ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN GIỮA KỲ
1
.Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Khái niệm vật chất
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
Nhưng theo V.I. Lênin định nghĩa:
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Khái niệm ý thức
Ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất sống có tổ chức
cao, đó là bộ não người, phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người,
có sự cải biên và sáng tạo. Ý thức còn là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
mang bản chất xã hội.
2
.Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng vật chất có trước ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người.
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
-
+
:
Vt cht tn tại khách quan, độc lập với
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
ý thức nên vật chất là cái có trước. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào
trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau. Phải có sự vận động của vật chất trong
tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và
ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
+
:
i bt kỳ hình thức nào, ý thức đều là
Vật chất quyết định nội dung của ý thức
phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan trong đầu óc con người. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động
lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con
người qua các thế hệ.
+
:
Bn cht của ý thức là phản ánh tích cực,
Vật chất quyết định bản chất của ý thức
sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con
người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của
ý thức.
+
:
Mi sự tn ti, phát
Vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức
triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức
cũng phải thay đổi theo. Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày
càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội
dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Người xưa có câu “Phú quý sinh lễ nghĩa” để nói khi con người trở nên giàu
có, sang trọng thì cuộc sống sẽ phát sinh những phép tắc, lễ nghĩa mới. Nói cách khác,
khi vật chất đầy đủ, sung túc thì con người chú trọng đến văn hóa, tinh thần và nhiều
nghi thức, lễ nghĩa được đưa ra làm cho cuộc sống phong phú hơn. Đây cũng là điển
hình cho quan điểm vật chất quyết định ý thức.
Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì “ý thức có sự tác động trở lại
đối với vật chất”:
-
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh
vật chất phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể
biến đổi được hiện thực.
-
Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật
khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực
hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi
thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to
lớn.
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật
chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách
quan của vật chất.
Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định
hành động của con người, hoạt động thực tế của con người đúng hay sai, thành công
hay thất bại…
*
Ví dụ
:
Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 1000 độ C,
người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải
bằng phương pháp thủ công cổ xưa.
3
.Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất
, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên
tắc tính khách quan; trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai
, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính
năng động chủ quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba
, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí do tuyệt đối hóa, thổi phồng tính
tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ tư
, cần phải chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ do hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý
thức.
Thứ năm
, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn
nhân tố tinh thần, cả
điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan.
A. VẬN DỤNG
Là một thành niên ở độ tuổi 18, tôi nhận thức được trách nhiệm của mình trong
việc thượng tôn pháp luật do Đảng và Nhà nước đề ra. Tôi đã tuân thủ các quy định
của pháp luật như chỉ lái xe khi đủ độ tuổi quy định, thi bằng lái xe, không tham gia
vào các tệ nạn xã hội và tích cực lên án những hành vi, việc làm trái pháp luật. Nhờ
đó, tôi đã đóng góp một phần vào việc giữ gìn và củng cố trật tự an toàn xã hội.
đặc trưng nghề nghiệp liên quan mật thiết đến việc giảng dạy nên để thể nâng
cao kiến thức chuyên môn, sự tự tin khi nói chuyện trước đám đông kinh nghiệm
mà tôi đã tham gia các chương trình do Hội sinh viên Việt Nam tổ chức, quan tâm đến
sắp xếp việc làm cho thanh niên tham gia các nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, tôi
cũng phát triển bản thân để thích nghi và đáp ứng theo nhu cầu thị trường, dựa trên nền
tảng sẵn có bằng cách phát huy những cái còn phù hợp và sửa đổi những cái không còn
phù hợp. Từ đó, tôi tìm được những hội việc làm tiềm năng cũng nđóng góp
được những điều mình đã được học vào công cuộc đổi mới nền giáo dục đất nước.
Khi Intenet đang ngày càng trở nên phổ biến, rất nhiều đối tượng đã lợi dụng điều đó
để đăng những thông tin sai sự thật, xuyên tạc chống phá nhà nước. Khi tiếp cận thông
tin trên các nền tảng mạng xã hội, tôi luôn cân nhắc kỹ về mặt nội dung xem có đúng
và phù hợp với những điều tôi đã biết trước đó không và cũng như có đi ngược lại với
thể chế Nhà nước, quy định pháp luật hiện hành hay không. Mặt khác, khi gặp những
bài viết mang nội dung tiêu cực tôi sẽ báo cáo và nhắc nhở người xung quanh tránh xa
những luận điệu xuyên tạc. đó, tôi đã giữ vững được tư tưởng và đóng góp vào việc
bảo vệ an ninh Tổ quốc. 2. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Quan điểm siêu hình về mối liên hệ
(kịp thời gian mới ghi không thì ghi biện chứng thôi)
Quan điểm siêu hình xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời nhau,
lập nhau, giữa chúng không mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu chỉ là
những mối liên hệ giản đơn, hời hợt bên ngoài. Quan điểm siêu hình chỉ thấy bộ phận
mà không thấy toàn thể, “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.
2. Quan điểm biện chứng về mối liên hệ
Khái niệm mối liên hệ:
Theo quan điểm duy vật biện chứng, khái niệm mối liên hệ bao gồm 2 phương
diện sau:
Một là, mối liên hệ là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, điều này
quyết định
ca sự vật, hiện tượng.
sự tồn tại
Hai là, mối liên hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau, điều này quyết định
sự phát
triển
của sự vật, hiện tượng.
Vậy là, mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy
định lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố cấu thành
nên sự vật, hiện tượng, giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; giữa sự vật, hiện
tượng với môi trường mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ kéo
theo sự biến đổi của sự vật, hiện tượng khác.
VD: Trong thế giới động vật thì động vật hấp thụ khí O2 và nhả khí CO2, trong
khi đó quá trình quang hợp của thực vật lại hấp thụ khí CO2 và nhả ra khí O2.
Tính chất của mối liên hệ
Mối liên hệ có tính khách quan, phở biến và đa dạng, phong phú. Các tính chất
đó của mối liên hệ phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
vật chất.
Thứ nhất
, tính khách quan
Tính khách quan của mối liên hệ xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế
giới. Theo đó các sự vật hiện tượng trong thế giới dù đa dạng, muôn hình muôn
vẻ như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau
của một thế giới vật chất duy nhát. Ngay cả ý thức của con người cũng chỉ là
thuộc của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người và nội dung của ý
thức cũng chỉ là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não
con người.
Mối liên hệ cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do
sự áp đặt từ bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay
không muốn thì bản thân các sự vật, hiện tượng hay các mặt, bộ phận trong một
sự vật, hiện tượng luôn chứa đựng các mối liên hệ.
VD:
Trong buôn bán hàng hóa dịch vụ thì giữa cung cầu mối liên hệ với nhau.
Cụ thể giữa cung và cầu trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình tác động qua
lại. Cung cầu quy định lẫn nhau; cung cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau,
chuyển hóa lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng
của cả cung và cầu. Đó cũng chính là những nội dung cơ bản khi phân tích về mối
quan hệ biện chứng giữa cung và cầu.
Mối liên hệ ràng buộc và tương tác giữa các vật thể : lực hút và lực
Mối liên hệ ràng buộc và tương tác giữa các vật thể : lực hút và lực Thứ
hai, tính phổ biến
Tính phổ biến của mối liên hệ xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới
vật chất. Mỗi sự vật, hiện tượng là một hệ thống cấu trúc nội tại. Không có sự vật,
hiện tượng nào tồn tại một cách lập, biệt lập với các sự vật hiện tượng khác
cũng như không thể có yếu tố hay bộ phận nào tồn tại tách biệt với các yếu tố hay
bộ phận khác. Bản thân sự vật, hiện tượng một chỉnh thể thống nhất. Mối liên
hệ trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn mọi quá trình; cả trong tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
VD: Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi chất với
môi trường, nhờ đó mà nó tồn tại, phát triển. Đồng thời môi trường sống cũng là
một hệ thống được tạo thành từ nhiều yếu tố lớp, phân hệ trực tiếp và gián tiếp.
Mỗi thể sống một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi
Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú
Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình
muôn vẻ của thế giới vật chất. Trong thế giới có nhiều kiểu mối liên hệ, mà mỗi
kiểu mối liên hệ đặc điểm riêng, có vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Song, thực chất của khoa học là nhận thức các mối liên hệ, vì thông qua các mối
liên hệ sự vật, hiện tượng mới bộc lộ các thuộc tính thông qua các thuộc
tính ấy mới nắm bắt được bản chất của các sự vật hiện tượng.
mối liên hệ bên trong mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ bản mối
liên hệ không cơ bản; có mối liên hệ chủ yếu – mối liên hệ thứ yếu; có mối liên
hệ bản chất – mối liên hệ không bản chất; có mối liên hệ tất nhiên – mối liên hệ
ngẫu nhiên; có mối liên hệ trực tiếp – mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ diễn ra
rất phức tạp trong đời sống hội vạch ra đường đi cho mình theo những xu
hướng nhất định, đó là các quy luật xã hội. Hiện nay khoa học hiện đại đã chứng
minh rằng:
- Phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các
yếu tcấu thành quyết định. Chẳng hạn, cùng từ các nguyên tử cacbon
(C),nhưng theo những cách thức liên hệ khác nhau sẽ tạo thành than hoặc
kim cương; hoặc ng từ công thức phân tử C2H6O, nhưng cách thức liên
hệ khác nhau sẽ tạo thành rượu ( CH3 – CH2 – OH ) hoặc ete ( CH3 – O
– CH3); hay trật tự liên hệ giữa các axit nucleic ( A – T, G- X) mà bị đảo
lộn sẽ gây ra hiện tượng đột biến gen.
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng do các sự tác động qua lại
giữa các yếu tố cấu thành quyế định, trước hết là do sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa các măt đối lập. Chẳng hạn, sự tác động qua lại giữa giai
cấp công nhân với giai cấp tư san là động lực phát triển của xã hội
tư bản chủ nghĩa; hay sự tác động qua lại giữa cung với cầu, giữa tích
lũy với tiêu dùng là động lực phát triển của nền sản xuất xã hội
Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải
tuân theo quan điểm toan diện và quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Một
là, khi xem xét sự vật hiện tượng cần phải xem xét tất cả các mặt, các mối
liên hệ kể cả những mắc khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời
gian nhất định.
Hai
là, trong vô vàn các mối liên hệ, trước hết cần rút ra những mối liên hệ cơ
bản, chủ yếu, tức là xem xét một cách có trọng tâm, trọng điểm, nhờ đó nắm bắt
được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Ba
là, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng thì cần phải đối
chiếu với các mối liên hệ còn lại để tránh sai lầm trong nhận thức.
Bốn
là, chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều (chỉ thấy một
mặt mà không thấy nhiều mặt, chỉ thấy một mối liên hệ mà không thấy các mối
liên hệ khác).
Năm
là, chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải (coi mọi mối liên hệ như
nhau) có nghĩa là chống lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
Sáu
là, chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành chủ yếu, quy cái không
cơ bản thành cơ bản, bằng lý lẽ, lập luận tưởng rằng có lý nhưng thực chất là vô
lý).
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu
Thứ nhất, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt chúng trong hoàn
cảnh lịch sử - cụ thể; trong điều kiện môi trường cụ thể; trong từng điều kiện
không gian, thời gian nhất định; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong
từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ tọa độ nhất định.
Thứ hai, cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống
khác nhau phải giải quyết trong thực tiễn.
Thứ ba, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai
đoạn cụ thể nhất định.
VẬN DỤNG
ĐỐI VỚI BẢN THÂN
Quan điểm toàn diện:
Khi đọc tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, ở những dòng đầu tiên tôi
đã rất phản cảm và không thích nhân vật Chí Phèo bởi Chí mang hình tượng
hung tàn, vô học và chẳng ngần ngại làm điều gì chỉ để có rượu uống. Nhưng
khi hiểu về hoàn cảnh Chí được sinh ra cùng với một tuổi trẻ đầy lầm than và tủi
cực và cách mà Nam Cao để Chí Phèo có cái nhìn mới về cuộc đời sau khi nhận
được bát cháo hành từ Thị Nở thì tôi lại thấy cảm thương cho số phận của chính
nhân vật này. Nhờ việc xem xét nhân vật Chí Phèo trên nhiều mặt, nhiều khía
cạnh mà tôi nhận ra Chí Phèo là đại diện cho tiếng kêu đau khổ thoát ra từ một
xã hội lầm than, thối nát.
Khi học các tác phẩm Ngữ văn thuộc cùng một giai đoạn lịch sử thì tôi luôn đọc
kỹ tác phẩm và đặt chúng trong sự so sánh để tìm những điểm chung làm nên sự
nét đặc sắc của nền văn học giai đoạn đó.Nhờ vậy, tôi hiểu sâu sắc hơn, cụ thể hơn
về hoàn cảnh ra đời và diễn biến lịch sử đất nước thời kỳ đó để có thể đặt mình vào
vị trí của tác giả và cảm nhận rõ hơn thông điệp, ý nghĩa mà tác phẩm muốn mang
đến đồng thời làm giàu thêm vốn kiến thức của bản thân.
Khi tôi giải được một bài toán khó tôi không xem đó là vinh quang mà tự cao mà
luôn cố gắng tìm ra những góc nhìn mới, những cách giải thông minh và ngắn gọn
hơn để nhằm bồi dưỡng kỹ năng của bản thân và không ngừng phát triển chính
mình.
Tôi từng ước mơ được đỗ vào trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, và
luôn cố gắng nổ lực cho mục tiêu đó đến nhưng đến cuối kì I, tôi nhận ra ngành
mình chọn lại không phù hợp với bản thân, ba mẹ khuyên nên
chọn một trường thích hợp với bản thân và cả gia đình. Nếu tôi cứ khăng khăng
với lựa chọn của mình thì có thể giai đoạn sau này sẽ rất khó khăn cả cho chính bản
thân mình và cho gia đình. Vậy nên tôi đã thay đổi nguyện vọng của mình, tôi chọn
một ngành mà tôi nghĩ mình có thể gắn bó lâu dài và phù hợp nhất với mình
Khi nhận ra việc làm sai của mình, tôi không cố gắng ngụy biện rằng mình đúng
hay đưa ra lý lẽ nhằm chối bỏ việc làm của mình mà tôi thẳng thừng chấp nhận,
xem xét lại hành động của bản thân và cũng như chính mình để biết mình sai sót ở
đâu và cố gắng sửa đổi. Việc làm này giúp tôi nâng cao ý thức, nhìn nhận lại về bản
thân cũng như tránh được tật xấu không dám nhận lỗi.
Quan điểm lịch sử - cụ thể
Tôi đã lên kế hoạch về việc sau khi kết thúc kì thi THPT Quốc gia sẽ cho bản
thân thời gian để thư giãn và vui chơi sau những ngày học căng thẳng nhưng do chi
phí cho việc học đại học vô cùng đắt đỏ nên tôi đã quyết định tìm một công việc đ
kiếm thêm thu nhập phụ giúp cho gia đình và chi tiêu cá nhân. Cũng nhờ vậy mà
tôi cũng đã có thêm được rất nhiều bài học quý báu, tôi biết giá trị của đồng tiền mà
ba mẹ đã dành để nuôi tôi ăn học, học cách chi tiêu tiết kiệm và cũng như có thêm
nhiều kinh nghiệm sống.
Trong lúc làm vườn, tôi cũng có nhận thức khác nhau về sự đa dạng trong điều
kiện sinh trưởng của cây. Bởi các yếu tố như ánh sáng, độ ẩm sẽ khác nhau, vì vậy
việc chăm sóc cây cảnh trong nhà cũng sẽ cầu kỳ hơn so với các loại cây cho bóng
mát. Các loại cây cảnh như lưỡi hổ, trầu bà cần đặt ở nơi nhiều ánh sáng, bổ sung
dinh dưỡng cũng như tưới nước thường xuyên mới có thể phát triển tốt. Còn với
các loại cây như cây bàng, cây phượng thì chỉ cần một nền đất tốt và được tưới
nước đầy đủ thì có thể sinh trưởng khỏe mạnh. Nhờ nhận thức được sự khác nhau
trong việc chăm sóc cây nên tôi đã có thể tìm được loại cây phù hợp với nhu cầu và
thời gian của bản thân.
Mỗi bài toán đều có nhiều cách giải khác nhau, có những phương pháp giải cổ
điển, cũng có những phương pháp giải hiện đại mà áp dụng vào từng loại câu hỏi
khác nhau. Lúc trước khi còn thi tự luận, tôi sẽ tập trung vào các bước làm bài để
tránh sai sót không đáng có, bên cạnh đó tôi sẽ phải tìm cách trình bày thật mạch
lạc và rõ ràng để giám khảo chấm bài hài lòng mà cho điểm tuyệt đối. Còn hiện tại
đối với thi THPT Quốc gia ra đề trắc nghiệm 50 câu, mỗi câu tôi phải giải thật
nhanh để kịp giờ làm những câu khó phía sau, thay vì trình bày dài dòng và mất
thời gian thì tôi sẽ dùng phương pháp trắc nghiệm bấm máy, hoặc thử nghiệm cho
những câu giải phương trình cơ bản để hạn chế việc mất thời gian cho những việc
không quan trọng mà tập trung hết sức lực để giải các câu khó phía sau. Nhờ đó mà
tôi đã có thể vượt qua môn Toán với số điểm cao và trở thành sinh viên trường
ĐHSP TPHCM.
Nguyên lý về sự phát triển:
Quan điểm siêu hình về sự phát triển:
Thứ nhất
, quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển
Quan điểm siêu hình cho rằng thế giới được sinh ra một lần rồi mãi mãi cứ như
vậy.
Thứ hai
, nếu không có sự phát triển thì đó chỉ là sự thay đổi về lượng chứ không
có sự thay đổi về chất
Quan điểm siêu hình không thừa nhận bước nhảy vọt về chất; phát triển chỉ là
quá trình vận động tịnh tiến đi lên.
Thứ ba
, sự phát triển diễn ra theo đường thẳng hoặc theo đường tròn khép kín.
Vì phát triển chỉ là quá trình vận động tịnh tiến đi lên nên phát triển diễn ra theo
đường thẳng, hoặc phát triển là một chu kỳ lặp lại hoàn toàn cái cũ.
Thứ tư
, phát triển chẳng qua chỉ là sự vận động đi tới “cõi chết “mà thôi.
Đây là quan điểm của một lực lượng bi quan trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nó
cho rằng trong chủ nghĩa tư bản, kinh tế phát triển nhưng các vấn đề xã hội nan
giải không giải quyết được.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển
Khái niệm phát triển
Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng
theo khuynh hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Như vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối
quan hệ mật thiết với nhau, vì nhờ có mối liên hệ thì mới có sự vận động, phát
triển.
Ví dụ: Trí tuệ con người phát triển không ngừng, từ chỗ người nguyên thủy chỉ
chế tạo được các công cụ bằng đá, đến nay đã chế tạo được máy móc tinh vi.
Tính chất của sự phát triển:
Sự phát triển có tính
. Các tính
khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú
chất đó của sự phát triển phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới vật chất
Thứ nhất
, tính khách quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật hiện tượng, không
phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không thì bản thân sự vật,
hiện tượng luôn luôn nằm trong quá trình phát triển.
VD: Cây xương rồng khi có đủ điều kiện sống thích hợp thì dù không có bàn tay
con người thì nó vẫn phát triển.
Thứ hai
, tính phổ biến.
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái
mới tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan.
VD:
+
Trong xã hội: Sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tổ chức xã hội loài
người: Từ hình thức tổ chức xã hội Thị tộc, bộ lạc sơ khai đến những tổ chức xã
hội cao hơn là hình thức tổ chức xã hội như Bộ tộc và hiện tại là dân tộc.
+
Trong cuộc sống: Quá trình phát triển của công nghệ thông tin, ngày càng có
nhiều loại công nghệ hiện đại ra đời thay thế cho những công nghệ đã dần lạc
hậu: chẳng hạn như điện thoại thông minh nhiều đời ra đời thay thế cho loại điện
thoại có bàn phím ngày trước hay còn biết đến với tên gọi là "cục gạch"
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú
-
Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau ở các sự vật, hiện tượng khác
nhau, trong những điều kiện không gian và thời gian khác nhau, trong
những lĩnh vực hiện thực khác nhau.
Chẳng hạn:
Trong giới tự nhiên, sự phát triển thể hiện ở mức độ hoàn thiện của tổ chức
vật chất, ở sự xuất hiện của những giống loài mới ngày càng phức tạp
hơn…
Trong lĩnh vực xã hội, sự phát triển thể hiện ở trình độ của nền sản xuất xã
hội; ở khả năng chinh phục giới tự nhiên của con người; ở quá trình nhân
đạo hóa đời sống xã hội loài người và hoàn thiện bản chất con người…
Trong tư duy, sự phát triển thể hiện ở trình độ nhận thức của con người,
trình độ tư duy lô gic; ở khả năng khai quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống
hóa…
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng.
-
Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, có thể trải qua những khâu
trung gian, thậm chí có bước thụ lùi tạm thời, nhưng chính sự thụt lùi ấy lại
đóng vai trò là tiền đề, điều kiện để một vận động đi lên.
-
Quan điểm biện chứng về sự phát triển còn chỉ ra rằng:
Cách thức cua sự phát triển là từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất và ngược lại.
Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn nội tại của bản thân các
sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Khuynh hướng của sự phát triển là phủ định của phủ định, sau mỗi chu kỳ
phủ định của phủ định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng
trên cơ sơ cao hơn.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải
tuân theo quan điểm phát triển và quan điểm lịch sự cụ thể.
Quan điểm phát triển yêu cầu:
Một
là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần đặt nó trong trạng thái vận
động, biến đổi không ngừng.
Hai
là, cần vạch ra cái tương lai trong cái hiện tại, phát hiện ra những
nhân tố mới tiến bộ đang tiềm ẩn trong cái cũ, chỉ rõ tính chất đứng im
tương đối, tạm thời của cái cũ; vạch ra xu hướng phát triển của cái mới và
tạo mọi điều kiện cho cái mới tiến được được ra đơi. Cái mới lúc đầu được
ra đời có thể còn non yếu, mỏng manh nhưng nhất định sẽ trở nên vững
chắc; còn cái cũ cho dù có bền vững đến mấy thì nhất định cũng sẽ bị phá
vỡ và được thay thế bằng cái mới tiến bộ hơn.
Ba
là, cần phân chia quá trình phát triển thành các giai đoạn, nghiên cứu
để vạch ra các đặc điểm, nội dung của từng giai đoạn. Từ đó đề ra các giải
pháp hoặc biện pháp tác động một cách phù hợp nhằm thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của sự vật, hiện tượng tùy theo sự phát triển đó có lợi hay
có hại cho đời sống con người và xã hội.
Bốn
là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm chủ quan, nóng vội, duy
ý chí, vội vàng xóa bỏ cái cũ, tạo ra cái mới khi chưa có đầy đủ điều kiện
chín muồi.
Năm
là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, gây cản
trở sự phát triển, cứ khăng khăng giữ lại cái cũ, không chịu tạo ra cái mới
khi đã hội đủ điều kiện chín muồi
VẬN DỤNG
Trong việc học, khi tiếp cận với những kiến thức mới tôi không chỉ bó hẹp
bản thân học từ tài liệu mà tôi còn tìm đọc thêm những nguồn tài liệu uy tín từ
bên ngoài, lắng nghe lời giảng của thầy cô cũng như liên hệ nó với những kiến
thức cũ nhằm mở rộng vốn hiểu biết và không ngừng làm mới kiến thức của
mình. Nhờ đó, i nắm chắc được vấn đề và vận dụng một cách đúng đắn, sáng
tạo trong các bài làm của mình.
Dù chỉ mới là sinh viên năm Nhất nhưng tôi đã có ý thức vạch ra định hướng
cho tương lai của mình. Trước khi chọn lựa ngành học, tôi tự mình tìm hiểu để
nắm chương trình học, những điều cần thiết khi theo ngành học đó cũng phải
thấy khuynh hướng phát triển của chuyên ngành theo học trong tương lai, tìm
hiểu về các yêu cầu của hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu.
hội hiện tại và tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân, học thêm
các kỹ năng như thiết kế, trang tính… để từ đó nổi bật hơn trong mắt nhà tuyển
dụng và có thể tìm được một công việc ổn định.
Vì muốn có một cơ thể săn chắc khỏe mạnh nên tôi đã tìm đến việc tập luyện
thể dục thể thao. Lúc đầu, vì là người mới nên tôi chỉ tập những bài tập với cường
độ nhẹ để cơ thể có thể quen dần với việc tập luyện. Khi cảm nhận được cơ thể đã
bắt nhịp được với chuyện luyện tập thì tôi bắt đầu thực hiện những bài tập chuyên
sâu vào riêng từng bộ phận trên cơ thể với mức độ phức tạp cao hơn. Cùng với đó
tôi cũng tuân theo một chế độ ăn uống lành mạnh, hạn chế tinh bột, dầu mỡ cũng
như các đồ uống có cồn, bổ sung đạm và protein để thúc đẩy hiệu quả tập luyện.
Nhờ việc chia ra thành từng giai đoạn tập luyện thể tôi hiện nay đã hoàn
toàn thích nghi với cường đluyện tập đồng thời trở nên rắn rỏi săn chắc
khỏe mạnh hơn.
Khi bước vào Đại học tôi nhận ra mỗi môn học chỉ có thời lượng một số tiết
nhất định và lượng kiến thức trong mỗi tiết học vô cùng lớn, khác hoàn toàn với
các lớp phổ thông. Chính điều này đã đặt ra vấn đề cấp thiết cho tôi trong việc
thay đổi phương pháp học, không học theo những giáo viên yêu cầu, chỉ học
theo sách giáo khoa như đã làm trong những năm phổ thông. Môi trường đại học
đòi hỏi tôi cần phải đọc và hiểu bài trước khi đến lớp, đánh dấu

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN GIỮA KỲ
1 .Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Khái niệm vật chất
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
Nhưng theo V.I. Lênin định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Khái niệm ý thức
Ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất sống có tổ chức
cao, đó là bộ não người, phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người,
có sự cải biên và sáng tạo. Ý thức còn là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, mang bản chất xã hội.
2 .Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng vật chất có trước ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người.
- Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thứ :
c Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với
ý thức nên vật chất là cái có trước. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào
trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau. Phải có sự vận động của vật chất trong
tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và
ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thứ :
c Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là
phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan trong đầu óc con người. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động
lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
+ Vật chất quyết định bản chất của ý thứ :
c Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực,
sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con
người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
+ Vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thứ :c Mọi sự tồn tại, phát
triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức
cũng phải thay đổi theo. Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày
càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội
dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Người xưa có câu “Phú quý sinh lễ nghĩa” để nói khi con người trở nên giàu
có, sang trọng thì cuộc sống sẽ phát sinh những phép tắc, lễ nghĩa mới. Nói cách khác,
khi vật chất đầy đủ, sung túc thì con người chú trọng đến văn hóa, tinh thần và nhiều
nghi thức, lễ nghĩa được đưa ra làm cho cuộc sống phong phú hơn. Đây cũng là điển
hình cho quan điểm vật chất quyết định ý thức.
Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì “ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất”:
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh
vật chất phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể
biến đổi được hiện thực.
- Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật
khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực
hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi
thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn.
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật
chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan của vật chất.
Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định
hành động của con người, hoạt động thực tế của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại…
* Ví dụ : Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 1000 độ C,
người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải
bằng phương pháp thủ công cổ xưa.
3 .Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất , vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên
tắc tính khách quan; trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai , vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính
năng động chủ quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba , cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí do tuyệt đối hóa, thổi phồng tính
tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ tư , cần phải chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ do hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ năm , khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn
nhân tố tinh thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. A. VẬN DỤNG
Là một thành niên ở độ tuổi 18, tôi nhận thức được trách nhiệm của mình trong
việc thượng tôn pháp luật do Đảng và Nhà nước đề ra. Tôi đã tuân thủ các quy định
của pháp luật như chỉ lái xe khi đủ độ tuổi quy định, thi bằng lái xe, không tham gia
vào các tệ nạn xã hội và tích cực lên án những hành vi, việc làm trái pháp luật. Nhờ
đó, tôi đã đóng góp một phần vào việc giữ gìn và củng cố trật tự an toàn xã hội.
Vì đặc trưng nghề nghiệp liên quan mật thiết đến việc giảng dạy nên để có thể nâng
cao kiến thức chuyên môn, sự tự tin khi nói chuyện trước đám đông và kinh nghiệm
mà tôi đã tham gia các chương trình do Hội sinh viên Việt Nam tổ chức, quan tâm đến
sắp xếp việc làm cho thanh niên và tham gia các nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, tôi
cũng phát triển bản thân để thích nghi và đáp ứng theo nhu cầu thị trường, dựa trên nền
tảng sẵn có bằng cách phát huy những cái còn phù hợp và sửa đổi những cái không còn
phù hợp. Từ đó, tôi tìm được những cơ hội việc làm tiềm năng cũng như đóng góp
được những điều mình đã được học vào công cuộc đổi mới nền giáo dục đất nước.
Khi Intenet đang ngày càng trở nên phổ biến, rất nhiều đối tượng đã lợi dụng điều đó
để đăng những thông tin sai sự thật, xuyên tạc chống phá nhà nước. Khi tiếp cận thông
tin trên các nền tảng mạng xã hội, tôi luôn cân nhắc kỹ về mặt nội dung xem có đúng
và phù hợp với những điều tôi đã biết trước đó không và cũng như có đi ngược lại với
thể chế Nhà nước, quy định pháp luật hiện hành hay không. Mặt khác, khi gặp những
bài viết mang nội dung tiêu cực tôi sẽ báo cáo và nhắc nhở người xung quanh tránh xa
những luận điệu xuyên tạc. Vì đó, tôi đã giữ vững được tư tưởng và đóng góp vào việc
bảo vệ an ninh Tổ quốc. 2. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Quan điểm siêu hình về mối liên hệ
(kịp thời gian mới ghi không thì ghi biện chứng thôi)
Quan điểm siêu hình xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời nhau, cô
lập nhau, giữa chúng không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu có chỉ là
những mối liên hệ giản đơn, hời hợt ở bên ngoài. Quan điểm siêu hình chỉ thấy bộ phận
mà không thấy toàn thể, “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.
2. Quan điểm biện chứng về mối liên hệ
Khái niệm mối liên hệ:
Theo quan điểm duy vật biện chứng, khái niệm mối liên hệ bao gồm 2 phương diện sau:
Một là, mối liên hệ là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, điều này
quyết định sự tồn tại của sự vật, hiện tượng.
Hai là, mối liên hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau, điều này quyết định sự phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Vậy là, mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy
định lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố cấu thành
nên sự vật, hiện tượng, giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; giữa sự vật, hiện
tượng với môi trường mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ kéo
theo sự biến đổi của sự vật, hiện tượng khác.
VD: Trong thế giới động vật thì động vật hấp thụ khí O2 và nhả khí CO2, trong
khi đó quá trình quang hợp của thực vật lại hấp thụ khí CO2 và nhả ra khí O2.
Tính chất của mối liên hệ
Mối liên hệ có tính khách quan, phở biến và đa dạng, phong phú. Các tính chất
đó của mối liên hệ phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
Thứ nhất , tính khách quan
Tính khách quan của mối liên hệ xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế
giới. Theo đó các sự vật hiện tượng trong thế giới dù đa dạng, muôn hình muôn
vẻ như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau
của một thế giới vật chất duy nhát. Ngay cả ý thức của con người cũng chỉ là
thuộc của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người và nội dung của ý
thức cũng chỉ là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con người.
Mối liên hệ là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do
sự áp đặt từ bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay
không muốn thì bản thân các sự vật, hiện tượng hay các mặt, bộ phận trong một
sự vật, hiện tượng luôn chứa đựng các mối liên hệ. VD:
Trong buôn bán hàng hóa dịch vụ thì giữa cung và cầu có mối liên hệ với nhau.
Cụ thể giữa cung và cầu trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình tác động qua
lại. Cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau,
chuyển hóa lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng
của cả cung và cầu. Đó cũng chính là những nội dung cơ bản khi phân tích về mối
quan hệ biện chứng giữa cung và cầu.
Mối liên hệ ràng buộc và tương tác giữa các vật thể : lực hút và lực
Mối liên hệ ràng buộc và tương tác giữa các vật thể : lực hút và lực Thứ
hai, tính phổ biến
Tính phổ biến của mối liên hệ xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới
vật chất. Mỗi sự vật, hiện tượng là một hệ thống cấu trúc nội tại. Không có sự vật,
hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập với các sự vật hiện tượng khác
cũng như không thể có yếu tố hay bộ phận nào tồn tại tách biệt với các yếu tố hay
bộ phận khác. Bản thân sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể thống nhất. Mối liên
hệ có trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn mọi quá trình; có cả trong tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
VD: Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi chất với
môi trường, nhờ đó mà nó tồn tại, phát triển. Đồng thời môi trường sống cũng là
một hệ thống được tạo thành từ nhiều yếu tố lớp, phân hệ trực tiếp và gián tiếp. 
Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi
Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng trao đổi
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú
Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình
muôn vẻ của thế giới vật chất. Trong thế giới có nhiều kiểu mối liên hệ, mà mỗi
kiểu mối liên hệ có đặc điểm riêng, có vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Song, thực chất của khoa học là nhận thức các mối liên hệ, vì thông qua các mối
liên hệ mà sự vật, hiện tượng mới bộc lộ các thuộc tính và thông qua các thuộc
tính ấy mới nắm bắt được bản chất của các sự vật hiện tượng.
Có mối liên hệ bên trong – mối liên hệ bên ngoài; có mối liên hệ cơ bản – mối
liên hệ không cơ bản; có mối liên hệ chủ yếu – mối liên hệ thứ yếu; có mối liên
hệ bản chất – mối liên hệ không bản chất; có mối liên hệ tất nhiên – mối liên hệ
ngẫu nhiên; có mối liên hệ trực tiếp – mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ diễn ra
rất phức tạp trong đời sống xã hội vạch ra đường đi cho mình theo những xu
hướng nhất định, đó là các quy luật xã hội. Hiện nay khoa học hiện đại đã chứng minh rằng:
- Phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các
yếu tố cấu thành quyết định. Chẳng hạn, cùng từ các nguyên tử cacbon
(C),nhưng theo những cách thức liên hệ khác nhau sẽ tạo thành than hoặc
kim cương; hoặc cùng từ công thức phân tử C2H6O, nhưng cách thức liên
hệ khác nhau sẽ tạo thành rượu ( CH3 – CH2 – OH ) hoặc ete ( CH3 – O
– CH3); hay trật tự liên hệ giữa các axit nucleic ( A – T, G- X) mà bị đảo
lộn sẽ gây ra hiện tượng đột biến gen.
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng do các sự tác động qua lại
giữa các yếu tố cấu thành quyế định, mà trước hết là do sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa các măt đối lập. Chẳng hạn, sự tác động qua lại giữa giai
cấp công nhân với giai cấp tư san là động lực phát triển của xã hội
tư bản chủ nghĩa; hay sự tác động qua lại giữa cung với cầu, giữa tích
lũy với tiêu dùng là động lực phát triển của nền sản xuất xã hội
Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải
tuân theo quan điểm toan diện và quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Một là, khi xem xét sự vật hiện tượng cần phải xem xét tất cả các mặt, các mối
liên hệ kể cả những mắc khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định.
Hai là, trong vô vàn các mối liên hệ, trước hết cần rút ra những mối liên hệ cơ
bản, chủ yếu, tức là xem xét một cách có trọng tâm, trọng điểm, nhờ đó nắm bắt
được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Ba là, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng thì cần phải đối
chiếu với các mối liên hệ còn lại để tránh sai lầm trong nhận thức.
Bốn là, chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều (chỉ thấy một
mặt mà không thấy nhiều mặt, chỉ thấy một mối liên hệ mà không thấy các mối liên hệ khác).
Năm là, chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải (coi mọi mối liên hệ như
nhau) có nghĩa là chống lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
Sáu là, chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành chủ yếu, quy cái không
cơ bản thành cơ bản, bằng lý lẽ, lập luận tưởng rằng có lý nhưng thực chất là vô lý).
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu
Thứ nhất, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt chúng trong hoàn
cảnh lịch sử - cụ thể; trong điều kiện môi trường cụ thể; trong từng điều kiện
không gian, thời gian nhất định; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong
từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ tọa độ nhất định.
Thứ hai, cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống
khác nhau phải giải quyết trong thực tiễn.
Thứ ba, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai
đoạn cụ thể nhất định. VẬN DỤNG ĐỐI VỚI BẢN THÂN Quan điểm toàn diện:
Khi đọc tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, ở những dòng đầu tiên tôi
đã rất phản cảm và không thích nhân vật Chí Phèo bởi Chí mang hình tượng
hung tàn, vô học và chẳng ngần ngại làm điều gì chỉ để có rượu uống. Nhưng
khi hiểu về hoàn cảnh Chí được sinh ra cùng với một tuổi trẻ đầy lầm than và tủi
cực và cách mà Nam Cao để Chí Phèo có cái nhìn mới về cuộc đời sau khi nhận
được bát cháo hành từ Thị Nở thì tôi lại thấy cảm thương cho số phận của chính
nhân vật này. Nhờ việc xem xét nhân vật Chí Phèo trên nhiều mặt, nhiều khía
cạnh mà tôi nhận ra Chí Phèo là đại diện cho tiếng kêu đau khổ thoát ra từ một
xã hội lầm than, thối nát.
Khi học các tác phẩm Ngữ văn thuộc cùng một giai đoạn lịch sử thì tôi luôn đọc
kỹ tác phẩm và đặt chúng trong sự so sánh để tìm những điểm chung làm nên sự
nét đặc sắc của nền văn học giai đoạn đó.Nhờ vậy, tôi hiểu sâu sắc hơn, cụ thể hơn
về hoàn cảnh ra đời và diễn biến lịch sử đất nước thời kỳ đó để có thể đặt mình vào
vị trí của tác giả và cảm nhận rõ hơn thông điệp, ý nghĩa mà tác phẩm muốn mang
đến đồng thời làm giàu thêm vốn kiến thức của bản thân.
Khi tôi giải được một bài toán khó tôi không xem đó là vinh quang mà tự cao mà
luôn cố gắng tìm ra những góc nhìn mới, những cách giải thông minh và ngắn gọn
hơn để nhằm bồi dưỡng kỹ năng của bản thân và không ngừng phát triển chính mình.
Tôi từng ước mơ được đỗ vào trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, và
luôn cố gắng nổ lực cho mục tiêu đó đến nhưng đến cuối kì I, tôi nhận ra ngành
mình chọn lại không phù hợp với bản thân, ba mẹ khuyên nên
chọn một trường thích hợp với bản thân và cả gia đình. Nếu tôi cứ khăng khăng
với lựa chọn của mình thì có thể giai đoạn sau này sẽ rất khó khăn cả cho chính bản
thân mình và cho gia đình. Vậy nên tôi đã thay đổi nguyện vọng của mình, tôi chọn
một ngành mà tôi nghĩ mình có thể gắn bó lâu dài và phù hợp nhất với mình
Khi nhận ra việc làm sai của mình, tôi không cố gắng ngụy biện rằng mình đúng
hay đưa ra lý lẽ nhằm chối bỏ việc làm của mình mà tôi thẳng thừng chấp nhận,
xem xét lại hành động của bản thân và cũng như chính mình để biết mình sai sót ở
đâu và cố gắng sửa đổi. Việc làm này giúp tôi nâng cao ý thức, nhìn nhận lại về bản
thân cũng như tránh được tật xấu không dám nhận lỗi.
Quan điểm lịch sử - cụ thể
Tôi đã lên kế hoạch về việc sau khi kết thúc kì thi THPT Quốc gia sẽ cho bản
thân thời gian để thư giãn và vui chơi sau những ngày học căng thẳng nhưng do chi
phí cho việc học đại học vô cùng đắt đỏ nên tôi đã quyết định tìm một công việc để
kiếm thêm thu nhập phụ giúp cho gia đình và chi tiêu cá nhân. Cũng nhờ vậy mà
tôi cũng đã có thêm được rất nhiều bài học quý báu, tôi biết giá trị của đồng tiền mà
ba mẹ đã dành để nuôi tôi ăn học, học cách chi tiêu tiết kiệm và cũng như có thêm nhiều kinh nghiệm sống.
Trong lúc làm vườn, tôi cũng có nhận thức khác nhau về sự đa dạng trong điều
kiện sinh trưởng của cây. Bởi các yếu tố như ánh sáng, độ ẩm sẽ khác nhau, vì vậy
việc chăm sóc cây cảnh trong nhà cũng sẽ cầu kỳ hơn so với các loại cây cho bóng
mát. Các loại cây cảnh như lưỡi hổ, trầu bà cần đặt ở nơi nhiều ánh sáng, bổ sung
dinh dưỡng cũng như tưới nước thường xuyên mới có thể phát triển tốt. Còn với
các loại cây như cây bàng, cây phượng thì chỉ cần một nền đất tốt và được tưới
nước đầy đủ thì có thể sinh trưởng khỏe mạnh. Nhờ nhận thức được sự khác nhau
trong việc chăm sóc cây nên tôi đã có thể tìm được loại cây phù hợp với nhu cầu và
thời gian của bản thân.
Mỗi bài toán đều có nhiều cách giải khác nhau, có những phương pháp giải cổ
điển, cũng có những phương pháp giải hiện đại mà áp dụng vào từng loại câu hỏi
khác nhau. Lúc trước khi còn thi tự luận, tôi sẽ tập trung vào các bước làm bài để
tránh sai sót không đáng có, bên cạnh đó tôi sẽ phải tìm cách trình bày thật mạch
lạc và rõ ràng để giám khảo chấm bài hài lòng mà cho điểm tuyệt đối. Còn hiện tại
đối với thi THPT Quốc gia ra đề trắc nghiệm 50 câu, mỗi câu tôi phải giải thật
nhanh để kịp giờ làm những câu khó phía sau, thay vì trình bày dài dòng và mất
thời gian thì tôi sẽ dùng phương pháp trắc nghiệm bấm máy, hoặc thử nghiệm cho
những câu giải phương trình cơ bản để hạn chế việc mất thời gian cho những việc
không quan trọng mà tập trung hết sức lực để giải các câu khó phía sau. Nhờ đó mà
tôi đã có thể vượt qua môn Toán với số điểm cao và trở thành sinh viên trường ĐHSP TPHCM.
Nguyên lý về sự phát triển:
Quan điểm siêu hình về sự phát triển:
Thứ nhất , quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển
Quan điểm siêu hình cho rằng thế giới được sinh ra một lần rồi mãi mãi cứ như vậy.
Thứ hai , nếu không có sự phát triển thì đó chỉ là sự thay đổi về lượng chứ không
có sự thay đổi về chất
Quan điểm siêu hình không thừa nhận bước nhảy vọt về chất; phát triển chỉ là
quá trình vận động tịnh tiến đi lên.
Thứ ba , sự phát triển diễn ra theo đường thẳng hoặc theo đường tròn khép kín.
Vì phát triển chỉ là quá trình vận động tịnh tiến đi lên nên phát triển diễn ra theo
đường thẳng, hoặc phát triển là một chu kỳ lặp lại hoàn toàn cái cũ.
Thứ tư , phát triển chẳng qua chỉ là sự vận động đi tới “cõi chết “mà thôi.
Đây là quan điểm của một lực lượng bi quan trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nó
cho rằng trong chủ nghĩa tư bản, kinh tế phát triển nhưng các vấn đề xã hội nan
giải không giải quyết được.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển Khái niệm phát triển
Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng
theo khuynh hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Như vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối
quan hệ mật thiết với nhau, vì nhờ có mối liên hệ thì mới có sự vận động, phát triển.
Ví dụ: Trí tuệ con người phát triển không ngừng, từ chỗ người nguyên thủy chỉ
chế tạo được các công cụ bằng đá, đến nay đã chế tạo được máy móc tinh vi.
Tính chất của sự phát triển:
Sự phát triển có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các tính
chất đó của sự phát triển phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất
Thứ nhất , tính khách quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật hiện tượng, không
phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không thì bản thân sự vật,
hiện tượng luôn luôn nằm trong quá trình phát triển.
VD: Cây xương rồng khi có đủ điều kiện sống thích hợp thì dù không có bàn tay
con người thì nó vẫn phát triển.
Thứ hai , tính phổ biến.
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái
mới tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan. VD:
+ Trong xã hội: Sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tổ chức xã hội loài
người: Từ hình thức tổ chức xã hội Thị tộc, bộ lạc sơ khai đến những tổ chức xã
hội cao hơn là hình thức tổ chức xã hội như Bộ tộc và hiện tại là dân tộc.
+ Trong cuộc sống: Quá trình phát triển của công nghệ thông tin, ngày càng có
nhiều loại công nghệ hiện đại ra đời thay thế cho những công nghệ đã dần lạc
hậu: chẳng hạn như điện thoại thông minh nhiều đời ra đời thay thế cho loại điện
thoại có bàn phím ngày trước hay còn biết đến với tên gọi là "cục gạch"
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú
- Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau ở các sự vật, hiện tượng khác
nhau, trong những điều kiện không gian và thời gian khác nhau, trong
những lĩnh vực hiện thực khác nhau. Chẳng hạn:
Trong giới tự nhiên, sự phát triển thể hiện ở mức độ hoàn thiện của tổ chức
vật chất, ở sự xuất hiện của những giống loài mới ngày càng phức tạp hơn…
Trong lĩnh vực xã hội, sự phát triển thể hiện ở trình độ của nền sản xuất xã
hội; ở khả năng chinh phục giới tự nhiên của con người; ở quá trình nhân
đạo hóa đời sống xã hội loài người và hoàn thiện bản chất con người…
Trong tư duy, sự phát triển thể hiện ở trình độ nhận thức của con người, ở
trình độ tư duy lô gic; ở khả năng khai quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa…
- Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng.
Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, có thể trải qua những khâu
trung gian, thậm chí có bước thụ lùi tạm thời, nhưng chính sự thụt lùi ấy lại
đóng vai trò là tiền đề, điều kiện để một vận động đi lên.
- Quan điểm biện chứng về sự phát triển còn chỉ ra rằng:
Cách thức cua sự phát triển là từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất và ngược lại.
Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn nội tại của bản thân các
sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Khuynh hướng của sự phát triển là phủ định của phủ định, sau mỗi chu kỳ
phủ định của phủ định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sơ cao hơn.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải
tuân theo quan điểm phát triển và quan điểm lịch sự cụ thể.
Quan điểm phát triển yêu cầu:
Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần đặt nó trong trạng thái vận
động, biến đổi không ngừng.
Hai là, cần vạch ra cái tương lai trong cái hiện tại, phát hiện ra những
nhân tố mới tiến bộ đang tiềm ẩn trong cái cũ, chỉ rõ tính chất đứng im
tương đối, tạm thời của cái cũ; vạch ra xu hướng phát triển của cái mới và
tạo mọi điều kiện cho cái mới tiến được được ra đơi. Cái mới lúc đầu được
ra đời có thể còn non yếu, mỏng manh nhưng nhất định sẽ trở nên vững
chắc; còn cái cũ cho dù có bền vững đến mấy thì nhất định cũng sẽ bị phá
vỡ và được thay thế bằng cái mới tiến bộ hơn.
Ba là, cần phân chia quá trình phát triển thành các giai đoạn, nghiên cứu
để vạch ra các đặc điểm, nội dung của từng giai đoạn. Từ đó đề ra các giải
pháp hoặc biện pháp tác động một cách phù hợp nhằm thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của sự vật, hiện tượng tùy theo sự phát triển đó có lợi hay
có hại cho đời sống con người và xã hội.
Bốn là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm chủ quan, nóng vội, duy
ý chí, vội vàng xóa bỏ cái cũ, tạo ra cái mới khi chưa có đầy đủ điều kiện chín muồi.
Năm là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, gây cản
trở sự phát triển, cứ khăng khăng giữ lại cái cũ, không chịu tạo ra cái mới
khi đã hội đủ điều kiện chín muồi VẬN DỤNG
Trong việc học, khi tiếp cận với những kiến thức mới tôi không chỉ bó hẹp
bản thân học từ tài liệu mà tôi còn tìm đọc thêm những nguồn tài liệu uy tín từ
bên ngoài, lắng nghe lời giảng của thầy cô cũng như liên hệ nó với những kiến
thức cũ nhằm mở rộng vốn hiểu biết và không ngừng làm mới kiến thức của
mình. Nhờ đó, tôi nắm chắc được vấn đề và vận dụng một cách đúng đắn, sáng
tạo trong các bài làm của mình.
Dù chỉ mới là sinh viên năm Nhất nhưng tôi đã có ý thức vạch ra định hướng
cho tương lai của mình. Trước khi chọn lựa ngành học, tôi tự mình tìm hiểu để
nắm rõ chương trình học, những điều cần thiết khi theo ngành học đó và cũng phải
thấy rõ khuynh hướng phát triển của chuyên ngành theo học trong tương lai, tìm
hiểu về các yêu cầu của xã hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu.
Xã hội hiện tại và tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân, học thêm
các kỹ năng như thiết kế, trang tính… để từ đó nổi bật hơn trong mắt nhà tuyển
dụng và có thể tìm được một công việc ổn định.
Vì muốn có một cơ thể săn chắc khỏe mạnh nên tôi đã tìm đến việc tập luyện
thể dục thể thao. Lúc đầu, vì là người mới nên tôi chỉ tập những bài tập với cường
độ nhẹ để cơ thể có thể quen dần với việc tập luyện. Khi cảm nhận được cơ thể đã
bắt nhịp được với chuyện luyện tập thì tôi bắt đầu thực hiện những bài tập chuyên
sâu vào riêng từng bộ phận trên cơ thể với mức độ phức tạp cao hơn. Cùng với đó
tôi cũng tuân theo một chế độ ăn uống lành mạnh, hạn chế tinh bột, dầu mỡ cũng
như các đồ uống có cồn, bổ sung đạm và protein để thúc đẩy hiệu quả tập luyện.
Nhờ việc chia ra thành từng giai đoạn tập luyện mà cơ thể tôi hiện nay đã hoàn
toàn thích nghi với cường độ luyện tập và đồng thời trở nên rắn rỏi săn chắc và khỏe mạnh hơn.
Khi bước vào Đại học tôi nhận ra mỗi môn học chỉ có thời lượng một số tiết
nhất định và lượng kiến thức trong mỗi tiết học là vô cùng lớn, khác hoàn toàn với
các lớp phổ thông. Chính điều này đã đặt ra vấn đề cấp thiết cho tôi trong việc
thay đổi phương pháp học, không học theo những gì giáo viên yêu cầu, chỉ học
theo sách giáo khoa như đã làm trong những năm phổ thông. Môi trường đại học
đòi hỏi tôi cần phải đọc và hiểu bài trước khi đến lớp, đánh dấu