Đề cương Kinh tế chính trị | Trường Đại học CNTT Thành Phố Hồ Chí Minh

Đề cương Kinh tế chính trị | Trường Đại học CNTT Thành Phố Hồ Chí Minh được được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
Câu 1: Hàng hóa gì? Phân tích 2 thuộc tính bản của hàng hóa mối quan hệ giữa
nó? Tại sao hàng hóa lại có những thuộc tính đó?
Lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa đã đang trải qua 2 hình thức tổ chức kinh tế, đó
nền sản xuất tự cấp tự túc và nền sản xuất hàng hóa. Trong nền sản xuất hàng hóa tồn tại một
phạm trù lịch sử đó là hàng hóa.
Khái niệm: Hàng hóa sản phẩm lao động thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
trong trao đổi, lưu thông hàng hóa.
Hàng hóa tồn tại hai dạng chủ yếu. Dạng hữu hình như sắt, thép, lương thực, thực phẩm...Và
dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, y, bác sĩ….
Thuộc tính cơ bản của hàng hóa:
Giá trị sử dụng của hàng hóa:
Khái niệm công dụng của hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Bất cứ hàng
hóa nào cũng một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó cho hàng hóa
giá trị sử dụng. công dụng của gạo là để ăn, cho nên giá trị sử dụng của gạo là để ăn...Ví dụ:
Đặc trưng:
Giá trị sử dụng của hàng hóado những thuộc tính tự nhiên (vật lí, hóa học) của thực thể hàng
hóa quyết định, do đó, giá trị sử dụng một thuộc tính tự nhiênphạm trù vĩnh viễn. dụ:
của nước là một chất lỏng, không màu, không mùi, không vị do vậy nó có thể dùng trong cả sinh
hoạt, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp.
Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ
thuật của lực lượng sản xuất vậy khi hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng ngày càng
phong phú, chất lượng ngày càng cao. than đá, dầu mỏ lúc đầu làm chất đốt sau đó dùngVí dụ:
làm nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp để chế biến ra nhiều loại sản phẩm: như dược
phẩm...
Giá trị sử dụng của hàng hóa giá trị sử dụng cho hội, cho người mua chứ không phải cho
người sản xuất trực tiếp ra nó. Giá trị sử dụng của hàng hóa đến tay người mua thông qua trao
1
đổi mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn quan tâm đến nhu cầu hội,
làm cho sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của xã hội thì hàng hóa của họ mới bán được.
Trong nền sản xuất hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi, người ta không trao đổi
những vật phẩm không có giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hóa:
Để hiểu được giá trị của hàng hóa ta cần đi từ giá trị trao đổi:
Giá trị trao đổi một quan hệ về số lượng, tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được
trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc. Tức là 1m vải có giá trị bằng 5kg thóc.
Tại sao vải và thóc được trao đổi với nhau và hơn nữa lại trao đổi theo một tỷ lệ nhất định ( )?
Vì giữa chúng có một cơ sở chung, cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, vì giá trị sử dụng
của vải để mặc, thóc để ăn. cái chung đó cả vải thóc đều sản phẩm của lao
động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờcơ sở chung đó màcác loại hàng hóa có thể
trao đổi được với nhau. Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa sở chung của việc trao
đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hóa.
Khái niệm: Giá trị hàng hóa lao động XH của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng
hóa.
Giá trị hàng hóa chúng ta đề cập trên chỉ hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị,
còn giá trị nội dung, sở của giá trị trao đổi. Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hóa, khi nào còn sản xuất trao đổi hàng hóa thì những người sản xuất
còn quan tâm đến giá trị. Vì vậy giá trị là một phạm trù lịch sử.
Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa.
Hai thuộc tính của hàng hóa quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với
nhau.
Mặt thống nhất biểu hiện ở chỗ: Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa.
Nếu một vật giá trị sử dụng (tức thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, của XH),
nhưng không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao động) như không khí
tự nhiên sẽ không phải là hàng hóa. Ngược lại một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh) nhưng
không giá trị sử dụng (tức không thể thỏa mãn nhu cầu nào của con người, hội) cũng
không trở thành hàng hóa.
2
Mặt mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất: Với cách giá trị sử dụng thì các hàng hóa khác nhau về chất (sắt thép, lúa
gạo,...) Nhưng ngược lại với cách giá trị thì chúng lại đồng nhất về chất, đều do kết tinh
của lao động.
Thứ hai: Quá trình thực hiện giá trị giá trị sử dụng sự tách biệt về cả không gian thời
gian: Giá trị thì thực hiện trước, trong lĩnh vực lưu thông. Giá trị sử dụng thực hiện sau, trong
lĩnh vực tiêu dùng.
Người sản xuất quan tâm đến giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc họ cũng phải
chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm đến giá trị sử dụng để thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn giá trị s dụng họ phải trả giá trị cho người sản
xuất ra nó. Như vậy trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không
thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng cũng chính
là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất hàng hóa.
Tại sao hàng hóa lại có 2 thuộc tính đó:
Hàng hóa có 2 thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong nó mà là
lao động của sản xuất hàng hóa có tính hai mặt: vừa mang tính cụ thể (LĐ cụ thể) vừa mang tính
trừu tượng (LĐ trừu tượng). C.Mác là người đã phát hiện ra tính hai mặt đó.
Lao động cụ thể lao động ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên
môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể mục đích, phương pháp, công cụ lao động, kết quả lao
động riêng. Những cái riêng đó sở để phân biệt các loại hàng hóa khác nhau. dụ lao
động của người thợ may, thợ mộc những loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra giá trị sử
dụng khác nhau của hàng hóa. LĐ cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Lao động trừu tượng sự tiêu hao sức lao động (sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất
hàng hóa nói chung. Các hình thức lao động cụ thể rất nhiều, rất khác nhau nhưng một cái
chung stiêu hao sức lực của con người bao gồm cả thể lực trí lực. Lao động trừu tượng
tạo ra giá trị của hàng hóa. Vậy thể nói giá trị của hàng hóalao động trừu tượng của người
sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Câu 2: Phân tích nội dung, yêu cầu tác động của quy luật giá trị trong sản xuất hàng
hóa. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật này?
3
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu có sản xuất
và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
Nội dung: Sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Yêu cầu:
Trong sản xuất: Trong nền sản xuất hàng hóa, nhà sản xuất có điều kiện sản xuất khác nhau do
vậy mà hao phí lao động cá biệt cũng rất khác nhau nhưng khi trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào
hao phí lao động hội. Do vậy muốn bán được hàng hóa, đắp được chi phí sản xuất
lãi đòi hỏi nhà sản xuất phải hạ được chi phí cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng chi phí xã hội.
Trong trao đổi: Phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị hàng hóa làm cơ sở, không
dựa trên giá trị biệt. Nếun cao hơn giá trị thìng hóa không bán được, không thu hồi
được vốn. Ngược lại nếu bán thấp hơn giá trị thì sẽ bị thua lỗ dẫn đến phá sản.
Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị.
Những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân thủ mệnh lệnh của giá cả thị trường.
Tác động của quy luật giá trị:
Thứ nhất là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Trong sản xuất, điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:
Nếu như một mặt hàng nào đó giá cả cao n giá trị, hàng hóa bán chạy lãi cao, những
người sản xuất sẽ mở rộng quy sản xuất. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác
cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành
này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.
Nếu như một mặt hàng nào đó giá cthấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người
sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm
cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất thể tiếp tục sản xuất mặt
hàng này.
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào
các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Ví dụ: công ty cổ phần bột giặt Lix chủ yếu sản xuất bột giặt, nước rửa chén, sau đó để đáp ứng
nhu cầu xã hội ngày càng cao trong thời kì dịch Covid 19 đã cho ra mắt gel rửa tay khô On1.
4
Trong lưu thông, Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện chỗ
thu hút hàng hóa từ nơi giá cả thấp hơn đến nơi giá cả cao hơn, do đó, góp phần làm
cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lí hóa SX, tăng năng suất lao động.
Để có giá trị cá biệt hàng hóa nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Đòi hỏi người SX không ngừng
cải tiến thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới phương pháp quản lí, thực hiện tiết
kiệm...nhằm tăng năng suất lao động và giảm chi phí sản xuất.
Trong sự cạnh tranh quyết liệt trên, nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì sẽ dẫn đến
toàn bộ năng suất lao động xã hội sẽ tăng lên, chi phí sản xuất sẽ giảm xuống.
Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành những người giàu nghèo một cách tự
nhiên.
Trong cạnh tranh, người sản xuất nào nhạy bén với thị trường, hao phí biệt thấp hơn mức
hao phí chung của hội sẽ thu nhập cao, trở nên giàu có. Ngược lại nếu giá trị biệt cao
hơn giá trị XH, dẫn đến thua lỗ, phá sản và trở thành người nghèo.
Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật này: Quy luật giá trị vừa có những giá trị tích
cực và tiêu cực đối với người sản xuất.
Quy luật giá trị làm phân hóa những người sản xuất hàng hóa, đây s lựa chọn tự nhiên,
đào thải những yếu kém, kích thích những nhân tố tích cực. Nếu xét ở góc độ này nó là động lực
để thúc đẩy phát triển sản xuất, nhanh chóng chuyển nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn
hiện đại, cơ cấu kinh tế hiện đại, linh hoạt.
Nếu xét góc độ hội, sự phân hóa giàu nghèo của sản xuất hàng hóa tác động tiêu cực.
Bên cạnh đó, QLGT cũng dẫn đến khai thác cạn kiệt, quá mức các tài nguyên, ô nhiễm môi
trường. Do đó, nhà nước cần những biện pháp để phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của nó.
Riêng đối Việt Nam, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN thì điều này còn có ý nghĩa quan trọng hơn cả.
Câu 3: Phân tích hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư? sao nói giá trị thặng
siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối?
5
Mục đích của các nhà bản sản xuất ra giá trị thặng tối đa. Để thực hiện được điều này,
tùy vào hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - kỹ thuật khác nhau, nhà bản sẽ chọn cho mình các
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư khác nhau. Trên thực tế có các phương pháp sau:
- Giá trị thặng dư tuyệt đối:
Khái niệm: là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất
yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động thời gian lao động tất yếu không thay
đổi.
Thí dụ: ngày lao động 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4
giờ, thì tỷ suất thặng là 100%. Nếu kéo dài lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn
như cũ, thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 150%.
Nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động của công nhân. Tuy nhiên nó không thể vượt
quá giới hạn sinh lí của công nhân vì họ còn có các nhu cầu cơ bản là ăn, uống, ngủ nghỉ, giải trí
để phục hồi sức khỏe,... Nếu ngược lại, họ sẽ gặp phải sự phản kháng gay gắt của giai cấp công
nhân đòi giảm giờ làm. Trong lịch sử cũng đã chỉ ra nhiều cuộc bãi công, đấu tranh liên quan
đến vấn đề này với các khẩu hiệu như “tăng lương, giảm giờ làm” và thành quả đó chính là sự ra
đời của ngày Quốc tế lao động 1.5.
Ngoài ra, khi không thể kéo dài thêm thời gian lao động thì họ tìm cách tăng cường độ lao động
của công nhân. Nhưng về thực chất, nó cũng như việc kéo dài ngày lao động.
Phương pháp này được ứng dụng trong giai đoạn đầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi trình độ
sản xuất còn thấp, máy móc còn lạc hậu.
Giá trị thặng dư tương đối:
Khái niệm: giá trị thặng thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng
cao năng suất lao động trong ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt, để hạ thấp giá giá trị sức lao động,
nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng khi độ dài ngày lao động không thay đổi hoặc thậm
chí rút ngắn.
Thí dụ, ngày lao động 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng dư, tỷ suất giá trị
thặng dư là 100%, nếu giá trị sức lao động giảm khiến thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 2
giờ thì thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 300%.
6
Để hạ giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các liệu sinh hoạt dịch vụ cần thiết để tái
sản xuất lao động, tức tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra liệu sinh hoạt
các ngành sản xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó.
Phương pháp này được ứng dụng khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công
nghiệp cơ khí, kỹ thuật tiến bộ làm cho năng suất tăng lên nhanh chóng thì phương pháp chủ yếu
để tăng giá trị thặng dư là tăng năng suất lao động xã hội.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Hiểu được phương thức bóc lột sức lao động của các nhà tư bản, giúp nhìn nhậnbản chất của
CNTB để công nhân đấu tranh đòi các quyền của mình.
Giúp các nhà bản sở để phương pháp SX phù hợp, mang lại giá trị thặng cao
nhất, đặc biệt là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Nói giá trị thặng siêu ngạchhình thái biến tướng của giá trị thặng tương đối. Bởi
vì:
Gía trị thặng siêu ngạch phần giá trị thặng thu được do áp dụng công nghệ mới sớm
hơn các nghiệp khác làm cho giá trị biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng
dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.
Là hiện tượng tạm thời trong từng xí nghiệp nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xuyên
tồn tại. động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà bản đổi mới công nghệ để tăng năng
suấtbiệt đánh bại đối thủ cạnh tranh. Chính thế C. Mác gọi giá trị thặng siêu ngạch
hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Câu 4: Trình bày tuần hoàn chu chuyển của bản? Phân tích căn cứ ý nghĩa phân
chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động?
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và lưu thông. Lưu
thông của bản, theo nghĩa rộng sự vận động của bản, nhừ đó bản lớn lên thu
được giá trị thặng dư, cũng tức là sự tuần hoàn và chu chuyển tư bản.
Tuần hoàn của tư bản:
7
Khái niệm: Tuần hoàn bản s vận động của bản lần lượt trải qua 3 giai đoạn, lần lượt
mang về 3 hình thức rồi quay trở về hình thức ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn
còn tăng thêm.
Công thức chung của tuần hoàn tư bản là:
SLĐ
T – H < … SX … H’ – T’
TLSX
Giai đoạn thứ nhất giai đoạn lưu thông, bản xuất hiện trên thị trường với cách một
người mua. bản tồn tại dưới hình thức bản tiền tệ, chức năng mua các yếu tố sản xuất
nhưliệu sản xuất sức lao động để chuẩn bị cho quá trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này
tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
Giai đoạn thứ hai giai đoạn sản xuất, bản tồn tại dưới hình thức bản sản xuất, thực hiện
chứcng kết hợp các yếu tố liệu sản xuất sức lao động để sản xuất hàng hóa. Kết thúc
giai đoạn này bản sản xuất biến thành bản hàng hóa. Đây giai đoạn ý nghĩa quyết
định nhất vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Giai đoạn thứ ba, giai đoạn lưu thông, bản tồn tại dưới hình thức bản hàng hóa, chức
năng là thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra trong đó đã bao hàm một lượng
giá trị thặng dư. Kết thúc giai đoạn này tư bản hàng hóa biến thành tư bản tiền tệ. Giai đoạn này
bản xuất hiện trên thị trường với cách một người bán. Đến đây, bản quay trở lại với
hình thái ban đầu nhưng trong tay chủ của nó với số lượng lớn hơn trước.
Tóm lại, tuần hoàn của bản vận động tính tuần hoàn, trải qua 3 giai đoạn liên tục, lần lượt
mang 3 hình thái khác nhau, thực hiện 3 chức năng khác nhau rồi quay trở về hình thái ban đầu
kèm theo giá trị thặng dư.
Chu chuyển của tư bản
Khái niệm: Sự tuần hoàn tư bản, nếu xét với tư cách là một quá trình định kỳ đổi mới và thường
xuyên lặp đi lặp lại thì gọi đó là chu chuyển tư bản.
Thời gian chu chuyển tư bản
8
Khái niệm: khoảng thời gian một bản kể từ khi được ứng ra dưới một hình thái nhất
định cho đến khi quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển
tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
Thời gian sản xuất thời gian bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản xuất bao
gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động, thời gian dự trữ sản xuất.
(Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của các nhân tố như:
Tính chất của ngành sản xuất, dụ ngành đóng tàu thời gian sản xuất thường dài hơn
ngành dệt vải hay dệt thảm trơn thời gian thường ngắn hơn dệt thảm trang trí hoa văn....
Quy hoặc chất lượng các sản phẩm dụ như xây dựng một nghiệp, công xưởng
mất thời gian dài hơn xây dựng một nhà ở thông thường.
Thời gian vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn.
Năng suất lao động.
Dự trữ sản xuất.)
Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông,
tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hóa, cũng không sản xuất ra
giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông gồm thời gian mua thời gian bán hàng hóa. (Thời
gian lưu thông dài hay ngắn là do các nhân tố sau quy định:
Thị trường xa hay gần
Tình hình thị trường xấu hay tốt
Trình độ phát triển của ngành giao thông vận tải, bưu chín viễn thông...)
Như vậy, thời gian chu chuyển của bản càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng
được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.
Tốc độ chu chuyển tư bản
Khái niệm: số lần một bản được ứng ra dưới một hình thái nhất định quay trở về dưới
hình thái đó cùng với giá trị thặng tính trong một đơn vị thời gian nhất định. Tốc độ chu
chuyển tư bản được tính bằng công thức:
n = CH/ch.
Trong đó: n số vòng chu chuyển của bản, CH thời gian trong một năm, ch thời gian
của một vòng chu chuyển của tư bản.
9
dụ: Một bản thời gian 1 vòng chu chuyển 4 tháng thì tốc độ chu chuyển trong năm
là: n = 12 tháng / 4 tháng = 3 vòng.
Như vậy, tốc độ chu chuyển của bản tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của bản. Muốn
tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và lưu thông của nó.
Căn cứ để phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động:
Các bộ phận khác nhau của bản sản xuất không chu chuyển giống nhau. Căn cứ vào phương
thức chu chuyển khác nhau của từng bộ phận bản, người ta chia bản sản xuất thành tư bản
cố định và tư bản lưu động.
bản cố định bộ phận bản sản xuất tồn tại dưới hình thái liệu lao động tham gia toàn
bộ vào quá trình sản xuất như máy móc, thiết bị, nhà xưởng,...nhưng giá trị của chỉ chuyển
dần dần, từng phần vào giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn.
bản lưu động bộ phận bản sản xuất tồn tại dưới hình thái sức lao động, nguyên nhiên
vật liệu, vật liệu phụ, giá trị của nó được chuyển một lần, toàn phần vào giá trị sản phẩm khi kết
thúc từng quá trình sản xuất.
Ý nghĩa:
Tăng tốc độ chu chuyển của bản cố định một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao
tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh được thiệt hại hao mòn hữu hình do
tự nhiên phá hủy hao mòn hình gây ra. Nhờ đó, điều kiện đổi mới thiết bị nhanh,
nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.
bản lưu động chu chuyển nhanh hơn bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản
lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm
tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt
khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và
khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên.
Việc phân chia bản thành bản cố định bản lưu thông ý nghĩa quan trọng trong
quản kinh tế. sở để quản sử dụng vốn hiệu quả, đặc biệt với sự phát triển
khoa học công nghệ hiện nay đặt ra đòi hỏi bức xúc trong quản sản xuất kinh doanh sao cho
giảm tối đa hao mòn của vốn cố định.
10
| 1/23

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
Câu 1: Hàng hóa là gì? Phân tích 2 thuộc tính cơ bản của hàng hóa và mối quan hệ giữa
nó? Tại sao hàng hóa lại có những thuộc tính đó?
Lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa đã và đang trải qua 2 hình thức tổ chức kinh tế, đó
là nền sản xuất tự cấp tự túc và nền sản xuất hàng hóa. Trong nền sản xuất hàng hóa tồn tại một
phạm trù lịch sử đó là hàng hóa.
Khái niệm: Hàng hóa là sản phẩm lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
trong trao đổi, lưu thông hàng hóa.
Hàng hóa tồn tại ở hai dạng chủ yếu. Dạng hữu hình như sắt, thép, lương thực, thực phẩm...Và
dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, y, bác sĩ….
Thuộc tính cơ bản của hàng hóa:
Giá trị sử dụng của hàng hóa:
Khái niệm là công dụng của hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Bất cứ hàng
hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó là cho hàng hóa có
giá trị sử dụng. Ví dụ: công dụng của gạo là để ăn, cho nên giá trị sử dụng của gạo là để ăn... Đặc trưng:
Giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên (vật lí, hóa học) của thực thể hàng
hóa quyết định, do đó, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Ví dụ: thuộc tính tự nhiên
của nước là một chất lỏng, không màu, không mùi, không vị do vậy nó có thể dùng trong cả sinh
hoạt, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp.
Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ
thuật và của lực lượng sản xuất vì vậy khi xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng ngày càng
phong phú, chất lượng ngày càng cao. Ví dụ: than đá, dầu mỏ lúc đầu làm chất đốt sau đó dùng
làm nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp để chế biến ra nhiều loại sản phẩm: như dược phẩm...
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng cho xã hội, cho người mua chứ không phải cho
người sản xuất trực tiếp ra nó. Giá trị sử dụng của hàng hóa đến tay người mua thông qua trao 1
đổi mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn quan tâm đến nhu cầu xã hội,
làm cho sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của xã hội thì hàng hóa của họ mới bán được.
Trong nền sản xuất hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi, người ta không trao đổi
những vật phẩm không có giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hóa:
Để hiểu được giá trị của hàng hóa ta cần đi từ giá trị trao đổi:
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được
trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc. Tức là 1m vải có giá trị bằng 5kg thóc.
Tại sao vải và thóc được trao đổi với nhau và hơn nữa lại trao đổi theo một tỷ lệ nhất định ( )? ⅕
Vì giữa chúng có một cơ sở chung, cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, vì giá trị sử dụng
của vải là để mặc, thóc là để ăn. Mà cái chung đó là cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao
động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà mà các loại hàng hóa có thể
trao đổi được với nhau. Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của việc trao
đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hóa.
Khái niệm: Giá trị hàng hóa là lao động XH của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị hàng hóa mà chúng ta đề cập ở trên chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị,
còn giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hóa, khi nào còn sản xuất và trao đổi hàng hóa thì những người sản xuất
còn quan tâm đến giá trị. Vì vậy giá trị là một phạm trù lịch sử.
Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa.
Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Mặt thống nhất biểu hiện ở chỗ: Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa.
Nếu một vật có giá trị sử dụng (tức có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, của XH),
nhưng không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao động) như không khí
tự nhiên sẽ không phải là hàng hóa. Ngược lại một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh) nhưng
không có giá trị sử dụng (tức không thể thỏa mãn nhu cầu nào của con người, xã hội) cũng
không trở thành hàng hóa. 2
Mặt mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất: Với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa khác nhau về chất (sắt thép, lúa
gạo,...) Nhưng ngược lại với tư cách là giá trị thì chúng lại đồng nhất về chất, đều là do kết tinh của lao động.
Thứ hai: Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách biệt về cả không gian và thời
gian: Giá trị thì thực hiện trước, trong lĩnh vực lưu thông. Giá trị sử dụng thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.
Người sản xuất quan tâm đến giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc họ cũng phải
chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm đến giá trị sử dụng để thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản
xuất ra nó. Như vậy trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không
thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng cũng chính
là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất hàng hóa.
Tại sao hàng hóa lại có 2 thuộc tính đó:
Hàng hóa có 2 thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong nó mà là
lao động của sản xuất hàng hóa có tính hai mặt: vừa mang tính cụ thể (LĐ cụ thể) vừa mang tính
trừu tượng (LĐ trừu tượng). C.Mác là người đã phát hiện ra tính hai mặt đó.
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên
môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, kết quả lao
động riêng. Những cái riêng đó là cơ sở để phân biệt các loại hàng hóa khác nhau. Ví dụ lao
động của người thợ may, thợ mộc là những loại lao động cụ thể khác nhau nó tạo ra giá trị sử
dụng khác nhau của hàng hóa. LĐ cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Lao động trừu tượng là sự tiêu hao sức lao động (sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất
hàng hóa nói chung. Các hình thức lao động cụ thể rất nhiều, rất khác nhau nhưng có một cái
chung là sự tiêu hao sức lực của con người bao gồm cả thể lực và trí lực. Lao động trừu tượng
tạo ra giá trị của hàng hóa. Vậy có thể nói giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người
sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Câu 2: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị trong sản xuất hàng
hóa. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật này?
3
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu có sản xuất
và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
Nội dung: Sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Yêu cầu:
Trong sản xuất
: Trong nền sản xuất hàng hóa, nhà sản xuất có điều kiện sản xuất khác nhau do
vậy mà hao phí lao động cá biệt cũng rất khác nhau nhưng khi trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào
hao phí lao động xã hội. Do vậy muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí sản xuất và có
lãi đòi hỏi nhà sản xuất phải hạ được chi phí cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng chi phí xã hội.
Trong trao đổi: Phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị hàng hóa làm cơ sở, không
dựa trên giá trị cá biệt. Nếu bán cao hơn giá trị thì hàng hóa không bán được, không thu hồi
được vốn. Ngược lại nếu bán thấp hơn giá trị thì sẽ bị thua lỗ dẫn đến phá sản.
Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị.
Những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân thủ mệnh lệnh của giá cả thị trường.
Tác động của quy luật giá trị:
Thứ nhất là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Trong sản xuất, điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:
Nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và lãi cao, những
người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác
cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành
này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.
Nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người
sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm
cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào
các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Ví dụ: công ty cổ phần bột giặt Lix chủ yếu sản xuất bột giặt, nước rửa chén, sau đó để đáp ứng
nhu cầu xã hội ngày càng cao trong thời kì dịch Covid 19 đã cho ra mắt gel rửa tay khô On1. 4
Trong lưu thông, Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó
thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp phần làm
cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lí hóa SX, tăng năng suất lao động.
Để có giá trị cá biệt hàng hóa nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Đòi hỏi người SX không ngừng
cải tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới phương pháp quản lí, thực hiện tiết
kiệm...nhằm tăng năng suất lao động và giảm chi phí sản xuất.
Trong sự cạnh tranh quyết liệt trên, nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì sẽ dẫn đến
toàn bộ năng suất lao động xã hội sẽ tăng lên, chi phí sản xuất sẽ giảm xuống.
Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành những người giàu và nghèo một cách tự nhiên.
Trong cạnh tranh, người sản xuất nào nhạy bén với thị trường, có hao phí cá biệt thấp hơn mức
hao phí chung của xã hội sẽ có thu nhập cao, trở nên giàu có. Ngược lại nếu giá trị cá biệt cao
hơn giá trị XH, dẫn đến thua lỗ, phá sản và trở thành người nghèo.
Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật này: Quy luật giá trị vừa có những giá trị tích
cực và tiêu cực đối với người sản xuất.
Quy luật giá trị làm phân hóa những người sản xuất hàng hóa, đây là sự lựa chọn tự nhiên, nó
đào thải những yếu kém, kích thích những nhân tố tích cực. Nếu xét ở góc độ này nó là động lực
để thúc đẩy phát triển sản xuất, nhanh chóng chuyển nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn
hiện đại, cơ cấu kinh tế hiện đại, linh hoạt.
Nếu xét ở góc độ xã hội, sự phân hóa giàu nghèo của sản xuất hàng hóa có tác động tiêu cực.
Bên cạnh đó, QLGT cũng dẫn đến khai thác cạn kiệt, quá mức các tài nguyên, ô nhiễm môi
trường. Do đó, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó.
Riêng đối Việt Nam, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN thì điều này còn có ý nghĩa quan trọng hơn cả.
Câu 3: Phân tích hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư? Vì sao nói giá trị thặng dư
siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối?
5
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Để thực hiện được điều này,
tùy vào hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - kỹ thuật khác nhau, nhà tư bản sẽ chọn cho mình các
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư khác nhau. Trên thực tế có các phương pháp sau:
- Giá trị thặng dư tuyệt đối:
Khái niệm: là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất
yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Thí dụ: ngày lao động 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4
giờ, thì tỷ suất thặng dư là 100%. Nếu kéo dài lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn
như cũ, thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 150%.
Nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động của công nhân. Tuy nhiên nó không thể vượt
quá giới hạn sinh lí của công nhân vì họ còn có các nhu cầu cơ bản là ăn, uống, ngủ nghỉ, giải trí
để phục hồi sức khỏe,... Nếu ngược lại, họ sẽ gặp phải sự phản kháng gay gắt của giai cấp công
nhân đòi giảm giờ làm. Trong lịch sử cũng đã chỉ ra nhiều cuộc bãi công, đấu tranh liên quan
đến vấn đề này với các khẩu hiệu như “tăng lương, giảm giờ làm” và thành quả đó chính là sự ra
đời của ngày Quốc tế lao động 1.5.
Ngoài ra, khi không thể kéo dài thêm thời gian lao động thì họ tìm cách tăng cường độ lao động
của công nhân. Nhưng về thực chất, nó cũng như việc kéo dài ngày lao động.
Phương pháp này được ứng dụng trong giai đoạn đầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi trình độ
sản xuất còn thấp, máy móc còn lạc hậu.
Giá trị thặng dư tương đối:
Khái niệm: là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng
cao năng suất lao động trong ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt, để hạ thấp giá giá trị sức lao động,
nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư khi độ dài ngày lao động không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Thí dụ, ngày lao động 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng dư, tỷ suất giá trị
thặng dư là 100%, nếu giá trị sức lao động giảm khiến thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 2
giờ thì thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 300%. 6
Để hạ giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết để tái
sản xuất lao động, tức tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và
các ngành sản xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó.
Phương pháp này được ứng dụng khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công
nghiệp cơ khí, kỹ thuật tiến bộ làm cho năng suất tăng lên nhanh chóng thì phương pháp chủ yếu
để tăng giá trị thặng dư là tăng năng suất lao động xã hội.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Hiểu được phương thức bóc lột sức lao động của các nhà tư bản, giúp nhìn nhận rõ bản chất của
CNTB để công nhân đấu tranh đòi các quyền của mình.
Giúp các nhà tư bản có cơ sở để có phương pháp SX phù hợp, mang lại giá trị thặng dư cao
nhất, đặc biệt là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Nói giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Bởi vì:
Gía trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới sớm
hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng
dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.
Là hiện tượng tạm thời trong từng xí nghiệp nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xuyên
tồn tại. Nó là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng
suất cá biệt đánh bại đối thủ cạnh tranh. Chính vì thế C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là
hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Câu 4: Trình bày tuần hoàn và chu chuyển của tư bản? Phân tích căn cứ và ý nghĩa phân
chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động?

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và lưu thông. Lưu
thông của tư bản, theo nghĩa rộng là sự vận động của tư bản, nhừ đó mà tư bản lớn lên và thu
được giá trị thặng dư, cũng tức là sự tuần hoàn và chu chuyển tư bản.
Tuần hoàn của tư bản: 7
Khái niệm: Tuần hoàn tư bản là sự vận động của tư bản lần lượt trải qua 3 giai đoạn, lần lượt
mang về 3 hình thức rồi quay trở về hình thức ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng thêm.
Công thức chung của tuần hoàn tư bản là: SLĐ T – H < … SX … H’ – T’ TLSX
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn lưu thông, tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách là một
người mua. Tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản tiền tệ, có chức năng mua các yếu tố sản xuất
như tư liệu sản xuất và sức lao động để chuẩn bị cho quá trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này
tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn sản xuất, tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản sản xuất, thực hiện
chức năng kết hợp các yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất hàng hóa. Kết thúc
giai đoạn này tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hóa. Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết
định nhất vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Giai đoạn thứ ba, là giai đoạn lưu thông, tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản hàng hóa, chức
năng là thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra trong đó đã bao hàm một lượng
giá trị thặng dư. Kết thúc giai đoạn này tư bản hàng hóa biến thành tư bản tiền tệ. Giai đoạn này
tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách là một người bán. Đến đây, tư bản quay trở lại với
hình thái ban đầu nhưng trong tay chủ của nó với số lượng lớn hơn trước.
Tóm lại, tuần hoàn của tư bản vận động có tính tuần hoàn, trải qua 3 giai đoạn liên tục, lần lượt
mang 3 hình thái khác nhau, thực hiện 3 chức năng khác nhau rồi quay trở về hình thái ban đầu
kèm theo giá trị thặng dư.
Chu chuyển của tư bản
Khái niệm: Sự tuần hoàn tư bản, nếu xét với tư cách là một quá trình định kỳ đổi mới và thường
xuyên lặp đi lặp lại thì gọi đó là chu chuyển tư bản.
Thời gian chu chuyển tư bản 8
Khái niệm: là khoảng thời gian mà một tư bản kể từ khi được ứng ra dưới một hình thái nhất
định cho đến khi quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển
tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản xuất bao
gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động, thời gian dự trữ sản xuất.
(Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của các nhân tố như: ●
Tính chất của ngành sản xuất, ví dụ ngành đóng tàu thời gian sản xuất thường dài hơn
ngành dệt vải hay dệt thảm trơn thời gian thường ngắn hơn dệt thảm trang trí hoa văn.... ●
Quy mô hoặc chất lượng các sản phẩm ví dụ như xây dựng một xí nghiệp, công xưởng
mất thời gian dài hơn xây dựng một nhà ở thông thường. ●
Thời gian vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn. ● Năng suất lao động. ● Dự trữ sản xuất.)
Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông,
tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hóa, cũng không sản xuất ra
giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa. (Thời
gian lưu thông dài hay ngắn là do các nhân tố sau quy định: ● Thị trường xa hay gần ●
Tình hình thị trường xấu hay tốt ●
Trình độ phát triển của ngành giao thông vận tải, bưu chín viễn thông...)
Như vậy, thời gian chu chuyển của tư bản càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư
được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.
Tốc độ chu chuyển tư bản
Khái niệm: là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất định quay trở về dưới
hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong một đơn vị thời gian nhất định. Tốc độ chu
chuyển tư bản được tính bằng công thức: n = CH/ch.
Trong đó: n là số vòng chu chuyển của tư bản, CH là thời gian trong một năm, ch là thời gian
của một vòng chu chuyển của tư bản. 9
Ví dụ: Một tư bản có thời gian 1 vòng chu chuyển là 4 tháng thì tốc độ chu chuyển trong năm
là: n = 12 tháng / 4 tháng = 3 vòng.
Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Muốn
tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và lưu thông của nó.
Căn cứ để phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động:
Các bộ phận khác nhau của tư bản sản xuất không chu chuyển giống nhau. Căn cứ vào phương
thức chu chuyển khác nhau của từng bộ phận tư bản, người ta chia tư bản sản xuất thành tư bản
cố định và tư bản lưu động.
Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động tham gia toàn
bộ vào quá trình sản xuất như máy móc, thiết bị, nhà xưởng,...nhưng giá trị của nó chỉ chuyển
dần dần, từng phần vào giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn.
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái sức lao động, nguyên nhiên
vật liệu, vật liệu phụ, giá trị của nó được chuyển một lần, toàn phần vào giá trị sản phẩm khi kết
thúc từng quá trình sản xuất. Ý nghĩa:
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao
tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh được thiệt hại hao mòn hữu hình do
tự nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó, mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh,
nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản
lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm
tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt
khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và
khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên.
Việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu thông có ý nghĩa quan trọng trong
quản lý kinh tế. Nó là cơ sở để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, đặc biệt với sự phát triển
khoa học công nghệ hiện nay đặt ra đòi hỏi bức xúc trong quản lí sản xuất kinh doanh sao cho
giảm tối đa hao mòn của vốn cố định. 10