củng cố, gìn giữ chính quyền, thực thi
sự lãnh đạo chính trị đối với toàn hội
+ Lĩnh vực đời sống kinh tế hội: Kinh tế nền tảng vật chất cho sự tồn tại phát triển của
hội. Do vậy, công tác xuất bản không thể không chịu sự quyết định chi phối của đời sống
kinh tế, ngược lại, cũng tác động không nhỏ đến sự phát triển bền vững của kinh tế.
+ Lĩnh vực đời sống văn hóa: Trình độ văn hóa chung của hội, sự phát triển của văn học, nghệ
thuật khoa học ảnh hưởng đến sự phát triển của xuất bản. Đồng thời, hoạt động xuất bản
cũng tác động mạnh mẽ đến các hoạt động văn hóa khác. Cũng như mọi hoạt động văn hóa,
mục tiêu cao cả của công tác xuất bản hướng tới hoàn thiện con người, đưa con người vươn
tới cái chân, thiện, mỹ, tạo nền tảng tinh thần động lực cho sự phát triển hội.
Câu 4: Trình bày khái niệm đời sống chính trị hội.
Đời sống chính trị một lĩnh vực hoạt động của hội. Đó lĩnh vực hoạt động quan hệ giữa
các giai cấp, giữa các quốc gia dân tộc gắn liền với việc giành, giữ sử dụng bộ máy quyền lực
nhà nước lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia.
Theo Từ điển từ Hán Việt của Phan Văn Các : “Chính trị toàn bộ hoạt động của các giai cấp
trong hội trong việc đấu tranh để giành quyền lợi cho mình, trước hết việc giành giữ vững
chính quyền nhà nước.”
V.I.Lênin cũng nhấn mạnh ý này : “Chính trị lĩnh vực những mối quan hệ của tất cả các giai cấp,
các tầng lớp hội với nhà nước chính phủ, lĩnh vực của tất cả các giai cấp với nhau”
Đời sống chính trị mối quan hệ hoạt động của cả hệ thống chính trị hội. nước ta, Đảng
Cộng sản hạt nhân của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo nhà nước toàn hội. Chính sách,
pháp luật của nhà nước ta sự thể chế hóa quan điểm, đường lối chính trị của Đảng. Đảng ta
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị.
Câu 5: Trình bày khái niệm đời sống kinh tế hội.
- Kinh tế tổng thể các hoạt động của một cộng đồng người, một người, một nước liên quan đến
các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối tiêu dùng các sản phẩm hội.
- Kinh tế tổng thể những mối quan hệ trong quá trình sản xuất vật chất của một hình thái kinh tế
- hội nhất định, trong tổ chức hoạt động của sở hạ tầng của hội, bao gồm các ngành
kinh tế - kỹ thuật, các loại hình sản xuất tương ứng.
- Mỗi phương thức sản xuất đều một nền kinh tế riêng. Mỗi nền kinh tế đều do các quan hệ sản
xuất, cũng như tính chất trình độ của lực lượng sản xuất quy định.
- Lịch sử hội cũng một quá trình lịch sử tự nhiên, lịch sử phát triển của phương thức sản
xuất dẫn đến sự thay đổi hình thái kinh tế - hội. Do vậy, nói đến đời sống kinh tế tức nói đến
mối quan hệ của con người với thiên nhiên ( lực lượng sản xuất) mối quan hệ giữa con người
với con người trong quá trình sản xuất hội. Phát triển kinh tế phát triển các yếu tố của lực
lượng sản xuất, phát triển mối quan hệ sản xuất để bảo đảm quan hệ sản xuất luôn phát triển phù
hợp với tính chất trình độ cúa lực lượng sản xuất.
Câu 6: Trình bày khái niệm về văn hóa hoạt động văn hóa
- Văn hoá: toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn
trên cả 2 lĩnh vực sản xuất vật chất sản xuất tinh thần. Văn hoá của một dân tộc, theo nghĩa
căn bản nhất toàn bộ những cái qua đó một dân tộc tự biểu hiện mình, tự nhận biết mình
giúp các dân tộc khác nhận biết mình văn hoá “tấm thẻ căn cước” của các dân tộc.
- Hoạt động văn hoá: quá trình hoạt động sáng tạo đặc biệt của con người nhằm sản xuất,
phổ biến tiêu dùng các giá trị, các sản phẩm văn hoá. Đó quá trình sản xuất, tái sản xuất
mở rộng các giá trị văn hoá, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần ngày càng tăng, xây dựng nền
văn hoá đa dạng của các dân tộc nhân loại.
Câu 7: Trình bày chức năng đặc điểm của công tác biên tập sách, nêu những nhận thức
chưa đúng về công tác biên tập sách nước ta hiện nay?
Chức năng:
- Thiết kế đời sống văn hoá các sản phẩm văn hoá tinh thần
- Tổ chức:
- Tối ưu hoá các tác phẩm văn hoá:
- Điều hoà giữa các mặt hoạt động xuất bản, bảo đảm cho công tác
Đặc điểm:
Biên tập hoạt động lựa chọn, gia công chỉnh đối với các tác phẩm đã có, sẽ có, không phải
hoạt động sáng tác. Công tác biên tập nảy sinh trên sở các tác phẩm đã sáng tác, đang được
sáng tác, không thể thay thế khâu sáng tác.
- Biên tập công việc của người làm truyền thông, làm xuất bản, sử dụng các thành tựu sáng
tác của các tác giả, lựa chọn, gia công để truyền bá, hội hoá các sản phẩm sáng tác, biến
các giá trị tinh thần của tác giả sáng tạo, thành giá trị văn hoá của hội. Biên tập không phải
sáng tác tác phẩm mới, không được phá vỡ tính hoàn chỉnh về nội dung, phong cách sáng
tạo của tác giả sáng tác.
- Trong quá trình xuất bản, biên tập nằm trong các hoạt động sản xuất tinh thần, tạo ra các sản
phẩm tinh thần. Sở gọi sản phẩm “tinh thần” bởi chứa đựng các thông tin tri thức,
chưa phải “hình hài vật chất” của xuất bản phẩm đang còn chờ chế bản, nhân bản, gia
công vật chất để trở thành xuất bản phẩm.
- Biên tập hoạt động sáng tạo ra những điều kiện cần thiết để các tác phẩm tinh thần, các tri
thức thể truyền bá, để hoạt động xuất bản làm tốt chức năng văn hoá của mình.
Nhận thức chưa đúng:
- Tuyệt đối hóa mặt tưởng văn hoá của hoạt động xuất bản của công tác biên tập. Coi biên
tập chỉ việc gia công chỉnh bản thảo, sửa chữa câu chữ, người “thợ chữ” cặm cụi trên
bàn giấy.
- Tuyệt đối hoá chức năng kinh doanh thương mại của biên tập, coi biên tập thuần tuý chỉ
dịch vụ thương mại, chạy theo những công việc lợi nhuận cao, không chú trọng đúng mức
đến tác động văn hoá tưởng của hoạt động xuất bản.
- Không phân biệt giới hạn giữa biên tập sáng tác, nhấn mạnh sự can thiệp của biên tập
vào nội dung sáng tác, xâm phạm quyền tác giả trong biên tập tác phẩm. Trái lại, cũng cần
tránh quan niệm quá dễ dãi, biên tập chỉ việc sửa chữa văn phạm, chính tả, không dám
động đến những giá trị tưởng, những giá trị học thuật nghệ thuật của tác phẩm, để dẫn đến
những sai sót đáng tiếc trong hoạt động xuất bản.
Câu 8: Trình bày về quyền, nghĩa vụ của biên tập viên nhà xuất bản theo quy định của pháp
luật hiện hành?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 19 Luật Xuất bản 2012 quy định BTV quyền hạn nhiệm vụ
sau:
a) Thực hiện biên tập bản thảo: 0,5 đ
b) Được từ chối biên tập bản thảo tác phẩm, tài liệu nội dung dấu hiệu vi phạm quy định tại
khoản 1 Điều 10 của Luật này phải báo cáo với tổng giám đốc (giám đốc), tổng biên tập nhà
xuất bản bằng văn bản: 0,5 đ
c) Đứng tên trên xuất bản phẩm do mình biên tập: 0,5 đ
d) Tham gia các lớp tập huấn định kỳ kiến thức pháp luật xuất bản, nghiệp vụ biên tập do quan
quản nhà nước về hoạt động xuất bản tổ chức: 0,5 đ
đ) Không được để lộ, lọt nội dung tác phẩm, tài liệu xuất bản trước khi phát hành làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả: 0,5 đ
e) Chịu trách nhiệm trước tổng biên tập nhà xuất bản trước pháp luật về phần nội dung xuất bản
phẩm do mình biên tập: 0,5 đ
Câu 9. Trình bày khái niệm biên tập, biên tập xuất bản. Sự ra đời của biên tập xuất bản
Biên tập một hoạt động gồm việc tổ chức, khai thác, lựa chọn các ấn phẩm để in, nhân bản, để
phát trong các chương trình phát thanh truyền hình; đồng thời góp phần tu chỉnh, sửa chữa, nâng
cao chất lượng tác phẩm; kiểm tra những sai sót khi nhân bản; góp phần vào việc phổ biến tác
phẩm. Với nghĩa này hoạt động hoạt động biên tập khâu công tác quan trọng của mọi hoạt động
truyền thông, của công tác báo chí, truyền thông, tuyên truyền.
Biên tập xuất bản hoạt động biên tập các xuất bản phẩm trong các nhà xuất bản, chủ yếu biên
tập sách. Đó công việc khai thác, lựa chọn, tổ chức bản thảo, gia công sửa chữa, hoàn chỉnh bản
thảo để sẵn sàng nhân bản thành xuất bản phẩm, nhằm đáp ứng các nhu cầu văn hóa tinh thần của
hội
Sự ra đời của biên tập xuất bản:
+ Khi con người phát minh ra chữ viết, thông tin, tri thức của hội được ghi lại trong các văn
bản. Thông tin tăng lên, lượng văn bản ngày càng lớn, đòi hỏi phải người thu thập, chỉnh lý,
lựa chọn các văn bản. Việc thu thập chỉnh đó đầu tiên để cất giữ các thông tin, bảo tồn
các thông tin về của cải, đất đai, những quy ước của gia đình, dòng họ để truyền lại cho các thế
hệ con cháu. Văn bản để cất giữ chỉ cần xếp theo thứ tự phân loại, không cần gia công sửa
chữ về nội dung, chủ yếu dành cho tộc trưởng các tầng lớp thống trị sử dụng. Lúc này chưa
hoạt động biên tập thật sự.
+ Khi nhu cầu truyền thông phát triển, tác giả tạo ra văn bản, bản gốc các cuốn sách, trao chúng
cho những người chép sách để chép thành nhiều bản, phổ biến cho quần chúng rộng rãi ngoài
tầng lớp thống trị. Lúc đó, hoạt động biên tập đã thực sự xuất hiện. Lúc đó, biên tập gộp chung
vào hoạt động nhân bản sai sót chưa nhiều, số bản chép tay được sản xuất chậm, số lượng
bản sao nhỏ. Hoạt động biên tập trong thời kỳ làm sách chép tay chưa cần tách ra thành một
khâu nghiệp vụ độc lập, biên tập chưa trở thành một hoạt động chuyên nghiệp, một nghề
nghiệp riêng.
+ Cùng với in khắc gỗ, hoạt động biên tập bắt đầu tách ra khỏi hoạt động sáng tác, nhân bản, trở
thành một bộ phận của công tác xuất bản. Tuy nhiên, giai đoạn này sự phân công giữa biên
tập, in phát hành vẫn chưa rệt, đội ngũ biên tập viên chuyên nghiệp vẫn chưa hình thành.
+ Sự phát minh ra kỹ thuật in công nghiệp của Gutenberg đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt
trong hoạt động xuất bản. In công nghiệp cùng với trào lưu văn hóa Phục Hưng châu Âu
sự ra đời của chủ nghĩa bản đã những tiền đề quan trọng cho ngành xuất bản hiện đại ra
đời với đầy đủ cả 3 khâu hoạt động tính chuyên nghiệp biên tập, in phát hành. Sách
được nhân bản với số lượng lớn, thời gian sản xuất nhanh cũng nhanh chóng được phát hành
rộng rãi trong hội.
+ Hoạt động biên tập trong hội hiện đại gồm việc tổ chức khai thác, lựa chọn các tác phẩm để
in, nhân bản, để phát trong các chương trình truyền thông; đồng thời góp phần tu chỉnh, sửa
chữa, nâng cao chất lượng tác phẩm; kiểm tra những sai sót khi nhân bản; góp phần vào việc
phổ biến tác phẩm. Hoạt động biên tập khâu quan trọng của mọi hoạt động truyền thông, của
công tác thông tin tuyên truyền.
Câu 10: Trình bày khái niệm hội hoá trong hoạt động xuất bản nước ta hiện nay.
1. Khái niệm hội
- hội theo nghĩa hẹp chỉ một hệ thống hội cụ thể trong lịch sử, một hình thức nhất
định của những quan hệ hội, hội vào một trình độ phát triển nhất định (Vd: hội
lệ, phong kiến)
- hội theo nghĩa rộng chỉ toàn hộ hoạt động chung của con người đã hình thành trong
lịch sử, quan hệ cộng đồng giữa người với người trong mọi lĩnh vực.
2. Khái niệm hội hóa
- hội hóa một khái niệm của nhân loại học hội học được định nghĩa một quá trình
tương tác hội kéo dài suốt đời qua đó nhân phát triển khả năng con người học hỏi các
mẫu văn hóa của mình.
3. Khái niệm hội hóa trong hoạt động xuất bản nước ta hiện nay
- Khái niệm hội hóa hoạt động xuất bản chứa đựng những nội hàm chung của khái niệm
hội hóa trên cả ba lĩnh vực chính trị, kinh tế văn hóa.
- Khái niệm hội hóa xuất bản thực chất hội hóa một hoạt động văn hóa cụ thể. Song
hội hóa đây không phải khái niệm chỉ sự “nhập thân văn hóa” của nhân trong chức
năng hình ảnh nhân cách hội của văn hóa, được hiểu trong sự đối nghĩa với nhà nước hóa
thời kỳ bao cấp.
Câu 11: Những sai phạm thường gặp nội dung xuất bản phẩm
Các sai phạm thường gặp trong nội dung xuất bản phẩm bao gồm:
- Vi phạm bản quyền: Đây một trong những sai phạm phổ biến nhất trong ngành xuất bản. Việc
sao chép nội dung của tác giả không sự cho phép của họ vi phạm bản quyền.
- Lỗi chính tả ngữ pháp: Nội dung xuất bản phẩm cần phải được kiểm tra kỹ lưỡng để đảm bảo
không lỗi chính tả ngữ pháp. Việc xuất bản nội dung không chính xác thể làm giảm uy
tín của tác giả của nhà xuất bản.
- Sai sót về thông tin: Nội dung xuất bản phẩm cần phải chính xác về thông tin để đảm bảo rằng
độc giả không bị đánh lừa. Việc xuất bản thông tin sai lệch thể gây ra hậu quả nghiêm trọng
cho độc giả.
- Nội dung không phù hợp: Nếu nội dung của xuất bản phẩm không phù hợp với độc giả hoặc
không tuân thủ các quy định về đạo đức, thể gây ra tranh cãi ảnh hưởng đến uy tín của
tác giả của nhà xuất bản.
Câu 12: So sánh giá trị thông tin của sách với báo chí?
1. Đặc điểm thông tin:
* Sách:
Sách, “tập hợp một số lượng nhất định những tờ giấy chữ in, ghi lại những thông tin, tri thức...
thuộc một lĩnh vực nào đó được đóng lại thành quyển”. Sách ra đời từ khi con người phát minh
ra công nghệ làm giấy sau đó công nghệ in.
hàng trăm chuyên đề sách khác nhau. thể nói rằng, đọc sách giúp tiếp thu nhiều kiến thức;
góp phần lan tỏa tri thức.
Tính phi định của sách được hiểu sự không hạn, không tuân theo từng khi đăng tải tin
tức, bài viết như báo chí. Người đọc thể cập nhật thông tin bất thời điểm nào trong ngày, bất
nơi đâu bằng việc đọc sách. Tính phi định cũng giúp người đọc sử dụng thời gian 1 cách hiệu
quả phù hợp để nắm bắt thông tin, dẫn đến sự thay đổi trong hoạt động công việc, học tập, các
vấn đề chính trị, văn hóa, du lịch,...
* Báo chí:
Tính định một trong những tính chất đặc trưng bản của loại hình báo chí truyền thống,
chính đã tạo nên tính khẩn trương trong việc cập nhật thông tin.
Các loại hình báo chí phải tuân thủ nguyên tắc định kì, ra theo số báo hàng ngày, hàng tuần, hàng
tháng,...Dựa trên từng loại hình báo chí quan chủ quản sẽ quyết định hạn xuất bản thích hợp.
dụ: Tạp chí khoa học, Tạp chí luận thường hạn 1 tháng, 2 tháng hoặc 3 tháng. Tạp chí
tin tức thể xuất bản theo tuần hoặc 2 số/tuần. Còn tính định của báo bao giờ cũng ngắn hơn
tạp chí, thể báo hàng ngày, hàng tuần.
Tính định còn ý nghĩa trong việc quyết định kế hoạch viết bài, tổ chức biên tập, lên trang báo
(hoặc xây dựng chương trình phát sóng), sửa bản tin phát hành. Tính định của báo chí, một
mặt phù hợp với sự vận động nhịp nhàng của cuộc sống theo quy luật của nó, mặt khác đáp ứng
nhu cầu thông tin thường xuyên của công chúng.
2. Giá trị thông tin:
* Sách:
Không cần nói thì chúng ta ai cũng đều ý thức rất về vai trò, tầm quan trọng giá trị to lớn của
sách vở đối với cuộc sống con người. V. I. Lênin từng nói: “Không sách thì không tri thức.
Không tri thức thì không chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản”. Trong thời đại thông tin
với sự cổ xuý mạnh mẽ cho văn hoá đọc hiện nay, sách đang trở thành một sản phẩm vai trò
cùng quan trọng đối với sự phát triển của nhân loại. Sách đã đúc, ghi chép lưu truyền mọi tri
thức, mọi thành tựu loài người đã tìm tòi, tích lũy qua từng thời đại.
Sách kho tàng quí báu của di sản tinh thần loài người thu lượm, suy ngẫm suốt mấy ngàn
năm.
Những cuốn sách giá trị được coi những cột mốc trên con đường phát triển học thuật của nhân
loại.
* Báo chí:
Báo chí, dựa trên những điều tra, tìm hiểu để làm sáng tỏ đời sống hội, văn hóa. Đây chính
một bộ máy của chính quyền (điều này đặc biệt đúng Việt Nam) để tìm hiểu thông tin, phổ biến
phân tích tin tức.Đây những quan ngôn luận, cung cấp thông tin ý kiến về mọi vấn đề.
Thông tin đến công chúng một cách nhanh chóng đó điều báo chí luôn tự hào. Thông tin trên
các trang báo mang tính đa dạng cao, phản ánh đầy đủ các sự kiện diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời
sống hội chính vậy lượng thông tin công chúng thể tiếp nhận được thông qua các trang
báo cùng phong phú.
3. Phương tiện truyền tải:
Sách:
Sách một sản phẩm của hội, một công cụ để tích lũy, truyền tri thức từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Sách chứa đựng các giá trị văn hóa tinh thần (các tác phẩm sáng tác hoặc tài liệu biên
soạn) thuộc các hình thái ý thức hội nghệ thuật khác nhau, được ghi lại dưới các dạng ngôn
ngữ khác nhau (chữ viết, hình ảnh, âm thanh, hiệu,...) của các dân tộc khác nhau nhằm để lưu
trữ, tích lũy, truyền trong hội.
Sách một khái niệm mở, hình thức sách còn được thay đổi cấu thành các dạng khác nhau theo
các phương thức chế tác nhân bản khác nhau, tùy thuộc vào môi trường sống sự phát triển
của khoa học công nghệ mỗi thời đại.
Báo chí:
Báo viết: Thể loại báo chí xuất hiện lâu đời nhất, hình thức thể hiện trên giấy, hình ảnh
minh họa. Ưu điểm: tính phổ cập cao, nội dung sâu, người đọc thể nghiên cứu. Nhược
điểm: thông tin chậm, khả năng tương tác hai chiều (giữa người đọc người viết) kém.
Còn gọi báo in, báo giấy hay báo chữ.
Báo nói: Thông tin được chuyển tải qua thiết bị đầu cuối radio bằng ngôn ngữ. Ra đời thế
kỷ 19. Ưu điểm: thông tin nhanh. Nhược điểm: không trình bày được các thông tin bằng
hình ảnh (phóng sự ảnh) hoặc các thông tin hình ảnh minh họa.
Báo truyền hình: Thông tin được chuyển tải bằng hình ảnh âm thanh qua thiết bị đầu cuối
máy phát hình (đài truyền hình) máy thu hình (television). Ưu điểm: thông tin nhanh;
khuyết điểm: khả năng tương tác hai chiều chưa cao.
Báo mạng điện tử: Sử dụng giao diện website trên Internet để truyền tải thông tin bằng bài
viết, âm thanh, hình ảnh, các đoạn video gồm cả hình ảnh động âm thanh (video clip). Ưu
điểm: thông tin cập nhật nhanh, tính tương tác hai chiều cao. Khuyết điểm: tính phổ cập yếu.
Câu 13: Chứng minh rằng, xuất bản ngành kinh doanh đặc thù, sách hàng hóa đặc biệt.
Xuất bản một hoạt động sản xuất: vừa sản xuất tinh thần, vừa sản xuất vật chất. Sản phẩm
của được phổ biến, trao đổi với công chúng trong hội. đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần
của con người. Trong chế thị trường, mọi sản phẩm do lao động của con người tạo ra, nhằm đáp
ứng nhu cầu (có ích) của con người, được đem ra trao đổi đều trở thành hàng hóa.
vậy, xuất bản nhất thiết phải mang tính chất sản xuất hàng hóa, xuất bản phẩm trở thành hàng
hóa trong chế thị trường. Tuy nhiên, xuất bản phẩm hàng hóa đặc biệt, hoạt động xuất
bản hoạt động sản xuất đặc thù vừa sản xuất hàng hóa, vừa sản xuất phi hàng hóa.
1. Tính chất hàng hóa trong từng loại ấn phẩm, từng loại sách, mảng sách không hoàn toàn
giống nhau: loại ấn phẩm bản thân hàng hóa, thể chuyển hóa trực tiếp thành của cải
vật chất khi được sử dụng, tạo ra các giá trị vật chất mới như: bản vẽ kỹ thuật, thiết kế thời trang,
thiết kế nhà cửa, phần mềm máy tính dịch vụ…
những ấn phẩm tự chỉ mang giá trị tinh thần, đáp ứng nhu cầu tâm linh. Vốn đó những
tác phẩm viết ra không mục đích lợi nhuận - kết tinh của sức lao động không vụ lợi - tác phẩm
văn học nghệ thuật - không trực tiếp làm tăng giá trị hội vật chất. Nhưng cũng phải được
phổ biến, trao đổi, xuất bản để phổ biến, trở thành hàng hóa, được mua bán trên thị trường để
thực hiện giá trị, đó giá trị đặc biệt tương đối. những ấn phẩm không thể hàng hóa. Do
xuất bản phẩm được sản xuất đặc biệt, giá thành rất cao, không thể ngang giá, không thể cạnh
tranh, sản phẩm dịch vụ công ích, nhà nước phải đảm nhận việc sản xuất cung ứng. Đó
những công trình luận văn hóa, những tuyển tập văn hóa được biên soạn công phu, tốn kém, làm
nền tảng cho văn hóa dân tộc, cần thiết cho mọi người, không thể mua được. bán nhưng phải cung
cấp, không được phân phối... sự nghiệp văn hóa, tưởng, giáo dục.
dụ : Sách luận kinh điển; Tuyển Tập Hồ Chí Minh Trọn Bộ, Tuyển Tập CD-Rom Hồ Chí
Minh Trọn Bộ, Tuyển Tập Văn Kiện Đảng Cộng Sản Việt Nam Trọn Bộ, v.v... Đây hoạt động
xuất bản phi lợi nhuận, phi thương mại, phi lợi nhuận.
2. Hàng hóa văn hóa tinh thần loại hàng hóa đặc biệt, được tạo ra từ sự kết hợp của hai
yếu tố sản phẩm tinh thần hàng hóa. Với cách hàng hóa, ấn phẩm còn sự thống
nhất hữu giữa giá trị giá trị sử dụng, được trao đổi, mua bán trên thị trường. Tuy nhiên, ấn
phẩm hàng hóa đặc biệt. Tính đặc biệt thể hiện cả giá trị giá trị sử dụng của nó.
- Giá trị sử dụng của xuất bản phẩm tính hữu dụng của thể thoả mãn yêu cầu sinh hoạt văn
hoá tinh thần của con người: nghiên cứu, học tập, giải trí, bồi dưỡng tình cảm đạo đức.
Tuy nhiên, với đặc thù sản phẩm văn hóa tinh thần, thị trường xuất bản không chỉ mua bản,
không chỉ lấy lợi nhuận làm thước đo giá trị hiệu quả kinh doanh, bởi còn những ảnh
hưởng cùng to lớn, sự to lớn của đối với nền kinh tế đất nước, đối với đời sống tinh thần
hội.
Quan hệ cung cầu trên thị trường xuất bản không phải lúc nào cũng thuần túy mua bán, thương
mại hóa. những mối quan hệ chỉ trao đổi, chia sẻ, không vụ lợi
dụ:
+ Thư viện công cộng: Thư viện công cộng cung cấp các tác phẩm văn học nghệ thuật
miễn phí cho người dân. Đây một hình thức quan hệ cung cầu không mục đích lợi nhuận,
chỉ muốn giúp độc giả tiếp cận với các tác phẩm văn học nghệ thuật một cách dễ dàng miễn
phí.
+ Các trang web chia sẻ sách điện tử: Các trang web chia sẻ sách điện tử như Project
Gutenberg cung cấp các tác phẩm văn học miễn phí cho người đọc. Những trang web này không
mục tiêu lợi nhuận từ việc sản xuất phân phối sách, chỉ muốn giúp độc giả tiếp cận với các
tác phẩm văn học một cách dễ dàng thuận tiện.
+ Các nhà xuất bản sản xuất các tác phẩm văn học nghệ thuật đặc sắc: Một số nhà xuất bản
sản xuất các tác phẩm văn học nghệ thuật đặc sắc không chỉ để bán hàng còn để giữ gìn giá
trị văn hóa. Những tác phẩm này thể không được tiếp cận với đại chúng hoặc không bán được
nhiều, nhưng vẫn được sản xuất phát hành để giữ gìn giá trị nghệ thuật văn hóa.
3. Sách/ ấn phẩm hàng hóa đặc biệt, thể nhân bản hạn không làm mất đi giá trị
sử dụng. vậy, khi bên mua sử dụng xuất bản phẩm, bên bán vẫn được giữ bản chính xuất bản
phẩm. Trên thị trường, xuất bản phẩm được mua bán trao đổi theo hai cách:
- Trao đổi quyền sở hữu hàng hóa - người bán trao cho người mua toàn bộ quyền định đoạt tác
phẩm của mình, chỉ giữ lại quyền đứng tên tác giả. Trao đổi quyền sử dụng hàng hóa -người bán
quyền định đoạt hàng hóa đã xuất bản, chỉ cho phép người mua sử dụng tác phẩm của mình các
mức độ khác nhau.
4. Xuất bản phẩm vừa hoạt động trao đổi nhằm hiện thực hóa giá trị hàng hóa, vừa hoạt
động tuyên truyền, phổ biến văn hóa.
Xuất bản phẩm kết tinh thành quả lao động của những người tham gia hoạt động xuất bản. Đó
lao động phục vụ nhu cầu của hội chứ không phải cho bản thân. Giá trị sức lao động của họ
được thực hiện thông qua trao đổi hàng hóa trên thị trường. Sau khi xuất bản, tất cả lao động xuất
bản được trao đổi trở nên giá trị. Qua đó nhờ đó các nhà xuất bản, ngành xuất bản mới tồn
tại phát triển.
dụ như hoạt động giới thiệu Nhật Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc trên báo chí,
truyền hình; Giới thiệu Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản hoặc cuộc thi tìm hiểu về tưởng Hồ Chí
Minh; Việc phát hành sách, hội sách luận chính trị tại Vinh năm 2005 không chỉ để xuất bản
sách chủ yếu để tuyên truyền, giới thiệu văn hóa. (trong giáo trình)
dụ: Nhà xuất bản Kim Đồng: Nhà xuất bản này chuyên sản xuất sách, truyện tranh, tạp
chí cho trẻ em. Bên cạnh việc cung cấp hàng hóa cho người tiêu dùng, Kim Đồng còn mục tiêu
tuyên truyền giá trị văn hóa cho trẻ em thông qua các tác phẩm của mình. Nhà xuất bản Kim Đồng
đã sản xuất rất nhiều cuốn sách, truyện tranh tạp chí dành cho trẻ em với mục tiêu tuyên truyền
giá trị văn hóa cho trẻ em.
+ Bộ sách "Tôi tài giỏi, bạn cũng thế" của tác giả Phan Thị Thu Hương: Bộ sách này giúp trẻ
em hiểu về những giá trị nhân văn, đạo đức kỹ năng sống cần thiết để trở thành một người tài
giỏi.
+ Tạp chí "Tuổi học trò": Tạp chí này cung cấp các thông tin hữu ích về học tập, kỹ năng sống
giáo dục cho các em học sinh. Tạp chí cũng thường xuyên đăng tải những câu chuyện, bài học
cuộc sống để giúp trẻ em hiểu hơn về giá trị văn hóa.
- Xuất bản sách để hiện thực hóa giá trị của xuất bản phẩm. phải tuân theo quy luật thị
trường, theo quy luật hoạt động thương mại. Thương mại hóa trong phát hành điều tất yếu. Tuy
nhiên, việc thương mại hóa hoạt động phân phối cũng chịu sự quy luật của tưởng văn hóa.
từ đó thể khẳng định: “Xuất bản ngành kinh doanh đặc thù, sách hàng hóa đặc biệt”
Câu 14: Bình luận về quyền, nghĩa vụ của biên tập viên nhà xuất bản theo quy định của pháp
luật hiện hành? Theo anh (chị), để thực hiện tốt quyền nghĩa vụ, biên tập viên cần hội tụ
những phẩm chất gì? sao?
Quyền nghĩa vụ của biên tập viên nhà xuất bản theo quy định của pháp luật hiện hành là:
- Căn cứ tại khoản 1 Điều 19 Luật Xuất bản 2012 quy định về tiêu chuẩn của biên tập viên
như sau:
Điều 19. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ quyền hạn của biên tập viên
Tiêu chuẩn của biên tập viên:
+ công dân Việt Nam; thường trú tại Việt Nam; phẩm chất chính trị, đạo đức tốt;
+ trình độ đại học trở lên;
+ Hoàn thành khóa bồi dưỡng kiến thức pháp luật xuất bản, nghiệp vụ biên tập theo quy định của
Bộ trưởng Bộ Thông tin Truyền thông;
+ chứng chỉ hành nghề biên tập do Bộ Thông tin Truyền thông cấp.
- Căn cứ tại khoản 2 Điều 19 Luật Xuất bản 2012 quy định về nhiệm vụ quyền hạn của
biên tập viên như sau:
Điều 19. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ quyền hạn của biên tập viên
Biên tập viên nhiệm vụ quyền hạn sau đây:
+ Thực hiện biên tập bản thảo;
+ Được từ chối biên tập bản thảo tác phẩm, tài liệu nội dung dấu hiệu vi phạm quy định tại
khoản 1 Điều 10 của Luật này phải báo cáo với tổng giám đốc (giám đốc), tổng biên tập nhà
xuất bản bằng văn bản;
+ Đứng tên trên xuất bản phẩm do mình biên tập;
+ Tham gia các lớp tập huấn định kỳ kiến thức pháp luật xuất bản, nghiệp vụ biên tập do quan
quản nhà nước về hoạt động xuất bản tổ chức;
+ Không được để lộ, lọt nội dung tác phẩm, tài liệu xuất bản trước khi phát hành làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả;
+ Chịu trách nhiệm trước tổng biên tập nhà xuất bản trước pháp luật về phần nội dung xuất bản
phẩm do mình biên tập.
Những phẩm chất cần của một người biên tập viên để thực hiện tốt quyền nghĩa vụ là:
- Đức tính tỉ mỉ, cẩn thận: Đây phẩm chất đầu tiên cần nhắc tới khi nói đến công việc này
phải đảm nhận rất nhiều bản thảo, cần sửa lời văn văn, câu từ lủng củng, nhặt ra những hạt “sạn”
nhỏ nhất để đảm bảo cuốn sách được hoàn hảo nhất khi đến tay độc giả.
- Khả năng viết lách: Đây công cụ giúp biên tập viên bước vào nghề một cách tự tin hơn,
đặc thù công việc nên họ phải luôn tiếp xúc với con chữ, kiểm soát nội dung đưa thông tin đến
với mọi người nên khả năng này phải cần được trau dồi thêm mỗi ngày thì mới thể trở
thành một biên tập viên tốt.
- Sự tự tin khách quan: Sự tự tin không phải thể hiện qua giao tiếp qua sự tin tưởng vào
chính bản thân mình, công việc đòi hỏi sự hoàn hảo tối đa nên cái biên tập viên cần tin tưởng
vào khả năng của chính bản thân mình. Sự khách quan giúp họ đứng thế cân bằng nhất để nhìn
nhận sự việc, đánh giá trung thực, chính xác về luồng thông tin mang tới người tiếp cận, điều này
còn thể hiện việc người biên tập phải đặt suy nghĩ của mình vào tác giả để chỉnh sửa câu chữ, ý
nghĩa sao cho phù hợp đúng với tác giả nhất.
- Hiểu được tâm công chúng: Biên tập viên những người quyết định sản phẩm sau cùng
phục vụ cho công chúng nên họ vừa phải chỉnh sửa lời văn vừa phải hiểu trọn vẹn thông điệp tác
giả muốn truyền tải. Phải biết cập nhật xu thế, tin tức xung quanh, đồng thời biết lắng nghe, tiếp
thu ý kiến để ngày càng hoàn thiện hơn.
Câu 15: Tại sao nói công tác biên tập khâu trung tâm trong hoạt động xuất bản?
* Đặc điểm của khâu biên tập:
- Xuất bản quá trình truyền sản xuất, gồm 3 khâu: biên tập, in phát hành.
- Xuất bản hoạt động gia công biên tập đối với các tác phẩm, làm cho phù hợp với nhu cầu
của độc giả. Xuất bản không phải sáng tác. Xuất bản lựa chọn văn hóa phù hợp nhu cầu tiếp
nhận của người dùng.Khâu lựa chọn tác phẩm gia công chỉnh khâu đầu tiên mở đầu cho
hoạt động xuất bản được gọi công tác biên tập.
- Công tác biên tập phải đạt mục tiêu chọn lọc được nhiều tác phẩm văn hóa sẵn, thúc đẩy, tổ
chức sự sáng tạo của tác giả để nhiều tác phẩm tinh thần. Đồng thời gia công, hoàn thiện, nâng
cao chất lượng của theo một yêu cầu truyền thông của hội.
- Biên tập công việc của người làm truyền thông, làm xuất bản, sử dụng các thành tựu sáng tác
của các tác giả, lựa chọn gia công để truyền bá, đối tượng hoạt động biên tập các bản thảo gốc.
- Trong quá trình xuất bản, biên tập nằm trong hoạt động sản xuất tinh thần, tạo ra sản phẩm tinh
thần
- Biên tập hoạt động sáng tạo ra những điều kiện cần thiết để các tác phẩm tinh thần, các tri thức
truyền bá, để hoạt động xuất bản làm tốt chức năng văn hóa của mình.Biên tập lựa chọn tác
phẩm tinh thần, tối ưu hóa tri thức, chuẩn hóa ngôn ngữ, gia công về nội dung hình thức để phù
hợp với các nhóm đối tượng.Hoàn thiện thiết kế mỹ thuật kỹ thuật xuất bản phẩm.
* Công tác biên tập khâu trung tâm trong toàn bộ hoạt động xuất bản:
+ Quá trình xuất bản được cấu tạo thống nhất từ 3 yếu tố biên tập, in ấn, phát hành thì biên tập
vào vị trí hạt nhân, mở đầu trong quá trình xuất bản. Không biên tập thì việc in ấn, phát hành
không thể thực hiện được.
+ Trình độ, chất lượng công tác biên tập nhân tố ảnh hưởng, chi phối trực tiếp, thậm chí quyết
định hiệu quả của in ấn phát hành.
Câu 16: Trình bày những ưu điểm hạn chế của hội hoá thông qua chế liên kết trong
hoạt động xuất bản hiện nay.
* Tính chất hội hóa của hoạt động xuất bản:
Xuất bản hoạt động phổ biến, truyền tri thức đến nhiều người. Hoạt động xuất bản thực chất
hoạt động hội hóa sản phẩm trí tuệ của nhân đội ngũ trí thức. Những tác phẩm, công trình
nghiên cứu đó sản phẩm tinh thần của người trí thức cụ thể, nhà xuất bản đã tìm kiếm được
những ý tưởng, những sản phẩm đó của đội ngũ sáng tác, đội ngũ trí thức rồi sau đó mới biên tập,
thiết kế, hoàn thiện xuất bản phẩm đưa đến tay nhiều người, nhiều độc giả trong hội. Xuất
bản chính hoạt động hội hóa xuất bản phẩm - “sách hóa bản thân” của đội ngũ sáng tạo xuất
bản phẩm những đơn vị xuất bản. hội hóa một chủ trương của Đảng Nhà nước ta trong
hoạt động xuất bản được thể hiện qua các chính sách các văn bản pháp luật cụ thể. Thực chất
nội dung của hội hóa huy động được lực lượng trong hội tham gia vào các hoạt động, lĩnh
vực nào đó như văn hóa, kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế... trong đó xuất bản giữ vai trò cầu nối,
biểu hiện những lĩnh vực đó của hội trong sản phẩm của hoạt động này. Những lực lượng trong
hội được huy động tìm kiếm bao gồm các thành phần kinh tế trong hội nguồn lực của
hội (như tài chính, công nghệ nhân lực - đội ngũ trí thức).
- Ưu điểm của quá trình hội hóa hoạt động xuất bản việc tạo ra sự phát triển đa dạng
phong phú các loại xuất bản phẩm; xuất bản phẩm được tạo ra nhanh chóng, mang tính năng động
thời sự; huy động được nguồn lực của hội (vốn, công nghệ, nhân lực); tăng thu nhập của của
hoạt động xuất bản (nhà xuất bản, đội ngũ trí thức sáng tạo xuất bản phẩm - người lao động cụ thể)
qua đó góp phần vào sự tăng trưởng của GDP nước nhà.
- Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, công tác hội hóa hoạt động xuất bản mang đến
không ít những hạn chế như: hội hóa hoạt động xuất bản làm gia tăng xu hướng thương mại hóa
(hoạt động xuất bản phải sản sinh ra lãi); nhà xuất bản xa rời nhiệm vụ chính trị, phó thác cho đối
tác, làm xói mòn niềm tin, mất đi thương hiệu với độc giả; phát sinh quá trình cạnh tranh không
lành mạnh (cạnh tranh giữa nhà xuất bản nhà nước với khối nhân, giữa các nhà xuất bản với
nhau, giữa các nhà xuất bản nhân với nhau); hình thức sách lậu, in lậu nguy phát sinh
ngày một gia tăng; bên cạnh đó việc hình thành nhũng sai sót trong nội dung hình thức của
xuất bản phẩm, gây ảnh hưởng đến chất lượng của xuất bản phẩm nói riêng hoạt động xuất bản
nói chung
Câu 17: Chứng minh rằng văn hóa thuộc tính tất yếu của hoạt động xuất bản.
Bản chất của hoạt động xuất bản truyền văn hoá
Xuất bản ra đời do nhu cầu thông tin truyền thông tin, tri thức. Chính vậy, bản chất của
hoạt động xuất bản truyền tri thức thuộc các lĩnh vực đời sống hội.
VD: Cuốn sách “Ngàn năm áo mũ” đã đưa đến cho người đọc những tri thức về trang phục của
người Việt từ thời Lý, Trần, sơ, trung hưng, cho đến triều Tây Sơn kết thúc tại thời
Nguyễn. Lịch sử áo ngàn năm được tóm gọi trong hơn 400 trang sách sẽ đem lại cho ta bức
tranh trang phục đồ sộ, từ trong cung đình cho đến ngoài dân gian trong khoảng từ năm 1009 đến
1945
Xuất bản các tác phẩm văn hoá tinh thần do các nhà văn hóa sáng tạo ra
Giá trị văn hóa tinh thần của một xuất bản phẩm chính giá trị bản của xuất bản phẩm đó. Do
đó, đánh giá, chọn lựa, sửa chữa xuất bản phẩm phải hoạt động văn hoá chuyên ngành với yêu
cầu cao.
Xuất bản biến các tác phẩm của nhân thành tài sản của hội, góp phần truyền các giá
trị văn hóa, bảo tồn các giá trị văn hóa xây dựng nền văn hóa dân tộc
Khi một xuất phẩm phẩm ra đời, giá trị của một xuất bản phẩm sẽ được truyền rộng rãi tới công
chúng, góp phần làm thay đổi nhận thức của người đọc, từ đó ảnh hưởng tới lớn tới việc xây dựng
nên nền văn hóa của một dân tộc.
VD: Cuốn sách “Bàn tay kỳ diệu của Sachi” kể về Sachi với một bàn tay đặc biệt, không hề
ngón tay như các bạn khác. Ngay từ khi còn rất Sachi luôn mong được làm mẹ trong các trò
chơi trường lớp mẫu giáo nhưng các bạn đều nhất mực phản đối với do Sachi không ngón
tay. Mặc rất buồn thấy bị tổn thương, nhưng nhờ sự động viên, những chia sẻ thành thật,
kịp thời của bố đã vui trở lại niềm tin rằng một ngày nào đó sẽ thể làm mẹ.
Cuốn sách đã đem đến cho người đọc những giá trị nhân văn cùng sâu sắc, tác động đến nhận
thức của con người, khiến con người biết yêu bản thân mình hơn, biết đồng cảm với những người
khiếm khuyết, từ đó biết cách yêu thương người khác. Đây chính ảnh hưởng của xuất bản tới
việc xây dựng nền văn hóa.
Kết luận:
Tính chất văn hoá thuộc tính tất yếu, bản chất của hoạt động xuất bản. Xuất bản những tác
động tới nền văn hóa nền văn hóa cũng những ảnh hưởng tới hoạt động xuất bản. Đây mối
quan hệ hai chiều tác động lẫn nhau, quyết định sự phát triển của nhau. Luật xuất bản ban hành
năm 2004 đã chỉ rõ: “Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hoá, tưởng thông qua việc sản phố
biến những xuất bản phẩm đến nhiều người nhằm giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời
sống hội, giá trị văn hoá dân tộc tinh hoa văn hoá nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh
thần của nhân dân…”
Câu 18: Chứng minh rằng kinh tế thuộc tính tất yếu của hoạt động xuất bản
a) Trong nền kinh tế hàng hóa
- Xuất bản trở thành hàng hóa được trao đổi, mua bán trên thị trường -> Hoạt động xuất bản trở
thành quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa văn hóa tinh thần
- Một hoạt động trong xuất bản đòi hỏi sự đầu tư, chi phí về vật chất, đồng thời thể đem lại thu
nhập, đôi khi đem lại lợi nhuận cao.
b) Chủ nghĩa bản công nghiệp
- Hoạt động xuất bản trở thành một ngành công nghiệp văn hóa hiện đại, đem lại lợi nhuận cao
cho các nước bản như Anh, Mỹ, Pháp, Đức,.....
- Xuất bản nói chung tuân theo quy luật thương mại, quy luật giá trị, mục đích kiếm lãi, nhà
xuất bản doanh nghiệp, người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, xuất bản nghề sản xuất,
phân phối vật phẩm tiêu dùng tinh thần
- Xuất bản nếu không tuân theo quy luật kinh tế hàng hóa sẽ bị hạn chế sức sống của hàng hóa
xuất bản phẩm
c) hội hiện đại
- Xuất bản góp phần tạo nên ngành công nghiệp trí tuệ:
+) Xuất bản đóng vai trò trung tâm trong đời sống văn hóa, giáo dục, trí tuệ mỗi quốc gia
-> Xuất bản nhân tố trung tâm trong việc tạo ra các mối liên hệ trong các ngành công nghiệp trí
tuệ
hội ngày càng phát triển, nhu cầu tiếp thu tri thức cũng theo đó tăng lên -> nhiều
người xu hướng đầu vào các ngành công nghiệp trí tuệ hơn -> tăng trưởng tỉ trọng kinh tế
vào các lĩnh vực phát triển văn hóa tri thức như xuất bản
Câu 30: Phân tích chức năng kinh doanh xuất bản phẩm của hoạt động xuất bản. Liên hệ với
thực tiễn hoạt động xuất bản Việt Nam hiện nay.
- Xuất bản quá trình sản xuất trao đổi hàng hóa, chịu sự chi phối chặt chẽ của quy luật giá
trị, quy luật sản xuất lưu thông hàng hóa trên thị trường
-> Kinh doanh cũng chức năng bản của hàng hóa
- Kinh doanh xuất bản hiện nay độc lập, tự chủ về mặt kinh doanh, bám theo nhu cầu thị trường
| 1/45

Preview text:

Câu 1 : Trình bày sự ra đời và phát triển của sách trong các giai đoạn lịch sử.
- Sách ra đời gắn liền với chữ viết (chữ ghi âm). => Công cụ lưu trữ thông tin và truyền
thông. Sách là sp văn hóa chứa đựng các tp văn hóa, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần để lưu
trữ, truyền bá các giá trị văn hóa tinh thần rộng rãi trong XH và từ thế hệ này -> thế hệ khác. -
Sách được phát triển cùng với xã hội loài người.
+ Nhu cầu tinh thần tăng lên, nhu cầu dùng sách càng lớn, dân trí càng cao, sách càng
cần nhiều. => Công cụ thúc đẩy sự phát triển văn hóa, văn minh.
+ Sự pt của sách cũng phụ thuộc vào sự pt của lực lượng sx của khoa học và công nghệ
chế tác sách ở các thời đại.
● Sách thời cổ đại: chế tác trên các vật liệu tự nhiên như đá, vỏ cây papyrus, đất sét,...
● Sách thời Trung cổ: sách chép tay trên da thú, giấy mỏng, sách in khắc gỗ thủ công.
● Sau này, xuất hiện sách in công nghiệp: là bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong
lịch sử sách. Là kết quả của 2 chiều của sự phát triển XH: 1 là hệ thống kĩ thuật in mới cho
phép cải tiến sách thành vật có thể chứa được những tp có nội dung thông tin lớn, đc sx
nhanh và tiện lợi; 2 là sự biến đổi phong phú của thế giới tư duy và khả năng truyền bá
rộng rãi những thành tựu văn hóa tinh thần trong thời kỳ VH Phục Hưng ở châu Âu.
Bước nhảy vọt trong xuất bản sách còn nhờ sự thúc đẩy của các động lực văn hóa tinh
thần. Chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng, sự pt của trí tuệ, việc dân chủ hóa trong đời
sống văn hóa tinh thần,... => tiền đề XH cơ bản để ngành XB pt hoàn thiện và mạnh mẽ
gồm 3 bộ phận: biên tập, in, phát hành.
● Sách điện tử: là loại hình sách mới của thời đại thông tin, là sách của thời đương đại
và tương lai. Sự ra đời của sách điện tử cũng là bước pt cách mạng trong hoạt động XB.
(Sách in trên đĩa mềm vi tính, sách in trên các chíp nhớ, sách trên đĩa CD- Rom, sách điện
tử ebook, sách trực tuyến).
Câu 2: Trình bày khái niệm xuất bản và xuất bản phẩm.
* Khái niệm xuất bản:
Khái niệm xuất bản với tư cách là khái niệm của khoa học xuất bản là sự khái quát hóa 1 quá trình
hđ vừa là hđ sáng tạo tinh thần, vừa là hđ sáng tạo vật chất. Nội hàm XB do 3 yếu tố tạo thành:
+ Thứ nhất, XB là hoạt động gia công biên tập đối với các tác phẩm, làm cho nó phù hợp
với nhu cầu của độc giả.
XB không phải là sáng tác, sáng tác nằm ngoài khái niệm XB. XB khai thác đề tài từ các
tp đã có. XB là hoạt động lựa chọn văn hóa sao cho có những tác phẩm phù hợp với nhu
cầu tiếp nhận, nhu cầu tiêu dùng tinh thần của độc giả. Sp của xuất bản là những tp văn
hóa tinh thần đã được gia công hoàn thiện để truyền bá. Nếu không qua lựa chọn, gia
công biên tập, các sp nhân bản đều kp là xuất bản.
+ Thứ hai, XB là hoạt động nhân bản hàng loạt tp đã đc gia công, làm cho nó có 1 hình thức
vật phẩm xác định (vỏ vật chất) để cung cấp cho độc giả sử dụng.
● XB là việc thực hiện truyền thông bằng phương tiện, tác phẩm văn hóa đến với
độc giả kp trực tiếp bằng truyền miệng mà gián tiếp qua các “vật phẩm trung
gian”. Để truyền bá rộng rãi, bản thảo sẽ được chế bản và nhân bản hàng loạt theo nhu cầu bạn đọc.
● SP được tạo ra hàng loạt trong nền sx hàng hóa, nó trở thành hàng hóa và chịu sự
tác động bởi quy luật sx và lưu thông hàng hóa. Nếu k nhân bản, kp là xuất bản.
Trong công nghệ thông tin hiện đại, xuất bản phẩm có thể truyền đi khắp thế giới qua Internet.
+ Thứ ba, XB là hoạt động truyền bá rộng rãi các sp XB đã hoàn thành sau qt sx, nhân bản.
● Sp phải đc mang đến cho đông đảo bạn đọc có nhu cầu. Phát hành XBP là khâu
cuối cùng của qt truyền thông. Phát hành đến đông đảo bạn đọc là mục đích của
xuất bản như 1 công cụ truyền thông, là 1 hoạt động truyền thông đại chúng. =>
Bản chất XB là hoạt động truyền bá.
● Trong cơ chế bao cấp, phát hành chỉ là khâu nối tiếp, khâu kết thúc của XB, phục
vụ cho Xb, thụ động với XB. Trong cơ chế thị trường, phát hành vừa là hoạt động
kinh doanh thương mại, khâu tiêu thụ hoạt động XB, vừa là hoạt động truyền bá văn hóa.
=> Xuất bản là công việc đứng trung gian giữa tác giả với độc giả. XB thực hiện 1 chức năng gồm
3 mặt: chức năng tri thức, chức năng mỹ thuật và kỹ thuật, chức năng thương mại. XB là hoạt động
truyền bá XH. Xb là 1 tổ hợp hoạt động văn hóa vật chất và tinh thần, là 1 qt nối tiếp đồng bộ hoàn
chỉnh, gồm 3 khâu: biên tập, in, phát hành.
* Khái niệm xuất bản phẩm: -
Theo nghĩa thông thường, XBP là sản phẩm của hoạt động Xb. XBP là các tác phẩm sau khi
gia công biên tập, qua chế bản, nhân bản để phát hành tới công chúng. -
Theo Luật Xb năm 1993, “ XBP quy định tại luật này là tp về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, khoa học, công nghệ, văn học nghệ thuật và các sp khác đc XB, in, nhân bản bằng các vật liệu,
phương tiện KT khác nhau, bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số, tiếng nc ngoài, đc XB
không định kỳ nhằm phổ biến cho nhiều người”. -
Điều 4 Luật XB 2004 định nghĩa lại: XBP là tp, tài liệu về chính trị, kinh tế, VH, XH,
GD&ĐT, KH&CN, VH, NT đc xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số VN, tiếng nc ngoài
và còn đc thể hiện bằng hình ảnh, âm thanh trên các vật liệu, phương tiện KT khác. -
So sánh với giáo trình Trung Quốc với định nghĩa Luật XB 2004, khái niệm XBP bao gồm
XBP định kỳ và XBP k định kỳ. ●
XBP không định kỳ: bao gồm sách in, băng, đĩa nhạc, hình. ●
XBP định kỳ: gồm báo in, tạp chí.
=> XBP là sp truyền thông để truyền bá cho nhiều người, để phổ biến ra XH.
Câu 3: Trình bày các lĩnh vực trong hoạt động xuất bản.
- Hoạt động xuất bản bao gồm các lĩnh vực:
+ Lĩnh vực đời sống chính trị xã hội: Xuất bản là hoạt động sản xuất và truyền bá các giá trị văn
hóa - tư tưởng. Trong xã hội có giai cấp, nó tất yếu chịu sự ràng buộc và chi phối của hoạt
động chính trị. Vai trò của công tác xuất bản trong lĩnh vực chính trị thể hiện trong việc đấu
tranh để giành quyền lực chính trị, cũng như trong việc củng cố, gìn giữ chính quyền, thực thi
sự lãnh đạo chính trị đối với toàn xã hội
+ Lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội: Kinh tế là nền tảng vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã
hội. Do vậy, công tác xuất bản không thể không chịu sự quyết định và chi phối của đời sống
kinh tế, và ngược lại, cũng có tác động không nhỏ đến sự phát triển bền vững của kinh tế.
+ Lĩnh vực đời sống văn hóa: Trình độ văn hóa chung của xã hội, sự phát triển của văn học, nghệ
thuật và khoa học có ảnh hưởng đến sự phát triển của xuất bản. Đồng thời, hoạt động xuất bản
cũng tác động mạnh mẽ đến các hoạt động văn hóa khác. Cũng như mọi hoạt động văn hóa,
mục tiêu cao cả của công tác xuất bản là hướng tới hoàn thiện con người, đưa con người vươn
tới cái chân, thiện, mỹ, tạo nền tảng tinh thần và động lực cho sự phát triển xã hội.
Câu 4: Trình bày khái niệm đời sống chính trị xã hội.
Đời sống chính trị là một lĩnh vực hoạt động của xã hội. Đó là lĩnh vực hoạt động và quan hệ giữa
các giai cấp, giữa các quốc gia dân tộc gắn liền với việc giành, giữ và sử dụng bộ máy quyền lực
nhà nước vì lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia.
Theo Từ điển từ Hán Việt của Phan Văn Các : “Chính trị là toàn bộ hoạt động của các giai cấp
trong xã hội trong việc đấu tranh để giành quyền lợi cho mình, trước hết là việc giành và giữ vững
chính quyền nhà nước.”
V.I.Lênin cũng nhấn mạnh ý này : “Chính trị là lĩnh vực những mối quan hệ của tất cả các giai cấp,
các tầng lớp xã hội với nhà nước và chính phủ, lĩnh vực của tất cả các giai cấp với nhau”
Đời sống chính trị là mối quan hệ hoạt động của cả hệ thống chính trị xã hội. Ở nước ta, Đảng
Cộng sản là hạt nhân của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội. Chính sách,
pháp luật của nhà nước ta là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối chính trị của Đảng. Đảng ta là
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị.
Câu 5: Trình bày khái niệm đời sống kinh tế xã hội.
- Kinh tế là tổng thể các hoạt động của một cộng đồng người, một người, một nước liên quan đến
các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội.
- Kinh tế là tổng thể những mối quan hệ trong quá trình sản xuất vật chất của một hình thái kinh tế
- xã hội nhất định, trong tổ chức và hoạt động của cơ sở hạ tầng của xã hội, bao gồm các ngành
kinh tế - kỹ thuật, các loại hình sản xuất tương ứng.
- Mỗi phương thức sản xuất đều có một nền kinh tế riêng. Mỗi nền kinh tế đều do các quan hệ sản
xuất, cũng như tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quy định.
- Lịch sử xã hội cũng là một quá trình lịch sử tự nhiên, là lịch sử phát triển của phương thức sản
xuất dẫn đến sự thay đổi hình thái kinh tế - xã hội. Do vậy, nói đến đời sống kinh tế tức là nói đến
mối quan hệ của con người với thiên nhiên ( lực lượng sản xuất) và mối quan hệ giữa con người
với con người trong quá trình sản xuất xã hội. Phát triển kinh tế là phát triển các yếu tố của lực
lượng sản xuất, phát triển mối quan hệ sản xuất để bảo đảm quan hệ sản xuất luôn phát triển phù
hợp với tính chất và trình độ cúa lực lượng sản xuất.
Câu 6: Trình bày khái niệm về văn hóa và hoạt động văn hóa
- Văn hoá: Là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn
trên cả 2 lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Văn hoá của một dân tộc, theo nghĩa
căn bản nhất là toàn bộ những cái mà qua đó một dân tộc tự biểu hiện mình, tự nhận biết mình
và giúp các dân tộc khác nhận biết mình – văn hoá là “tấm thẻ căn cước” của các dân tộc.
- Hoạt động văn hoá: Là quá trình hoạt động sáng tạo đặc biệt của con người nhằm sản xuất,
phổ biến và tiêu dùng các giá trị, các sản phẩm văn hoá. Đó là quá trình sản xuất, tái sản xuất
mở rộng các giá trị văn hoá, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần ngày càng tăng, xây dựng nền
văn hoá đa dạng của các dân tộc và nhân loại.
Câu 7: Trình bày chức năng và đặc điểm của công tác biên tập sách, nêu những nhận thức
chưa đúng về công tác biên tập sách ở nước ta hiện nay? Chức năng:
- Thiết kế đời sống văn hoá và các sản phẩm văn hoá tinh thần - Tổ chức:
- Tối ưu hoá các tác phẩm văn hoá:
- Điều hoà giữa các mặt hoạt động xuất bản, bảo đảm cho công tác Đặc điểm:
Biên tập là hoạt động lựa chọn, gia công chỉnh lý đối với các tác phẩm đã có, sẽ có, không phải là
hoạt động sáng tác. Công tác biên tập nảy sinh trên cơ sở có các tác phẩm đã sáng tác, đang được
sáng tác, không thể thay thế khâu sáng tác.
- Biên tập là công việc của người làm truyền thông, làm xuất bản, sử dụng các thành tựu sáng
tác của các tác giả, lựa chọn, gia công để truyền bá, xã hội hoá các sản phẩm sáng tác, biến
các giá trị tinh thần của tác giả sáng tạo, thành giá trị văn hoá của xã hội. Biên tập không phải
là sáng tác tác phẩm mới, không được phá vỡ tính hoàn chỉnh về nội dung, phong cách sáng
tạo của tác giả sáng tác.
- Trong quá trình xuất bản, biên tập nằm trong các hoạt động sản xuất tinh thần, tạo ra các sản
phẩm tinh thần. Sở dĩ gọi là sản phẩm “tinh thần” bởi nó chứa đựng các thông tin tri thức,
chưa phải “hình hài vật chất” của xuất bản phẩm mà đang còn chờ chế bản, nhân bản, gia
công vật chất để trở thành xuất bản phẩm.
- Biên tập là hoạt động sáng tạo ra những điều kiện cần thiết để các tác phẩm tinh thần, các tri
thức có thể truyền bá, để hoạt động xuất bản làm tốt chức năng văn hoá của mình.
Nhận thức chưa đúng:
- Tuyệt đối hóa mặt tư tưởng – văn hoá của hoạt động xuất bản của công tác biên tập. Coi biên
tập chỉ là việc gia công chỉnh lý bản thảo, sửa chữa câu chữ, là người “thợ chữ” cặm cụi trên bàn giấy.
- Tuyệt đối hoá chức năng kinh doanh thương mại của biên tập, coi biên tập thuần tuý chỉ là
dịch vụ thương mại, chạy theo những công việc có lợi nhuận cao, không chú trọng đúng mức
đến tác động văn hoá – tư tưởng của hoạt động xuất bản.
- Không phân biệt rõ giới hạn giữa biên tập và sáng tác, nhấn mạnh sự can thiệp của biên tập
vào nội dung sáng tác, xâm phạm quyền tác giả trong biên tập tác phẩm. Trái lại, cũng cần
tránh quan niệm quá dễ dãi, biên tập chỉ là việc sửa chữa văn phạm, chính tả, không dám
động đến những giá trị tư tưởng, những giá trị học thuật nghệ thuật của tác phẩm, để dẫn đến
những sai sót đáng tiếc trong hoạt động xuất bản.
Câu 8: Trình bày về quyền, nghĩa vụ của biên tập viên nhà xuất bản theo quy định của pháp luật hiện hành?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 19 Luật Xuất bản 2012 quy định BTV có quyền hạn và nhiệm vụ sau:
a) Thực hiện biên tập bản thảo: 0,5 đ
b) Được từ chối biên tập bản thảo tác phẩm, tài liệu mà nội dung có dấu hiệu vi phạm quy định tại
khoản 1 Điều 10 của Luật này và phải báo cáo với tổng giám đốc (giám đốc), tổng biên tập nhà
xuất bản bằng văn bản: 0,5 đ
c) Đứng tên trên xuất bản phẩm do mình biên tập: 0,5 đ
d) Tham gia các lớp tập huấn định kỳ kiến thức pháp luật xuất bản, nghiệp vụ biên tập do cơ quan
quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản tổ chức: 0,5 đ
đ) Không được để lộ, lọt nội dung tác phẩm, tài liệu xuất bản trước khi phát hành làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả: 0,5 đ
e) Chịu trách nhiệm trước tổng biên tập nhà xuất bản và trước pháp luật về phần nội dung xuất bản
phẩm do mình biên tập: 0,5 đ
Câu 9. Trình bày khái niệm biên tập, biên tập xuất bản. Sự ra đời của biên tập xuất bản
Biên tập là một hoạt động gồm việc tổ chức, khai thác, lựa chọn các ấn phẩm để in, nhân bản, để
phát trong các chương trình phát thanh truyền hình; đồng thời góp phần tu chỉnh, sửa chữa, nâng
cao chất lượng tác phẩm; kiểm tra những sai sót khi nhân bản; góp phần vào việc phổ biến tác
phẩm. Với nghĩa này hoạt động hoạt động biên tập là khâu công tác quan trọng của mọi hoạt động
truyền thông, của công tác báo chí, truyền thông, tuyên truyền.
Biên tập xuất bản là hoạt động biên tập các xuất bản phẩm trong các nhà xuất bản, chủ yếu là biên
tập sách. Đó là công việc khai thác, lựa chọn, tổ chức bản thảo, gia công sửa chữa, hoàn chỉnh bản
thảo để sẵn sàng nhân bản thành xuất bản phẩm, nhằm đáp ứng các nhu cầu văn hóa tinh thần của xã hội
Sự ra đời của biên tập xuất bản: +
Khi con người phát minh ra chữ viết, thông tin, tri thức của xã hội được ghi lại trong các văn
bản. Thông tin tăng lên, lượng văn bản ngày càng lớn, đòi hỏi phải có người thu thập, chỉnh lý,
lựa chọn các văn bản. Việc thu thập và chỉnh lý đó đầu tiên là để cất giữ các thông tin, bảo tồn
các thông tin về của cải, đất đai, những quy ước của gia đình, dòng họ để truyền lại cho các thế
hệ con cháu. Văn bản để cất giữ chỉ cần xếp theo thứ tự và phân loại, không cần gia công sửa
chữ về nội dung, chủ yếu dành cho tộc trưởng và các tầng lớp thống trị sử dụng. Lúc này chưa
có hoạt động biên tập thật sự. +
Khi nhu cầu truyền thông phát triển, tác giả tạo ra văn bản, bản gốc các cuốn sách, trao chúng
cho những người chép sách để chép thành nhiều bản, phổ biến cho quần chúng rộng rãi ngoài
tầng lớp thống trị. Lúc đó, hoạt động biên tập đã thực sự xuất hiện. Lúc đó, biên tập gộp chung
vào hoạt động nhân bản và sai sót chưa nhiều, số bản chép tay được sản xuất chậm, số lượng
bản sao nhỏ. Hoạt động biên tập trong thời kỳ làm sách chép tay chưa cần tách ra thành một
khâu nghiệp vụ độc lập, biên tập chưa trở thành một hoạt động chuyên nghiệp, một nghề nghiệp riêng. +
Cùng với in khắc gỗ, hoạt động biên tập bắt đầu tách ra khỏi hoạt động sáng tác, nhân bản, trở
thành một bộ phận của công tác xuất bản. Tuy nhiên, ở giai đoạn này sự phân công giữa biên
tập, in và phát hành vẫn chưa rõ rệt, đội ngũ biên tập viên chuyên nghiệp vẫn chưa hình thành. +
Sự phát minh ra kỹ thuật in công nghiệp của Gutenberg đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt
trong hoạt động xuất bản. In công nghiệp cùng với trào lưu văn hóa Phục Hưng ở châu Âu và
sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã là những tiền đề quan trọng cho ngành xuất bản hiện đại ra
đời với đầy đủ cả 3 khâu hoạt động có tính chuyên nghiệp là biên tập, in và phát hành. Sách
được nhân bản với số lượng lớn, thời gian sản xuất nhanh và cũng nhanh chóng được phát hành rộng rãi trong xã hội. +
Hoạt động biên tập trong xã hội hiện đại gồm việc tổ chức khai thác, lựa chọn các tác phẩm để
in, nhân bản, để phát trong các chương trình truyền thông; đồng thời góp phần tu chỉnh, sửa
chữa, nâng cao chất lượng tác phẩm; kiểm tra những sai sót khi nhân bản; góp phần vào việc
phổ biến tác phẩm. Hoạt động biên tập là khâu quan trọng của mọi hoạt động truyền thông, của
công tác thông tin tuyên truyền.
Câu 10: Trình bày khái niệm xã hội hoá trong hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay. 1. Khái niệm xã hội -
Xã hội theo nghĩa hẹp là chỉ một hệ thống xã hội cụ thể trong lịch sử, một hình thức nhất
định của những quan hệ xã hội, là xã hội ở vào một trình độ phát triển nhất định (Vd: xã hội nô lệ, phong kiến) -
Xã hội theo nghĩa rộng là chỉ toàn hộ hoạt động chung của con người đã hình thành trong
lịch sử, quan hệ cộng đồng giữa người với người trong mọi lĩnh vực. 2.
Khái niệm xã hội hóa
- Xã hội hóa là một khái niệm của nhân loại học và xã hội học được định nghĩa là một quá trình
tương tác xã hội kéo dài suốt đời qua đó cá nhân phát triển khả năng con người và học hỏi các mẫu văn hóa của mình.
3. Khái niệm xã hội hóa trong hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay
- Khái niệm xã hội hóa hoạt động xuất bản chứa đựng những nội hàm chung của khái niệm xã
hội hóa trên cả ba lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa.
- Khái niệm xã hội hóa xuất bản thực chất là xã hội hóa một hoạt động văn hóa cụ thể. Song
xã hội hóa ở đây không phải là khái niệm chỉ sự “nhập thân văn hóa” của cá nhân trong chức
năng hình ảnh nhân cách xã hội của văn hóa, mà được hiểu trong sự đối nghĩa với nhà nước hóa thời kỳ bao cấp.
Câu 11: Những sai phạm thường gặp nội dung xuất bản phẩm
Các sai phạm thường gặp trong nội dung xuất bản phẩm bao gồm:
- Vi phạm bản quyền: Đây là một trong những sai phạm phổ biến nhất trong ngành xuất bản. Việc
sao chép nội dung của tác giả mà không có sự cho phép của họ là vi phạm bản quyền.
- Lỗi chính tả và ngữ pháp: Nội dung xuất bản phẩm cần phải được kiểm tra kỹ lưỡng để đảm bảo
không có lỗi chính tả và ngữ pháp. Việc xuất bản nội dung không chính xác có thể làm giảm uy
tín của tác giả và của nhà xuất bản.
- Sai sót về thông tin: Nội dung xuất bản phẩm cần phải chính xác về thông tin để đảm bảo rằng
độc giả không bị đánh lừa. Việc xuất bản thông tin sai lệch có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho độc giả.
- Nội dung không phù hợp: Nếu nội dung của xuất bản phẩm không phù hợp với độc giả hoặc
không tuân thủ các quy định về đạo đức, nó có thể gây ra tranh cãi và ảnh hưởng đến uy tín của
tác giả và của nhà xuất bản.
Câu 12: So sánh giá trị thông tin của sách với báo chí? 1.
Đặc điểm thông tin: * Sách:
Sách, “tập hợp một số lượng nhất định những tờ giấy có chữ in, ghi lại những thông tin, tri thức...
thuộc một lĩnh vực nào đó và được đóng lại thành quyển”. Sách ra đời từ khi con người phát minh
ra công nghệ làm giấy và sau đó là công nghệ in.
Có hàng trăm chuyên đề sách khác nhau. Có thể nói rằng, đọc sách giúp tiếp thu nhiều kiến thức;
góp phần lan tỏa tri thức.
Tính phi định kì của sách được hiểu là sự không có kì hạn, không tuân theo từng kì khi đăng tải tin
tức, bài viết như báo chí. Người đọc có thể cập nhật thông tin bất kì thời điểm nào trong ngày, ở bất
kì nơi đâu bằng việc đọc sách. Tính phi định kì cũng giúp người đọc sử dụng thời gian 1 cách hiệu
quả và phù hợp để nắm bắt thông tin, dẫn đến sự thay đổi trong hoạt động công việc, học tập, các
vấn đề chính trị, văn hóa, du lịch,... * Báo chí:
Tính định kì là một trong những tính chất đặc trưng cơ bản của loại hình báo chí truyền thống,
chính nó đã tạo nên tính khẩn trương trong việc cập nhật thông tin.
Các loại hình báo chí phải tuân thủ nguyên tắc định kì, ra theo số báo hàng ngày, hàng tuần, hàng
tháng,...Dựa trên từng loại hình báo chí cơ quan chủ quản sẽ quyết định kì hạn xuất bản thích hợp.
Ví dụ: Tạp chí khoa học, Tạp chí lí luận thường có kì hạn 1 tháng, 2 tháng hoặc 3 tháng. Tạp chí
tin tức có thể xuất bản theo tuần hoặc 2 số/tuần. Còn tính định kì của báo bao giờ cũng ngắn hơn
tạp chí, có thể là báo hàng ngày, hàng tuần.
Tính định kì còn có ý nghĩa trong việc quyết định kế hoạch viết bài, tổ chức biên tập, lên trang báo
(hoặc xây dựng chương trình phát sóng), sửa bản tin và phát hành. Tính định kì của báo chí, một
mặt phù hợp với sự vận động nhịp nhàng của cuộc sống theo quy luật của nó, mặt khác đáp ứng
nhu cầu thông tin thường xuyên của công chúng. 2. Giá trị thông tin: * Sách:
Không cần nói thì chúng ta ai cũng đều ý thức rất rõ về vai trò, tầm quan trọng và giá trị to lớn của
sách vở đối với cuộc sống con người. V. I. Lênin từng nói: “Không có sách thì không có tri thức.
Không có tri thức thì không có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Trong thời đại thông tin
với sự cổ xuý mạnh mẽ cho văn hoá đọc hiện nay, sách đang trở thành một sản phẩm có vai trò vô
cùng quan trọng đối với sự phát triển của nhân loại. Sách đã cô đúc, ghi chép và lưu truyền mọi tri
thức, mọi thành tựu mà loài người đã tìm tòi, tích lũy qua từng thời đại.
Sách là kho tàng quí báu của di sản tinh thần mà loài người thu lượm, suy ngẫm suốt mấy ngàn năm.
Những cuốn sách có giá trị được coi là những cột mốc trên con đường phát triển học thuật của nhân loại. * Báo chí:
Báo chí, dựa trên những điều tra, tìm hiểu để làm sáng tỏ đời sống xã hội, văn hóa. Đây chính là
một bộ máy của chính quyền (điều này đặc biệt đúng ở Việt Nam) để tìm hiểu thông tin, phổ biến
và phân tích tin tức.Đây là những cơ quan ngôn luận, cung cấp thông tin và ý kiến về mọi vấn đề.
Thông tin đến công chúng một cách nhanh chóng đó là điều mà báo chí luôn tự hào. Thông tin trên
các trang báo mang tính đa dạng cao, phản ánh đầy đủ các sự kiện diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội chính vì vậy lượng thông tin mà công chúng có thể tiếp nhận được thông qua các trang báo là vô cùng phong phú. 3.
Phương tiện truyền tải: Sách:
Sách là một sản phẩm của xã hội, là một công cụ để tích lũy, truyền bá tri thức từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Sách chứa đựng các giá trị văn hóa tinh thần (các tác phẩm sáng tác hoặc tài liệu biên
soạn) thuộc các hình thái ý thức xã hội và nghệ thuật khác nhau, được ghi lại dưới các dạng ngôn
ngữ khác nhau (chữ viết, hình ảnh, âm thanh, ký hiệu,...) của các dân tộc khác nhau nhằm để lưu
trữ, tích lũy, truyền bá trong xã hội.
Sách là một khái niệm mở, hình thức sách còn được thay đổi và cấu thành các dạng khác nhau theo
các phương thức chế tác và nhân bản khác nhau, tùy thuộc vào môi trường sống và sự phát triển
của khoa học công nghệ ở mỗi thời đại. Báo chí:
• Báo viết: Thể loại báo chí xuất hiện lâu đời nhất, hình thức thể hiện trên giấy, có hình ảnh
minh họa. Ưu điểm: tính phổ cập cao, có nội dung sâu, người đọc có thể nghiên cứu. Nhược
điểm: thông tin chậm, khả năng tương tác hai chiều (giữa người đọc và người viết) kém.
Còn gọi là báo in, báo giấy hay là báo chữ.
• Báo nói: Thông tin được chuyển tải qua thiết bị đầu cuối là radio bằng ngôn ngữ. Ra đời thế
kỷ 19. Ưu điểm: thông tin nhanh. Nhược điểm: không trình bày được các thông tin bằng
hình ảnh (phóng sự ảnh) hoặc các thông tin có hình ảnh minh họa.
• Báo truyền hình: Thông tin được chuyển tải bằng hình ảnh và âm thanh qua thiết bị đầu cuối
là máy phát hình (đài truyền hình) và máy thu hình (television). Ưu điểm: thông tin nhanh;
khuyết điểm: khả năng tương tác hai chiều chưa cao.
• Báo mạng điện tử: Sử dụng giao diện website trên Internet để truyền tải thông tin bằng bài
viết, âm thanh, hình ảnh, các đoạn video gồm cả hình ảnh động và âm thanh (video clip). Ưu
điểm: thông tin cập nhật nhanh, tính tương tác hai chiều cao. Khuyết điểm: tính phổ cập yếu.
Câu 13: Chứng minh rằng, xuất bản là ngành kinh doanh đặc thù, sách là hàng hóa đặc biệt.
Xuất bản là một hoạt động sản xuất: vừa là sản xuất tinh thần, vừa là sản xuất vật chất. Sản phẩm
của nó được phổ biến, trao đổi với công chúng trong xã hội. Nó đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần
của con người. Trong cơ chế thị trường, mọi sản phẩm do lao động của con người tạo ra, nhằm đáp
ứng nhu cầu (có ích) của con người, được đem ra trao đổi đều trở thành hàng hóa.
Vì vậy, xuất bản nhất thiết phải mang tính chất sản xuất hàng hóa, xuất bản phẩm trở thành hàng
hóa trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên, xuất bản phẩm là hàng hóa đặc biệt, hoạt động xuất
bản là hoạt động sản xuất đặc thù vừa là sản xuất hàng hóa, vừa là sản xuất phi hàng hóa.
1. Tính chất hàng hóa trong từng loại ấn phẩm, từng loại sách, mảng sách không hoàn toàn
giống nhau: Có loại ấn phẩm bản thân nó là hàng hóa, có thể chuyển hóa trực tiếp thành của cải
vật chất khi được sử dụng, tạo ra các giá trị vật chất mới như: bản vẽ kỹ thuật, thiết kế thời trang,
thiết kế nhà cửa, phần mềm máy tính dịch vụ…
Có những ấn phẩm tự nó chỉ mang giá trị tinh thần, đáp ứng nhu cầu tâm linh. Vốn dĩ đó là những
tác phẩm viết ra không vì mục đích lợi nhuận - là kết tinh của sức lao động không vụ lợi - tác phẩm
văn học nghệ thuật - nó không trực tiếp làm tăng giá trị xã hội vật chất. Nhưng nó cũng phải được
phổ biến, trao đổi, xuất bản để phổ biến, và trở thành hàng hóa, được mua bán trên thị trường để
thực hiện giá trị, đó là giá trị đặc biệt và tương đối. Có những ấn phẩm không thể là hàng hóa. Do
là xuất bản phẩm được sản xuất đặc biệt, có giá thành rất cao, không thể ngang giá, không thể cạnh
tranh, là sản phẩm dịch vụ công ích, nhà nước phải đảm nhận việc sản xuất và cung ứng. Đó là
những công trình lý luận văn hóa, những tuyển tập văn hóa được biên soạn công phu, tốn kém, làm
nền tảng cho văn hóa dân tộc, cần thiết cho mọi người, không thể mua được. bán nhưng phải cung
cấp, không được phân phối... vì sự nghiệp văn hóa, tư tưởng, giáo dục.
Ví dụ : Sách lí luận kinh điển; Tuyển Tập Hồ Chí Minh Trọn Bộ, Tuyển Tập CD-Rom Hồ Chí
Minh Trọn Bộ, Tuyển Tập Văn Kiện Đảng Cộng Sản Việt Nam Trọn Bộ, v.v... Đây là hoạt động
xuất bản phi lợi nhuận, phi thương mại, phi lợi nhuận.
2. Hàng hóa văn hóa tinh thần là loại hàng hóa đặc biệt, được tạo ra từ sự kết hợp của hai
yếu tố là sản phẩm tinh thần và hàng hóa. Với tư cách là hàng hóa, ấn phẩm còn là sự thống
nhất hữu cơ giữa giá trị và giá trị sử dụng, được trao đổi, mua bán trên thị trường. Tuy nhiên, ấn
phẩm là hàng hóa đặc biệt. Tính đặc biệt thể hiện ở cả giá trị và giá trị sử dụng của nó.
- Giá trị sử dụng của xuất bản phẩm là tính hữu dụng của nó có thể thoả mãn yêu cầu sinh hoạt văn
hoá tinh thần của con người: nghiên cứu, học tập, giải trí, bồi dưỡng tình cảm đạo đức.
Tuy nhiên, với đặc thù là sản phẩm văn hóa tinh thần, thị trường xuất bản không chỉ là mua bản,
không chỉ lấy lợi nhuận làm thước đo giá trị và hiệu quả kinh doanh, bởi nó còn có những ảnh
hưởng vô cùng to lớn, sự to lớn của nó đối với nền kinh tế đất nước, đối với đời sống tinh thần và xã hội.
Quan hệ cung cầu trên thị trường xuất bản không phải lúc nào cũng thuần túy là mua bán, thương
mại hóa. Có những mối quan hệ chỉ là trao đổi, chia sẻ, không vụ lợi Ví dụ: +
Thư viện công cộng: Thư viện công cộng cung cấp các tác phẩm văn học và nghệ thuật
miễn phí cho người dân. Đây là một hình thức quan hệ cung cầu không có mục đích lợi nhuận, mà
chỉ muốn giúp độc giả tiếp cận với các tác phẩm văn học và nghệ thuật một cách dễ dàng và miễn phí. +
Các trang web chia sẻ sách điện tử: Các trang web chia sẻ sách điện tử như Project
Gutenberg cung cấp các tác phẩm văn học miễn phí cho người đọc. Những trang web này không có
mục tiêu lợi nhuận từ việc sản xuất và phân phối sách, mà chỉ muốn giúp độc giả tiếp cận với các
tác phẩm văn học một cách dễ dàng và thuận tiện. +
Các nhà xuất bản sản xuất các tác phẩm văn học và nghệ thuật đặc sắc: Một số nhà xuất bản
sản xuất các tác phẩm văn học và nghệ thuật đặc sắc không chỉ để bán hàng mà còn để giữ gìn giá
trị văn hóa. Những tác phẩm này có thể không được tiếp cận với đại chúng hoặc không bán được
nhiều, nhưng vẫn được sản xuất và phát hành để giữ gìn giá trị nghệ thuật và văn hóa.
3. Sách/ ấn phẩm là hàng hóa đặc biệt, có thể nhân bản vô hạn mà không làm mất đi giá trị
sử dụng. Vì vậy, khi bên mua sử dụng xuất bản phẩm, bên bán vẫn được giữ bản chính xuất bản
phẩm. Trên thị trường, xuất bản phẩm được mua bán và trao đổi theo hai cách:
- Trao đổi quyền sở hữu hàng hóa - người bán trao cho người mua toàn bộ quyền định đoạt tác
phẩm của mình, chỉ giữ lại quyền đứng tên tác giả. Trao đổi quyền sử dụng hàng hóa -người bán có
quyền định đoạt hàng hóa đã xuất bản, chỉ cho phép người mua sử dụng tác phẩm của mình ở các mức độ khác nhau.
4. Xuất bản phẩm vừa là hoạt động trao đổi nhằm hiện thực hóa giá trị hàng hóa, vừa là hoạt
động tuyên truyền, phổ biến văn hóa.
Xuất bản phẩm là kết tinh thành quả lao động của những người tham gia hoạt động xuất bản. Đó là
lao động phục vụ nhu cầu của xã hội chứ không phải cho bản thân. Giá trị sức lao động của họ
được thực hiện thông qua trao đổi hàng hóa trên thị trường. Sau khi xuất bản, tất cả lao động xuất
bản được trao đổi và trở nên có giá trị. Qua đó và nhờ đó các nhà xuất bản, ngành xuất bản mới tồn tại và phát triển. ●
Ví dụ như hoạt động giới thiệu Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc trên báo chí,
truyền hình; Giới thiệu Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản hoặc cuộc thi tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí
Minh; Việc phát hành sách, hội sách lý luận chính trị tại Vinh năm 2005 không chỉ để xuất bản
sách mà chủ yếu là để tuyên truyền, giới thiệu văn hóa. (trong giáo trình) ●
Ví dụ: Nhà xuất bản Kim Đồng: Nhà xuất bản này chuyên sản xuất sách, truyện tranh, tạp
chí cho trẻ em. Bên cạnh việc cung cấp hàng hóa cho người tiêu dùng, Kim Đồng còn có mục tiêu
tuyên truyền giá trị văn hóa cho trẻ em thông qua các tác phẩm của mình. Nhà xuất bản Kim Đồng
đã sản xuất rất nhiều cuốn sách, truyện tranh và tạp chí dành cho trẻ em với mục tiêu tuyên truyền
giá trị văn hóa cho trẻ em. +
Bộ sách "Tôi tài giỏi, bạn cũng thế" của tác giả Phan Thị Thu Hương: Bộ sách này giúp trẻ
em hiểu về những giá trị nhân văn, đạo đức và kỹ năng sống cần thiết để trở thành một người tài giỏi. +
Tạp chí "Tuổi học trò": Tạp chí này cung cấp các thông tin hữu ích về học tập, kỹ năng sống
và giáo dục cho các em học sinh. Tạp chí cũng thường xuyên đăng tải những câu chuyện, bài học
cuộc sống để giúp trẻ em hiểu rõ hơn về giá trị văn hóa.
- Xuất bản sách là để hiện thực hóa giá trị của xuất bản phẩm. Nó phải tuân theo quy luật thị
trường, theo quy luật hoạt động thương mại. Thương mại hóa trong phát hành là điều tất yếu. Tuy
nhiên, việc thương mại hóa hoạt động phân phối cũng chịu sự quy luật của tư tưởng và văn hóa.
Và từ đó có thể khẳng định: “Xuất bản là ngành kinh doanh đặc thù, sách là hàng hóa đặc biệt”
Câu 14: Bình luận về quyền, nghĩa vụ của biên tập viên nhà xuất bản theo quy định của pháp
luật hiện hành? Theo anh (chị), để thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ, biên tập viên cần hội tụ
những phẩm chất gì? Vì sao?
Quyền và nghĩa vụ của biên tập viên nhà xuất bản theo quy định của pháp luật hiện hành là: -
Căn cứ tại khoản 1 Điều 19 Luật Xuất bản 2012 quy định về tiêu chuẩn của biên tập viên như sau:
Điều 19. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của biên tập viên
Tiêu chuẩn của biên tập viên:
+ Là công dân Việt Nam; thường trú tại Việt Nam; có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt;
+ Có trình độ đại học trở lên;
+ Hoàn thành khóa bồi dưỡng kiến thức pháp luật xuất bản, nghiệp vụ biên tập theo quy định của
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông;
+ Có chứng chỉ hành nghề biên tập do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp. -
Căn cứ tại khoản 2 Điều 19 Luật Xuất bản 2012 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của biên tập viên như sau:
Điều 19. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của biên tập viên
Biên tập viên có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
+ Thực hiện biên tập bản thảo;
+ Được từ chối biên tập bản thảo tác phẩm, tài liệu mà nội dung có dấu hiệu vi phạm quy định tại
khoản 1 Điều 10 của Luật này và phải báo cáo với tổng giám đốc (giám đốc), tổng biên tập nhà
xuất bản bằng văn bản;
+ Đứng tên trên xuất bản phẩm do mình biên tập;
+ Tham gia các lớp tập huấn định kỳ kiến thức pháp luật xuất bản, nghiệp vụ biên tập do cơ quan
quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản tổ chức;
+ Không được để lộ, lọt nội dung tác phẩm, tài liệu xuất bản trước khi phát hành làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả;
+ Chịu trách nhiệm trước tổng biên tập nhà xuất bản và trước pháp luật về phần nội dung xuất bản phẩm do mình biên tập.
Những phẩm chất cần có của một người biên tập viên để thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ là: -
Đức tính tỉ mỉ, cẩn thận: Đây là phẩm chất đầu tiên cần nhắc tới khi nói đến công việc này
vì phải đảm nhận rất nhiều bản thảo, cần sửa lời văn văn, câu từ lủng củng, nhặt ra những hạt “sạn”
nhỏ nhất để đảm bảo cuốn sách được hoàn hảo nhất khi đến tay độc giả. -
Khả năng viết lách: Đây là công cụ giúp biên tập viên bước vào nghề một cách tự tin hơn, vì
đặc thù công việc nên họ phải luôn tiếp xúc với con chữ, kiểm soát nội dung và đưa thông tin đến
với mọi người nên khả năng này phải có và cần được trau dồi thêm mỗi ngày thì mới có thể trở
thành một biên tập viên tốt. -
Sự tự tin và khách quan: Sự tự tin không phải thể hiện qua giao tiếp mà qua sự tin tưởng vào
chính bản thân mình, vì công việc đòi hỏi sự hoàn hảo tối đa nên cái biên tập viên cần là tin tưởng
vào khả năng của chính bản thân mình. Sự khách quan giúp họ đứng ở thế cân bằng nhất để nhìn
nhận sự việc, đánh giá trung thực, chính xác về luồng thông tin mang tới người tiếp cận, điều này
còn thể hiện ở việc người biên tập phải đặt suy nghĩ của mình vào tác giả để chỉnh sửa câu chữ, ý
nghĩa sao cho phù hợp và đúng với tác giả nhất. -
Hiểu được tâm lý công chúng: Biên tập viên là những người quyết định sản phẩm sau cùng
phục vụ cho công chúng nên họ vừa phải chỉnh sửa lời văn vừa phải hiểu trọn vẹn thông điệp tác
giả muốn truyền tải. Phải biết cập nhật xu thế, tin tức xung quanh, đồng thời biết lắng nghe, tiếp
thu ý kiến để ngày càng hoàn thiện hơn.
Câu 15: Tại sao nói công tác biên tập là khâu trung tâm trong hoạt động xuất bản?
* Đặc điểm của khâu biên tập:
- Xuất bản là quá trình truyền bá và sản xuất, gồm 3 khâu: biên tập, in và phát hành.
- Xuất bản là hoạt động gia công biên tập đối với các tác phẩm, làm cho nó phù hợp với nhu cầu
của độc giả. Xuất bản không phải là sáng tác. Xuất bản lựa chọn văn hóa phù hợp nhu cầu tiếp
nhận của người dùng.Khâu lựa chọn tác phẩm và gia công chỉnh lý là khâu đầu tiên mở đầu cho
hoạt động xuất bản được gọi là công tác biên tập.
- Công tác biên tập phải đạt mục tiêu là chọn lọc được nhiều tác phẩm văn hóa có sẵn, thúc đẩy, tổ
chức sự sáng tạo của tác giả để có nhiều tác phẩm tinh thần. Đồng thời gia công, hoàn thiện, nâng
cao chất lượng của nó theo một yêu cầu truyền thông của xã hội.
- Biên tập là công việc của người làm truyền thông, làm xuất bản, sử dụng các thành tựu sáng tác
của các tác giả, lựa chọn gia công để truyền bá, đối tượng hoạt động biên tập là các bản thảo gốc.
- Trong quá trình xuất bản, biên tập nằm trong hoạt động sản xuất tinh thần, tạo ra sản phẩm tinh thần
- Biên tập là hoạt động sáng tạo ra những điều kiện cần thiết để các tác phẩm tinh thần, các tri thức
có truyền bá, để hoạt động xuất bản làm tốt chức năng văn hóa của mình.Biên tập lựa chọn tác
phẩm tinh thần, tối ưu hóa tri thức, chuẩn hóa ngôn ngữ, gia công về nội dung và hình thức để phù
hợp với các nhóm đối tượng.Hoàn thiện thiết kế mỹ thuật và kỹ thuật xuất bản phẩm.
* Công tác biên tập là khâu trung tâm trong toàn bộ hoạt động xuất bản:
+ Quá trình xuất bản được cấu tạo thống nhất từ 3 yếu tố biên tập, in ấn, phát hành thì biên tập ở
vào vị trí hạt nhân, mở đầu trong quá trình xuất bản. Không có biên tập thì việc in ấn, phát hành là
không thể thực hiện được.
+ Trình độ, chất lượng công tác biên tập là nhân tố ảnh hưởng, chi phối trực tiếp, thậm chí quyết
định hiệu quả của in ấn và phát hành.
Câu 16: Trình bày những ưu điểm và hạn chế của xã hội hoá thông qua cơ chế liên kết trong
hoạt động xuất bản hiện nay.
* Tính chất xã hội hóa của hoạt động xuất bản:
Xuất bản là hoạt động phổ biến, truyền bá tri thức đến nhiều người. Hoạt động xuất bản thực chất
là hoạt động xã hội hóa sản phẩm trí tuệ của cá nhân đội ngũ trí thức. Những tác phẩm, công trình
nghiên cứu đó là sản phẩm tinh thần của người trí thức cụ thể, nhà xuất bản đã tìm kiếm được
những ý tưởng, những sản phẩm đó của đội ngũ sáng tác, đội ngũ trí thức rồi sau đó mới biên tập,
thiết kế, hoàn thiện xuất bản phẩm và đưa đến tay nhiều người, nhiều độc giả trong xã hội. Xuất
bản chính là hoạt động xã hội hóa xuất bản phẩm - “sách hóa bản thân” của đội ngũ sáng tạo xuất
bản phẩm và những đơn vị xuất bản. Xã hội hóa là một chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong
hoạt động xuất bản được thể hiện qua các chính sách và các văn bản pháp luật cụ thể. Thực chất
nội dung của xã hội hóa là huy động được lực lượng trong xã hội tham gia vào các hoạt động, lĩnh
vực nào đó như văn hóa, kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế... trong đó xuất bản giữ vai trò là cầu nối,
biểu hiện những lĩnh vực đó của xã hội trong sản phẩm của hoạt động này. Những lực lượng trong
xã hội được huy động và tìm kiếm bao gồm các thành phần kinh tế trong xã hội và nguồn lực của
xã hội (như tài chính, công nghệ và nhân lực - đội ngũ trí thức). -
Ưu điểm của quá trình xã hội hóa hoạt động xuất bản là việc tạo ra sự phát triển đa dạng và
phong phú các loại xuất bản phẩm; xuất bản phẩm được tạo ra nhanh chóng, mang tính năng động
và thời sự; huy động được nguồn lực của xã hội (vốn, công nghệ, nhân lực); tăng thu nhập của của
hoạt động xuất bản (nhà xuất bản, đội ngũ trí thức sáng tạo xuất bản phẩm - người lao động cụ thể)
qua đó góp phần vào sự tăng trưởng của GDP nước nhà. -
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, công tác xã hội hóa hoạt động xuất bản mang đến
không ít những hạn chế như: xã hội hóa hoạt động xuất bản làm gia tăng xu hướng thương mại hóa
(hoạt động xuất bản phải sản sinh ra lãi); nhà xuất bản xa rời nhiệm vụ chính trị, phó thác cho đối
tác, làm xói mòn niềm tin, mất đi thương hiệu với độc giả; phát sinh quá trình cạnh tranh không
lành mạnh (cạnh tranh giữa nhà xuất bản nhà nước với khối tư nhân, giữa các nhà xuất bản với
nhau, giữa các nhà xuất bản tư nhân với nhau); hình thức sách lậu, in lậu có nguy cơ phát sinh và
ngày một gia tăng; bên cạnh đó là việc hình thành nhũng sai sót trong nội dung và hình thức của
xuất bản phẩm, gây ảnh hưởng đến chất lượng của xuất bản phẩm nói riêng và hoạt động xuất bản nói chung
Câu 17: Chứng minh rằng văn hóa là thuộc tính tất yếu của hoạt động xuất bản.
Bản chất của hoạt động xuất bản là truyền bá văn hoá
Xuất bản ra đời do nhu cầu thông tin và truyền bá thông tin, tri thức. Chính vì vậy, bản chất của
hoạt động xuất bản là truyền bá tri thức thuộc các lĩnh vực đời sống xã hội.
VD: Cuốn sách “Ngàn năm áo mũ” đã đưa đến cho người đọc những tri thức về trang phục của
người Việt từ thời Lý, Trần, Lê sơ, Lê trung hưng, cho đến triều Tây Sơn và kết thúc tại thời
Nguyễn. Lịch sử áo mũ ngàn năm được tóm gọi trong hơn 400 trang sách sẽ đem lại cho ta bức
tranh trang phục đồ sộ, từ trong cung đình cho đến ngoài dân gian trong khoảng từ năm 1009 đến 1945
Xuất bản là các tác phẩm văn hoá tinh thần do các nhà văn hóa sáng tạo ra
Giá trị văn hóa tinh thần của một xuất bản phẩm chính là giá trị cơ bản của xuất bản phẩm đó. Do
đó, đánh giá, chọn lựa, sửa chữa xuất bản phẩm phải là hoạt động văn hoá chuyên ngành với yêu cầu cao.
Xuất bản biến các tác phẩm của cá nhân thành tài sản của xã hội, góp phần truyền bá các giá
trị văn hóa, bảo tồn các giá trị văn hóa và xây dựng nền văn hóa dân tộc
Khi một xuất phẩm phẩm ra đời, giá trị của một xuất bản phẩm sẽ được truyền bá rộng rãi tới công
chúng, góp phần làm thay đổi nhận thức của người đọc, từ đó ảnh hưởng tới lớn tới việc xây dựng
nên nền văn hóa của một dân tộc.
VD: Cuốn sách “Bàn tay kỳ diệu của Sachi” kể về cô bé Sachi với một bàn tay đặc biệt, không hề
có ngón tay như các bạn khác. Ngay từ khi còn rất bé Sachi luôn mong được làm mẹ trong các trò
chơi trường ở lớp mẫu giáo nhưng các bạn đều nhất mực phản đối với lý do Sachi không có ngón
tay. Mặc dù rất buồn và thấy bị tổn thương, nhưng nhờ có sự động viên, những chia sẻ thành thật,
kịp thời của bố mà cô bé đã vui trở lại và có niềm tin rằng một ngày nào đó cô bé sẽ có thể làm mẹ.
Cuốn sách đã đem đến cho người đọc những giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc, tác động đến nhận
thức của con người, khiến con người biết yêu bản thân mình hơn, biết đồng cảm với những người
có khiếm khuyết, từ đó biết cách yêu thương người khác. Đây chính là ảnh hưởng của xuất bản tới
việc xây dựng nền văn hóa. Kết luận:
Tính chất văn hoá là thuộc tính tất yếu, là bản chất của hoạt động xuất bản. Xuất bản có những tác
động tới nền văn hóa và nền văn hóa cũng có những ảnh hưởng tới hoạt động xuất bản. Đây là mối
quan hệ hai chiều tác động lẫn nhau, quyết định sự phát triển của nhau. Luật xuất bản ban hành
năm 2004 đã chỉ rõ: “Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hoá, tư tưởng thông qua việc sản phố
biến những xuất bản phẩm đến nhiều người nhằm giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời
sống xã hội, giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân…”
Câu 18: Chứng minh rằng kinh tế là thuộc tính tất yếu của hoạt động xuất bản a)
Trong nền kinh tế hàng hóa
- Xuất bản trở thành hàng hóa được trao đổi, mua bán trên thị trường -> Hoạt động xuất bản trở
thành quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa văn hóa tinh thần
- Một hoạt động trong xuất bản đòi hỏi sự đầu tư, chi phí về vật chất, đồng thời có thể đem lại thu
nhập, đôi khi đem lại lợi nhuận cao. b)
Chủ nghĩa tư bản công nghiệp
- Hoạt động xuất bản trở thành một ngành công nghiệp văn hóa hiện đại, đem lại lợi nhuận cao
cho các nước tư bản như Anh, Mỹ, Pháp, Đức,.....
- Xuất bản nói chung tuân theo quy luật thương mại, quy luật giá trị, có mục đích kiếm lãi, nhà
xuất bản là doanh nghiệp, là người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, xuất bản là nghề sản xuất,
phân phối vật phẩm tiêu dùng tinh thần
- Xuất bản nếu không tuân theo quy luật kinh tế hàng hóa sẽ bị hạn chế sức sống của hàng hóa xuất bản phẩm c) Xã hội hiện đại
- Xuất bản góp phần tạo nên ngành công nghiệp trí tuệ:
+) Xuất bản đóng vai trò trung tâm trong đời sống văn hóa, giáo dục, trí tuệ mỗi quốc gia
-> Xuất bản là nhân tố trung tâm trong việc tạo ra các mối liên hệ trong các ngành công nghiệp trí tuệ ●
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu tiếp thu tri thức cũng theo đó mà tăng lên -> nhiều
người có xu hướng đầu tư vào các ngành công nghiệp trí tuệ hơn -> tăng trưởng tỉ trọng kinh tế
vào các lĩnh vực phát triển văn hóa và tri thức như xuất bản
Câu 30: Phân tích chức năng kinh doanh xuất bản phẩm của hoạt động xuất bản. Liên hệ với
thực tiễn hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay.
- Xuất bản là quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa, chịu sự chi phối chặt chẽ của quy luật giá
trị, quy luật sản xuất và lưu thông hàng hóa trên thị trường
-> Kinh doanh cũng là chức năng cơ bản của hàng hóa
- Kinh doanh xuất bản hiện nay độc lập, tự chủ về mặt kinh doanh, bám theo nhu cầu thị trường