



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601608
Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức CƠ SỞ LÝ LUẬN
- Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê chuẩn, V.I. Lênin đã
địnhnghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sángtạo
hiện thực khách quan của bộ óc người.
Theo điểm Triệt học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật
chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những phương diện cơ bản sau
1. Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Vật chất là nguồn gốc của ý thức, ý thức có
sau,vật chất sinh ra ý thức. Do đó, nếu không có vật chất sẽ không có ý thức. Ý thức tồn tại
phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não người trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan.
2. Vật chất quyết định nội dung của ý thức. Do ý thức là phản ánh của thế giới khách quan.Sự
phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu đều là động lực mạnh mẽ nhất
quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung tư duy, ý thức con người.
3. Vật chất quyết định bản chất của ý thức. Con người phản ý thế giới khách quan một cáchtích
cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến
thế giới con người – là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức con người
4. Vật chất quyết định phương thức tồn tại, kết cấu của ý thức. Tri thức, tình cảm, niềm tin,ýchí
do vật chất quyết định. Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn với sự vận động, phát triển
của vật chất; vật chất thay đổi thì, sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo.
Như vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức là khi có điều kiện về kinh tế, khi hàng dịch vụ
thì trong ý thức con người xuất hiện nhu cầu “ăn ngon, mặc đẹp”. Nếu không có ngon, quần
áo đẹp, hay các dịch vụ giao hàng tiện lợi cũng như bản thân có điều kiện về tế thì co người
không thể có được nhu cầu đó.
Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật phát triển riêng, không lệ thuộc một
cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi đã ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động
trở lại thế giới vật.
2.Tự bản thân ý thức không thể biến đổi được hiện thực. Sự tác động của ý thức đối với vật
chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể
làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất.
3. Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người; nó có thể quyết địnhlàm
cho hoạt động con người đúng hay sai, thành công hay thất bại.
4. Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức của con người ngày càng to lớn.
Một ví dụ dễ thấy nhất chính là việc xác định mục tiêu học đại học của sinh viên. Khi sinh viên
xác định mục tiêu học tập ở đại học là để tích lũy tri thức, rèn luyện kĩ năng thì người sinh viên lOMoAR cPSD| 61601608
sẽ có những nhận thức và thái độ đúng đắn trong học tập, rèn luyện, vững tin trên con đường
mình đã chọn và có ý chí để không từ bỏ. Ngược lại nếu những ai xác định đại học là học đại
thì sẽ phạm những sai lầm trong học tập, rèn luyện từ đó dẫn tới những thất bại như không qua
môn, không thể tốt nghiệp, bỏ học.
*Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất
phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn lường. Cần
tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật bình thường, chủ nghĩa
thực dụng, chủ nghĩa khách quan
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phát huy tính năng động chủ
quan của ý thức, tức là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức; phát huy vai trò
của nhân tố con người.
Thứ ba, chống tư tưởng thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo.
Thứ tư, khi xem xét các hiện xã hội, cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh thần,
cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan.
*Vận dụng trong trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Bộ giáo dục và đào tạo đã vận dung mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào nền
giáo dục Việt Nam bằng cách đã có những chình sách để thu hút được nguồn lục giáo viên giỏi
và hàng loạt chính sách khác để khiến nền giáo dục nước nhà phát triển. Cụ thể nhà nước ta đã
xây dựng các trường học mới. Trong những năm qua, trong những nỗ lực phát triển nền giáo
dục nước nhà thì nhà nước đã xây dựng hàng loạt các trường mới nâng cấp sửa sang các trường
cũ và đầu tư vào trang thiết bị
Chính sự đầu tư mạnh mẽ của nhà nước vào cơ sở vật chất đã tác động đến ý thức của người
dân rằng học tập là rất quan trọng khiến người dân ý thức được giá trị của học tập từ đó có định
hướng đúng đắn cho các em học sinh và những người mù chữ đến trường khiến cho nền giáo
dục nước nhà phát triển. Một trong những lý do chính laf do các trường học đã dễ tiếp cận hơn
và có những trang thiết bị hiệnđại hơn trước Điều này chứng tỏ vật chất đã tác động đã tác động lên ý thức
Và vấn đề quan trọng nhất đối với ngành giáo dục là vấn đề về giáo viên và học sinh (nhân tố
con người-những nhân tố quyết định trực tiếp đến nền giáo dục Việt Nam). Đầu tiên là những
chính sách thu hút nhân lực giỏi các ngành đào tạo giáo viên. Để thu hút nhân lục giỏi, chất
lượng và tâm huyết với nghề cho các ngành đào tạo giáo viên thì nhà nước đã ban hành nghị
định 116/2020/NĐ-CP hỗ trợ sinh hoạt cho sinh viên sư phạm thay cho chính sách miễn giảm
học phí đã lỗi thời. Chính nghị định 116 đã giúp ngành sư phạm tăng sức hút đối với những
bạn học sinh giỏi và nó cũng là một cam kết cho ý thức của sinh viên sư phạm. Điều này chứng
tỏ vật chất đã tác động đến ý thức. Chính ý thức sẽ tác động lại đến hành động là khiến sinh
viên sư phạm luôn cố gắng (tác động tích cực) để học hành, rèn luyện bảo thân, có được đạo
đức nghề giáo nên sẽ đào tạo được những người giáo viên giỏi và đầy tâm huyết với nghề. Vì
chỉ những ai có tình yêu với ngành sư phạm, tâm huyết với nghề mới cam kết với nghị định
116 (vì có yêu cầu bồi hoàn học phí và phí sinh hoạt nếu bỏ nghề). Khi những người thầy giáo
cô giáo tương lai đã có tri thức và tâm huyết với nghề sẽ giúp nền giáo dục Việt Nam phát triển
vì thầy giỏi mới có trò giỏi. Khi đã có trò giỏi và noi theo các tấm gương của những người
thầy tốt thì những em học sinh sẽ có niềm tin vào ngành sư phạm và khiến nền giáo dục ngày lOMoAR cPSD| 61601608
càng phát triển do tinh thần ham học hỏi được từ các thầy cô tâm huyết. Lúc này ý thức (tri
thức của thầy cô, tình cảm, niềm tin vào ngành sư phạm và ý chí giúp nền giáo dục phát triển)
đã tác động lên vật chất, giúp vật chất (nền giáo dục ) phát triển dẫn đến sự phát triển của đất nước.
Bản thân là một sinh viên ngành sư phạm-một người tương lai sẽ tác động đến ngành giáo dục,
tôi hiểu và luôn áp dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào cuộc sống, luôn
muốn phát triển nền giáo dục nước nhà. Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức
và hoạt động của tôi phải xuất phát từ thực tế khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được
các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến học tập, cuộc sống của mình để tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan (ví dụ tôi học đủ tiết và hoàn thành nhiệm vụ của giảng viên). Thứ
hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động, sáng
tạo của ý thức. Tôi phải chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân mình, bồi dưỡng
những kỹ năng cần thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào người khác mà phải tự phát
huy tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ (ví dụ tôi luôn có ý thức đọc trước giáo trình và luôn có tinh
thần học hỏi điều mới ). Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân
thụ động, bảo thủ,không chủ quan trước mọi tình huống (ví dụ là tôi luôn lắng nghe ý kiến mọi
người khi làm việc nhóm). Tôi tin rằng với những việc trên (vật chất), tri thức của tôi, tình
cảm, niềm tin của tôi vào nghề sư phạm và ý chí cố gắng vươn lên thì tôi tin mình sẽ trở thành
một người giáo viên tốt và đóng góp vào sự phát triển của nền giáo dục nước nhà.
Câu 2: Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến,
Nguyên lý về sự phát triển Lý luận
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Quan điểm siêu hình về mối liên hệ:
Quan điểm siêu hình xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời nhau, cô lập nhau,
giữa chúng không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu có thì chỉ là những mối liên
hệ giản đơn, hời hợt ở bên ngoài. Quan điểm siêu hình chỉ thấy bộ phận mà không thấy toàn
thể, “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.
Do đó, quan điểm siêu hình không thể vạch ra được bản chất của các sự vật, hiện tượng.
Quan điểm biện chứng về mối liên hệ:
Khái niệm mối liên hệ:
Theo quan điểm duy vật biện chứng gồm hai phương diện sau:
Một là, mối liên hệ là sự ràng buộc, phụ thuộc quy định lẫn nhau.
Hai là, mối liên hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau.
Tinh chất của mối liên hệ
Mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các tính chất đó của mối liên
hệ phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
Thứ nhất, tính khách quan:
Tính khách quan của mối liên hệ xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới. lOMoAR cPSD| 61601608
Mối liên hệ là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do sự áp đặt từ
bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản thân
các sự vật, hiện tượng hay các mặt, bộ phận trong một sự vật, hiện tượng luôn luôn chứa đựng các mối liên hệ.
Thứ hai, tính phổ biến:
Tính phổ biến của mối liên hệ xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới vật chất. Mỗi
sự vật, hiện tượng là một hệ thống có cấu trúc nội tại.
- Mối liên hệ có trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn, mọi quá trình; có cả trong tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
Xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình muôn vẻ của thế giới vật chất. Trong thế giới có nhiều
kiểu mối liên hệ, mà mỗi kiểu mối liên hệ có đặc điểm riêng, có vị trí, vai trò riêng đối với sự
tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Có mối liên hệ bên trong - mối liên hệ bên ngoài; có mối liên hệ cơ bản - mối liên hệ không cơ
bản; có mối liên hệ chủ yếu - mối liên hệ thứ yếu; có mối liên hệ bản chất - mối liên hệ không
bản chất; có mối liên hệ tất nhiên - mối liên hệ ngẫu nhiên; có mối liên hệ trực tiếp mối liên hệ
gián tiếp; mối liên hệ diễn ra rất phức tạp trong đời sống xã hội.
Hiện nay, khoa học hiện đại đã chứng minh rằng:
Phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các yếu tố cấu thành quyết
định. Chẳng hạn, cùng từ các nguyên tử các bon (C), nhưng theo những cách thức liên hệ khác
nhau sẽ tạo thành than hoặc kim cương; hoặc cùng từ công thức phân tử C2H6O, nhưng cách
thức liên hệ khác nhau sẽ tạo thành rượu (CH3 - CH2 - OH) hoặc ête (CH3 - O CH3); hay trật
tự liên hệ giữa các axít nucleic (A - T, G - X) mà bị đảo lộn sẽ gây ra hiện tượng đột biến gen.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải tuân theo quan
điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ,
kể cả những mắt khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định.
Hai là, trong vô vàn các mối liên hệ, trước hết cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu,
tức là xem xét một cách có trong tâm, trọng điểm, nhờ đó nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Ba là, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng thì cần phải đối chiếu với các mối liên hệ.
Bốn là, chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều.
Năm là, chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải Sáu
là, chống lại thuật ngụy biện.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu: lOMoAR cPSD| 61601608
Thứ nhất, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh lịch sử
- cụ thể; trong điều kiện, mỗi trường cụ thể; trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất
định; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng trường hợp cụ thể nhất định; trong
từng hệ tọa độ nhất định...
Thứ hai, cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác nhau
phải giải quyết trong thực tiễn.
Thứ ba, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể
nhất định, như theo V. I. Lênin, “phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”, đó là “bản chất” và
“linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác. Vận dụng:
Bản thân em, một sinh viên SPTPHCM, đã có đã có kinh nghiệm học tập trực tuyến trong thời
gian dài, ở bậc phổ thông cũng như bậc đại học, cùng với việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo
quan điểm toàn diện, thì những giải pháp để có thể trang bị cho bản thân học sinh, sinh viên
một tâm thế học tập chủ động, tích cực có thể khái quát lại cần phải có ý thức cao cùng một
sức khỏe tốt. Trong tình trạng học online tại nhà, học sinh, sinh viên không chỉ đối mặt với
những khó khăn về thiết bị học tập, hay về việc tiếp thu bài giảng trên lớp mà còn tăng khả
năng bị xao nhãng trong học tập bởi những kích thích từ bên ngoài… Chính vì vậy, để việc
tiếp thu kiến thức đạt hiệu quả cao nhất, trước hết mỗi người học cần tạo cho mình mục tiêu
để chiến đấu cùng với tinh thần mạnh mẽ, kiên trì, bền bỉ vượt qua.
Nguyên lý về sự phát triển:
Quan điểm siêu hình về sự phát triển:
Thứ nhất, quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển.
Quan điểm siêu hình cho rằng, thế giới được sinh ra một lần rồi mãi mãi cứ như vậy.
Thứ hai, nếu có phát triển thì đó chỉ là sự thay đổi về lượng chứ không có sự thay đổi về chất.
Quan điểm siêu hình không thừa nhận bước nhảy vọt về chất; phát triển chỉ là quá trình vận
động tịnh tiến đi lên.
Thứ ba, sự phát triển diễn ra theo đường thẳng hoặc theo đường tròn khép kín.
Vì phát triển chỉ là quá trình vận động tịnh tiến đi lên nên phát triển diễn ra theo đường thẳng,
hoặc phát triển là một chu kỳ lặp lại hoàn toàn cái cũ.
Thứ tư, phát triển chẳng qua chỉ là sự vận động đi tới “cõi chết” mà thôi.
Đây là quan điểm của một lực lượng bi quan trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nó cho rằng, trong
chủ nghĩa tư bản, kinh tế phát triển nhưng các vấn đề xã hội nan giai không giải quyết được. Vận dụng:
Trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay thế kỉ XXI, học là việc vô cùng quan
trọng đối với học sinh, sinh viên để phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Với sự vận động
đi lên của toàn xã hội thì sinh viên cần phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm phát
triển, để từ đó có thể vận dụng một cách tối ưu, sáng tạo và hợp lý.
Sinh viên phải nhìn tương lai như một chuỗi các gián đoạn phải biết phân chia quá trình
phát triển của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó phải học cách vượt qua các gián đoạn và có
cách tác động phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển đó trong hiện tại và tương lai. Khuynh hướng lOMoAR cPSD| 61601608
chung là phát triển đi lên, tức phải thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng
trong quá trình phát triển của nó. Có lúc sinh viên sẽ cảm thấy quá trình học tập không có chút
tiến triển, dậm chân tại chỗ thì chúng ta tránh bi quan, tránh những suy nghĩ tiêu cực. Mỗi sinh
viên có sự phát triển về trí tuệ và thể chất khác nhau, sẽ có các phương pháp học tập rèn luyện
khác nhau để nâng cao trí tuệ, cảm xúc. Mỗi người có một thước đo cuộc sống khác nhau
không thể từ đó mà áp vào bản thân mình rồi cảm thấy tự ti, áp lực cùng trang lứa.
Quá trình rèn luyện và học tập là quá trình tích lũy kiến thức lâu dài. Sinh viên không nên chỉ
dựa vào điểm số tức thời mà đưa ra kết luận quy chụp, cần xem xét cả quá trình phấn đấu, nỗ
lực. Chẳng hạn, sinh viên có thành tích không tốt trong một bài kiểm tra đánh giá, nhưng trong
quá trình học tập rèn luyện đã nỗ lực hết mình.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển: Khái niệm phát triển:
Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh
hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Tính chất của sự phát triển:
Sự phát triển có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các tính chất đó của sự phát
triển phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
Thứ nhất, tính khách quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc
vào ý thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản thân sự vật, hiện tượng luôn luôn
năm trong quá trình phát triển.
Thứ hai, tính phổ biến:
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội
và tư duy con người. Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của
cái mới tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan.
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau ở các sự vật, hiện tượng khác nhau, trong những
điều kiện không gian và thời những lĩnh vực hiện thực khác nhau. gian khác nhau, trong Chẳng hạn:
Trong giới tự nhiên, sự phát triển thể hiện ở mức độ hoàn thiện của tổ chức vật chất; ở sự xuất
hiện của những giống loài mới ngày càng phức tạp hơn. ..
Trong lĩnh vực xã hội, sự phát triển thể hiện ở trình độ của nền sản xuất xã hội; ở khả năng
chinh phục giới tự nhiên của con người; ở quá trình nhân đạo hóa đời sống xã hội loài người
và hoàn thiện bản chất con người... tư duy, sự phát triển thể hiện ở trình độ nhận thức của Trong
con người; ở trình độ tư duy lôgích; ở khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa. ..
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng.
Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, có thể trải qua những khâu trung gian, thậm
chí có những bước thụt lùi tạm thời, nhưng chính sự thụt lùi ấy lại đóng vai trò là tiền đề, điều
kiện cho một vận động đi lên. lOMoAR cPSD| 61601608
- Quan điểm biện chứng về sự phát triển còn chỉ ra rằng: Cách thức của sự phát triển là từ
những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại,
Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn nội tại của bản thân các sự vật, hiện tượng,
là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập;
Khuynh hướng của sự phát triển là phủ định của phủ định, sau mỗi chủ kỳ phủ định của phủ
định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Ý nghĩa phương pháp luận
triển và quan điểm lịch Nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần
phải tuân theo quan sur-cu the điểm phát Quan điểm phát triển yêu cầu:
Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần đặt nó trạng thái vận động, biến đổi không
ngừng. V. I. Lênin viết “Lôgích biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong
“sự tự vận động” (...) trong sự biến đổi của nó”58 trong
Hai là, cần vạch ra cái tương lai trong cái hiện tại, phát hiện ra những nhân tố mới tiến bộ đang
tiềm ẩn trong cái cũ, chỉ rõ tính chất đứng im tương đối, tạm thời của cái cũ; vạch ra xu hướng
phát triển của cái mới và tạo mọi điều kiện cho cái mới tiến bộ được ra đời. Cái mới lúc đầu
được ra đời có thể còn non yếu, mỏng manh, nhưng nhất định sẽ trở thành vững chắc; còn cái
cũ cho dù có bền vững đến mấy thì nhất định cũng sẽ bị phá vỡ và được thay thế bằng cái mới tiến bộ hơn.
Ba là, cần phân chia quá trình phát triển thành các giai đoạn, nghiên cứu để vạch ra đặc điểm,
nội dung của từng giai đoạn. Từ đó, ra các giải pháp, biện pháp tác động một cách phù hợp
nhằm thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, hiện tượng, tùy theo sự phát triển đó có
lợi hay có hại cho đời sống của con người và xã hội.
Bốn là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm chủ quan, nóng vội, duy ý chí, vội vàng xóa
bỏ cái cũ, tạo ra cái mới khi chưa có đầy đủ điều kiện chín muồi,
Năm là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, gây cản trở sự phát triển, cứ
giữ khăng khăng cái cũ, không chịu tạo ra cái mới khi đã hội đủ điều kiện chín muồi.
Như vậy, quan điểm phát triển là cơ sở trí tuệ của tinh thần lạc quan của những người cách mạng.
Khái quát ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên
lý về sự phát triển, tức là phương pháp biện chứng trong nhận thức và thực tiễn, Ph.
Ăngghen viết: “Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật
và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng,
trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng 5559
Tương tự như vậy, V. I. Lênin cho rằng, để có tri thức đúng về bất kỳ sự vật nào thì “bản thân
sự vật phải được xem xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển của nó.
Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong những
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. quy luật này chỉ rõ tính chất và cách thức của sự phát triển.
Câu 3: Quy luật lượng và chất Lý luận lOMoAR cPSD| 61601608 Khái niệm về chất
Chất là tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng được biểu hiện thông qua các thuộc tính
và đặc điểm cấu trúc của sự vật. tính quy định là cái vốn có của sự vật, hiện tượng để phân
biệt sự vật này với sự vật khác. Tính quy định này được thể hiện thông qua các thuộc tính.
Có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. thuộc tính cơ bản quy định chất của sự vật. Nếu
thuộc tính cơ bản mất đi thì chất của sự vật thay đổi. Còn thuộc tính không cơ bản thì
trong quá trình tồn tại của sự vật, có những thuộc tính không cơ bản mới nảy sinh và có những
thuộc tính không cơ bản mất đi nhưng chất của sự vật không thay đổi. Thuộc tính chỉ bộc
lộ thông qua quan hệ với sự vật khác. Trong sự vật, hiện tượng, chất không tách rời với lượng
Lượng của sự vật là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, chỉ rõ về mặt quy mô, tốc
độ, trình độ phát triển của sự vật, hiện tượng. Nói đến lượng sự vật tức là sự vật đó lớn hay
bé, tốc độ phát triển nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp..v..v..đo bằng các đại lượng
cụ thể, bằng số tuyệt đối như trong lượng, thể tích hoặc so sánh với vật thể khác, thời kỳ này với thời kỳ khác. Bước nhảy
Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải thông qua bước nhảy. bước nhảy
là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi căn bản từ chất sự vật này sang chất của sự vật khác.
+ Bước nhảy đốt biến là bước nhảy xảy ra trong thời gian ngắn làm thay đổi bản chất
của sự vật. bước nhảy này diễn ra bằng một sự bùng nổ mãnh liệt. vd cách mạng tháng
mười nga là một bước nhảy đột biến.
+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện bằng việc loại bỏ dần những yếu tố,
những bộ phận chất cũ xảy ra trong một thời gian dài mới loại bỏ hoàn toàn chất cũ thành chất mới. Đ iểm nút
là điểm mà tại đó lượng biến đổi đã gây nên sự thay đổi căn bản, tập hợp những điểm nút gọi
là đường nút. Chất đó lại quy định sự biến đổi về lượng, ảnh hởng của chất mới đến
lượng thể hiện ở quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển mới. nội dung duy luật này được phát
biểu như sau mọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về
lượng, lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì diễn
ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất cũ mất đi và sự vật
mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại lượng mới, lượng mới lại tiếp tục
thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước
nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy sự tác động qua lại giữa hai mặt chất và lượng
tạo ra con đường vận động, phát triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng. điều cần chú ý là:
-Quy luật này chỉ được thể hiện trong mối quan hệ giữa chất và lượng hoàn toàn xác định,
mối quan hệ này hình thành một cách khách quan chứ không thể gán ghép một cách
tuỳ tiện. đồng thời sự chuyển hoá lượng và chất bao giờ cũng phụ thuộc vào những điều kiện nhất định.
-Quy luật lượng-chất được vận dụng trong xã hội thể hiện ở mối quan hệ giữa tiến hoá và
cách mạng. trong sự phát triển của xã hội, sự thay đổi dần về lượng gọi là tiến hoá,
còn sự thay đổi về chất theo hướng tiến hoá lên gọi là cách mạng, tiến hoá chuẩn bị cho
cách mạng. trong giai đoạn tiến hoá, chế độ xã hội chưa có sự thay đổi căn bản về chất, lOMoAR cPSD| 61601608
còn cách mạng là kết quả của quá trình tiến hoá, chấm dứt một quá trình này, mở ra một quá
trình tiến hoá mới cao hơn, chế độ xã hội cũ bị xoá bỏ, chế độ xã hội mới ra đời thay thế.
cách mạng xã hội là phương thức thay thế xã hội này bằng xã hội khác, bạo lực là hình
thức cơ bản của cách mạng.
-Quy luật này có chiều ngược lại, chất mới ra đời thì làm biến đổi tốc độ, quy mô lượng
mới. cho nên khi chất mới ra đời phải biết xác định tốc độ, quy mô phát triển về lượng cho
thích hợp, không được bảo thủ, dừng lại
-Cần phải chống quan điểm tả khuynh, hữu khuynh. tả khuynh là phủ nhận tích luỹ về
lượng muốn có ngay sự thay đổi về chất, còn hữu khuynh là thì ngược lại khi lượng
biến đổi đã tới vượt quá độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất. nói nền
kinh tế thị trường định hướng xhcn có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh
tế hiện vật, tự cấp, tự túc, quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp. nhưng đó
cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách nói của tư bản, tức là không phải
nền kinh tế thị trường tbcn, và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xhcn, còn có sự đan
xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có lại vừa chưa có đầy đủ các yếu tố cnxh.phát
triển kinh tế thị trường định hướng xhcn ở nước ta là một tất yếu khách quan. bởi vì.
- Kinh tế thị trường định hướng xhcn là kết quả của sự nhận thức và vận dụng quy
luậtvè sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. cùng với cnh, hđh đất nước, nền kinh tế thị trường định hướng xhcn là con đường kinh
tế cơ bản đưa nước ta quá độ lên cnxh.
- Nước ta trong thời kỳ quá độ lên cnxh, là thời kỳ đang thực hiện hoá dần dần cnxh,
thờikỳ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế quá độ, vừa có cnxh vừa còn cntb. chủ trương
xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn là phù hợp với bản chất của thời kỳ lịch
sử đặc biệt này. dần, vừa bao hàm những yếu tố của xã hội mới ra đời đang lớn lên từng bước
nhưng chưa dành toàn thắng. thời kỳ quá độ là thời kỳ mà xã hội đang chuyển từ chế độ này
sang chế độ khác, ở đó chưa có phương thức sản xuất nào giữ vị trí thống trị tuyệt đối,
trong đó mỗi phương thức chỉ là một “mảnh” một “bộ phận” của kết cấu kinh tế xã hội,
vừa độc lập tương đối, vừa hợp tác và đấu tranh với nhau. mỗi “mảnh”, mỗi “bộ phận”
ấy là một thành phần kinh tế. thành phần kinh tế khác phương thức sản xuất ở chỗ khi nó chưa
vươn lên đóng vai trò thống trị, nhưng cũng không ở vào vị trí chi phối, nó tồn tại như một
bộ phận tương đối độc lập, đan xen với các bộ phận khác của kết cấu kinh tế-xã hội. do
vậy, nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng riêng có của thời kỳ quá độ lên cnxh. là khi
chúng cha chưa tích luỹ được đầy đủ những điều kiện vật chất cho cnxh thì chúng ta
chưa thể nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất xhcn ngay như trước năm 1986 chúng ta
đã làm, mà chúng ta phải tiến hành dần dần, hay nói cách khác, chúng ta phải có một thời kỳ
quá độ. tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nước ta là đa dạng, không đồng đều và
chưa cao. thực tiễn sau 15 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương xây dựng kinh tế nhiều
thành phần là phù họp với phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. nó đã thực sự giải
phóng , phát triển và khơi dậy các tiềm năng của sản xuất. khơi dậy năng lực sáng
tạo chủ động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế- xã hội. Phần kết luận
Như vậy, lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng
được tích luỹ tới một độ nhất định mới làm thay đổi về chất, nên trong chỉ đạo hoạt
động thực tiễn cũng như trong nhận thực khoa học phải chú ý tích luỹ dần dần những
thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có lOMoAR cPSD| 61601608
điều kiện chín muồi. thời kỳ quá độ từ cntb lên cnxh chính là bước nhảy dần dần từ
chất cũ sang chất mới. trong quá trình tiến hoá cách mạng, một mặt phải chống khuynh
hướng bảo thủ, trị trệ, nhằm tạo ra những bước nhảy để đẩy nhanh sự phát triển, mặt khác, lại
phải chống tư tưởng nóng vội, muốn đưa nhanh sự phát triển, tiến hành những bước nhảy khi
chưa có điều kiện chín muồi, bất chấp những quy luật khách quan.
VD: Khi giai cấp phong kiến nắm quyền, trong nội tai của xã hội phong kiến đã có sự tích lũy
tư bản của các địa chủ, thương gia. Đó chính là sự tích lũy về lượng. Một khi lượng đã được
tích lũy đủ thì giai cấp tư sản sẽ thực hiện bước nhảy đó chinh là cuộc cách mạng tư sản để lật
đổ chế độ phong kiến. Đó là quá trình tích lũy dần về lượng, khi đã đủ lượng thì thực hiện bước
nhảy để dẫn đến sự thay đổi về chất. Và khi chính quyền Tư sản đã thanh lập nó đã phủ định chính quyền phong kiến.
Câu 4: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Khái niệm mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn biện chứng chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập Nội dung của quy luật
+ Thống nhất giữa các mặt đối lập
• Thứ nhất, các mặt đối lập nương tựa vào nhau, không tách rời nhau, đòi hỏi có nhau, mặt
đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề. Chỉ là tương đối, tạm thời
• Thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới
đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn
• Thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng Mâu thuẫn là gì?
Quan điểm siêu hình: phủ nhận sự tồn tại của mâu thuẫn bên trong
Quan điểm biện chứng: thừa nhận mâu thuẫn là vốn có của mọi sự vật hiện tượng
Khái niệm mâu thuẫn dung để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu
tranh, vừa loại trừ, vừa chuyển hoá giữa các mặt đối lập của các sự vật hiện tượng hoặc giữa
sự vật hiện tượng với nhau.
VD: Chúng ta có thể nói đến, mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân trong công việc cùng thực
hiện nhưng mỗi chủ thể có một cách hay một phương án đưa ra riêng và không cùng lý
tưởng, cách giải quyết với nhau nên các chủ thể cũng sẽ đưa ra những tranh cãi và nảy sinh ra
mâu thuẫn về cách giải quyết công việc với nhau. MỐI LIÊN HỆ LÀ GÌ?
Mối quan hệ giũa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập thể hiện ở chỗ trong một
mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, bởi vì trong
sự ràng buộc, phụ thuộc quy ađịnh lẫn nhau thì hai mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát lOMoAR cPSD| 61601608
triển trái ngược nhau, đấu tranh với nhau. Không có sự thống nhất sẽ không có đấu tranh,
thống nhất là tiền đề của đấu tranh, còn đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực
của sự vận động, phát triển. SỰ CHUYỂN HOÁ LÀ NTN?
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh của các mặt đối lập.
Do sự đa dạng của thế giới nên hình thức chuyển hóa cũng rất đa dạng: có thể hai mặt đối lập
chuyển hóa lẫn nhau, cũng có thể cả hai chuyển thành những chất mới. Sự chuyển hóa của
các mặt đối lập phải có những điều kiện nhất định. SỰ ĐẤU TRANH
Đấu tranh: Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ và phủ định lẫn
nhau của các mặt đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập có thể được biểu hiện ở sự ảnh
hưởng lẫn nhau hoặc dùng bạo lực để thủ tiêu lẫn nhau giữa các mặt đối lập,
TÍNH CHẤT CỦA MÂU THUẪN : Tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng, phong phú. Tính khách quan
● Mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng chứ không phải do sự áp đặt từ bên ngoài
● Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đề chứa đựng mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn này mất
đi thì mâu thuẫn khác được hình thành; sự vật, hiện tượng vừa là nó vừa là cái khác. ⇨
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong sự vật hiện tượng chứ không phải con người gán cho
sự vật hiện tượng. Sự tồn tại của mâu thuẫn hoàn toàn không phụ thuộc vào ý thức của con
người, bất kể hiểu biết, suy nghĩ, ý chí, tình cảm của con người như thế nào thì chúng vẫn tồn tại.
Tính phổ biến :mâu thuẫn có trọng mọi sự vật và trong mọi lĩnh vưc từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy con người.
Tính đa dạng, phong phú: mâu thuẫn ở một sự vật, ở mỗi giai đoạn khác nhau lại thể hiẹn một cachs khác nhau.
*Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nha
QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA MÂU THUẪN: chứa đựng đầy đủ những trạng thái: thống
nhất, đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lâp.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập: khái niệm dung đẻ chỉ sự tác động, bài trừ sự phủ định lẫn
nhau giữa các mặt đối lập.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
+Là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập +Là
quá trình hình thành, phát triển, giải quyết mâu thuẫn.
- Giai đoạn hình thành mâu thuẫn:
+ Đồng nhất, đồng thời bao hàm sự khác nhau + Khác nhau bề ngoài + Khác nhau bản chất MT hình thành.
● Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn: + Đối lập, xung đột
+ Đối lập, xung đột gay gắt
MT đã phát triển đến đỉnh điểm.
● Giai đoạn giải quyết MT:
+ Sự chuyển hóa của các mặt đối lập. lOMoAR cPSD| 61601608
Mâu thuẫn được giải quyết.
Sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ.
Ở sự vật mới lại chứa đựng mâu thuẫn mới.
Mâu thuẫn lại được triển khai rồi lại được giải quyết.
Cứ như vậy, sự vật không tồn tại vĩnh viễn và quá trình vận động, phát triển của thế giới là vô tận.
Vd: Sự đấu tranh giữa tính thiện và tính ác trong nội tâm con người (khi có sự giằng co giữa
lòng thương người và ý muốn ích kỉ cá nhân…) ● Sự chuyển hóa của các MĐL diễn ra theo 2 cách:
+ Các mặt đối lập chuyển hóa cho nhau
+ Cả hai để trở thành chất mới
● Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập có thể diễn ra theo 2 cách:
+ Các mặt đối lập ảnh hưởng lẫn nhau
+ Các mặt đối lập dùng bạo lực để thủ tiêu lẫn nhau.
TỔNG QUAN QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA MÂU THUẪN:
Thống nhất -> khác biệt -> khác nhau cơ bản -> đối lập, xung đột -> giải quyết -> chuyển hoá.
* Mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập:
● Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập gắn liền với nhau:
● Nếu không thống nhất sẽ không có đấu tranh, thống nhất là tiền để của đấu tranh; còn đấu
tranh là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
● Sự thống nhất phản ánh trạng thái đứng yên tương đối, còn sự đấu tranh phả ánh trạng thái
vận động tuyệt đối của sự vật.
● Nhờ có thống nhất mà sự vật mới tồn tại, nhờ có đấu tranh mà sự vật mới phát triển. ●
V.I.Lênin: Thống nhất là tạm thời, tương đối; còn đấu tranh là tuyệt đối * Phân loại mâu thuẫn:
- Căn cứ vào sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, có mâu thuẫn cơ bản và
mâu thuẫn không không cơ bản: + Mâu thuẫn cơ bản: •
Tác động trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng; quy định bản chất, sự phát
triển của chúng từ khi hình thành đến lúc tiêu vong.
+ Trong thời đại ngày nay đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi thế giới được mở ra sau cuộc thắng lợi của cách mạng T10 Nga năm 1917 có mâu
thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản trong các nước tư bản
chủ nghĩa; mâu thuẫn giữa các nước bị phụ thuộc với chủ nghĩa tư bản,chủ nghĩa đế quốc và
mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau.
+ Mâu thuẫn không cơ bản : •
Đặc trưng cho một phương tiện nào đó, chỉ quy định sự vận động, phát triển của một
hay một số mặt của sự vật, hiện tượng. •
Chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản và trong quá trình vận động mâu thuẫn cơ bản
có thể làm nảy sinh những mâu thuẫn không cơ bản mới.
=> Chúng ta thấy ngoài những mâu thuẫn cơ bản trong thời đại ngày nay như vậy thì còn tồn
tại nhiều mâu thuẫn khác. Để giải quyết những mâu thuẫn cơ bản nói trên trên phạm vi thế
giới phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn thể các dân tộc tiến bộ, phát huy được sức
mạnh của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc để xây dựng một xã hội dân giàu, nước
mạnh; một xã hội công bằng,dân chủ, văn minh. lOMoAR cPSD| 61601608
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng
trong mỗi giai đoạn nhất định, có thể phân chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. + Mâu thuẫn chủ yếu: •
Luôn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng, có tác dụng
quy định đối với các mâu thuẫn khác trong cùng giai đoạn đó của quá trình phát triển. •
Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu —> tạo điều kiện để giải quyết các mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn •
Sự phát triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng từ hình thức này sang hình thức khác
phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. •
VD: Khi đế quốc thực dân xâm lược chúng ta nổ lên mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với nhóm thực dân phong kiến xâm lược. + Mâu thuẫn thứ yếu: •
Là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. •
Tuy vậy, ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu chỉ là tương đối, tùy
theo từng hoàn cảnh cụ thể, có mâu thuẫn trong điều kiện này là chủ yếu, song trong
điều kiện khác lại là thứ yếu và ngược lại.
+ Ví dụ: ở nước ta 1940-1943 mâu thuẫn chủ yếu: Nhật, Pháp và nhân dân ta; mâu thuẫn
thứ yếu: địa chủ và nông dân.
- Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng, có mâu thuẫn bên
trong và mâu thuẫn bên ngoài. + Mâu thuẫn bên trong: •
Là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng... đối lập nằm trong chính mỗi sự vật, hiện tượng •
Có vai trò quy định trực tiếp quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. •
Vd: Mâu thuẫn giữa đồng hóa và dị hóa trong cơ thể sinh vật; mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất ; mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng;
mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị trong xã hội…. + Mâu thuẫn bên ngoài: •
Xuất hiện trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; tuy cũng ảnh hưởng
đến sự tồn tại và phát triển của chúng, nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng. •
Vd: Mâu thuẫn giữa cơ thể sinh vật với môi trường xung quanh, mâu thuẫn giữa quốc
gia này với quốc gia khác. •
Các mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu đều là những mâu thuẫn giữa các mặt, các bộ phận,
yếu tố bên trong cấu thành sự vật, hiện tượng nên có thể gọi chúng là mâu thuẫn bên trong. •
Song các đối tượng còn có những mối liên hệ và quan hệ với các đối tượng khác thuộc
môi trường tồn tại của nó, những mâu thuẫn loại này được gọi là các mâu thuẫn bên ngoài. •
Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối, bởi trong quan hệ này hoặc
so với một số đối tượng này, nó là bên trong; nhưng trong quan hệ khác, so với một số
đối tượng khác, nó lại là bên ngoài. •
Vd: Mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp là mâu thuẫn bên ngoài đối với từng quốc gia đó
nhưng nó làm bên trong của phe các nước tư bản chủ nghĩa hoặc trước đây là các nước đế quốc chủ nghĩa.
=> Khi xem xét sự vật hiện tượng trong những mối quan hệ nhất định cần phải xác định rõ
mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài, không được lẫn lộn hai loại mâu thuẫn này vì lOMoAR cPSD| 61601608
mỗi loại mâu thuẫn đó nó có một vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật mà chúng ta nghiên cứu.
=> Mâu thuẫn bên trong đóng vai trò quyết định sự vận động và phát triển của sự vật điều đó
phù hợp với nguyên lý về sự tự thân vận động của sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn bên trong là nguồn gốc và động lực bên trong của sự vận động, phát triển của
sự vật. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong không tách rời khỏi mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn
bên ngoài chỉ phát huy được tác dụng thông qua mâu thuẫn bên trong, tùy theo từng hoàn
cảnh cụ thể mà vai trò của mâu thuẫn bên ngoài có tầm quan trọng là nhiều hay ít.
Có trường hợp mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng to lớn có thể nói là đóng vai trò có ý nghĩa
quyết định đối với sự vật. Song ở đây không nên hiểu là mâu thuẫn bên ngoài quan trọng hơn
mâu thuẫn bên trong và có thể thay thế được mâu thuẫn bên trong dù mâu thuẫn bên ngoài có
to lớn bao nhiêu thì nó cũng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy được tác dụng.
=> Mâu thuẫn bên trong quyết định cuối cùng sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng. -
Căn cứ vào tính chất của lợi ích cơ bản là đối lập nhau trong mối quan hệ giữa các giai cấp ở
một giai đoạn lịch sử nhất định, trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. + Mâu thuẫn đối kháng: •
Là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội... có lợi
ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hòa được. Đó là mâu thuẫn giữa các giai
cấp bóc lột và bị bóc lột, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị... •
VD: Mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô với giai cấp nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ ;
mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ trong xã hội phong kiến; mâu thuẫn giữa tư bản
với vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. •
VD: Trong việc đền bù giải phóng mặt bằng, giữa một bên là chủ đầu tư với một bên
là chính quyền địa phương và 1 bên người lao động. Chủ đầu tư trong việc đền bù bao
giờ cũng muốn trợ cấp cho nhân dân nhưng nếu như mà chính quyền ủng hộ nhân dân
thì không vấn đề gì. Nếu chính quyền lại bắt tay với chủ đầu tư trả thấp cho người lao
động thì rõ ràng tạo thành mâu thuẫn đối kháng.
+ Mâu thuẫn không đối kháng: •
Là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội... có lợi
ích cơ bản không đối lập nhau nên là mâu thuẫn cục bộ, tạm thời.
=> Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng là hai là loại mâu thuẫn đặc thù chỉ
tồn tại trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp. Chúng khác nhau về tính chất cũng như
là xu hướng phát triển, trong đó mâu thuẫn đối kháng có xu hướng phát triển ngày càng gay
gắt còn mâu thuẫn không đối kháng có xu hướng ngày càng dịu đi.
=> Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có quan hệ chặt chẽ
với việc sử dụng phương pháp, biện pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn cho phù hợp. Mâu
thuẫn đối kháng đòi hỏi phải được giải quyết bằng bạo lực cách mạng còn mâu thuẫn không
đối thì phải giải quyết bằng biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, phê bình…Lưu ý, cả
hai loại mâu thuẫn đều được giải quyết bằng con đường đấu tranh chứ không phải dung hòa hai mặt đối lập.
➡ Như vậy, quan trọng nhất là ta phải biết phân loại mâu thuẫn. Với mỗi mâu thuẫn khác nhau
thì sẽ có cách thức, biện pháp giải quyết khác nhau. VAI TRÒ:
- Nói về vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển, Ph. Ăngghen nhấn mạnh
nguyên nhân chính cũng là nguyên nhân cuối cùng tạo nên nguồn gốc của sự vận động phát lOMoAR cPSD| 61601608
triển của sự vật hiện tượng là sự tác động (theo hướng phủ định, thống nhất) lẫn nhau giữa
chúng và sự các mặt đối lập trong chúng
VD: - Sự tác động theo hướng phủ định: hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình
sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới, làm
cho mâu thuẫn được giải quyết. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát
triển của sự vật. Không như vậy sự vật không phát triển được. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo
nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật.
-Sự tác động theo hướng thống nhất: Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại
trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn
tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của
mặt kia làm tiền đề. Theo đó, Engels đã đưa ra ví dụ: Giai cấp vô sản và sự giàu có là hai mặt
đối lập, với tính cách như vậy chúng hợp thành một chỉnh thể hoàn chỉnh, thống nhất, chế độ
tư hữu với tư cách là sự giàu có buộc phải duy trì vĩnh viễn ngay cả sự tồn tại của mặt đối lập
của nó là giai cấp vô sản. Có như vậy chế độ tư hữu phát triển, vận động → xã hội phát triển
- Có hai loại tác động dẫn đến sự vận động là:
+Tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng (bên ngoài)
+Sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập của cùng một sự vật hiện tượng (bên trong)
→ Nhưng chỉ có sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập (bên trong) mới làm cho sự vật hiện tượng phát triển MỐI QUAN HỆ
- Mối quan hệ giữa khái niệm của quy luật chỉ ra rằng mâu thuẫn giữa các mối đối lập trong
sự vật hiện tượng là nguyên nhân giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự vận động phát
triển. Vì vậy, sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng là tự thân.
- Khái quát lại nội dung của quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập là:
+Mọi đối tượng đều bao gồm những mặt, những khuynh hướng, lực lượng... đối lập
nhau tạo thành những mâu thuẫn trong chính nó
+Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập này là nguyên nhân động lực bên
trong của sự vận động và phát triển làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu dùng.
Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng đây không
phải là đối tượng nói chúng mà là những đối tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi
giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về phương
thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người
tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra
nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó.
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai mặt
đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó
tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
+[Đấu tranh] Các doanh nghiệp thay đổi thiết bị sản xuất để tăng năng suất cạnh trang với đối thủ
- Ý nghĩa phương pháp luận
+Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải
quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn phát hiện mâu thuẫn lOMoAR cPSD| 61601608
cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng; từ đó tìm ra phương
hướng giải pháp đúng và hoạt động nhận thức và thực tiễn
+Thứ hai, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của
từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện
chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề ra được
phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó
+Thứ ba, phải nắm giữ nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập,
trong điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn
phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.
Câu 5: Quy luật phủ định của phủ định *LÝ LUẬN
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Quy luật phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng của sự phát triển.
Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng:
Trong thế giới vật chất, mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình sinh ra, tồn tại, rồi lại bị mất
đi và được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới gọi là phủ định.
Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển.
Phủ định biện chứng không bao hàm mọi sự phủ định nói chung, mà nó chỉ bao hàm những
phủ định là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng, tạo ra bước
nhảy về chất, tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ.
Đặc điểm của phủ định biện chứng:
-Thứ nhất, tính khách quan:
Nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay bên trong của bản thân sự vật, hiện tượng. Đó là kết
quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng, là kết quả của quá trình
tích lũy dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Như vậy, phủ
định biện chứng là sự tự thân phủ định.
-Thứ hai, tính kế thừa:
Phủ định biện chứng là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của bản thân sự vật,
hiện tượng và của quá trình tích lũy về lượng dẫn đến sự nhảy vọt về chất, cho nên cái mới ra
đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, sạch trơn, đoạn tuyệt siêu hình với cái cũ, mà là sự phủ định có kế thừa.
Cái mới được ra đời trên cơ sở cái cũ, chứ không phải từ hư vô, cái mới không xóa bỏ hoàn
toàn cái cũ, nó chỉ gạt bỏ những yếu tố lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp ở cái cũ; đồng thời
giữ lại những yếu tố tích cực, tiến bộ, còn phù hợp ở cái cũ dưới dạng “lọc bỏ”, cải tạo cho phù
hợp với điêu kiện mới. Vì vậy, phủ định biện chứng đồng thời là sự khẳng định.
Ý nghĩa của quan điểm phủ định biện chứng:
Quan điểm phủ định biện chứng chống lại quan điểm siêu hình về phủ định. lOMoAR cPSD| 61601608
Quan điểm siêu hình khi phủ định thì phủ định sạch trơn xóa bỏ hoàn toàn cái cũ để xây dựng
lại toàn bộ cái mới, không gắn liền cái mới với cái cũ, chấm dứt sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Quan điểm siêu hình khi kế thừa thì lại kế thừa một cách nguyên xi, lắp ráp rập khuôn toàn bộ
cái cũ vào cái mới, không phê phán, không cải tạo cái cũ, không tạo ra những nhân tố mới tiến bộ hơn so với cái cũ.
Do đó, quan điểm siêu hình không thấy được tiền đề của sự nảy sinh cái mới hoặc không
thấy được khuynh hướng phát triển của cái mới. Trái lại, quan điểm phủ định biện chứng đã
nối liền cái mới với cái cũ, thấy được khuynh hướng phát triển của cái mới.
Kết quả của phủ định biện chứng là cái mới ra đời thay thế cho cái cũ, nhưng rồi cái mới này
lại trở nên cũ và chứa đựng yếu tố nội sinh để dẫn đến khuynh hướng phủ định lần thứ hai.
Đó chính là phủ định của phủ định. Nội dung quy luật:
-Thứ nhất, trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, sợi dây chuyền của những lần
phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại
bị cái mới sau phủ định.
Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ
định, từ thấp đến cao một cách vô tận, sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra
đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
-Thứ hai, phủ định của phủ định là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật,
hiện tượng. Mỗi lần phủ định đều là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hóa lẫn nhau giữa các
mặt đối lập - giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Qua sự phủ định lần thứ nhất tạo ra cái phủ
định đối lập với cái khẳng đỉnh ban đầu. Qua sự phủ định lần thứ hai, sự vật, hiện tượng mới
với tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập với cái phủ định và dường như lặp lại cái khẳng
định ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.
-Thứ ba, phủ định của phủ định là kết quả của sự tổng hợp các giai đoạn đã qua, vì vậy về
nguyên tắc, nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn so với cái khẳng định ban đầu, cái
định lần thứ nhất và các giai đoạn trước đó.
-Thứ tư, phủ định của phủ định đánh dấu sự kết thúc một chu kỳ vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ vận động, phát triển mới tiếp theo.
-Thứ năm, không nên hiểu một cách máy móc, giản đơn rằng, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào
cũng trải qua hai lần phủ định thì hoàn thành một chu kỳ phát triển.
Số lần phủ định trong một chu kỳ có thể nhiều hơn hai lần phủ định, tùy theo tính chất của một
quá trình phát triển cụ thể. Song về nguyên tắc, vẫn có thể quy về hai lần phủ định: Phủ định
lần thứ nhất chuyển cái khẳng định thành cái đối lập với mình, phủ định lần thứ hai là loại phủ
định trải qua một số trung gian để chuyển thành cái đối lập với cái phủ định lần thứ nhất. khâu
-Thứ sáu, phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng của sự phát triển, sự phát triển diễn ra
theo đường “xoáy ốc”. Mô hình đường “xoáy ốc” biểu thị tính vô tận, tiến lên và lặp lại của sự phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận: lOMoAR cPSD| 61601608
-Một là, trong nhận thức và thực tiễn cần tuân theo quan điểm phủ định biện chứng, chống lại
quan điểm siêu hình về phủ định.
-Hai là, trong giới tự nhiên, phủ định của phủ định được diễn ra một cách tự động, còn trong
lĩnh vực xã hội có sự tham gia của con người có ý thức. Vì vậy, cần nắm bắt điều kiện khách
quan thuận lợi, phát huy nhân tố chủ quan tích cực để tạo ra cái mới phù hợp với yêu cầu tiến bộ xã hội.
-Ba là, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp lôgích của
tiến trình phủ định biển chứng, đó là phủ định về tư tưởng sau đó tiến hành phủ định trong thực tiễn.
Cụ thể là: Xuất phát từ thực trạng xã hội để tiến hành phê phán mang tính xây dựng đối với cái
cũ cần phủ định. Trên cơ sở đó, thiết lập nên mô hình lý luận mới thay thế cho mô hình lý luận
cũ (phủ định về tư tưởng), sau đó tiến hành hiện thực hóa mô hình lý luận ấy trong đời sống
xã hội (phủ định trong thực tiễn). *VẬN DỤNG
Vận dụng quy luật phủ định của phủ định nhận định quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn, nhiều thử thách. Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức
tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái
mới. Đất nước ta trải qua hai cuộc chiến tranh nên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều bị tàn
phá, chưa qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa nên hầu như chưa có những tiền đề thực tiễn
cơ bản cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới tan rã và phong
trào xã hội chủ nghĩa và công nhân quốc tế đang ở thời kỳ thoái trào. Bên cạnh đó, các thế lực
thù địch luôn chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Khi cái mới và cái cũ còn hiện hữu
đầy mâu thuẫn, quá trình đấu tranh giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa tư tưởng tập thể và tư tưởng
cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, khi tiềm lực kinh tế còn chưa đủ mạnh, những tiêu cực trong xã hội và
trong Đảng vẫn còn thì những tồn tại, những khó khăn và thách thức này dẫn đến một cuộc
khủng hoảng kinh tế, xã hội kéo dài. Biểu hiện rõ nhất là sản xuất trì trệ, lạm phát tăng nhanh,
công ăn việc làm thiếu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, lòng tin của dân đối với sự lãnh
đạo của Đảng và sự điều hành quản lý của Nhà nước giảm sút. Nhận thức được những sai lầm
và hạn chế trong đường lối, chủ trương của mình, Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước trong Đại hội VI của Đảng (năm 1986). Đại hội này đã đánh dấu bước ngoặt
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đưa nước ta thoát ra khỏi sự khủng
hoảng, ngày càng phát triển.
Ngày nay, khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế, xã
hội của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến trình hội nhập
quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập trong lĩnh vực kinh tế. Thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện. Chúng ta đã thiết lập
được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế, như: tham gia đóng góp và xây dựng Cộng
đồng ASEAN; hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết Tổ chức Thương mại
Thế giới, tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do đa phương và song phương; tham
gia đàm phán Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Như vậy, để đáp
ứng được yêu cầu của sự phát triển, yêu cầu của hội nhập quốc tế, không bị tụt hậu với thế lOMoAR cPSD| 61601608
giới, chúng ta đã mở cửa để hội nhập. Đây cũng chính là điều kiện và cơ hội để Việt Nam có
thể có những bước nhảy vọt trong sự phát triển về kinh tế - xã hội, từ đó rút ngắn con đường phát triển của mình.
Trên cơ sở vân ḍ ụng và phát triển lý luân c ̣ ủa chủ nghĩa Mác - Lênin và những điều kiện thực
tiễn của Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế đô tư bản chủ nghĩa. Điều này được Đảng ta thể hiện rất rõ tại Đại hội VI, Đảng tạ khẳng
định: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài là một tất
yếu khách quan. Thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản
xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó
khăn. Đến Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa. Đến các Đại hội VIII, IX, X, XI, XII của Đảng, đều có sự bổ sung và làm
rõ hơn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội và về cơ bản đều nhất quán với Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua.
Nhìn vào thành tựu to lớn sau hơn 30 năm đổi mới, chúng ta thấy được sự đúng đắn, hợp lý
của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong việc lựa chọn con đường phát triển, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Câu 6: Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
* Lý luận:
- Thực tiễn: là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con
người nhằm cải biến thế giới khách quan.
Biểu hiện bởi 3 hình thức:
+ Sản xuất vật chất: là hd đầu tiên và căn bản nhất giúp cng hoàn thiện bản tính sinh học và xã hội.
+ Hoạt động chính trị xã hội: nhằm biến đổi các qh xh mà đỉnh cao nhất là biến đổi các hình thái kt-xh
+ Thực nghiệm khoa học: là qtrinh mô phỏng hiện thực khách quan trong phòng thí nghiệm để
hình thành chân lý ( dùng chuột bạch thí nghiệm thuốc, mô hình máy bay thử nghiệm, đưa khỉ
vào thí nghiệm,…) qtrong vì nó ứng dụng trong thực tiễn thông qua thực nghiệm trước.
Trong đó, SXVC đóng vai trò cơ sở, nền tảng, quan trọng, quyết định các hình thức thực tiễn còn lại
Ví dụ: Hoạt động lấy ý kiến cử tri tại địa phương, tiến hành Đại hội Đoàn thanh niên trường
học, Hội nghị công đoàn.
- Nhận thức: là 1 quá trình phản ứng tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ óc người trên cơ sở thực tiễn nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan
Ví dụ: Khi một thanh sắt được nung nóng bằng lửa sẽ dần chuyển sang màu vàng rực. Thông
qua quan sát con người ta kết luận rằng thanh sắt sẽ bị chuyển màu khi ta nung nóng.
Vai trò của thực tiễn dv nhận thức:
- Thực tiễn là cơ sở (điểm xuất phát) của nhận thức:
+Thông qua sự tác động của cng dv thế giới, cng ( chủ thể nhận thức ) sẽ phát hiện ra được
những mặt, thuộc tính của svht, qua đó giúp cng hiểu được svht ngày càng sâu sắc hơn, từ đó lOMoAR cPSD| 61601608
cng có dc những tri thứcvề svht, nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế
giới mọi tri thức của ng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
+Nhờ có hd thực tiễn, các giác quan của cng ngày càng hoàn thiện hơn, năng lực tư duy logic
của cng ngày càng phát triển, cng tạo ra được các công cụ, phương tiện để giúp cng nối dài
giác quan chứng minh thực tiễn là cơ sở của nhận thức.
+Thực tiễn cung cấp tài liệu, vật hiệu cho nhận thức của con nguời
VD: Sự ra đời của chủ nghĩa Mac-Lenin bắt nguồn từ thực tiễn mà cụ thể là điều kiện phát
triển kinh tế-xã hội của CNTB, cùng với đó là sự trưởng thành và phát triển của phong trào
công nhân trên cơ sở phát triển của CNTB.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
-Mục đích của nhận thức không phải chỉ để nhận thức mà còn giúp con người hoạt động thực
tiễn nhằmcải biến thế giới. Nhấn mạnh vai trò này, Lenin cho rằng: “ Quan điểm về đời sống,
về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
-Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng
lựchoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người.
Thực tiễnluôn vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển
theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết.
-Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của
mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức
đúng hay sai, khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
VD: mục đích bác sĩ, nhà nghiên cứu k ngừng tìm kiếm để tìm ra pp, thuốc vacxin là để chữa
trị, phòng chống dịch bệnh covid 19 ( thực tiễn ) Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén,
chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người
đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá
trình nhận thức tiếp theo.
Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện, từ đó giúp con
người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
Trong hd thực tiễn, cng gặp nhiều khó khăn, thất bại, điều đó buộc cng phải giải đáp những
câu hỏi do thực tiễn đặt ra TT thúc đẩy nhận thức, lý luận,.. phát triển.
VD: Do nhu cầu đi lại ngta phát minh ra phương tiện (xe, máy bay,…) phục vụ thuận tiện hơn cho cng.
Hoạt động LDSX vất vả của nông dân chế tạo ra nhiều loại máy móc khác nhau ( máy cày,..)
giải phóng sức lao dộng, tăng cao năng suất lao dộng THỰC TIỄN LÀ ĐỘNG LỰC,
THÔI THÚC TT LÍ LUẬN CẦN GIẢI QUYẾT.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí, kiểm tra tính chân lí của qtrinh nhận thức:
-Thực tiễn là thước đo giá trị của tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời, TT k ngừng
bổ sung, điều chỉnh, phát triển và hoàn thiện NT. Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của
con người phát triển và hoàn thiện, từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.