Đề cương Đánh giá trong giáo dục | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Đề cương Đánh giá trong giáo dục | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40387276
Đánh giá trong giáo dục Câu 1. Vai trò của kiểm tra đánh giá trong giáo dục.
Một số khái niệm:
- Đo lường là hoạt động chỉ sự so sánh kết quả học tập ghi nhận được qua kiểm tra
với những tiêu chuẩn, tiêu chí.
- Kiểm tra là quá trình thu thập thông tin về kết quả học tập của người học bằng
những hình thức, công cụ, kĩ thuật khác nhau.
- Đánh giá là quá trình tiến hành có hệ thống: 1. thu thập 2. tổng hợp
3. phân tích và xử lí
4. diễn giải thông tin về đối tượng cần đánh giá.
Vai trò của kiểm tra, đánh giá trong giáo dục:
Đánh giá – bộ phận không thể tách rời quá trình dạy học:
-Là thúc đẩy sự đổi mới không ngừng của quá trình dạy và học. Thông qua
kiểm tra, đánh giá, giáo viên thu được những thông tin ngược từ học sinh, phát
hiện điểm được và chưa được ở kết quả học tập hiện thời của học sinh cũng như
những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thực trạng kết quả đó. Đó là cơ sở thực tế để
giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy, qua đó hướng dẫn, hỗ trợ học sinh điều chỉnh
hoạt động học của bản thân.
Đánh giá - công cụ hành nghề quan trọng của giáo viên:
- Kiểm tra, đánh giá chỉ thực sự là công cụ hành nghề quan trọng và đạt hiệu
quả khi giáo viên xác định rõ mục đích,mục tiêu đánh giá; hiểu rõ đặc điểm lOMoAR cPSD| 40387276
của mỗi loại hình đánh giá; lập được kế hoạch đánh giá; lựa chọn/thiết kế
được công cụ đánh giá phù hợp, đáp ứng các yêu cầu, đặc tính thiết kế và đo lường.
Đánh giá - bộ phận quan trọng của quản lý chất lượng dạy và học:
-Các thông tin khai thác được từ kết quả kiểm tra, đánh giá sẽ rất hữu ích cho các
nhà quản lí, cho giáo viên, giúp họ giám sát quá trình giáo dục, phát hiện các
vấn đề, đưa ra quyết định kịp thời về người học, về người dạy, về chương
trình và điều kiện thức hiện chương trình…để đạt được mục tiêu.
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định đổi
mới kiểm tra, đánh giá là khâu đột phá nhằm thúc đẩy các hoạt động khác như đổi
mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, đổi mới công tác quản lý giáo dục
… nhằm thực hiện thành công Chương trình giáo dục phổ thông 2018.
Câu 2. Chức năng của đánh giá trong giáo dục.
• Chuẩn đoán các vấn đề của người học:
- Thông qua đánh giá, giáo viên phát hiện sớm các khó khăn trong học tập của lớp
học và số ít học sinh có vấn đề về nhận thức hoặc hành vi.
Xác định được những vấn đề này, giáo viên lưu ý quan sát để đưa ra các phản hồi
phù hợp, nếu cần thì tiến hành các hoạt động giúp đỡ riêng, kịp thời để học sinh
khắc phục khó khăn, điều chỉnh cách học và tiến bộ.
• Xác nhận kết quả học tập của người học:
-Đánh giá cung cấp những số liệu để xác định mức độ mà người học đạt được các
mục tiêu học tập, làm căn cứ cho những quyết định phù hợp: thừa nhận hay bác bỏ
sự hoàn thành chương trình học, môn học, khoá học đi đến quyết định là cấp bằng,
chứng chỉ, chứng nhận hoặc xét lên lớp. lOMoAR cPSD| 40387276
• Hỗ trợ hoạt động học tập cho người học:
-Cung cấp các thông tin ngược một cách kịp thời về việc học tập của người học,
giúp người học điều chỉnh cách học cho phù hợp.
• Điều chỉnh học hoạt động giảng dạy cho người học:
-Đánh giá giúp tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của bài học, tìm ra nguyên nhân ở kế
hoạch bài dạy (mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học…);
ở nghiệp vụ sư phạm của giáo viên hoặc ở ý thức, nhận thức của học sinh…và từ
đó điều chỉnh hoạt động dạy và học nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học.
Câu 3. Các nguyên tắc đánh giá trong giáo dục.
- Đảm bảo tính khách quan là yêu cầu cơ bản trong đánh giá. Đánh giá đảm bảo
tính khách quan là phản ánh được chính xác kết quả học tập như nó tồn tại trên cơ
sở đối chiếu với mục tiêu đặt ra, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
người đánh giá. Các yếu tố khiến quá trình đánh giá diễn ra không chính xác:
+ Yếu tố từ phía người đánh giá như trạng thái tâm lí, định kiến cũng như năng lực,
phẩm chất và kinh nghiệm.
+ Yếu tố từ phía người được đánh giá như tâm trạng, sức khỏe, tính trung thực.
+ Công cụ đánh giá không đảm bảo các yêu cầu để đánh giá chính xác, thể hiện ở
thiết kế các câu hỏi kiểm tra và các thang đo.
Ngoài ra, môi trường diễn ra quá trình kiểm tra, đánh giá cũng có ảnh hưởng đến
tính khách quan của đánh giá. Cần xây dựng các tiêu chí đánh giá cụ thể, rõ ràng,
phù hợp với đặc thù môn học và công khai các tiêu chí này cho học sinh. Bồi
dưỡng cho học sinh kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá; ngăn ngừa thái độ đối phó, thiếu
trung thực trong viết tiểu luận, kiểm tra, thi cử. lOMoAR cPSD| 40387276
- Đánh giá đảm bảo tính công bằng là phải tạo điều kiện cho tất cả học sinh có cơ
hội như nhau để thể hiện kết quả học tập; kết quả đánh giá phải phản ánh đúng
kết quả học tập của họ. Lưu ý:
+ Không có sự phân biệt và thiên vị khi đánh giá. Cần tránh những ảnh hưởng từ
các yếu tố như chủng tộc, giới tính, địa vị kinh tế - xã hội, môi trường sống.
+ Cần cho tất cả học sinh được biết về phạm vi sẽ đánh giá nhằm giúp định hướng
quá trình học tập, ôn tập.
+ Giúp học sinh có kĩ năng làm bài kiểm tra trước khi tiến hành kiểm tra, đánh giá.
+ Tiêu chí đánh giá cũng như kết quả đánh giá phải được công bố công khai và kịp thời cho học sinh.
- Đảm bảo tính toàn diện: đánh giá phải bao quát được các mặt, các khía cạnh
cần đánh giá theo yêu cầu, mục tiêu giáo dục, đặc biệt là các mục tiêu về năng lực
– mục tiêu phức hợp. Để đánh giá toàn diện, đầy đủ, chính xác các mục tiêu đã
xác định, cần lựa chọn và sử dụng phối hợp các phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Đảm bảo thường xuyên, có hệ thống: đánh giá cần được tiến hành đều đặn,
theo kế hoạch nhất định, như là một bộ phận của quá trình dạy học. Đánh giá
thường xuyên sẽ cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng, tạo cơ sở để đánh giá kết quả
học tập một cách khách quan, công bằng, toàn diện.
- Đảm bảo tính hiệu quả: Đánh giá phải phù hợp với công sức và thời gian tiến
hành kiểm tra, đánh giá (thời gian chuẩn bị, thời gian tổ chức thực hiện, thời gian
chấm điểm, công bố kết quả); chi phí công sức, thời gian ít nhưng vẫn đảm bảo
giá trị và tin cậy thì được coi là hiệu quả. lOMoAR cPSD| 40387276
- Đảm bảo tính phát triển: kiểm tra – đánh giá không chỉ là việc xác định mức độ
đáp ứng mục tiêu dạy học mà còn là việc công bố kết quả đánh giá kịp thời, khéo
léo tạo yếu tố tâm lí tích cực, động viên học sinh vươn lên, thúc đẩy mặt tốt, hạn chế mặt tiêu cực.
- Đảm bảo tính thực tiễn: Chứng minh người học có phẩm chất và năng lực ở
mức độ nào đó, phải tạo cơ hội để họ giải quyết vấn đề trong bối cảnh mang tính thực tiễn.
=> Đánh giá trong bối cảnh thực tiễn là nguyên tắc gắn với yêu cầu dạy học phát
triển phẩm chất, năng lực học sinh.
- Phù hợp với đặc thù môn học: Việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp, công
cụ đánh giá cần phù hợp với đặc thù của môn học nhằm đánh giá hiệu quả
mục tiêu giáo dục môn học, đặc biệt là các mục tiêu về năng lực đặc thù cần
hình thành, phát triển ở học sinh.
Câu 4. Triết lí về đánh giá trong giáo dục. 3 triết lí đánh giá:
- Đánh giá kết quả học tập: được thực hiện tại thời điểm cuối 1 giai đoạn giáo dục
(đánh giá tổng kết) để kiểm tra và xác nhận mức độ học sinh hoàn thành các mục
tiêu, yêu cầu cần đạt của môn học.
- Đánh giá vì học tập: được tiến hành thông qua việc dạy học (đánh giá quá trình)
để giáo viên phát hiện điểm mạnh, điểm yếu, sự tiến bộ và khó khăn trong học
tập của học sinh, qua đó cung cấp thông tin phản hồi để giáo viên và người học
điều chỉnh quá trình dạy học, cải thiện chất lượng dạy học ở các giai đoạn tiếp theo. lOMoAR cPSD| 40387276
- Đánh giá là học tập: được diễn ra trong quá trình dạy học (đánh giá quá trình), ở
đó giáo viên tổ chức để học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau, coi đây như là
một nhiệm vụ, một hoạt động học tập.
So sánh 03 triết lí đánh giá: ĐG kết quả học tập, ĐG vì học tập và ĐG là học tập Tiêu chí ĐG là học tập ĐG vì học tập ĐG kết quả học so sánh tập Mục tiêu So sánh với tiêu chí Giáo viên phát Xác nhận kết quả đánh giá đánh giá xác định
hiện sự tiến bộ và học tập của HS để khó khăn trong phân loại, đưa ra học tập của học quyết định cho các sinh nhằm điều giai đoạn học tập chỉnh việc dạy và tiếp theo học Căn cứ So sánh với tiêu chí Nhận xét, so sánh Điểm số, so sánh đánh giá đánh giá xác định với tiêu chí đánh giữa các học sinh giá xác định với nhau Quá trình học tập Quá trình học tập Kết quả học tập Trọng tâm đánh giá Thời điểm Trước, trong và sau Trước, trong và Sau quá trình học đánh giá quá trình học tập sau tập quá trình học tập Chủ đạo hoặc Chủ đạo Vai trò Hướng dẫn giám sát lOMoAR cPSD| 40387276 của giáo viên Vai trò Chủ đạo Tham gia cùng Không tham gia của học sinh giáo viên Người sử Giáo viên, học sinh Giáo viên, học dụng kết quả sinh, Giáo viên đánh giá cha mẹ học sinh Công cụ Linh hoạt, vừa sức và Đa dạng, linh hoạt đánh giá không đòi hỏi tính
và không đòi hỏi Đòi hỏi tính chuẩn chuẩn tính chuẩn
Kiểm tra, đánh giá theo tiếp cận năng lực:
- Đánh giá năng lực là một quá trình thu thập minh chứng về học sinh (những gì
họcsinh nói, viết, làm và tạo ra) trong một lĩnh vực học tập, nhằm hỗ trợ việc
đánh giá về vị trí của học sinh trên đường năng lực từ mức thấp đến mức cao: ghi
nhận những gì học sinh biết và có thể làm, những gì học sinh cần học tiếp một
cách chủ động, tích cực.
Kiểm tra, đánh giá phẩm chất:
- Phẩm chất: là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con người;
cùng với năng lực tạo nên nhân cách của con người.
- Đánh giá phẩm chất là đánh giá thái độ, hành vi ứng xử của người học trong một
bối cảnh có ý nghĩa.Sự khác nhau giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng
Câu 5. đánh giá năng lực và phẩm chất của người học. lOMoAR cPSD| 40387276 Trả lời:
- Kiểm tra, đánh giá năng lực người học
+ Khái niệm: Đánh giá năng lực là một quá trình thu thập minh chứng về một học
sinh (những gì HS nói, viết, làm và tạo ra) trong một lĩnh vực học tập, nhằm hỗ trợ
việc đánh giá về vị trí của HS trên đường năng lực từ mức thấp đến mức cao: ghi
nhận những gì HS biết và có thể làm và những gì HS cần học tiếp một cách chủ
động, tích cực. Qua đó, GV có thể điều chỉnh hoạt động dạy học và báo cáo kết
quả học tập của HS một cách tin cậy.
+ Quy trình đánh giá năng lực người học bao gồm các bước sau đây:
Bước 1: Xác định mục đích đánh giá và năng lực cần đánh giá
Bước 2: Xác định các mức độ biểu hiện của năng lực cần đánh giá
Bước 3: Xác định các phương pháp đánh giá
Bước 4: Xác định và xây dựng các công cụ đánh giá
Bước 5: Thực hiện đánh giá và xử lí số liệu
Năng lực được hình thành và phát triển qua một quá trình từ thấp đến cao. Vì vậy
cần chú trọng đến đánh giá quá trình để có thể nhận biết được sự phát triển năng lực của học sinh.
Khi áp dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào giải quyết các tình huống thực tiễn thì
học sinh không chỉ sử dụng kiến thức của một lĩnh vực mà có thể cần sử dụng tổng
hợp các kiến thức của nhiều lĩnh vực. Vì thế, các nhiệm vụ được đưa ra để đánh giá
năng lực HS cần phải được đặt trong bối cảnh cụ thể.
- Kiểm tra, đánh giá phẩm chất người học
Trong tiếng Việt, phẩm chất được hiểu là “cái làm nên giá trị của người hay vật”. lOMoAR cPSD| 40387276
Trong giáo dục cũng như trong đời sống, phẩm chất (đức) được đánh giá bằng
hành vi phù hơp với chuẩn mực xã hội và có giá trị xã hội, đồng thời mang tính ổn
định, còn năng lực (tài) được đánh giá bằng hiệu quả của hành động.
=)) Như vậy, phẩm chất là những đức tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử
của cá nhân, cùng với năng lực tạo nên nhân cách toàn diện của cá nhân.
Câu 6. các hình thức đánh giá trong dạy học (đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ) Trả lời:
- Đánh giá thường xuyên
Khái niệm đánh giá thường xuyên
Đánh giá thường xuyên (ĐGTX) hay còn gọi là đánh giá quá trình là hoạt động
đánh giá diễn ra trong tiến trình thực hiện hoạt động giảng dạy môn học, cung cấp
thông tin phản hồi cho GV và HS nhằm mục tiêu cải thiện hoạt động giảng dạy,
học tập. ĐGTX chỉ những hoạt động kiểm tra đánh giá được thực hiện trong quá
trình dạy học, có ý nghĩa phân biệt với những hoạt động kiểm tra đánh giá trước
khi bắt đầu quá trình dạy học một môn học nào đó (đánh giá đầu năm/đánh giá xếp
lớp) hoặc sau khi kết thúc quá trình dạy học môn học này (đánh giá tổng kết).
ĐGTX được xem là đánh giá vì quá trình học tập hoặc vì sự tiến bộ của người học.
Mục đích đánh giá thường xuyên
+ Nhằm thu thập các minh chứng liên quan đến kết quả học tập của HS trong quá
trình học. ĐGTX đưa ra những khuyến nghị để HS có thể làm tốt hơn những gì
mình chưa làm được, từ đó nâng cao kết quả học tập trong thời điểm tiếp theo. lOMoAR cPSD| 40387276
+ ĐGTX còn giúp chẩn đoán hoặc đo kiến thức và kĩ năng hiện tại của HS nhằm
dự báo hoặc tiên đoán những bài học hoặc chương trình học tiếp theo cần được xây
dựng thế nào cho phù hợp với trình độ, đặc điểm tâm lí của HS.
Nội dung đánh giá thường xuyên ĐGTX tập trung vào các nội dung sau:
+ Sự tích cực, chủ động của HS trong quá trình tham gia các hoạt động học tập, rèn
luyện được giao: GV không chỉ giao nhiệm vụ, xem xét HS có hoàn thành hay
không, mà phải xem xét từng HS hoàn thành thế nào (có chủ động, tích cực, có khó
khăn gì... có hiểu rõ mục tiêu học tập và sẵn sàng thực hiện...). GV thường xuyên
theo dõi, thông báo về sự tiến bộ của HS nhằm đạt được các mục tiêu học tập/giáo dục;
+ Sự hứng thú, tự tin, cam kết, trách nhiệm của HS khi thực hiện các hoạt động
học tập cá nhân: HS tham gia thực hiện các nhiệm vụ học tập cá nhân có thể hiện
tính trách nhiệm, có hứng thú, có thể hiện sự tự tin... Đây là những chỉ báo quan
trọng để xác định xem HS cần hỗ trợ gì trong học tập, rèn luyện.
+ Thực hiện các nhiệm vụ hợp tác nhóm: Thông qua các nhiệm vụ học tập, rèn
luyện theo nhóm (kể cả hoạt đông tập thể), GV quan sát... để đánh giá HS.
Thời điểm đánh giá thường xuyên
Thực hiện linh hoạt trong quá trình dạy học và giáo dục, không bị giới hạn bởi số lần đánh giá
Người thực hiện đánh giá thường xuyên
Đối tượng tham gia ĐGTX rất đa dạng, bao gồm: GV đánh giá, HS tự đánh giá, HS
đánh giá chéo, cha mẹ học sinh đánh giá và đoàn thể, cộng đồng đánh giá.
Phương pháp, công cụ đánh giá thường xuyên lOMoAR cPSD| 40387276
Phương pháp kiểm tra, ĐGTX có thể sử dụng cả kiểm tra viết, quan sát và hỏi đáp,
đánh giá thông qua sản phẩm.
Công cụ có thể dùng là phiếu quan sát, các thang đo, bảng kiểm, thẻ kiểm tra/phiếu
kiểm tra, các phiếu đánh giá tiêu chí, hồ sơ học tập, câu hỏi, bài tập... GV có thể
thiết kế các công cụ phù hợp vời từng tình huống, bối cảnh đánh giá. Các yêu cầu,
nguyên tắc của đánh giá thường xuyên - Đánh giá định kì
Khái niệm đánh giá định kì
ĐGĐK là đánh giá kết quả giáo dục của HS sau một giai đoạn học tập, rèn luyện,
nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của HS so với yêu cầu cần đạt
so với quy định trong chương trình giáo dục phổ thông và sự hình thành, phát triển
năng lực, phẩm chất HS.
Mục đích đánh giá định kì
Mục đích chính của đánh giá định kỳ là thu thập thông tin từ HS để đánh giá thành
quả học tập và giáo dục sau một giai đoạn học tập nhất định. Dựa vào kết quả này
để xác định thành tích của HS, xếp loại HS và đưa ra kết luận giáo dục cuối cùng.
Nội dung đánh giá định kì
Đánh giá mức độ thành thạo của HS ở các yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực
sau một giai đoạn học tập (giữa kỳ)/ cuối kỳ.
Thời điểm đánh giá định kì
Đánh giá định kỳ thường được tiến hành sau khi kết thúc một giai đoạn học tập (giữa kỳ, cuối kỳ).
Người thực hiện đánh giá định kì lOMoAR cPSD| 40387276
Người thực hiện đánh giá định kỳ có thể là: GV đánh giá, nhà trường đánh giá và
tổ chức kiểm định các cấp đánh giá.
Phương pháp, công cụ đánh giá định kì
Phương pháp ĐGĐK có thể là kiểm tra viết trên giấy hoặc trên máy tính; sản
phẩm, hồ sơ, hỏi đáp, quan sát. Phương pháp kiểm tra viết trên giấy hoặc trên máy
tính thường được sử dụng sau khi học xong một phần, sau khi học xong một
chương hoặc nhiều chương, sau khi học xong học kì hoặc năm học. Ngoài ra, GV
có thể sử dụng phương pháp đánh giá thông qua sản phẩm học tập của HS.
Công cụ ĐGĐK có thể là các câu hỏi, bài kiểm tra, dự án học tập, sản phẩm học
tập, hồ sơ học tập…
Các yêu cầu, nguyên tắc của đánh giá định kì
Đa dạng hoá trong sử dụng các phương pháp và công cụ đánh giá.
Chú trọng sử dụng các phương pháp, công cụ đánh giá được những biểu hiện cụ
thể về thái độ, hành vi, kết quả sản phẩm học tập của HS gắn với các chủ đề học
tập và hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS.
Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá trên máy tính
để nâng cao năng lực tự học cho HS.
Câu 7. các phương pháp kiểm tra, đánh giá trong giáo dục. Trả lời:
Một số phương pháp đánh giá thường được sử dụng trong quá trình đánh giá học
sinh gồm: Phương pháp quan sát; Phương pháp đánh giá qua hồ sơ học tập, các sản
phẩm, hoạt động của học sinh; Phương pháp vấn đáp; Phương pháp kiểm tra viết. lOMoAR cPSD| 40387276
- Phương pháp kiểm tra viết
Kiểm tra viết là phương pháp đánh giá phổ biến, được sử dụng với nhiều HS tại
cùng một thời điểm (đánh giá nhóm), thường được sử dụng sau khi HS học xong
một phần của chủ đề, một chủ đề hay một số chủ đề. Nội dung kiểm tra bao gồm cả
các vấn đề nhỏ, cụ thể về các kiến thức đa dạng (kiểm tra rộng) và các vấn đề lớn
có tính tổng hợp hoặc vận dụng cao (kiểm tra sâu).
Bài kiểm tra viết thường bao gồm các dạng là kiểm tra trắc nghiệm khách quan,
kiểm tra tự luận, kiểm tra tự luận kết hợp trắc nghiệm và bài luận, trong đó phổ
biến là kiểm tra tự luận và trắc nghiệm. a) Kiểm tra tự luận
- Là phương pháp GV thiết kế câu hỏi, bài tập, HS suy nghĩ, đưa ra câu trả lời hoặc
làmbài tập trên giấy hoặc máy tính. Một bài kiểm tra tự luận thường có ít câu hỏi,
mỗi câu hỏi phải viết nhiều ý để trả lời và cần phải dành nhiều thời gian để trả lời
mỗi câu. Dạng kiểm tra này cho phép HS thể hiện quá trình tư duy, ý kiến riêng về
các vấn đề, câu hỏi đặt ra, nhờ vậy phát triển kĩ năng diễn đạt thông qua viết. Kiểm
tra tự luận phù hợp với số lượng HS vừa phải, nhằm đánh giá năng lực tư duy (bài
thi) hoặc thăm dò thái độ, quan niệm của HS về một vấn đề nào đó (bài khảo sát).
− Ưu điểm: Trong cùng một thời gian GV kiểm tra được một số lượng lớn HS,
giúp thu được thông tin về kiến thức và kĩ năng của HS. Do HS được kiểm tra tại
cùng thời điểm, trong cùng một khoảng thời gian, ở điều kiện như nhau nên GV
thu được các dư liệu tương đối khách quan về kết quả học tập. Kiểm tra dạng tự
luận có khả năng đo lường được các mục tiêu gắn với năng lực nhận thức từ mức
thấp (nhớ, hiểu) đến mức độ cao (vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo). lOMoAR cPSD| 40387276
Bài tự luận khi được thiết kế một cách cẩn thận có thể tạo điều kiện để HS bộc lộ
khả năng suy luận, sắp xếp dữ kiện, tư duy phê phán, đề xuất những ý kiến, giải
pháp mới. Việc chuẩn bị bài kiểm tra tự luận trong tổ chuyên môn là không quá
khó khăn và không mất nhiều thời gian.
− Nhược điểm: Dạng kiểm tra này có số lượng câu hỏi ít nên khó bao quát được
nội dung của chương trình học. Việc đánh giá vẫn chịu ảnh hưởng nhiều ở chủ
quan người chấm. Mặt khác, chấm điểm các bài tự luận tốn nhiều thời gian, độ tin cậy không cao.
− Khi sử dụng kiểm tra tự luận cần lưu ý:
+ Khâu chuẩn bị: Câu hỏi, bài tập cần được diễn đạt rõ ràng, chú ý đến cấu trúc
ngữ pháp, chọn từ ngữ chính xác. Sau đó, GV xây dựng đáp án, biểu điểm một
cách chính xác và chi tiết; nên dự kiến một số lời giải khác với đáp án chi tiết để có
cách xử lí và cho điểm. GV nên tự làm thử đề kiểm tra để ước lượng thời gian làm
bài cho phù hợp với đa số học sinh.
+ Khâu thực hiện: Khi tổ chức kiểm tra cần tránh các yếu tố gây nhiễu từ bên
ngoài, đảm bảo nghiêm túc khi làm bài. GV cần chấm bài một cách vô tư và thận trọng
b) Kiểm tra trắc nghiệm khách quan
- Là phương pháp sử dụng bài kiểm tra trắc nghiệm khách quan, bao gồm nhiều
câu hỏi, mỗi câu thường được trả lời bằng một dấu hiệu đơn giản hay một từ, một cụm từ.
Bài kiểm tra trắc nghiệm sử dụng đa dạng các kiểu câu hỏi trắc nghiệm khách quan
như loại câu đúng/sai, loại câu điền khuyết, loại câu ghép đôi, loại câu nhiều lựa
chọn, loại câu trả lời ngắn... lOMoAR cPSD| 40387276
− Ưu điểm: Trắc nghiệm khách quan đo được các mức độ nhận thức cơ bản, phổ
thông (nhận biết, thông hiểu, vận dụng). Do bao quát được phạm vi kiến thức rộng
nên kiểm tra trắc nghiệm giúp khắc phục tình trạng HS học tủ, học lệch, ít phụ
thuộc vào chủ quan người chấm
− Nhược điểm: Trắc nghiệm khách quan khó đo lường khả năng tư duy, diễn đạt và
hạn chế cơ hội HS đưa ra ý tưởng mới. Việc xây dựng ma trận đề sẽ mất nhiều thời gian, công sức.
− Khi sử dụng trắc nghiệm khách quan cần chú ý:
+ Khâu chuẩn bị: các câu trắc nghiệm không chỉ phải đảm bảo về nội dung, diễn
đạt mà còn phải phù hợp với ma trận đề, qua đó các đề kiểm tra trắc nghiệm đánh
giá chính xác mục tiêu dạy học và đảm bảo tương đồng về độ khó.Trong một đề
kiểm tra nên sắp xếp câu hỏi theo chủ đề hoặc theo mức độ từ dễ đến khó.
+ Khâu thực hiện: Vì đáp án câu hỏi trắc nghiệm rất dễ trao đổi nên cần có nhiều
mã đề và giám sát chặt quá trình kiểm tra để hạn chế tối đa HS trao đổi bài. - Phương pháp quan sát a) Khái niệm
Quan sát là phương pháp thu thập thông tin quan trọng trong lớp học thông qua
quan sát (nhìn, nghe) đối tượng nghiên cứu. Khi thực hiện các hoạt động học thụ
động (nghe giảng) hoặc chủ động (nhiệm vụ học tập) là HS đang cung cấp các dữ
liệu dạng hình ảnh, âm thanh cho GV đo lường, đánh giá. GV thường quan sát
hành vi, thái độ của HS (quan sát quá trình) hoặc sản phẩm do HS làm ra (quan sát sản phẩm).
Quan sát quá trình đòi hỏi trong thời gian quan sát, GV phải chú ý đến những hành vi của HS như: lOMoAR cPSD| 40387276
- cách biểu đạt các quan điểm, lựa chọn từ chưa đúng, phát âm sai,
- sự tương tác trong nhóm như phân công nhiệm vụ, thảo luận giải pháp, biểu lộ
cảm xúc, quản lí thời gian,
- sự chú ý khi nghe giảng như vẻ mặt căng thẳng, lúng túng hay ánh mắt hào
hứng,giơ tay phát biểu; nói chuyện riêng trong lớp, không ngồi yên được một lúc;
bắt nạt, Dựa trên quan sát quá trình, GV động viên, góp ý, nhắc nhở HS và điều chỉnh hoạt động b. Các dạng quan sát
Quan sát có thể được tiến hành chính thức hoặc không chính thức. -
Quan sát được tiến hành chính thức và định trước. GV đã công khai, làm rõ
các yêu cầu, từng hành vi mong đợi được quan sát trước khi HS thực hiện các
nhiệm vụ học tập như đọc diễn cảm, làm thí nghiệm, trình bày kết quả dự án... -
Quan sát không được định trước và không chính thức. Đây là những quan
sát mang tính tự phát, phản ánh những tình huống, sự việc xảy ra thoáng qua
không định sẵn mà GV ghi nhận được và phải suy nghĩ diễn giải.
c) Ưu nhược điểm và yêu cầu khi sử dụng phương pháp quan sát
- Ưu điểm: Giúp cho việc thu thập thông tin của GV được kịp thời, nhanh chóng.
- Hạn chế: Kết quả quan sát phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan của người quan
sát; khối lượng quan sát không được lớn, thông tin thu được không toàn diện nếu
không có sự hỗ trợ của CNTT; chỉ ghi nhận được những biểu hiện trực tiếp, bề
ngoài của đối tượng được quan sát.
- Khi sử dụng phương pháp quan sát cần lưu ý: lOMoAR cPSD| 40387276
+ Cần xác định rõ mục đích, nội dung, trình tự quan sát, phương tiện sử dụng để quan sát.
+ Có thể sử dụng các loại công cụ để thu thập thông tin như ghi chép các sự kiện
thường nhật, thang đo, bảng kiểm, bảng đánh giá theo tiêu chí...
+ Có thể sử dụng các phương tiện kĩ thuật vào quá trình quan sát.
+ Phương pháp quan sát cần phải được sử dụng phối hợp với các phương pháp
khác để đảm bảo tính chính xác cao. - Phương pháp hỏi – đáp a) Khái niệm
Hỏi - đáp là phương pháp GV đặt câu hỏi và HS trả lời câu hỏi (hoặc ngược lại),
nhằm gợi mở, thảo luận, rút ra những kiến thức mà HS cần lĩnh hội; nhằm củng cố,
mở rộng hoặc kiểm tra, đánh giá kiến thức HS đã học. Ngoài ra, còn có hỏi đáp
giữa HS với HS.Như vậy hỏi – đáp vừa làm phương pháp dạy học vừa làm phương
pháp đánh giá, cung cấp các thông tin chính thức và không chính thức về HS một
cách nhanh chóng, linh hoạt. b. Các dạng hỏi - đáp
Hỏi - đáp là một phương pháp dạy học, đánh giá phổ biến ở mọi cấp học, đồng thời
cũng là một kĩ thuật quản lí lớp học hiệu quả, thu hút sự chú ý của một HS nào đó
đang mất tập trung. Phân loại theo mục đích, có những dạng hỏi - đáp: -
Hỏi−đáp gợi mở. GV khéo léo đặt những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt HS rút ra
những nhận xét, những kết luận cần thiết từ những sự kiện đã quan sát, những tài
liệu đã đọc hoặc những trải nghiệm đã qua của bản thân HS. Phương thức này có
tác dụng khêu gợi tính tích cực của HS rất mạnh lOMoAR cPSD| 40387276 -
Hỏi − đáp củng cố. Được sử dụng sau khi dạy học kiến thức mới, giúp HS
củng cố được những kiến thức cơ bản nhất và hệ thống hoá, mở rộng và đào sâu
những kiến thức đã học, khắc phục việc hiểu nội dung chưa chính xác. -
Hỏi − đáp tổng kết. Được sử dụng khi yêu cầu HS khái quát hoá, hệ thống
hoá những kiến thức đã học sau một vấn đề, một bài học, một chủ đề nhất định. -
Hỏi−đáp kiểm tra. Được sử dụng trước, trong và sau bài học/chủ đề để GV
kiểm tra kiến thức HS một cách nhanh gọn, kịp thời nhờ đó có thể bổ sung củng cố
tri thức ngaynnếu cần thiết. Nó cũng giúp HS tự kiểm tra kiến thức. Thi vấn đáp
(hỏi – đáp) là một phương thức ít gặp ở bậc phổ thông nhưng phổ biến và phù hợp
trong giáo dục đại học nhằm đánh giá năng lực tư duy bậc cao của sinh viên.
c) Ưu nhược điểm và yêu cầu khi sử dụng phương pháp hỏi - đáp
− Ưu điểm: Kích thích tính độc lập tư duy ở HS để tìm ra câu trả lời tối ưu trong
thời gian nhanh nhất; bồi dưỡng cho HS năng lực diễn đạt bằng lời nói; tăng hứng
thú; giúp GV thu tín hiệu ngược từ HS một cách nhanh
− Nhược điểm: Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng không tốt đến kế hoạch lên lớp
cũng như mất nhiều thời gian để soạn hệ thống câu hỏi; Nếu không khéo léo sẽ
không thu hút được toàn lớp mà chỉ là đối thoại giữa GV và một HS.
- Khi sử dụng phương pháp hỏi – đáp cần lưu ý:
+ Đối với câu hỏi: cần phải phù hợp với mục đích hỏi, vừa sức với HS, diễn đạt
câu đúng ngữ pháp, dễ hiểu và giàu tích khích lệ, thúc đẩy HS tích cực nhận thức, độc lập tư duy.
+ Khi dạy học bằng hỏi – đáp: cần lắng nghe tích cực câu trả lời của HS, giữ thái
độ bình tĩnh, tránh nôn nóng cắt ngang câu trả lời khi không cần thiết. lOMoAR cPSD| 40387276
+ Khi thi hỏi – đáp: cần có từ hai GV trở lên tham gia hỏi – đáp, đánh giá để đảm bảo tính khách quan.
3.1.4 Phương pháp đánh giá qua sản phẩm học tập a) Khái niệm
Bất cứ hoạt động học tập nào của HS cũng đều có sản phẩm. Sản phẩm học tập là
kết quả của hoạt động học tập của HS, là bằng chứng của sự vận dụng kiến thức, kĩ
năng mà HS đã có. Thông qua sản phẩm học tập, GV đánh giá sự tiến bộ của HS,
đánh giá quá trình tạo ra sản phẩm và đánh giá mức độ đạt được các năng lực của
HS. Đánh giá qua sản phẩm học tập là phương pháp đánh giá kết quả học tập của
HS khi những kết quả ấy được thể hiện bằng các sản phẩm.
b) Các dạng sản phẩm học tập
Sản phẩm HS có thể tạo ra rất đa dạng: bài luận ngắn, phiếu học tập, bản ghi chép,
báo cáo quan sát thực địa, báo cáo thực hành, biểu đồ, biểu bảng, tập san theo chủ
đề, tranh vẽ tĩnh vật, dụng cụ thực hành/thí nghiệm tự chế tạo, mô hình STEM,
poster báo cáo đề tài nghiên cứu KH-KT...Các sản phẩm học tập có thể phân loại như sau:
- Sản phẩm giới hạn ở những kĩ năng thực hiện trong phạm vi hẹp
- Sản phẩm đòi hỏi người học phải sử dụng kết hợp nhiều nguồn thông tin, các kỹ
năng có tính phức tạp hơn, và mất nhiều thời gian hơn. 3.1.5 Phương pháp đánh giá qua hồ sơ học tập a) Khái niệm
Phương pháp kiểm tra viết, quan sát, hỏi - đáp dựa trên việc thu thập các dữ liệu về
những biểu hiện HS nói, viết và làm (thực hiện các nhiệm vụ học tập trên lớp lOMoAR cPSD| 40387276
b) Các dạng hồ sơ học tập
- Hồ sơ tiến bộ: Bao gồm những bài tập, các sản phẩm người học thực hiện trong
quá trình học và thông qua đó, người dạy, người học đánh giá quá trình tiến bộ
mà người học đã đạt được.
- Hồ sơ quá trình: Là hồ sơ tự theo dõi quá trình học tập của người học. HS ghi lại
những gì đã học được hoặc chưa học được về kiến thức, kỹ năng, thái độ trong
các môn học, hoạt động giáo dục và xác định cách điều chỉnh như: thay đổi cách
học, cần dành thêm thời gian cho vấn đề nào đó, cần sự hỗ trợ của GV hay các bạn trong nhóm...
- Hồ sơ mục tiêu: Người học tự xây dựng mục tiêu học tập cho mình trên cơ sở đó,
tự đánh giá năng lực bản thân. Khác với hồ sơ tiến bộ, hồ sơ mục tiêu được thực
hiện bằng việc nhìn nhận, phân tích, đối chiếu kết quả học nhiều môn học với
nhau. Từ đó, người học tự đánh giá về khả năng học tập của mình nói chung, tốt
hơn hay kém đi, môn học nào còn hạn chế..., sau đó, xây dựng kế hoạch nâng cao
năng lực học tập trong môn học mà mình muốn cải thiện kết quả học tập.
- Hồ sơ thành tích: Người học tự đánh giá về các thành tích học tập nổi trội của
mình trong quá trình học.
Câu 8. các công cụ đánh giá trong giáo dục. - câu hỏi - bài tập - bảng kiểm - thang đánh giá lOMoAR cPSD| 40387276
- bảng đánh giá theo tiêu chí Trả lời:
- Câu hỏi: là cách giáo viên đặt câu hỏi (câu hỏi tự luận, câu hỏi trắc nghiệm
kháchquan, câu hỏi thực tiễn, câu hỏi đóng, câu hỏi mở,...) để thu nhận các thông
tin của học sinh thông qua câu trả lời.
- Bảng kiểm: là những yêu cầu cần đánh giá thông qua trả lời câu hỏi có hoặc
không.Loại công cụ này sử dụng để đánh giá sản phẩm học tập của học sinh với
các yêu cầu cụ thể mà một sản phẩm cần có. + Lợi ích:
Tạo thuận lợi cho việc ghi lại các bằng chứng về sự tiến bộ của học sinh trong
một mục tiêu học tập nhất định.
Giúp người học có thể tự đánh giá mức độ đạt được và chưa đạt được của sản
phẩm học tập so với yêu cầu đặt ra. Thông qua đó, người học có thể tự điều chỉnh
hoặc bổ sung những thao tác, kỹ năng, nội dung còn thiếu và hạn chế của mình. + Lưu ý:
Liệt kê tất cả các kỹ năng, các yêu cầu cần thực hiện của nhiệm vụ học tập.
Đưa ra các yêu cầu cần đạt của sản phẩm học tập.
Ngôn ngữ diễn đat cần phải rõ ràng, dễ hiểu để người học có thể tự đánh giá sản
phẩm học tập của bạn.
- Phiếu đánh giá theo tiêu chí: là một tập hợp cacs tiêu chí được cụ thể hoá bằng
các chỉ báo, chỉ số, các biểu hiện hành vi có thể quan sát, đo đếm được. + Lợi ích: lOMoAR cPSD| 40387276
Làm rõ sự mong đợi của người dạy đối với học động của người học.
Chỉ rõ những quan điểm quan trọng của một quy trình sản phẩm.
Giúp người học giám sát và tự nhận xét sản phẩm học tập của mình.
Mang lại cho người học thông tin đầy đủ về sự thể hiện năng lực của người học. + Lưu ý:
Phân tích các yêu cầu cần đạt của nhiệm vụ học tậpđể xác định các tiêu chí cần đánh giá.
Các tiêu chí đánh giá cần được diễn đạt sao cho có thể quan sát được sản phẩm
hoặc hành vi của học sinh trong quá trình họ thực hiện các nhệm vụ.
Xây dựng các mức độ thể hiện các tiêu chí đã xác định (3 đến 5 mức độ). Cần mô
tả về các tiêu chí đánh giá ở mức độ cao nhất, thực hiện tốt nhất, sau đó mô tả về
các tiêu chí ở các mức độ còn lại.
Cần được thử nhiệm phiếu đánh giá nhằm phát hiện ra những điểm cần chỉnh sửa
trước khi đem ra sử dụng chính thức. - Thang đánh giá:
+ Thang đo bao gồm một hệ thống các đặc điểm, phẩm chất cần đánh giá và thước
đo để đo mức độ đạt được ở mỗi phẩm chất của học sinh.
+ Phân loại: thang đo dạng số, thang đo dạng đồ thị,... lOMoAR cPSD| 40387276
Thang đo dạng số: đánh dấu hoặc khoanh vào một con số chỉ mức độ biểu hiện
của một phẩm chất ở người được đánh giá.
Thang đo dạng đồ thị: nhằm mô tả các mức độ biểu hiện của hành vi theo một trục đường thẳng. + Lợi ích:
Thang đo định hướng cho việc quan sát nhắm tới những loại hành vi cụ thể và
hướng tới hành vi tốt nhất cần phải đạt tới.
Thang đoc ung cấp một bảng tham chiếu chung để so sánh các học sinh về cùng
một loại phẩm chất, đặc điểm,..
Thang đo cung cấp một phương pháp thuận tiện để ghi chép những đánh giá của người quan sát.
Thang đo có thể được ứng dụng vào nhiều lĩnh vực trong đánh giá như đánh giá
thực hành, đánh giá sản phẩm và đánh giá sự phát triển những kĩ năng xã hội của cá nhân. + Lưu ý:
Thang đo cần phải được xây dựng dựa trên những tiêu chí nhằm phục vụ những
mục tiêu đánh giá cụ thể.
Người quan sát phải thu thậpđược đầy đủ thông tin ghi trên thang đo.
Downloaded by kim kim (ngothingocmaivtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40387276
- Bài tập: Bài tập là những tình huống nảy sinh trong học tập hoặc cuộc sống, trong
đó chứa đựng những vấn đề mà HS cần phải quan tâm tìm hiểu, giải quyết và có ý nghĩa giáo dục. + Các dạng bài tập:
Bài tập khai thác kênh chữ: Yêu cầu HS đọc thông tin và tóm tắt, lập dàn ý, vẽ sơ
đồ, trả lời câu hỏi...
Bài tập khai thác kênh hình: Yêu cầu HS xem hình ảnh, video, sơ đồ, biểu đồ để
trả lời câu hỏi, viết tóm tắt, giải thích...
Bài tập tìm kiếm thông tin: Thông tin chưa được đưa ra đầy đủ, HS thu thập
thông tin để giải quyết vấn đề đặt ra.
Bài tập phát hiện vấn đề: Các vấn đề chưa được nêu rõ trong mô tả tình huống và
HS phải phát hiện vấn đề ẩn chứa trong tình huống.
Bài tập tìm phương án giải quyết vấn đề: Trọng tâm là tìm phương án giải quyết
vấn đề có trong tình huống.
Bài tập phân tích và đánh giá: Trọng tâm là đánh giá các phương án giải quyết đã cho.
Bài tập khảo sát, nghiên cứu: HS phải thu thập thông tin, nghiên cứu giải quyết
vấn đề có trong tình huống.
Bài tập ra quyết định: Yêu cầu HS đưa ra các quyết định và lập luận cho các
quyết định đó trên cơ sở các thông tin đã có. Downloaded by kim kim
(ngothingocmaivtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40387276
Ngoài ra, trong dạy học một số môn học (như Khoa học tự nhiên) còn có 2 loại bài tập đặc thù như sau: Bài tập thực tiễn:
Theo tác giả Lê Thanh Oai (2016)2, “Bài tập thực tiễn là dạng bài tập xuất phát từ
các tình huống thực tiễn, được giao cho HS thực hiện để vận dụng những điều đã
học nhằmhình thành kiến thức mới hoặc củng cố, hoàn thiện, nâng cao kiến thức
đã học, đồng thời phát triển năng lực người học”. Bài tập thực nghiệm:
Theo tác giả Trương Xuân Cảnh (2015), “Bài tập thực nghiệm là một dạng nhiệm
vụ học tập có cấu trúc gồm những dữ kiện và những yêu cầu đòi hỏi người học
phải thực hiện bằng hoạt động thực nghiệm, qua đó phát triển năng lực thực
nghiệm cho người học”.
Yêu cầu khi xây dựng bài tập
Khi xây dựng bài tập, GV phải tuân thủ một số yêu cầu sau:
- Cần liên hệ với kinh nghiệm hiện tại cũng như cuộc sống, nghề nghiệp trong tương lai của HS.
- Có thể diễn giải theo cách nhìn của HS và để mở nhiều hướng giải quyết.
- Chứa đựng mâu thuẫn và vấn đề có thể liên quan đến nhiều phương diện.
- Cần vừa sức và có thể giải quyết trong những điều kiện cụ thể.
- Có thể có nhiều cách giải quyết khác nhau.
Downloaded by kim kim (ngothingocmaivtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40387276
- Có tính giáo dục, có tính khái quát hóa, có tính thời sự- Cần có những tình tiết,
dữ liệu thực tế, bao hàm các trích dẫn.
c) Yêu cầu khi sử dụng bài tập
GV không chỉ quan tâm đến nội dung câu trả lời mà còn nên quan tâm đến quá
trình HS tìm kiếm, thu thập thông tin, dữ liệu; phân tích, phát hiện và giải quyết
vấn đề. GV có thể đánh giá kết quả làm bài tập của HS bằng cách cho điểm hoặc
nhận xét. Trong trường hợp nhận xét, GV cần lưu ý như sau: -
Đưa ra nhận xét cần mang tính xây dựng, chứa những cảm xúc tích cực,
niềm tin vào HS... Khi viết nhận xét, GV cần đề cập đến những ưu điểm trước, những kỳ Downloaded by kim kim
(ngothingocmaivtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40387276
vọng, sau đó mới đề cập đến những điểm cần xem xét lại, những sai sót cần điều chỉnh. -
Tránh những nhận xét chung chung như: “chưa đúng/sai/làm lại”, “chưa đạt
yêu cầu”,“lạc đề”, “cần cố gắng/có tiến bộ”. -
Trong các lỗi, cần tập trung vào các sai sót có tính hệ thống, điển hình cần sớm khắc phục
Downloaded by kim kim (ngothingocmaivtath5@gmail.com)