/37
lOMoARcPSD| 61622044
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN GIỮA KỲ
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất ý thức
Khái niệm vật chất
Vật chất phạm trù triết học phức tạp có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
Nhưng theo V.I. Lênin định nghĩa: “Vật chất một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Khái
niệm ý thức
Ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất sống có tổ chức cao,
đó bộ não người, phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người, sự
cải biên sáng tạo. Ý thức còn hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, mang
bản chất xã hội.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng vật chất trước ý thức sau, vật
chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người.
- Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức nên vật chất cái có trước. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong
bộ óc con người nên ý thức cái sau. Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên
(bộ óc người thế giới khách quan) vật chất trong hội (lao động ngôn ngữ)
thì mới có sự ra đời ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều
phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan trong đầu óc con người. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn động
lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con
người qua các thế hệ.
lOMoARcPSD| 61622044
+ Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Bản chất của ý thức phản ánh tích cực,
sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con
người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý
thức.
+ Vật chất quyết định phương thức tồn tại kết cấu của ý thức: Mọi sự tồn tại, phát
triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức
cũng phải thay đổi theo. Vật chất luôn vận động biến đổi nên con người cũng ngày
càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội
dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Người xưa có câu “Phú quý sinh lễ nghĩa” để nói khi con người trở nên giàu
có, sang trọng thì cuộc sống sẽ phát sinh những phép tắc, lễ nghĩa mới. Nói cách khác,
khi vật chất đầy đủ, sung túc thì con người chú trọng đến văn hóa, tinh thần nhiều
nghi thức, lễ nghĩa được đưa ra m cho cuộc sống phong phú hơn. Đây cũng điển
hình cho quan điểm vật chất quyết định ý thức. Sự tác động trở lại của ý thức với
vật chất
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì “ý thức có sự tác động trở lại
đối với vật chất”:
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh
vật chất phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể
biến đổi được hiện thực.
- Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật
khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực
hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt ý thức tiến bộ, cách mạng một khi
thâm nhập vào quần chúng nhân dân lực lượng vật chất hội, tvai trò rất to
lớn.
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
lOMoARcPSD| 61622044
Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất
khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan
của vật chất.
Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định
hành động của con người, hoạt động thực tế của con người đúng hay sai, thành công
hay thất bại…
*dụ: Hiểu được tính chất vật của thép nóng chảy nhiệt độ hơn 1000 độ C,
người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng
phương pháp thủ công cổ xưa.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên
tắc tính khách quan; trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính ng
động chủ quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức. Thứ ba,
cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí do tuyệt đối hóa, thổi phồng tính tích cực,
sáng tạo của ý thức.
Thứ , cần phải chống lại bệnh bảo thủ, trì trdo hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý
thức.
Thứ năm, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn
nhân tố tinh thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan.
A. VẬN DỤNG
Là một thành niên ở độ tuổi 18, tôi nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc
thượng tôn pháp luật do Đảng và Nhà nước đề ra. Tôi đã tuân thủ các quy định của
pháp luật như chỉ lái xe khi đủ độ tuổi quy định, thi bằng lái xe, không tham gia vào
các tệ nạn xã hội và tích cực lên án những hành vi, việc làm trái pháp luật. Nhờ đó,
tôi đã đóng góp một phần vào việc giữ gìn và củng cố trật tự an toàn xã hội.
lOMoARcPSD| 61622044
Vì đặc trưng nghề nghiệp liên quan mật thiết đến việc giảng dạy nên để có thể nâng
cao kiến thức chuyên môn, sự tự tin khi nói chuyện trước đám đôngkinh nghiệm
tôi đã tham gia các chương trình do Hội sinh viên Việt Nam tổ chức, quan tâm
đến sắp xếp việc làm cho thanh niên và tham gia các nghiên cứu khoa học. Ngoài ra,
tôi cũng phát triển bản thân để thích nghi đáp ứng theo nhu cầu thị trường, dựa
trên nền tảng sẵn có bằng cách phát huy những cái còn phù hợp và sửa đổi những cái
không còn phù hợp. Từ đó, tôi tìm được những cơ hội việc làm tiềm năng cũng như
đóng góp được những điều mình đã được học vào công cuộc đổi mới nền giáo dục
đất nước.
Khi Intenet đang ngày càng trở nên phổ biến, rất nhiều đối tượng đã lợi dụng điều đó
để đăng những thông tin sai sự thật, xuyên tạc chống phá nhà nước. Khi tiếp cận
thông tin trên các nền tảng mạng hội, tôi luôn cân nhắc kỹ về mặt nội dung xem
đúng phù hợp với những điều tôi đã biết trước đó không cũng như đi
ngược lại với thể chế Nhà nước, quy định pháp luật hiện hành hay không. Mặt khác,
khi gặp những bài viết mang nội dung tiêu cực tôi sẽ báo cáo nhắc nhở người xung
quanh tránh xa những luận điệu xuyên tạc. Vì đó, tôi đã giữ vững được tư tưởng và
đóng góp vào việc bảo vệ an ninh Tổ quốc. 2. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện
chứng duy vật
2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Quan điểm siêu hình về mối liên hệ (kịp thời gian mới ghi không thì ghi biện
chứng thôi)
Quan điểm siêu hình xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời nhau,
cô lập nhau, giữa chúng không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu có chỉ
những mối liên hệ giản đơn, hời hợt ở bên ngoài. Quan điểm siêu hình chỉ thấy bộ
phận mà không thấy toàn thể, “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.
2. Quan điểm biện chứng về mối liên hệ
Khái niệm mối liên hệ:
lOMoARcPSD| 61622044
Theo quan điểm duy vật biện chứng, khái niệm mối liên hệ bao gồm 2 phương
diện sau:
Một là, mối liên hệ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, điều này quyết
định sự tồn tại ca sự vật, hiện tượng.
Hai là, mối liên hệ sự tác động qua lại lẫn nhau, điều này quyết định sự phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Vậy là, mối liên hệ một phạm trù dùng đchỉ sràng buộc, phụ thuộc, quy
định lẫn nhau, stác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố cấu thành nên
sự vật, hiện tượng, giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; giữa sự vật, hiện tượng
với môi trường mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ kéo theo sự
biến đổi ca sự vật, hiện tượng khác.
VD: Trong thế giới động vật thì động vật hấp thụ kO2 nhả khí CO2, trong
khi đó quá trình quang hợp của thực vật lại hấp thụ khí CO2 và nhả ra khí O2.
Tính chất của mối liên hệ
Mối liên hệ tính khách quan, phở biến đa dạng, phong phú. Các tính chất
đó của mối liên hệ phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
vật chất.
Thứ nhất, tính khách quan
Tính khách quan của mối liên hệ xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới.
Theo đó các svật hiện tượng trong thế giới đa dạng, muôn hình muôn vẻ như
thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một
thế giới vật chất duy nhát. Ngay cả ý thức của con người cũng chthuộc của
một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người nội dung của ý thức cũng ch
là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con người.
Mối liên hệ là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do
sự áp đặt từ bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay
lOMoARcPSD| 61622044
không muốn thì bản thân các sự vật, hiện tượng hay các mặt, bộ phận trong một
sự vật, hiện tượng luôn chứa đựng các mối liên hệ.
VD:
Trong buôn bán hàng hóa dịch vụ thì giữa cung và cầu mối liên hệ với nhau.
Cụ thể giữa cung và cầu trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình tác động qua
lại. Cung cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau,
chuyển hóa lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng
của cả cung và cầu. Đó cũng chính những nội dung bản khi phân tích về mối
quan hệ biện chứng giữa cung và cầu.
Mối liên hệ ràng buộc và tương tác giữa các vật thể : lực hút và lực
Mối liên hệ ràng buộc và tương tác giữa các vật thể : lực hút và lực
Thứ hai, tính phổ biến
Tính phổ biến của mối liên hệ xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới
vật chất. Mỗi sự vật, hiện tượng một hệ thống cấu trúc nội tại. Không sự vật,
hiện tượng nào tồn tại một cách lập, biệt lập với các sự vật hiện tượng khác
cũng như không thể có yếu tố hay bộ phận nào tồn tại tách biệt với các yếu tố hay
bộ phận khác. Bản thân sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể thống nhất. Mối liên
hệ trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn mọi quá trình; cả trong t
nhiên, xã hội và tư duy con người.
VD: Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi chất với
môi trường, nhờ đó mà nó tồn tại, phát triển. Đồng thời môi trường sống cũng là
một hệ thống được tạo thành từ nhiều yếu tố lớp, phân hệ trực tiếp và gián tiếp.
Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi
Mỗi cơ thể sng là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi Thứ
ba, tính đa dạng, phong phú
Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình
muôn vẻ của thế giới vật chất. Trong thế giới nhiều kiểu mối liên hệ, mỗi
lOMoARcPSD| 61622044
kiểu mối liên hệ đặc điểm riêng, có vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Song, thực chất của khoa học là nhận thức các mối liên hệ, vì thông qua các mối
liên hệ sự vật, hiện tượng mới bộc lộ các thuộc tính thông qua các thuộc
tính ấy mới nắm bắt được bản chất của các sự vật hiện tượng.
mối liên hệ bên trong mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ bản mối
liên hệ không cơ bản; có mối liên hệ chủ yếu – mối liên hệ thứ yếu; có mối liên
hệ bản chất mối liên hệ không bản chất; có mối liên hệ tất nhiên – mối liên hệ
ngẫu nhiên; có mối liên hệ trực tiếp mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ diễn ra
rất phức tạp trong đời sống hội vạch ra đường đi cho mình theo những xu
hướng nhất định, đó các quy luật hội. Hiện nay khoa học hiện đại đã chứng
minh rằng:
- Phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các
yếu tố cấu thành quyết định. Chẳng hạn, cùng từ các nguyên tử cacbon
(C),nhưng theo những cách thức liên hệ khác nhau sẽ tạo thành than hoặc
kim cương; hoặc cùng tcông thức phân tử C2H6O, nhưng cách thức liên
hệ khác nhau sẽ tạo thành rượu ( CH3 – CH2 – OH ) hoặc ete ( CH3 – O
– CH3); hay trật tự liên hệ giữa các axit nucleic ( A – T, G- X) mà bị đảo
lộn sẽ gây ra hiện tượng đột biến gen.
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng do các sự tác động qua lại
giữa các yếu tố cấu thành quyế định, mà trước hết là do sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa các măt đối lập. Chẳng hạn, sự tác động qua lại giữa giai
cấp công nhân với giai cấp tư san là động lực phát triển của xã hội
bản chủ nghĩa; hay sự tác động qua lại giữa cung với cầu, giữa tích lũy
với tiêu dùng là động lực phát triển của nền sản xuất xã hội
Ý nghĩa phương pháp luận
lOMoARcPSD| 61622044
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải
tuân theo quan điểm toan diện và quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Một là, khi xem xét sự vật hiện tượng cần phải xem xét tất cả các mặt, các mối
liên hệ kể cả những mắc khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời
gian nhất định.
Hai là, trong vàn các mối liên hệ, trước hết cần rút ra những mối liên hệ
bản, chủ yếu, tức là xem xét một cách có trọng tâm, trọng điểm, nhờ đó nắm bắt
được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Ba là, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng thì cần phải đối chiếu
với các mối liên hệ còn lại để tránh sai lầm trong nhận thức.
Bốn là, chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều (chỉ thấy một mặt
không thấy nhiều mặt, chỉ thấy một mối liên hệ không thấy các mối liên
hệ khác).
Năm là, chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải (coi mọi mối liên hệ như nhau)
có nghĩa là chống lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
Sáu là, chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành chủ yếu, quy cái không
cơ bản thành cơ bản, bằng lý lẽ, lập luận tưởng rằng có lý nhưng thực chất là
lý).
Quan điểm lch sử - cụ thể yêu cầu
Thứ nhất, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt chúng trong hoàn cảnh
lịch s- cụ thể; trong điều kiện môi trường cụ thể; trong từng điều kiện không
gian, thời gian nhất định; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng
trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ tọa độ nhất định.
Thứ hai, cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống
khác nhau phải giải quyết trong thực tiễn.
lOMoARcPSD| 61622044
Thứ ba, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai
đoạn cụ thể nhất định.
VẬN DNG
ĐỐI VỚI BẢN THÂN
Quan điểm toàn diện:
Khi đọc tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, ở những dòng đầu tiên tôi
đã rất phản cảm và không thích nhân vật Chí Phèo bởi Chí mang hình tượng hung
tàn, vô học và chẳng ngần ngại làm điều gì chỉ để có rượu uống. Nhưng khi hiểu
về hoàn cảnh Chí được sinh ra cùng với một tuổi trẻ đầy lầm than tủi cực
cách Nam Cao đChí Phèo cái nhìn mới về cuộc đời sau khi nhận được bát
cháo hành từ Thị Nở ttôi lại thấy cảm thương cho số phận của chính nhân vật
này. Nhờ việc xem xét nhân vật Chí Phèo trên nhiều mặt, nhiều khía cạnh mà tôi
nhận ra Chí Phèo đại diện cho tiếng kêu đau khổ thoát ra tmột hội lầm
than, thối nát.
Khi học các tác phẩm Ngữ văn thuộc cùng một giai đoạn lịch sử thì tôi luôn đọc
kỹ tác phẩm và đặt chúng trong sự so sánh để tìm những điểm chung làm nên sự nét
đặc sắc của nền văn học giai đoạn đó.Nhờ vậy, tôi hiểu sâu sắc hơn, cụ thể hơn về
hoàn cảnh ra đời diễn biến lịch sử đất nước thời kỳ đó để thể đặt mình vào vị
trí của tác giả và cảm nhận rõ hơn thông điệp, ý nghĩa mà tác phẩm muốn mang đến
đồng thời làm giàu thêm vốn kiến thức của bản thân.
Khi tôi giải được một bài toán khó tôi không xem đó vinh quang tự cao
luôn cố gắng tìm ra những góc nhìn mới, những cách giải thông minh ngắn gọn
hơn đnhằm bồi dưỡng kỹ năng của bản thân không ngừng phát triển chính mình.
lOMoARcPSD| 61622044
Tôi từng ước được đỗ vào trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
luôn cố gắng nổ lực cho mục tiêu đó đến nhưng đến cuối I, tôi nhận ra ngành mình
chọn lại không phù hợp với bản thân, ba mẹ khuyên nên chọn một trường thích hợp
với bản thân và cả gia đình. Nếu tôi cứ khăng khăng với lựa chọn của mình thì có thể
giai đoạn sau này sẽ rất khó khăn cả cho chính bản thân mình và cho gia đình. Vậy
nên tôi đã thay đổi nguyện vọng của mình, tôi chọn một ngành mà tôi nghĩ mình có
thể gắn bó lâu dài và phù hợp nhất với mình
Khi nhận ra việc làm sai của mình, tôi không cố gắng ngụy biện rằng mình đúng
hay đưa ra lý lẽ nhằm chối bỏ việc làm của mình mà tôi thẳng thừng chấp nhận, xem
xét lại hành động của bản thân và cũng như chính mình để biết mình sai sót ở đâu
cố gắng sửa đổi. Việc làm này giúp tôi nâng cao ý thức, nhìn nhận lại về bản thân
cũng như tránh được tật xấu không dám nhận lỗi.
Quan điểm lch sử - cụ thể
Tôi đã lên kế hoạch về việc sau khi kết thúc thi THPT Quốc gia sẽ cho bản thân
thời gian để thư giãn vui chơi sau những ngày học căng thẳng nhưng do chi phí
cho việc học đại học vô cùng đắt đỏ nên tôi đã quyết định tìm một công việc đkiếm
thêm thu nhập phụ giúp cho gia đình và chi tiêu cá nhân. Cũng nhờ vậy mà tôi cũng
đã có thêm được rất nhiều bài học quý báu, tôi biết giá trị của đồng tiền mà ba mẹ đã
dành để nuôi tôi ăn học, học cách chi tiêu tiết kiệm và cũng như có thêm nhiều kinh
nghiệm sống.
Trong lúc làm vườn, tôi cũng nhận thức khác nhau về sự đa dạng trong điều
kiện sinh trưởng của cây. Bởi các yếu tố như ánh sáng, độ ẩm sẽ khác nhau, vì vậy
việc chăm sóc cây cảnh trong nhà cũng sẽ cầu kỳ hơn so với các loại cây cho bóng
mát. Các loại cây cảnh như lưỡi hổ, trầu bà cần đặt nơi nhiều ánh sáng, bổ sung
dinh dưỡng cũng như tưới nước thường xuyên mới có thể phát triển tốt. Còn với các
loại cây như cây bàng, cây phượng thì chỉ cần một nền đất tốt và được tưới nước đầy
lOMoARcPSD| 61622044
đủ thì thể sinh trưởng khỏe mạnh. Nhờ nhận thức được sự khác nhau trong việc
chăm sóc cây nên tôi đã thể tìm được loại cây phù hợp với nhu cầu và thời gian
của bản thân.
Mỗi bài toán đều nhiều cách giải khác nhau, những phương pháp giải cổ
điển, cũng những phương pháp giải hiện đại áp dụng vào từng loại câu hỏi
khác nhau. Lúc trước khi còn thi tự luận, tôi sẽ tập trung vào các bước làm bài để
tránh sai sót không đáng có, bên cạnh đó tôi sẽ phải tìm cách trình bày thật mạch lạc
và rõ ràng để giám khảo chấm bài hài lòng mà cho điểm tuyệt đối. Còn hiện tại đối
với thi THPT Quốc gia ra đề trắc nghiệm 50 câu, mỗi câu tôi phải giải thật nhanh để
kịp giờ làm những câu khó phía sau, thay vì trình bày dài dòng mất thời gian thì
tôi sẽ dùng phương pháp trắc nghiệm bấm máy, hoặc thử nghiệm cho những câu giải
phương trình cơ bản để hạn chế việc mất thời gian cho những việc không quan trọng
mà tập trung hết sức lực để giải các câu khó phía sau. Nhờ đó mà tôi đã có thể vượt
qua môn Tn với s điểm cao và trở thành sinh viên trường
ĐHSP TPHCM.
Nguyên lý về sự phát triển:
Quan điểm siêu hình về sự phát triển:
Thứ nhất, quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển
Quan điểm siêu hình cho rằng thế giới được sinh ra một lần rồi mãi mãi cứ như
vậy.
Thứ hai, nếu không có sự phát triển thì đó chỉ là sự thay đổi về lượng chứ không
có sự thay đổi về chất
Quan điểm siêu hình không thừa nhận bước nhảy vọt về chất; phát triển chỉ quá
trình vận động tịnh tiến đi lên.
Thứ ba, sự phát triển diễn ra theo đường thẳng hoặc theo đường tròn khép kín.
Vì phát triển chỉ là quá trình vận động tịnh tiến đi lên nên phát triển diễn ra theo
đường thẳng, hoặc phát triển là một chu kỳ lặp lại hoàn toàn cái cũ. Thứ tư, phát
lOMoARcPSD| 61622044
triển chẳng qua chỉ sự vận động đi tới “cõi chết “mà thôi. Đây quan điểm
của một lực lượng bi quan trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nó cho rằng trong chủ
nghĩa bản, kinh tế phát triển nhưng các vấn đề hội nan giải không giải quyết
được.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển
Khái niệm phát triển
Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng
theo khuynh hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Như vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối
quan hệ mật thiết với nhau, nhờ mối liên hệ thì mới sự vận động, phát
triển.
dụ: Ttuệ con người phát triển không ngừng, từ chỗ người nguyên thủy chỉ
chế tạo được các công cụ bằng đá, đến nay đã chế tạo được máy móc tinh vi.
Tính chất của sự phát triển:
Sự phát triển tính khách quan, phổ biến đa dạng, phong phú. Các tính
chất đó của sự phát triển phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới vật chất
Thứ nhất, tính khách quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật hiện tượng, không
phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không thì bản thân sự vật, hiện
tượng luôn luôn nằm trong quá trình phát triển.
VD: Cây xương rồng khi có đủ điều kiện sống thích hợp thì dù không có bàn tay
con người thì nó vẫn phát triển.
Thứ hai, tính phổ biến.
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
lOMoARcPSD| 61622044
Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới
tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan.
VD:
+ Trong xã hội: Sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tổ chức xã hội loài người:
Từ hình thức tổ chức xã hội Thị tộc, bộ lạc sơ khai đến những tổ chức xã hội cao
hơn hình thức tổ chức hội nBộ tộc và hiện tại dân tộc. + Trong cuộc
sống: Quá trình phát triển của công nghệ thông tin, ngày càng có nhiều loại công
nghệ hiện đại ra đời thay thế cho những công nghệ đã dần lạc hậu: chẳng hạn như
điện thoại thông minh nhiều đời ra đời thay thế cho loại điện thoại bàn phím
ngày trước hay còn biết đến với tên gọi là "cục gạch"
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú
- Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau ở các sự vật, hiện tượng khác
nhau, trong những điều kiện không gian và thời gian khác nhau, trong
những lĩnh vực hiện thực khác nhau.
Chẳng hạn:
Trong giới tự nhiên, sự phát triển thể hiện ở mức độ hoàn thiện của tổ chức
vật chất, ở sự xuất hiện của những giống loài mới ngày càng phức tạp hơn…
Trong lĩnh vực hội, sự phát triển thể hiện trình độ của nền sản xuất
hội; ở khả năng chinh phục giới tnhiên của con người; quá trình nhân đạo
hóa đời sống xã hội loài người và hoàn thiện bản chất con người… Trong tư
duy, sự phát triển thể hiện trình độ nhận thức của con người, ở trình độ
duy lô gic; ở khả năng khai quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa…
- Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng.
Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, có thể trải qua những khâu
trung gian, thậm chí có bước thụ lùi tạm thời, nhưng chính sự thụt lùi ấy lại
lOMoARcPSD| 61622044
đóng vai trò là tiền đề, điều kiện để một vận động đi lên. - Quan điểm biện
chứng về sự phát triển còn chỉ ra rằng:
Cách thức cua sự phát triển từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất và ngược lại.
Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn nội tại ca bản thân các
sự vật, hiện tượng, sự thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập. Khuynh
hướng của sự phát triển phủ định của phủ định, sau mỗi chu kỳ phủ định
của phủ đnh, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sơ
cao hơn.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên về sự phát triển đòi hỏi trong nhận thức thực tiễn cần phải
tuân theo quan điểm phát triển và quan điểm lịch sự cụ thể.
Quan điểm phát triển yêu cầu:
Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần đặt nó trong trạng thái vận
động, biến đi không ngừng.
Hai là, cần vạch ra cái tương lai trong cái hiện tại, phát hiện ra những nhân
tố mới tiến bộ đang tiềm ẩn trong cái cũ, chỉ rõ tính chất đứng im tương đối,
tạm thời của cái cũ; vạch ra xu hướng phát triển của cái mới và tạo mọi điều
kiện cho cái mới tiến được được ra đơi. Cái mới lúc đầu được ra đời thể
còn non yếu, mỏng manh nhưng nhất định sẽ trở nên vững chắc; còn cái
cho bền vững đến mấy thì nhất định cũng sẽ bị phá vỡ được thay
thế bằng cái mới tiến bộ hơn.
Ba là, cần phân chia quá trình phát triển thành các giai đoạn, nghiên cứu để
vạch ra các đặc điểm, nội dung của từng giai đoạn. Từ đó đề ra các giải pháp
hoặc biện pháp tác động mt cách phù hợp nhằm thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển của sự vật, hiện tượng tùy theo sự phát triển đó lợi hay hại
cho đời sống con người và xã hội.
lOMoARcPSD| 61622044
Bốn là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm chủ quan, nóng vội, duy
ý chí, vội vàng xóa bỏ cái cũ, tạo ra cái mới khi chưa đầy đủ điều kiện
chín muồi.
Năm là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, gây cản
trở sự phát triển, cứ khăng khăng giữ lại cái cũ, không chịu tạo ra cái mới khi
đã hội đủ điều kiện chín muồi
VẬN DNG
Trong việc học, khi tiếp cận với những kiến thức mới tôi không chỉ hẹp
bản thân học từ tài liệu tôi còn tìm đọc thêm những nguồn tài liệu uy tín từ
bên ngoài, lắng nghe lời giảng của thầy cũng như liên hệ với những kiến
thức nhằm mở rộng vốn hiểu biết không ngừng làm mới kiến thức của mình.
Nhờ đó, tôi nắm chắc được vấn đề vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo trong
các bài làm ca mình.
chỉ mới sinh viên năm Nhất nhưng tôi đã ý thức vạch ra định hướng
cho tương lai của mình. Trước khi chọn lựa ngành học, tôi tmình tìm hiểu để
nắm chương trình học, những điều cần thiết khi theo ngành học đó cũng
phải thấy rõ khuynh hướng phát triển của chuyên ngành theo học trong tương lai,
tìm hiểu về các yêu cầu của xã hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên
cứu. hội hiện tại tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân,
học thêm các kỹ năng như thiết kế, trang tính… để từ đó nổi bật hơn trong mắt
nhà tuyển dụng và có thể tìm được một công việc ổn định.
muốn một thể săn chắc khỏe mạnh nên tôi đã tìm đến việc tập luyện
thể dục thể thao. Lúc đầu, người mới nên tôi chỉ tập những bài tập với cường
độ nhẹ để thể thể quen dần với việc tập luyện. Khi cảm nhận được thể
đã bắt nhịp được với chuyện luyện tập thì tôi bắt đầu thực hiện những bài tập
chuyên sâu vào riêng từng bộ phận trên thể với mức độ phức tạp cao hơn. Cùng
lOMoARcPSD| 61622044
với đó tôi cũng tuân theo một chế độ ăn uống lành mạnh, hạn chế tinh bột, dầu
mỡ cũng như các đồ uống cồn, bổ sung đạm protein để thúc đẩy hiệu quả
tập luyện. Nhờ việc chia ra thành từng giai đoạn tập luyện mà cơ thể tôi hiện nay
đã hoàn toàn thích nghi với cường độ luyện tập đồng thời trở nên rắn rỏi săn
chắc và khỏe mạnh hơn.
Khi bước vào Đại học tôi nhận ra mỗi môn học chỉ có thời lượng một số tiết
nhất định lượng kiến thức trong mỗi tiết học ng lớn, khác hoàn toàn
với các lớp phổ thông. Chính điều này đã đặt ra vấn đề cấp thiết cho tôi trong việc
thay đổi phương pháp học, không học theo những giáo viên yêu cầu, chỉ học
theo sách giáo khoa như đã làm trong những năm phổ thông. Môi trường đại học
đòi hỏi tôi cần phải đọc hiểu bài trước khi đến lớp, đánh dấu những điểm,
những câu hỏi hay vấn đề còn chưa hiểu để khi lên lớp thể hỏi giảng viên. Bằng
cách đó tôi mới thể theo kịp tốc độ giảng bài cũng nhiểu hết những
đang được học. Ngoài ra, tôi cũng tìm thêm nguồn tài liệu đọc thêm bên ngoài
cũng như các bài tập liên quan để rèn luyện, củng cố kiến thức. Nhờ đó, tôi tránh
được việc bị bỡ ngỡ, mất phương hướng môi trường mới hiểu sâu, hiểu
tất cả bài học.
Câu 3: Quy luật lượng chất.
Quy luật lượng chất một trong ba quy luật bản của phép biện chứng duy
vật.
Quy luật lượng - chất vạch ra cách thức của sự phát triển.
Nội dung quy luật
Khái niệm lượng, chất
lOMoARcPSD| 61622044
Khái niệm chất
Chất một phạm tdùng để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự
vật, hiện tượng, sự thống nhất hữu các thuộc tính cấu thành nó, phân
biệt nó với cái khác.
VD: Nguyên tố Đồng nguyên tử lượng 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy
1083 đC, nhiệt độ sôi 2880 độ C. Những thuộc tính này nói lên chất riêng của
đồng, phân biệt nó với các kim loại khác
Chất có tính khách quan, được cấu thành bởi các thuộc tính khách quan vốn
có của sự vật, hiện tượng. Vì vậy để xác định chất của sự vật, hiện tượng thì
cần phải xác định các thuộc tính của nó. thuộc tính của svật, hiện tượng
chỉ bộc lộ khi nó nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác nên
muốn xác định thuộc tính của sự vật hiện tượng thì cần phải đặt sự vật, hiện
tượng ấy trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác. VD: Chất của một
người chỉ được bộc lộ thông qua quan hệ của người đó với những người
khác, với môi trường xung quanh, thông qua lời nói, cử chỉ, hành động.
Thuộc tính bao gồm hai loại: thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Thuộc tính cơ bản là những thuộc tính quyết định chất của svật hiện tượng
nghĩa là khi thay đổi thì chất của sự vật hiện tượng sẽ thay đổi. Thuộc tính
không bản những thuộc tính không quyết định chất của sự vật, hiện
tượng nghĩa là khi nó thay đổi thì chất của sự vật, hiện tượng vẫn chưa thay
đổi.
Tuy nhiên sự phân biệt giữa thuộc tính bản không bản cũng chỉ
mang tính tương đối, tùy thuộc vào từng mối quan hệ nhất định. Trong mối
quan hệ này nó là thuộc tính cơ bản, nhưng trong mối quan hệ khác nó lại là
thuộc tính không cơ bản và ngược lại.
VD: Khả năng hấp trong nước là một thuộc tính bản của động vật sống dưới
nước giúp phân biệt với động vật trên cạn. Còn đối với những động vật sống với
lOMoARcPSD| 61622044
nước, ta phân biệt chúng dựa trên giống, loài, hình dạng, kích thước… Tổng hợp
các thuộc tính bản tạo thành chất bản, còn tổng hợp các thuộc tính không
cơ bản tạo thành chất không cơ bản của sự vật, hiện tượng.
Chất cơ bản là một loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó báo hiệu sự tồn
tại hay mất đi của bản thân sự vật, hiện tượng. Do đó muốn thay đổi căn bản
sự vật, hiện tượng thì phải thay đổi chất cơ bản của .
Chất không bản một loại chất sự tồn tại hay mất đi của không
quyết định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật, hiện tượng.
Nhưng sự phân biệt giữa thuộc tính bản và không bản cũng chỉ mang
tính tương đối, nên sự phân biệt giữa chất cơ bản và chất không cơ bản cũng
mang tính tương đối.
Nhưng mặt khác, mỗi thuộc tính lại được tạo thành từ các đặc trưng về chất
của nó, vậy, mỗi thuộc tính lại đói vai trò một chất của sự vật, hiện
tượng. Rốt cuộc, sự phân biệt giữa thuộc tính chất cũng chỉ mang tính
tương đối. Trong mối quan hệ này nó là thuộc tính, nhưng trong mối quan hệ
khác nó lại là chất của sự vật, hiện tượng.
Đặc điểm của chất:
- Chất mang tính khách quan,
- Chất gắn liền với sự vật, chất là chất của sự vật.
- Mỗi sự vật không chỉ có một chất, mà còn có vô vàn chất.
- Chất biểu hiện tính toàn vẹn, chính thể thống nhất của sự vật.
- Dùng chất để phân biệt các sự vật với nhau.
Khái niệm lượng:
Lượng là một phạm trù dùng để quy định tính khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng về các phương diện số lượng, các yếu tố cấu thành; quy của
sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu vận động và phát triển của nó.
lOMoARcPSD| 61622044
Lượng có tính khách quan, là cái vốn có của bản thân các sự vật hiện tượng
bất kỳ sự vật hiên tượng nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định trong
không gian và được diễn ra trong khoảng thời gian nào đó.
Mỗi sự vật, hiện tượng vàn chất nên cũng vàn lượng. Mỗi loại
lượng phương thức xác định khác nhau, những lượng được biểu thị
bằng con số chính xác, nhưng cũng có những lượng phải bằng sự trừu tượng
hóa, khái quát hóa mới xác định được nó.
Sự phân biệt giữa lượng chất cũng ch mang tính tương đối, tùy thuộc vào
từng mối quan hệ nhất định, nghĩa trong mối quan hệ này lượng
nhưng trong mối quan hệ khác nó lại là chất của sự vật, hiện tượng đó.
VD: Số lượng sinh viên học giỏi của một lớp nói lên chất lượng học tập của lớp
đó. số lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng, trong trường hợp này cũng
quy định về chất.
Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
Thứ nhất, từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng một thể thống nhất giữa hai mặt chất
và lượng, hai mặt đó không tách rời nhau mà có sự liên hệ, tác động qua lại
lẫn nhau một cách biện chứng.
Chất là mặt tương đối ổn định, còn lượng là mặt thường xuyên biến đổi nên
sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay
đôi về lượng. Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng
dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù mọi sự thay đổi về lượng
đều ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật, hiện tượng. Ở một giới hạn
nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tơiú sự thay đổi về chất.
Giới hạn ấy gọi là độ.
lOMoARcPSD| 61622044
Độ là một phạm trù đùng dể chỉ khoảng giới hạn mà trong đó lượng và chất
thống nhất với nhau, lượng thay đổi nhưng chất vẫn chưa đổi, sự vật, hiện
tượng, vẫn đang còn là nó, chưa trở thành cái khác.
VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng là từ 0oC đến 100oC.
Khi lượng thay đổi đến một điểm giới hạn vượt qđộ sdẫn đến sự thay
đổi căn bản về chất. Điểm giới hạn ấy gọi là điểm nút.
Điểm nút một phạm trù dùng để chỉ điểm giới hạn tại đó sự thay đổi
về lượng đã làm thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng.
VD: 0oC và 100oC là những điểm nút
Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy.
Bước nhảy một phạm trù dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật,
hiện tượng do sự thay đổi dần dần về lượng trước đó gây nên.
Bước nhảy đánh dấu sự kết thúc của một giai đoạn vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng; đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn
mới tiếp theo, sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục
của sự vật, hiện tượng.
nhiều hình thức bước nhảy: bước nhảy dần dần bước nhảy đột biến,
bước nhảy chậm và bước nhảy nhanh, bước nhảy cục bộ và bước nhảy toàn
bộ…
VD: Sự chuyển hóa từ lỏng thành hơi, lỏng thành rắn… của nước
Thứ hai, sự tác động trở lại của chất đối với lượng
Chất mới ra đời sự tác động trở lại đối với lượng của svật hiện tượng.
Chất mới tác động tới lượng của svật, hiện tượng trên nhiều phương diện
như: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61622044
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN GIỮA KỲ
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Khái niệm vật chất
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
Nhưng theo V.I. Lênin định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Khái niệm ý thức
Ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất sống có tổ chức cao,
đó là bộ não người, phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người, có sự
cải biên và sáng tạo. Ý thức còn là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, mang bản chất xã hội.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng vật chất có trước ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người.
- Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức nên vật chất là cái có trước. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong
bộ óc con người nên ý thức là cái có sau. Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên
(bộ óc người và thế giới khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ)
thì mới có sự ra đời ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là
phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan trong đầu óc con người. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động
lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ. lOMoAR cPSD| 61622044
+ Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực,
sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con
người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
+ Vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức: Mọi sự tồn tại, phát
triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức
cũng phải thay đổi theo. Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày
càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội
dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Người xưa có câu “Phú quý sinh lễ nghĩa” để nói khi con người trở nên giàu
có, sang trọng thì cuộc sống sẽ phát sinh những phép tắc, lễ nghĩa mới. Nói cách khác,
khi vật chất đầy đủ, sung túc thì con người chú trọng đến văn hóa, tinh thần và nhiều
nghi thức, lễ nghĩa được đưa ra làm cho cuộc sống phong phú hơn. Đây cũng là điển
hình cho quan điểm vật chất quyết định ý thức.  Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì “ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất”:
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh
vật chất phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể
biến đổi được hiện thực.
- Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật
khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực
hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi
thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn.
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
• Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển. lOMoAR cPSD| 61622044
• Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất
khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan của vật chất.
Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định
hành động của con người, hoạt động thực tế của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại…
*Ví dụ: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 1000 độ C,
người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng
phương pháp thủ công cổ xưa.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên
tắc tính khách quan; trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng
động chủ quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức. Thứ ba,
cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí do tuyệt đối hóa, thổi phồng tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ tư, cần phải chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ do hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ năm, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn
nhân tố tinh thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. A. VẬN DỤNG
Là một thành niên ở độ tuổi 18, tôi nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc
thượng tôn pháp luật do Đảng và Nhà nước đề ra. Tôi đã tuân thủ các quy định của
pháp luật như chỉ lái xe khi đủ độ tuổi quy định, thi bằng lái xe, không tham gia vào
các tệ nạn xã hội và tích cực lên án những hành vi, việc làm trái pháp luật. Nhờ đó,
tôi đã đóng góp một phần vào việc giữ gìn và củng cố trật tự an toàn xã hội. lOMoAR cPSD| 61622044
Vì đặc trưng nghề nghiệp liên quan mật thiết đến việc giảng dạy nên để có thể nâng
cao kiến thức chuyên môn, sự tự tin khi nói chuyện trước đám đông và kinh nghiệm
mà tôi đã tham gia các chương trình do Hội sinh viên Việt Nam tổ chức, quan tâm
đến sắp xếp việc làm cho thanh niên và tham gia các nghiên cứu khoa học. Ngoài ra,
tôi cũng phát triển bản thân để thích nghi và đáp ứng theo nhu cầu thị trường, dựa
trên nền tảng sẵn có bằng cách phát huy những cái còn phù hợp và sửa đổi những cái
không còn phù hợp. Từ đó, tôi tìm được những cơ hội việc làm tiềm năng cũng như
đóng góp được những điều mình đã được học vào công cuộc đổi mới nền giáo dục đất nước.
Khi Intenet đang ngày càng trở nên phổ biến, rất nhiều đối tượng đã lợi dụng điều đó
để đăng những thông tin sai sự thật, xuyên tạc chống phá nhà nước. Khi tiếp cận
thông tin trên các nền tảng mạng xã hội, tôi luôn cân nhắc kỹ về mặt nội dung xem
có đúng và phù hợp với những điều tôi đã biết trước đó không và cũng như có đi
ngược lại với thể chế Nhà nước, quy định pháp luật hiện hành hay không. Mặt khác,
khi gặp những bài viết mang nội dung tiêu cực tôi sẽ báo cáo và nhắc nhở người xung
quanh tránh xa những luận điệu xuyên tạc. Vì đó, tôi đã giữ vững được tư tưởng và
đóng góp vào việc bảo vệ an ninh Tổ quốc. 2. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Quan điểm siêu hình về mối liên hệ (kịp thời gian mới ghi không thì ghi biện chứng thôi)
Quan điểm siêu hình xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời nhau,
cô lập nhau, giữa chúng không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu có chỉ
là những mối liên hệ giản đơn, hời hợt ở bên ngoài. Quan điểm siêu hình chỉ thấy bộ
phận mà không thấy toàn thể, “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.
2. Quan điểm biện chứng về mối liên hệ
Khái niệm mối liên hệ: lOMoAR cPSD| 61622044
Theo quan điểm duy vật biện chứng, khái niệm mối liên hệ bao gồm 2 phương diện sau:
Một là, mối liên hệ là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, điều này quyết
định sự tồn tại của sự vật, hiện tượng.
Hai là, mối liên hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau, điều này quyết định sự phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Vậy là, mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy
định lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố cấu thành nên
sự vật, hiện tượng, giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; giữa sự vật, hiện tượng
với môi trường mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ kéo theo sự
biến đổi của sự vật, hiện tượng khác.
VD: Trong thế giới động vật thì động vật hấp thụ khí O2 và nhả khí CO2, trong
khi đó quá trình quang hợp của thực vật lại hấp thụ khí CO2 và nhả ra khí O2. 
Tính chất của mối liên hệ
Mối liên hệ có tính khách quan, phở biến và đa dạng, phong phú. Các tính chất
đó của mối liên hệ phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
Thứ nhất, tính khách quan
Tính khách quan của mối liên hệ xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới.
Theo đó các sự vật hiện tượng trong thế giới dù đa dạng, muôn hình muôn vẻ như
thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một
thế giới vật chất duy nhát. Ngay cả ý thức của con người cũng chỉ là thuộc của
một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người và nội dung của ý thức cũng chỉ
là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con người.
Mối liên hệ là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do
sự áp đặt từ bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay lOMoAR cPSD| 61622044
không muốn thì bản thân các sự vật, hiện tượng hay các mặt, bộ phận trong một
sự vật, hiện tượng luôn chứa đựng các mối liên hệ. VD:
Trong buôn bán hàng hóa dịch vụ thì giữa cung và cầu có mối liên hệ với nhau.
Cụ thể giữa cung và cầu trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình tác động qua
lại. Cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau,
chuyển hóa lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng
của cả cung và cầu. Đó cũng chính là những nội dung cơ bản khi phân tích về mối
quan hệ biện chứng giữa cung và cầu.
Mối liên hệ ràng buộc và tương tác giữa các vật thể : lực hút và lực
Mối liên hệ ràng buộc và tương tác giữa các vật thể : lực hút và lực
Thứ hai, tính phổ biến
Tính phổ biến của mối liên hệ xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới
vật chất. Mỗi sự vật, hiện tượng là một hệ thống cấu trúc nội tại. Không có sự vật,
hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập với các sự vật hiện tượng khác
cũng như không thể có yếu tố hay bộ phận nào tồn tại tách biệt với các yếu tố hay
bộ phận khác. Bản thân sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể thống nhất. Mối liên
hệ có trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn mọi quá trình; có cả trong tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
VD: Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi chất với
môi trường, nhờ đó mà nó tồn tại, phát triển. Đồng thời môi trường sống cũng là
một hệ thống được tạo thành từ nhiều yếu tố lớp, phân hệ trực tiếp và gián tiếp. 
Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi
Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi Thứ
ba, tính đa dạng, phong phú
Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình
muôn vẻ của thế giới vật chất. Trong thế giới có nhiều kiểu mối liên hệ, mà mỗi lOMoAR cPSD| 61622044
kiểu mối liên hệ có đặc điểm riêng, có vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Song, thực chất của khoa học là nhận thức các mối liên hệ, vì thông qua các mối
liên hệ mà sự vật, hiện tượng mới bộc lộ các thuộc tính và thông qua các thuộc
tính ấy mới nắm bắt được bản chất của các sự vật hiện tượng.
Có mối liên hệ bên trong – mối liên hệ bên ngoài; có mối liên hệ cơ bản – mối
liên hệ không cơ bản; có mối liên hệ chủ yếu – mối liên hệ thứ yếu; có mối liên
hệ bản chất – mối liên hệ không bản chất; có mối liên hệ tất nhiên – mối liên hệ
ngẫu nhiên; có mối liên hệ trực tiếp – mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ diễn ra
rất phức tạp trong đời sống xã hội vạch ra đường đi cho mình theo những xu
hướng nhất định, đó là các quy luật xã hội. Hiện nay khoa học hiện đại đã chứng minh rằng:
- Phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các
yếu tố cấu thành quyết định. Chẳng hạn, cùng từ các nguyên tử cacbon
(C),nhưng theo những cách thức liên hệ khác nhau sẽ tạo thành than hoặc
kim cương; hoặc cùng từ công thức phân tử C2H6O, nhưng cách thức liên
hệ khác nhau sẽ tạo thành rượu ( CH3 – CH2 – OH ) hoặc ete ( CH3 – O
– CH3); hay trật tự liên hệ giữa các axit nucleic ( A – T, G- X) mà bị đảo
lộn sẽ gây ra hiện tượng đột biến gen.
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng do các sự tác động qua lại
giữa các yếu tố cấu thành quyế định, mà trước hết là do sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa các măt đối lập. Chẳng hạn, sự tác động qua lại giữa giai
cấp công nhân với giai cấp tư san là động lực phát triển của xã hội
tư bản chủ nghĩa; hay sự tác động qua lại giữa cung với cầu, giữa tích lũy
với tiêu dùng là động lực phát triển của nền sản xuất xã hội
Ý nghĩa phương pháp luận lOMoAR cPSD| 61622044
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải
tuân theo quan điểm toan diện và quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Một là, khi xem xét sự vật hiện tượng cần phải xem xét tất cả các mặt, các mối
liên hệ kể cả những mắc khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định.
Hai là, trong vô vàn các mối liên hệ, trước hết cần rút ra những mối liên hệ cơ
bản, chủ yếu, tức là xem xét một cách có trọng tâm, trọng điểm, nhờ đó nắm bắt
được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Ba là, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng thì cần phải đối chiếu
với các mối liên hệ còn lại để tránh sai lầm trong nhận thức.
Bốn là, chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều (chỉ thấy một mặt
mà không thấy nhiều mặt, chỉ thấy một mối liên hệ mà không thấy các mối liên hệ khác).
Năm là, chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải (coi mọi mối liên hệ như nhau)
có nghĩa là chống lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
Sáu là, chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành chủ yếu, quy cái không
cơ bản thành cơ bản, bằng lý lẽ, lập luận tưởng rằng có lý nhưng thực chất là vô lý).
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu
Thứ nhất, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt chúng trong hoàn cảnh
lịch sử - cụ thể; trong điều kiện môi trường cụ thể; trong từng điều kiện không
gian, thời gian nhất định; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng
trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ tọa độ nhất định.
Thứ hai, cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống
khác nhau phải giải quyết trong thực tiễn. lOMoAR cPSD| 61622044
Thứ ba, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai
đoạn cụ thể nhất định. VẬN DỤNG ĐỐI VỚI BẢN THÂN Quan điểm toàn diện:
Khi đọc tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, ở những dòng đầu tiên tôi
đã rất phản cảm và không thích nhân vật Chí Phèo bởi Chí mang hình tượng hung
tàn, vô học và chẳng ngần ngại làm điều gì chỉ để có rượu uống. Nhưng khi hiểu
về hoàn cảnh Chí được sinh ra cùng với một tuổi trẻ đầy lầm than và tủi cực và
cách mà Nam Cao để Chí Phèo có cái nhìn mới về cuộc đời sau khi nhận được bát
cháo hành từ Thị Nở thì tôi lại thấy cảm thương cho số phận của chính nhân vật
này. Nhờ việc xem xét nhân vật Chí Phèo trên nhiều mặt, nhiều khía cạnh mà tôi
nhận ra Chí Phèo là đại diện cho tiếng kêu đau khổ thoát ra từ một xã hội lầm than, thối nát.
Khi học các tác phẩm Ngữ văn thuộc cùng một giai đoạn lịch sử thì tôi luôn đọc
kỹ tác phẩm và đặt chúng trong sự so sánh để tìm những điểm chung làm nên sự nét
đặc sắc của nền văn học giai đoạn đó.Nhờ vậy, tôi hiểu sâu sắc hơn, cụ thể hơn về
hoàn cảnh ra đời và diễn biến lịch sử đất nước thời kỳ đó để có thể đặt mình vào vị
trí của tác giả và cảm nhận rõ hơn thông điệp, ý nghĩa mà tác phẩm muốn mang đến
đồng thời làm giàu thêm vốn kiến thức của bản thân.
Khi tôi giải được một bài toán khó tôi không xem đó là vinh quang mà tự cao mà
luôn cố gắng tìm ra những góc nhìn mới, những cách giải thông minh và ngắn gọn
hơn để nhằm bồi dưỡng kỹ năng của bản thân và không ngừng phát triển chính mình. lOMoAR cPSD| 61622044
Tôi từng ước mơ được đỗ vào trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, và
luôn cố gắng nổ lực cho mục tiêu đó đến nhưng đến cuối kì I, tôi nhận ra ngành mình
chọn lại không phù hợp với bản thân, ba mẹ khuyên nên chọn một trường thích hợp
với bản thân và cả gia đình. Nếu tôi cứ khăng khăng với lựa chọn của mình thì có thể
giai đoạn sau này sẽ rất khó khăn cả cho chính bản thân mình và cho gia đình. Vậy
nên tôi đã thay đổi nguyện vọng của mình, tôi chọn một ngành mà tôi nghĩ mình có
thể gắn bó lâu dài và phù hợp nhất với mình
Khi nhận ra việc làm sai của mình, tôi không cố gắng ngụy biện rằng mình đúng
hay đưa ra lý lẽ nhằm chối bỏ việc làm của mình mà tôi thẳng thừng chấp nhận, xem
xét lại hành động của bản thân và cũng như chính mình để biết mình sai sót ở đâu và
cố gắng sửa đổi. Việc làm này giúp tôi nâng cao ý thức, nhìn nhận lại về bản thân
cũng như tránh được tật xấu không dám nhận lỗi.
Quan điểm lịch sử - cụ thể
Tôi đã lên kế hoạch về việc sau khi kết thúc kì thi THPT Quốc gia sẽ cho bản thân
thời gian để thư giãn và vui chơi sau những ngày học căng thẳng nhưng do chi phí
cho việc học đại học vô cùng đắt đỏ nên tôi đã quyết định tìm một công việc để kiếm
thêm thu nhập phụ giúp cho gia đình và chi tiêu cá nhân. Cũng nhờ vậy mà tôi cũng
đã có thêm được rất nhiều bài học quý báu, tôi biết giá trị của đồng tiền mà ba mẹ đã
dành để nuôi tôi ăn học, học cách chi tiêu tiết kiệm và cũng như có thêm nhiều kinh nghiệm sống.
Trong lúc làm vườn, tôi cũng có nhận thức khác nhau về sự đa dạng trong điều
kiện sinh trưởng của cây. Bởi các yếu tố như ánh sáng, độ ẩm sẽ khác nhau, vì vậy
việc chăm sóc cây cảnh trong nhà cũng sẽ cầu kỳ hơn so với các loại cây cho bóng
mát. Các loại cây cảnh như lưỡi hổ, trầu bà cần đặt ở nơi nhiều ánh sáng, bổ sung
dinh dưỡng cũng như tưới nước thường xuyên mới có thể phát triển tốt. Còn với các
loại cây như cây bàng, cây phượng thì chỉ cần một nền đất tốt và được tưới nước đầy lOMoAR cPSD| 61622044
đủ thì có thể sinh trưởng khỏe mạnh. Nhờ nhận thức được sự khác nhau trong việc
chăm sóc cây nên tôi đã có thể tìm được loại cây phù hợp với nhu cầu và thời gian của bản thân.
Mỗi bài toán đều có nhiều cách giải khác nhau, có những phương pháp giải cổ
điển, cũng có những phương pháp giải hiện đại mà áp dụng vào từng loại câu hỏi
khác nhau. Lúc trước khi còn thi tự luận, tôi sẽ tập trung vào các bước làm bài để
tránh sai sót không đáng có, bên cạnh đó tôi sẽ phải tìm cách trình bày thật mạch lạc
và rõ ràng để giám khảo chấm bài hài lòng mà cho điểm tuyệt đối. Còn hiện tại đối
với thi THPT Quốc gia ra đề trắc nghiệm 50 câu, mỗi câu tôi phải giải thật nhanh để
kịp giờ làm những câu khó phía sau, thay vì trình bày dài dòng và mất thời gian thì
tôi sẽ dùng phương pháp trắc nghiệm bấm máy, hoặc thử nghiệm cho những câu giải
phương trình cơ bản để hạn chế việc mất thời gian cho những việc không quan trọng
mà tập trung hết sức lực để giải các câu khó phía sau. Nhờ đó mà tôi đã có thể vượt
qua môn Toán với số điểm cao và trở thành sinh viên trường ĐHSP TPHCM.
Nguyên lý về sự phát triển:
Quan điểm siêu hình về sự phát triển:
Thứ nhất, quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển
Quan điểm siêu hình cho rằng thế giới được sinh ra một lần rồi mãi mãi cứ như vậy.
Thứ hai, nếu không có sự phát triển thì đó chỉ là sự thay đổi về lượng chứ không
có sự thay đổi về chất
Quan điểm siêu hình không thừa nhận bước nhảy vọt về chất; phát triển chỉ là quá
trình vận động tịnh tiến đi lên.
Thứ ba, sự phát triển diễn ra theo đường thẳng hoặc theo đường tròn khép kín.
Vì phát triển chỉ là quá trình vận động tịnh tiến đi lên nên phát triển diễn ra theo
đường thẳng, hoặc phát triển là một chu kỳ lặp lại hoàn toàn cái cũ. Thứ tư, phát lOMoAR cPSD| 61622044
triển chẳng qua chỉ là sự vận động đi tới “cõi chết “mà thôi. Đây là quan điểm
của một lực lượng bi quan trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nó cho rằng trong chủ
nghĩa tư bản, kinh tế phát triển nhưng các vấn đề xã hội nan giải không giải quyết được.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển
 Khái niệm phát triển
Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng
theo khuynh hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Như vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối
quan hệ mật thiết với nhau, vì nhờ có mối liên hệ thì mới có sự vận động, phát triển.
Ví dụ: Trí tuệ con người phát triển không ngừng, từ chỗ người nguyên thủy chỉ
chế tạo được các công cụ bằng đá, đến nay đã chế tạo được máy móc tinh vi.
 Tính chất của sự phát triển:
Sự phát triển có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các tính
chất đó của sự phát triển phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất
Thứ nhất, tính khách quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật hiện tượng, không
phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không thì bản thân sự vật, hiện
tượng luôn luôn nằm trong quá trình phát triển.
VD: Cây xương rồng khi có đủ điều kiện sống thích hợp thì dù không có bàn tay
con người thì nó vẫn phát triển.
Thứ hai, tính phổ biến.
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy con người. lOMoAR cPSD| 61622044
Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới
tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan. VD:
+ Trong xã hội: Sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tổ chức xã hội loài người:
Từ hình thức tổ chức xã hội Thị tộc, bộ lạc sơ khai đến những tổ chức xã hội cao
hơn là hình thức tổ chức xã hội như Bộ tộc và hiện tại là dân tộc. + Trong cuộc
sống: Quá trình phát triển của công nghệ thông tin, ngày càng có nhiều loại công
nghệ hiện đại ra đời thay thế cho những công nghệ đã dần lạc hậu: chẳng hạn như
điện thoại thông minh nhiều đời ra đời thay thế cho loại điện thoại có bàn phím
ngày trước hay còn biết đến với tên gọi là "cục gạch"
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú
- Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau ở các sự vật, hiện tượng khác
nhau, trong những điều kiện không gian và thời gian khác nhau, trong
những lĩnh vực hiện thực khác nhau. Chẳng hạn:
Trong giới tự nhiên, sự phát triển thể hiện ở mức độ hoàn thiện của tổ chức
vật chất, ở sự xuất hiện của những giống loài mới ngày càng phức tạp hơn…
Trong lĩnh vực xã hội, sự phát triển thể hiện ở trình độ của nền sản xuất xã
hội; ở khả năng chinh phục giới tự nhiên của con người; ở quá trình nhân đạo
hóa đời sống xã hội loài người và hoàn thiện bản chất con người… Trong tư
duy, sự phát triển thể hiện ở trình độ nhận thức của con người, ở trình độ tư
duy lô gic; ở khả năng khai quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa…
- Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng.
Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, có thể trải qua những khâu
trung gian, thậm chí có bước thụ lùi tạm thời, nhưng chính sự thụt lùi ấy lại lOMoAR cPSD| 61622044
đóng vai trò là tiền đề, điều kiện để một vận động đi lên. - Quan điểm biện
chứng về sự phát triển còn chỉ ra rằng:
Cách thức cua sự phát triển là từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất và ngược lại.
Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn nội tại của bản thân các
sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Khuynh
hướng của sự phát triển là phủ định của phủ định, sau mỗi chu kỳ phủ định
của phủ định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sơ cao hơn.
 Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải
tuân theo quan điểm phát triển và quan điểm lịch sự cụ thể.
Quan điểm phát triển yêu cầu:
Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần đặt nó trong trạng thái vận
động, biến đổi không ngừng.
Hai là, cần vạch ra cái tương lai trong cái hiện tại, phát hiện ra những nhân
tố mới tiến bộ đang tiềm ẩn trong cái cũ, chỉ rõ tính chất đứng im tương đối,
tạm thời của cái cũ; vạch ra xu hướng phát triển của cái mới và tạo mọi điều
kiện cho cái mới tiến được được ra đơi. Cái mới lúc đầu được ra đời có thể
còn non yếu, mỏng manh nhưng nhất định sẽ trở nên vững chắc; còn cái cũ
cho dù có bền vững đến mấy thì nhất định cũng sẽ bị phá vỡ và được thay
thế bằng cái mới tiến bộ hơn.
Ba là, cần phân chia quá trình phát triển thành các giai đoạn, nghiên cứu để
vạch ra các đặc điểm, nội dung của từng giai đoạn. Từ đó đề ra các giải pháp
hoặc biện pháp tác động một cách phù hợp nhằm thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển của sự vật, hiện tượng tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại
cho đời sống con người và xã hội. lOMoAR cPSD| 61622044
Bốn là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm chủ quan, nóng vội, duy
ý chí, vội vàng xóa bỏ cái cũ, tạo ra cái mới khi chưa có đầy đủ điều kiện chín muồi.
Năm là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, gây cản
trở sự phát triển, cứ khăng khăng giữ lại cái cũ, không chịu tạo ra cái mới khi
đã hội đủ điều kiện chín muồi VẬN DỤNG
Trong việc học, khi tiếp cận với những kiến thức mới tôi không chỉ bó hẹp
bản thân học từ tài liệu mà tôi còn tìm đọc thêm những nguồn tài liệu uy tín từ
bên ngoài, lắng nghe lời giảng của thầy cô cũng như liên hệ nó với những kiến
thức cũ nhằm mở rộng vốn hiểu biết và không ngừng làm mới kiến thức của mình.
Nhờ đó, tôi nắm chắc được vấn đề và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo trong các bài làm của mình.
Dù chỉ mới là sinh viên năm Nhất nhưng tôi đã có ý thức vạch ra định hướng
cho tương lai của mình. Trước khi chọn lựa ngành học, tôi tự mình tìm hiểu để
nắm rõ chương trình học, những điều cần thiết khi theo ngành học đó và cũng
phải thấy rõ khuynh hướng phát triển của chuyên ngành theo học trong tương lai,
tìm hiểu về các yêu cầu của xã hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên
cứu. Xã hội hiện tại và tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân,
học thêm các kỹ năng như thiết kế, trang tính… để từ đó nổi bật hơn trong mắt
nhà tuyển dụng và có thể tìm được một công việc ổn định.
Vì muốn có một cơ thể săn chắc khỏe mạnh nên tôi đã tìm đến việc tập luyện
thể dục thể thao. Lúc đầu, vì là người mới nên tôi chỉ tập những bài tập với cường
độ nhẹ để cơ thể có thể quen dần với việc tập luyện. Khi cảm nhận được cơ thể
đã bắt nhịp được với chuyện luyện tập thì tôi bắt đầu thực hiện những bài tập
chuyên sâu vào riêng từng bộ phận trên cơ thể với mức độ phức tạp cao hơn. Cùng lOMoAR cPSD| 61622044
với đó tôi cũng tuân theo một chế độ ăn uống lành mạnh, hạn chế tinh bột, dầu
mỡ cũng như các đồ uống có cồn, bổ sung đạm và protein để thúc đẩy hiệu quả
tập luyện. Nhờ việc chia ra thành từng giai đoạn tập luyện mà cơ thể tôi hiện nay
đã hoàn toàn thích nghi với cường độ luyện tập và đồng thời trở nên rắn rỏi săn
chắc và khỏe mạnh hơn.
Khi bước vào Đại học tôi nhận ra mỗi môn học chỉ có thời lượng một số tiết
nhất định và lượng kiến thức trong mỗi tiết học là vô cùng lớn, khác hoàn toàn
với các lớp phổ thông. Chính điều này đã đặt ra vấn đề cấp thiết cho tôi trong việc
thay đổi phương pháp học, không học theo những gì giáo viên yêu cầu, chỉ học
theo sách giáo khoa như đã làm trong những năm phổ thông. Môi trường đại học
đòi hỏi tôi cần phải đọc và hiểu bài trước khi đến lớp, đánh dấu những điểm,
những câu hỏi hay vấn đề còn chưa hiểu để khi lên lớp có thể hỏi giảng viên. Bằng
cách đó tôi mới có thể theo kịp tốc độ giảng bài cũng như hiểu rõ hết những gì
đang được học. Ngoài ra, tôi cũng tìm thêm nguồn tài liệu đọc thêm bên ngoài
cũng như các bài tập liên quan để rèn luyện, củng cố kiến thức. Nhờ đó, tôi tránh
được việc bị bỡ ngỡ, mất phương hướng ở môi trường mới và hiểu sâu, hiểu rõ tất cả bài học.
Câu 3: Quy luật lượng chất.
Quy luật lượng chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Quy luật lượng - chất vạch ra cách thức của sự phát triển. Nội dung quy luật Khái niệm lượng, chất lOMoAR cPSD| 61622044 Khái niệm chất
Chất là một phạm trù dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác.
VD: Nguyên tố Đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là
1083 độ C, nhiệt độ sôi là 2880 độ C. Những thuộc tính này nói lên chất riêng của
đồng, phân biệt nó với các kim loại khác
Chất có tính khách quan, được cấu thành bởi các thuộc tính khách quan vốn
có của sự vật, hiện tượng. Vì vậy để xác định chất của sự vật, hiện tượng thì
cần phải xác định các thuộc tính của nó. Mà thuộc tính của sự vật, hiện tượng
chỉ bộc lộ khi nó nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác nên
muốn xác định thuộc tính của sự vật hiện tượng thì cần phải đặt sự vật, hiện
tượng ấy trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác. VD: Chất của một
người chỉ được bộc lộ thông qua quan hệ của người đó với những người
khác, với môi trường xung quanh, thông qua lời nói, cử chỉ, hành động.
Thuộc tính bao gồm hai loại: thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Thuộc tính cơ bản là những thuộc tính quyết định chất của sự vật hiện tượng
nghĩa là khi nó thay đổi thì chất của sự vật hiện tượng sẽ thay đổi. Thuộc tính
không cơ bản là những thuộc tính không quyết định chất của sự vật, hiện
tượng nghĩa là khi nó thay đổi thì chất của sự vật, hiện tượng vẫn chưa thay đổi.
Tuy nhiên sự phân biệt giữa thuộc tính cơ bản và không cơ bản cũng chỉ
mang tính tương đối, tùy thuộc vào từng mối quan hệ nhất định. Trong mối
quan hệ này nó là thuộc tính cơ bản, nhưng trong mối quan hệ khác nó lại là
thuộc tính không cơ bản và ngược lại.
VD: Khả năng hô hấp trong nước là một thuộc tính cơ bản của động vật sống dưới
nước giúp phân biệt với động vật trên cạn. Còn đối với những động vật sống với lOMoAR cPSD| 61622044
nước, ta phân biệt chúng dựa trên giống, loài, hình dạng, kích thước… Tổng hợp
các thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản, còn tổng hợp các thuộc tính không
cơ bản tạo thành chất không cơ bản của sự vật, hiện tượng.
Chất cơ bản là một loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó báo hiệu sự tồn
tại hay mất đi của bản thân sự vật, hiện tượng. Do đó muốn thay đổi căn bản
sự vật, hiện tượng thì phải thay đổi chất cơ bản của nó.
Chất không cơ bản là một loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó không
quyết định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật, hiện tượng.
Nhưng vì sự phân biệt giữa thuộc tính cơ bản và không cơ bản cũng chỉ mang
tính tương đối, nên sự phân biệt giữa chất cơ bản và chất không cơ bản cũng mang tính tương đối.
Nhưng mặt khác, mỗi thuộc tính lại được tạo thành từ các đặc trưng về chất
của nó, vì vậy, mỗi thuộc tính lại đói vai trò là một chất của sự vật, hiện
tượng. Rốt cuộc, sự phân biệt giữa thuộc tính và chất cũng chỉ mang tính
tương đối. Trong mối quan hệ này nó là thuộc tính, nhưng trong mối quan hệ
khác nó lại là chất của sự vật, hiện tượng. Đặc điểm của chất:
- Chất mang tính khách quan,
- Chất gắn liền với sự vật, chất là chất của sự vật.
- Mỗi sự vật không chỉ có một chất, mà còn có vô vàn chất.
- Chất biểu hiện tính toàn vẹn, chính thể thống nhất của sự vật.
- Dùng chất để phân biệt các sự vật với nhau.  Khái niệm lượng:
Lượng là một phạm trù dùng để quy định tính khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng về các phương diện số lượng, các yếu tố cấu thành; quy mô của
sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu vận động và phát triển của nó. lOMoAR cPSD| 61622044
Lượng có tính khách quan, là cái vốn có của bản thân các sự vật hiện tượng
vì bất kỳ sự vật hiên tượng nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định trong
không gian và được diễn ra trong khoảng thời gian nào đó.
Mỗi sự vật, hiện tượng có vô vàn chất nên nó cũng có vô vàn lượng. Mỗi loại
lượng có phương thức xác định khác nhau, có những lượng được biểu thị
bằng con số chính xác, nhưng cũng có những lượng phải bằng sự trừu tượng
hóa, khái quát hóa mới xác định được nó.
Sự phân biệt giữa lượng và chất cũng chỉ mang tính tương đối, tùy thuộc vào
từng mối quan hệ nhất định, nghĩa là trong mối quan hệ này nó là lượng
nhưng trong mối quan hệ khác nó lại là chất của sự vật, hiện tượng đó.
VD: Số lượng sinh viên học giỏi của một lớp nói lên chất lượng học tập của lớp
đó. Dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng, trong trường hợp này cũng quy định về chất.
 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
Thứ nhất, từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất
và lượng, hai mặt đó không tách rời nhau mà có sự liên hệ, tác động qua lại
lẫn nhau một cách biện chứng.
Chất là mặt tương đối ổn định, còn lượng là mặt thường xuyên biến đổi nên
sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay
đôi về lượng. Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng
dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù mọi sự thay đổi về lượng
đều ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật, hiện tượng. Ở một giới hạn
nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tơiú sự thay đổi về chất.
Giới hạn ấy gọi là độ. lOMoAR cPSD| 61622044
Độ là một phạm trù đùng dể chỉ khoảng giới hạn mà trong đó lượng và chất
thống nhất với nhau, lượng thay đổi nhưng chất vẫn chưa đổi, sự vật, hiện
tượng, vẫn đang còn là nó, chưa trở thành cái khác.
VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng là từ 0oC đến 100oC.
Khi lượng thay đổi đến một điểm giới hạn vượt quá độ sẽ dẫn đến sự thay
đổi căn bản về chất. Điểm giới hạn ấy gọi là điểm nút.
Điểm nút là một phạm trù dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi
về lượng đã làm thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng.
VD: 0oC và 100oC là những điểm nút
Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật,
hiện tượng do sự thay đổi dần dần về lượng trước đó gây nên.
Bước nhảy đánh dấu sự kết thúc của một giai đoạn vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng; đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn
mới tiếp theo, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục
của sự vật, hiện tượng.
Có nhiều hình thức bước nhảy: bước nhảy dần dần và bước nhảy đột biến,
bước nhảy chậm và bước nhảy nhanh, bước nhảy cục bộ và bước nhảy toàn bộ…
VD: Sự chuyển hóa từ lỏng thành hơi, lỏng thành rắn… của nước
Thứ hai, sự tác động trở lại của chất đối với lượng
Chất mới ra đời có sự tác động trở lại đối với lượng của sự vật hiện tượng.
Chất mới tác động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện
như: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng.