ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ ĐẢNG
Câu 1. Phân tích những điều kiện cần thiết dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam(tháng 2/1930).
-Chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền
(CNĐQ). Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và CNĐQ ngày càng gay gắt.
-Năm 1917 Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới.
Thắng lợi CMT10 đã biến học thuyết Mác thành hiện thực, không chỉ có ý nghĩa to lớn đối
với cuộc đấu tranh giai cấp vô sản của các nước tư bản mà còn mở ra thời đại mới “Thời đại
Cách mạng chống Đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”
-Tháng 3/1919, Lenin thành lập Quốc Tế Cộng Sản cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện
chiến lược, sách lược đã tạo tiền đề và điều kiện cơ bản thúc đẩy sự phát triển của phong trào
cộng sản và phong trào công nhân quốc tế, tạo tiền đề quan trọng cho quá trình thành lập
Đảng cách mạng của Việt Nam.
-Trước sự đàn áp, bóc lột hết sức dã man và tàn bạo của thực dân Pháp ở Việt Nam lúc này
đã làm gay gắt thêm các mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam. Tình trạng khủng hoảng kinh
tế - xã hội, đặc biệt là mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu tranh đề tự giải
phóng
-Nhiệm vụ đặt ra: Đánh đuổi thực dân Pháp giành lại độc lập và xóa bỏ chế độ phong kiến,
giành lại ruộng đất.
-Có một số đảng đứng lên lãnh đạo quần chúng nổi dậy nhưng vẫn chỉ mang tính tự phát. Các
đảng này tuy cùng một chí hướng là đem lại lợi ích cho người dân nhưng lại đi theo những
con đường khác nhau dẫn đến thực dân Pháp lợi dụng mà gây chia rẽ, dễ triệt phá- Nhiệm vụ
đặt ra: Cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để
giải phóng dân tộc.
-Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào yêu nước và phong trào công nhân
Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ này ngày càng phát triển.
-Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc
Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp
chống ngoại xâm của dân tộc ta.
-Từ sự phân tích vị trí kinh tế- xã hội của các giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy chỉ có
giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên vai giai cấp công nhân Việt Nam.
-Sự thành lập của Đảng Cộng Sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ tự
phát sang tự giác, nó được trang bị bằng lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Nguyễn Ái Quốc
đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác Lênin và con đường giải phóng dân tộc theo đường lối cách
mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc thực hiện công cuộc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt
Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc hình thành Đảng Cộng sản Việt
Nam.
- Chủ nghĩa Mác Lênin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào yêu nước và
phong trào công nhân phát triển
Câu 2: Tại sao nói ĐCSVN ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử
cách mạng Việt Nam?
Trước khi Đảng ra đời trước năm 1930 nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về
đường lối giai cấp lãnh đạo tiên tiến. Biểu hiện: các phong trào đấu tranh diễn ra liên tiếp
mạnh mẽ quật khởi nhưng đều thất bại (khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực,
Phong trào Cần Vương, cuộc đấu tranh của PBC PCT), từ năm 1930 khi Đảng ta ra đời
với chính cương sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc và luận cương của Trần Phú đã chỉ ra
đường lối đúng đắn cho CMVN đó là: Tiến hành cuộc CM sản dân quyền, CM ruộng đất
sau đó tiến thẳng lên CMXH bỏ qua bản chủ nghĩa. Như vậy sự ra đời của Đảng đã chấm
dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối và giai cấp mở ra 1 thời kỳ mới. CMVN dưới sự lãnh đạo
của ĐCS VN theo chủ nghĩa Mác Lênin.
Trước khi Đảng ra đời CM nước ta chưa tập hợp được toàn bộ các lực lượng đoàn kết chống
xâm lược. Biểu hiện: những nhà lãnh đạo đã kêu gọi quần chúng nhân dân đấu tranh chống
Pháp giành độc lập kêu gọi chống phong kiến để giành ruộng đất chưa chú ý đến nguyện
vọng của nhân dân nên không tập hợp được đông đảo quần chúng. Khi Đảng ra đời đã xây
dựng được 1 lực lượng CM mới bao gồm mọi tầng lớp nhân dân nòng cốt liên minh
công nông, Đảng đã thực hiện đồng thời 2 khẩu hiệu :" Độc lập dân tộc", " ruộng đất cho dân
cày" đáp ứng đc nguyện vọng của nhân dân đã xây dựng đc trên thực tế khối liên minh
công nông vững chắc.
Trước năm 1930 các cuộc đấu tranh nổ ra đều chưa phương pháp CM đúng đắn. Biểu
hiện: hình thức đấu tranh vũ trang của các cuộc khởi nghĩa nổ ra lẻ tẻ, đơn độc chiến thuật thì
thủ hiểm, phòng ngự bị động nên bị thất bại (VD như Phong trào Cần Vương) hay hoạt động
của PBC lại muốn dựa vào Nhật để đánh Pháp giành độc lập, PCT muốn xin Pháp thực hiện
nhiều cải cách dân chủ kết cục đều bị bế tắc hoặc hùng cứ 1 phương như Hoàng Hoa Thám
với khởi nghĩa Yên Thế sau gần 30 năm cũng bị thất bại. Sau khi Đảng ta ra đời đã xây dựng
đc phương pháp CM đúng đắn: phải dựa vào chính sức mình, dựa vào 2 lực lượng cơ bản: lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang, sử dụng 2 hình thức đấu tranh chủ yếu: đấu tranh chính
trị đấu tranh trang, Đảng cũng nhấn mạnh CM muốn thành công phải nổ ra đúng thời
cơ và có sự chuẩn bị chu đáo.
Trước năm 1930 các nhà lãnh đạo CM cũng ra nước ngoài tìm bạn đồng minh chống giặc
như Phan Đình phùng, PBC, PCT nhưng đều không thành công. Sau khi Đảng ra đời đưa
CMVN trở thành bộ phận khăng khít của CMTG tức góp phần vào sự nghiệp chung của
CMTG ngược lại nhận được sự đồng tình giúp đỡ của CMTG. Như vậy Đảng ra đời đã
xây dựng được bạn đồng minh mới tạo nên sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai
cấp đấu tranh dân tộc trong thời đại mới; sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân phong trào yêu nước Việt Nam; kết quả của quá trình
lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử; là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính
trị, tưởng tổ chức của các chiến cách mạng đứng đầu Bác H kính yêu của chúng
ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Giai cấp công nhân Việt Nam đã
trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là cột mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng
đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài
mấy chục năm đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác- Lênin chân chính với đường lối cách mạng khoa học
sáng tạo là cơ sở lý luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp ứng
đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc phát triển của đất nước.
Câu 3: Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
Bối cảnh lịch sử:
- Trước yêu cầu cấp thiết phải giải phóng n tộc của nhân dân Việt Nam,
Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đướng cứu nước năm 1911.
- Qua nhiều trải nghiệm thực tế, Người đã nhận bạn thù “dù màu da khác
nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và bị bóc lột”
- Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến nhận thức của
Người.
1. Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn
- Ngày 28/6/1919, Người gửi tới hội nghị Vécxai bản yêu sách 8 điểm của nhân
dân An Nam nhưng không được chấp nhận, từ đó người nhận muốn giải phóng dân
tộc phải dựa vào sức mình chính. Tuy không được chấp nhận nhưng cũng đã gây
được tiếng vang lớn.
- Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc thuộc địa” của Lênin tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân
tộc – con đường cách mạng vô sản.
- 12/1920, Người bỏ phiếu tán thành quốc tế thứ 3 tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp. Sự kiên này đã đánh dấu bước ngoặt trong trọng trong quá trình hoạt
động cách mạng của Người - từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản.
Người trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
2. Chuẩn bị về tưởng, chính trị tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam
Sau khi xác định con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc. Nguyễn Ái Quốc
tích cực truyền chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam chuẩn bị về tưởng, chính
trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng:
- Về tư tưởng:
+ Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc lập ra hội liên hiệp thuộc địa Pari. Người viết
nhiều bài trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Tạp chí cộng sản…
+ Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của ĐCS Pháp được thành lập, NAQ
được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương. Người vừa nghiên cứu
luận vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản công nhân quốc
tế. NAQ tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột dịch của chủ nghĩa thực
dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp là kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa.
+ Năm 1927, NAQ khẳng định “Đảng muốn vững mạnh phải có công nhân làm
nòng cốt trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”, phải tích cực
truyền bá tưởng vô sản, luận chủ nghĩa Mác- Lênin vào phong trào công nhân
phong trào yêu nước Việt Nam.
- Về chính trị:
+ Xuất phát từ thực tiễn của cách mạng thế giới đặc điểm của phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của Lênin về
cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng
về cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định: “con đường cách mạng của các
dân tộc bị áp bức là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.”
+ NAQ xác định cách mạng giải phóng dân tộc các nước thuộc địa một bộ
phận của cách mạng sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc các nước
thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
+ Về vấn đề ĐCS, NAQ khẳng định: “cách mạng trước hết phải có Đảng cách
mệnh để trong thì vận động tổ chứcn chúng, ngoài thì liên lạc vớin tộc bị áp
bức và vô sản khắp mọi nơi”.
+ Năm 1928 kỳ bộ Bắc HVNCMTN đã phát động phong trào sản hóa,
góp phần truyền tưởng sản, rèn luyện cán bộ xây dựng phát triển về tổ
chức của công nhân.
- Về tổ chức:
+ Ngày 1/1/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu trực tiếp đào tạo cán bộ,
xây dựng tổ chức cách mạng, truyền luận cách mạng giải phóng dân tộc vào
Việt Nam.
+ Tháng 6/1925, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – tổ chức yêu
nước khuynh hướng cộng sản, một tổ chức quá độ để tiến tới thành lập Đảng Cộng
sản, một bước chuẩn bị ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
+ Nguyễn Ái Quốc đã đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Từ 1925 – 1927, Người mở các lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo được
75 người, một số được cử đi học ở Liên Xô, một số vào học ở Trường Quân sự Hoàng
Phố, còn phần lớn về nước hoạt động, tuyên truyền luận cách mạng trong quần
chúng và xây dựng hệ thống tổ chức của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
3. Triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
- Năm 1929, 3 tổ chức cộng sản lần lượt ra đời Việt Nam. Tuy nhiên các tổ
chức đó hoạt động riêng rẽ, thậm chí còn công kích nhau, làm cho phong trào cách
mạng có nguy bị chia rẽ. Yêu cầu bức thiết của cách mạng lúc này phải thống
nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất.
- Cuối năm 1929, biết được Đông Dương nhiều tổ chức cộng sản không
thống nhất với nhau, Người rời Xiêm sang Trung Quốc để thống nhất các tổ chức
cộng sản. Với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, người quyền quyết định
mọi vấn đề của Cách mạng Đông Dương thầy của lớp cán bộ đầu tiên, Nguyễn
Ái Quốc đã triệu tập đại biểu của các nhóm cộng sản đến Cửu Long (Hương Cảng,
Trung Quốc) để họp Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Bằng uy tín tuyệt đối,
Người đã đưa Hội nghị đến thành công, thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc người soạn thảo chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt.
Văn kiện đó được thông qua trong Hội nghị được coi cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Theo sự phân công của Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã viết lời kêu gọi quần
chúng tham gia, ủng hộ Đảng và đứng dưới ngọn cờ đấu tranh của Đảng.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 4: Trong Đại hội X (2006), ĐCSVN đã đề ra chủ trương “chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế”, Anh/chị hiểu hội nhập quốc tế như thế nào? Theo Anh/Chị là sinh viên,
cần phải làm gì để chủ động hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế•là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với nhau
thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, chế, hoạt động hợp tác quốc tế mục tiêu
phát triển của bản thân mỗi quốc gia/v ùng lãnh thổ đó nhằm tạo thành sức mạnh tập thể
giải quyết những vấn đề chungcác bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa
đầy đủ hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống hội. Về bản chất, hội nhập
quốc tế chính một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm đạt được một mục
tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.
•Hội nhập quốc tế hiện nay là nhiệm vụ chung của cả nước, cả xã hội. Hội nhập quốc tế toàn
diện thực chất là mở rộng các lĩnh vực hợp tác, không chỉ chính trị và kinh tế đối ngoại, mà
còn bao gồm an ninh quốc phòng, các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành như khoa học-kĩ thuật,
y tế, giáo dục…
Chúng ta tham gia vào môi trường quốc tế với sự chủ động trong hợp tác; tích cực trong hoạt
động và trao đổi; biết điều chỉnh linh hoạt dựa vào tình hình thực tiễn chứ không có những
chủ trương cứng nhắc và bảo thủ.••
(Trong hội nhập quốc tế, mục tiêu cơ bản được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhằm
củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất
nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng
hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc
gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.)
Cần phải làm gì để chủ động hội nhập quốc tế
Một là, thực hiện đổi mới hình tăng trưởng gắn với cấu lại nền kinh tế, coi đây vừa
tiền đề, vừa hệ quả của hội nhập kinh tế quốc tế, giải pháp tính quyết định để nâng
cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới
Hai là, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển nhanh bền vững; thực
hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị trong tình hình
mới và thực thi các cam kết quốc tế.
Bốn là, tập trung khai thác hiệu quả các cam kết quốc•tế, xây dựng các cơ chế, chính sách hợp
hỗ trợ các lĩnh vực năng lực cạnh tranh; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ,
trình độ pháp luật quốc tế, xây dựng hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ chủ động phù
hợp,nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động,
tích cực tham gia xây dựng tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế tham gia các
hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên
nguyên tắc cùnglợi; củng cốnâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực quốc tế, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ tiến bộ hội trên
thế giới.
Câu 5: So sánh đường lối công nghiệp hóa của Đảng trong thời kỳ TRƯỚC đổi mới
thời kỳ đổi mới.
Sự giống nhau:
Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta một tất yếu, khách quan.
Bởi vì, công nghiệp hóa vấn đề không mới, các nước bản chủ nghĩa đã thực hiện từ
lâu, công nghiệp hóa còn được đề cập trong chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đồng thời, tình hình đất
nước ta tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh mún, lạc hậu.
Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở hạ tầng, cơ sở
vật chất của xã hội thiếu thốn và thấp kém, năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân nghèo
nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn.
Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sự khác nhau:
Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý. thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Đặc điểm của
nước ta là tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng chưa
hình thành… do đó cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa được hiểu quá trình
thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chuyễn lao động bằng máy
móc, công cụ sang giai đoạn mới là tự động hóa, điều khiển hóa,đây là quá trình hiện đại hóa.
Như vậy, bối cảnh thế giới mang đến cho chúng ta nhiều hội thách thức mới.Chính
vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa chúng ta lựa chọn hình công
nghiệp hóa theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó là: quá trình tuần tự (từ sử
dụng lao động thủ công chuyển sang sử dụng máy móc, rồi từ sử dụng máy móc chuyển sang
tự động hóa, điều khiển hóa), quá trình nhảy vọt (lĩnh vực nào đủ điều kiện thì phải hiện đại
hóa ngay lậptức, phải đi trước đón đầu, hội nhập với thời đại).
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo hình nền kinh tế khépkín, hướng
nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa vàhội nhập kinh tế quốc tế. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác hiệu quả mọi nguồn
lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất
yếu phải hội nhập mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầunước ngoài, thu hút công nghệ hiện
đại, học hỏi kinh nghiệm quản tiên tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quả thị trường thế giới. Hội
nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa Nhà nước
doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự nghiệp
của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện công
nghiệp hóa được thực hiện bằng chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo kế hoạch
của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện bằng
chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.
Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất
đai và nguồn viện trợ của các nước hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới, lấy
phát huy nguồn lực con người yếu tố bản cho sự phát triển nhanh bền vững; coi phát
triển khoa học công nghệ nền tảng, động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Con
người yếu tố bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển
yếu tố con người cần đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo. Nguồn nhân lực cho
công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cấu trình độ, khả
năng nắm bắt sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới
khả năng sáng tạo công nghệ mới.Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng
suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh tốc độ phát triển kinh tế.
Ở nước ta, muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức thì phát triển khoa học công nghệ yêu cầu tất yếu bức xúc. Phải đẩy mạnh
việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh.
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ quan
duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế hội. Còn thời
kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nhanh, hiệu quả bền vững;
tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng hội, bảo vệ môi trường tự
nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.Xây dựng chủ nghĩa hội nước ta thực chất nhằm thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó,
trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả bền vững. Phát triển kinh tế cũng để
thực hiện các vấn đề an sinh hội, vấn đề văn hóa hội... mục tiêu phát triển con
người, mọi người đều hưởng thành quả của sự phát triển.
Câu 6: Mối quan hệ giữa đường lối kháng chiến và xây dựng chế độ mới (1945-1954).
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn: nạn đói, nạn dốt,
tài chính kiệt quệ, 90% dân số chữ, các thế lực phản động nội địa nổi dậy, thực dân Pháp
quay lại xâm lược, sự can thiệp của các nước đế quốc. Nhà nước cách mạng còn non trẻ, chưa
được quốc tế công nhận, lực lượng trang còn yếu, nền kinh tế lạc hậu. Trong bối cảnh ấy,
việc xác định thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc trong Chỉ thị
Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Ngày 25/11/1945 một quyết
sách đúng đắn, mang tính chiến lược lâu dài.
Với đường lối kháng chiến được thể hiện nét trong các văn kiện quan trọng như Chỉ
thị"Toàn dân kháng chiến" (12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh (19/12/1946), tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường
Chinh(8/1947) được cụ thể hóa trong các nghị quyết, đại hội của Đảng. Nội dung bản
của đường lối kháng chiến là: “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”.
Xây dựng chế độ mới với quá trình cải tạo, tổ chức lại hội trên các lĩnh vực chính trị,kinh
tế, văn hóa, xã hội theo quan điểm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mục tiêu là củng cố,
hoàn thiện bộ máy chính quyền cách mạng, xây dựng nền tảng kinh tế độc lập,phát triển văn
hóa, giáo dục, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện các quyền dân chủ,thiết lập trật tự
hội mới tiến bộ và công bằng.
Mối quan hệ giữa đường lối kháng chiến và xây dựng chế độ mới
Kháng chiến điều kiện tiên quyết cho việc bảo vệ phát triển chế độ mới: Sau khi giành
chính quyền, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta giữ vững thành quả cách mạng,bảo vệ nền
độc lập, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân còn non trẻ. Nếu không kháng chiến, không
bảo vệ được độc lập thì chế độ mới không thể tồn tại. Việc tiến hành kháng chiến là điều kiện
bắt buộc để ngăn chặn sự tái xâm lược của thực dân Pháp, loại trừ nguy bị lật đổ, tạo
không gian, thời gian cho chế độ mới được củng cố phát triển. Thực tế lịch sử chứng
minh, nhờ quyết tâm kháng chiến của toàn dân chính quyền cách mạng đã được bảo vệ,
giữ vững, không bị các thế lực phản động trong nước nước ngoài tiêu diệt. Với giai đoạn
1945-1946: Củng cố chính quyền, chống thù trong giặc ngoài: Ngay Sau khi giành chính
quyền, Đảng và Chính phủ lâm thời đã đề ra các chính sách cấp bách:chống giặc đói (tổ chức
"tuần lễ vàng", phát động tăng gia sản xuất), chống giặc dốt(phong trào Bình dân học vụ),
chống giặc ngoại xâm (kêu gọi toàn dân đoàn kết, xây dựng lực lượng trang). Tổ chức
tổng tuyển cử bầu Quốc hội (1/1946), thông qua Hiến Pháp 1946, thành lập Chính phủ chính
thức, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, thu hút mọi tầng lớp hội vào công cuộc xây
dựng chế độ mới bảo vệ chính quyền cách mạng. Đối ngoại linh hoạt:Hiệp định bộ
6/3/1946 với Pháp để tranh thủ hòa hoãn,tập trung lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
lâu dài.
Xây dựng chế độ mới sở, động lực hậu phương vững chắc cho kháng chiến: Xây
Dựng chế độ mới không chỉ nhằm đáp ứng mục tiêu lâu dài của cách mạng mà còn là yêu cầu
bức thiết của cuộc kháng chiến. Một chính quyền mạnh, hợp lòng dân, một nền kinh tế tự lực,
một hệ thống chính trị -hội tiến bộ sẽ tạo điều kiện cho việc huy động sức người, sức của,
phát huy tinh thần yêu nước ý chí kháng chiến của toàn dân. Việc củng cố, mở rộng chính
quyền cách mạng từ trung ương đến sở, tổ chức bầu cử, xây dựng hiến pháp, cải cách
ruộng đất, phát triển giáo dục, văn hóa… đã tạo niềm tin, động viên các tầng lớp nhân dân
tham gia kháng chiến. Những thành tựu trong xây dựng chế độ mới trở thành chỗ dựa vững
chắc về chính trị, kinh tế, văn hóa tinh thần cho kháng chiến,giúp kháng chiến chuyển từ
thế bị động sang chủ động, từ phòng ngự sang phản công.
Với giai đoạn 1946-1950: Kháng chiến toàn diện, xây dựng hậu phương vững chắc: Khi
Thực dân Pháp bùng nổ chiến tranh xâm lược, Đảng ta phát động toàn dân kháng chiến,thực
hiện chiến tranh nhân dân, xây dựng các căn cứ địa, phát triển lực lượng trang ba thứ
quân. Đồng thời, tiếp tục xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền các cấp, phát động phong
trào thi đua yêu nước, xây dựng đời sống mới, phát triển sản xuất, giáo dục, y tế,giúp nhân
dân khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Các chính sách về ruộng đất,giảm tô, giảm tức,
chia ruộng công cho nông dân nghèo, giúp tăng cường khối liên minh công-nông, củng cố
hậu phương kháng chiến.
Hai nhiệm vụ vừa độc lập, vừa gắn bó, bổ sung cho nhau: Đường lối kháng chiến xây
dựng chế độ mới không tách rời hai mặt của một quá trình cách mạng thống
nhất.Kháng chiến để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ mới; xây dựng chế độ
mới để củng cố hậu phương, phát huy sức mạnh tổng hợp cho kháng chiến, chuẩn bị cho
thắng lợi cuối cùng xây dựng đất nước sau chiến tranh. Đảng ta luôn nhấn mạnh phương
châm “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” (vừa chống xâm lược, vừa xây dựng hội mới).
Đây nét đặc sắc của cách mạng Việt Nam, thể hiện sự sáng tạo, sự phù hợp với thực tiễn
đất nước. Trong thực tế, mỗi thành tựu của việc xây dựng chế độ mới đều tác động tích cực
trở lại, thúc đẩy phong trào kháng chiến; ngược lại, những thắng lợi trên chiến trường lại tạo
điều kiện thuận lợi để tiếp tục củng cố, phát triển chế độ mới. Với giai đoạn 1950-1954: Đẩy
mạnh tổng phản công, hoàn thiện chế độ mới: Từ sau chiến thắng Biên giới Thu Đông
1950, cách mạng Việt Nam chuyển sang thế tiến công, chủ động trên mọi mặt trận. Đảng phát
động phong trào thi đua “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, tiến hành cải cách
ruộng đất lớn, củng cố quan hệ công nông, hoàn thiện hệ thống chính quyền, mở rộng các
hoạt động văn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao, tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến phát
triển sang giai đoạn cao trào. Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ là kết quả tổng hợp của
sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa – trong đó, thành tựu xây dựng chế độ mới đóng
vai trò quyết định cho thắng lợi cuối cùng.
Nhìn lại chặng đường cách mạng từ 1945 đến 1954, thể khẳng định rằng việc kết hợp một
cách khoa học, sáng tạo giữa hai nhiệm vụ lớn: kháng chiến kiến quốc chính đặc điểm
nổi bật, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mối quan hệ ấy không chỉ
mang ý nghĩa lịch sử, còn phương châm hành động cho mọi thời kỳ phát triển của đất
nước. Bài học về sự kết hợp giữa bảo vệ Tổ quốc xây dựng đất nước, giữa giữ vững độc
lập chủ quyền với phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân vẫn luôn là kim chỉ nam cho
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
Câu 7: Tư tưởng chiến lược tấn công của Đảng trong giai đoạn 1959-1964.
tưởng chiến lược tấn công của Đảng trong giai đoạn 1959-1964 được hình thành trên
sở phân tích sâu sắc tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế, đặc biệt là tình hình cách mạng
miền Nam, và được thể hiện tập trung qua Nghị quyết Trung ương 15 (khóa II) và sự bùng nổ
của phong trào Đồng Khởi.
Bối cảnh lịch sử và sự cần thiết phải chuyển sang chiến lược tấn công:
Sự khủng bố, đàn áp tàn bạo của Mỹ - Diệm: Sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm,
dưới sự chỉ đạo hậu thuẫn của Mỹ, đã thực hiện các chiến dịch "tố cộng, diệt cộng", ban
hành Luật 10/59, máy chém đi khắp miền Nam, đẩy lực lượng cách mạng vào tình thế
cùng khó khăn, tổn thất nặng nề. Con đường đấu tranh chính trị hòa bình đơn thuần không
còn phù hợp và không thể bảo vệ được cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng.
Nguyện vọng của quần chúng đòi hỏi của thực tiễn: Trước sự đàn áp man, mâu thuẫn
giữa nhân dân miền Nam (đặc biệt là nông dân) với chế độ Mỹ - Diệm ngày càng trở nên gay
gắt. Quần chúng nhân dân sục sôi căm thù, mong muốn được trang đấu tranh để tự vệ
lật đổ ách thống trị. Thực tiễn đòi hỏi Đảng phải đường lối đúng đắn, đáp ứng nguyện
vọng chính đáng đó, nếu không phong trào sẽ bị dìm trong biển máu hoặc phát triển tự phát,
thiếu định hướng.
Miền Bắc được củng cố: Sau 5 năm xây dựng hòa bình, miền Bắc đã đạt được những thành
tựu bước đầu quan trọng, trở thành hậu phương tương đối ổn định, khả năng chi viện cho
cách mạng miền Nam.
Từ những phân tích trên, Đảng nhận thấy không thể tiếp tục duy trì thế phòng ngự, giữ gìn
lực lượng một cách bị động. Cần phải chuyển sang thế tấn công để phá vỡ ách kìm kẹp của
địch, đưa cách mạng miền Nam vượt qua khó khăn, tiến lên giành thắng lợi.
Nội dung cốt lõi của tưởng chiến lược tấn công: tưởng này được thể hiện nhất
trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) khóa II (tháng 01/1959), với
những nội dung chủ yếu:
Xác định con đường phát triển bản của cách mạng miền Nam: Đó con đường sử dụng
bạo lực cách mạng, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh trang, tiến tới khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân. Đây điểm then chốt, đánh dấu schuyển hướng chiến
lược từ đấu tranh chính trị hòa bình là chủ yếu sang kết hợp cả hai hình thức, lấy đấu tranh vũ
trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, và chuẩn bị cho khởi nghĩa.
Phương thức đấu tranh: Kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị của quần chúng (biểu tình, bãi
công, bãi thị, đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh dân chủ...) với đấu tranh trang (diệt ác, trừ
gian, phá thế kìm kẹp, xây dựng căn cứ, phát triển lực lượng trang...). Đấu tranh chính trị
vẫn là cơ sở, nhưng đấu tranh vũ trang có vai trò quyết định trong việc tiêu diệt sinh lực địch,
hỗ trợ và bảo vệ phong trào chính trị, tiến tới khởi nghĩa.
Hình thức khởi nghĩa: Chủ trương khởi nghĩa từng phần ở nông thôn, giành chính quyền ở cơ
sở, xây dựng mở rộng các vùng giải phóng, tạo tiền đề tiến lên tổng khởi nghĩa. Lấy nông
thôn làm căn cứ địa, xây dựng lực lượng, bao vây và tiến công vào các đô thị khi có thời cơ.
Lực lượng cách mạng: Dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng chủ yếu (nòng cốt
liên minh công nông), đồng thời ra sức xây dựng lực lượng trang nhân dân (gồm ba thứ
quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) ngày càng vững mạnh.
Vai trò của miền Bắc: Khẳng định miền Bắc là hậu phương lớn, có vai trò quyết định đối với
sự nghiệp giải phóng miền Nam. Nhiệm vụ của miền Bắc xây dựng CNXH vững mạnh,
đồng thời tích cực chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam.
Biểu hiện thực tiễn và ý nghĩa của Tư tưởng chiến lược tấn công:
Phong trào Đồng Khởi (cuối 1959 - 1960): sự vận dụng sáng tạo thắng lợi vang dội
của Nghị quyết 15. Bắt đầu từ những cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ Vĩnh Thạnh, Bác Ái, Trà
Bồng..., phong trào nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên một số tỉnh
Trung Bộ, đỉnh cao Bến Tre. Phong trào Đồng Khởi đã giáng một đòn chí mạng vào
chính sách "tố cộng, diệt cộng" của Mỹ - Diệm, phá vỡ từng mảng lớn bộ máy kìm kẹp của
địch nông thôn, giành quyền làm chủ cho nhân dân trên nhiều vùng rộng lớn, tạo ra các
"vùng giải phóng".
Sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960): Thắng lợi của
Đồng Khởi đòi hỏi phảimột tổ chức mặt trận thống nhất để tập hợp, đoàn kết rộng rãi các
tầng lớp nhân dân, các lực lượng yêu nước miền Nam, lãnh đạo cuộc đấu tranh. Sự ra đời
của Mặt trận đã đáp ứng yêu cầu đó, tạo thêm sức mạnh chính trị to lớn cho cách mạng miền
Nam.
Phát triển lực lượng trang: Từ trong phong trào Đồng Khởi, lực lượng trang ba thứ
quân được hình thành nhanh chóng lớn mạnh, tạo sở vật chất cho việc đẩy mạnh đấu
tranh vũ trang trong giai đoạn tiếp theo.
Phá sản chiến lược "Chiến tranh đơn phương" của Mỹ: Thắng lợi của Đồng Khởi sự phát
triển của cách mạng miền Nam đã buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược, chuyển sang "Chiến
tranh đặc biệt" (1961-1965), thừa nhận sự thất bại của âm mưu dập tắt cách mạng miền Nam
bằng bạo lực đơn phương của chính quyền tay sai.
Tóm lại, tưởng chiến lược tấn công được Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra trong giai đoạn
1959-1964, linh hồn Nghị quyết Trung ương 15, một bước ngoặt ý nghĩa lịch sử.
thể hiện sự nhạy bén, sáng tạo trong duy luận chỉ đạo thực tiễn của Đảng, đáp
ứng đúng yêu cầu cấp bách của cách mạng miền Nam nguyện vọng của nhân dân. Việc
chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tấn công, kết hợp nhuần nhuyễn đấu tranh chính trị
với đấu tranh trang, lấy khởi nghĩa từng phần nông thôn làm phương thức chủ yếu đã
đưa cách mạng miền Nam vượt qua giai đoạn hiểm nghèo nhất, tạo ra thế lực mới, làm
tiền đề cho những thắng lợi to lớn hơn trong cuộc đối đầu trực tiếp với đế quốc Mỹ những
giai đoạn sau, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Câu 8: Phân tích mối quan hệ giữa Chính trị - Quân sự - Ngoại giao trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ (1965-1975).
Mối quan hệ giữa Chính trị, Quân sự Ngoại giao trong giai đoạn 1965-1975 thể hiện s
gắn kết hữu cơ, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Lao
động Việt Nam, nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Chính trị là gốc, là mục tiêu soi đường:
Xác định mục tiêu, đường lối: Chính trị đóng vai trò quyết định trong việc xác định mục tiêu
tối thượng của cuộc kháng chiến: độc lập dân tộc thống nhất đất nước. Đường lối kháng
chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình chính, đồng thời tranh thủ sự ủng
hộ quốc tế” được đề ra, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động quân sự ngoại giao. Mục tiêu
chính trị này không thay đổi trong suốt cuộc chiến, tạo nên ý chí sắt đá sự đồng thuận
trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Xây dựng hậu phương vững chắc: Chính trị chỉ đạo việc xây dựng hậu phương miền Bắc
hội chủ nghĩa vững mạnh về mọi mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng), làmsở chi
viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Đồng thời, củng cố Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam, tạo cơ sở chính trị vững chắc cho cuộc đấu tranh ở miền Nam.
Lãnh đạo tưởng, huy động sức mạnh toàn dân: Chính trị thực hiện công tác giáo dục,
tuyên truyền, cổ vũ, động viên tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến quyết thắng trong nhân
dân quân đội hai miền. Sức mạnh chính trị được chuyển hóa thành sức mạnh vật chất
tinh thần trên chiến trường.
Quân sự là mũi nhọn chủ lực, tạo đà và bảo vệ thành quả:
Thực hiện mục tiêu chính trị bằng bạo lực cách mạng: Quân sự công cụ trực tiếp để đánh
bại ý chí xâm lược của kẻ thù trên chiến trường. Các chiến thắng quân sự ý nghĩa quyết
định trong việc làm thay đổi cục diện chiến tranh, phá vỡ các chiến lược chiến tranh của Mỹ
(Chiến tranh đặc biệt, Chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh).
Tạo thế và lực cho đấu tranh chính trị và ngoại giao: Những thắng lợi trên chiến trường (như
chiến thắng Vạn Tường, cuộc Tổng tiến công nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, chiến dịch
Đường 9 - Nam Lào 1971, chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" 1972) đã giáng những đòn
mạnh vào quân đội Mỹ quân đội Sài Gòn, làm lung lay ý chí xâm lược của Washington,
tạo ra lợi thế tiếng nói trọng lượng cho Việt Nam trên bàn đàm phán Paris. Thắng lợi
quân sự trực tiếp buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán cuối
cùng là ký kết Hiệp định Paris.
Bảo vệ thành quả chính trị và ngoại giao: Sau Hiệp định Paris 1973, chính sức mạnh quân sự
đã đảm bảo việc thi hành Hiệp định, đánh bại các hành động lấn chiếm của chính quyền Sài
Gòn, cuối cùng thực hiện cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng
hoàn toàn miền Nam, hoàn thành mục tiêu chính trị cao nhất.
Ngoại giao là mặt trận quan trọng, mở rộng hậu phương quốc tế và phân hóa kẻ thù:
Phục vụ mục tiêu chính trị, phối hợp với quân sự: Nghị quyết của Bộ Chính trị năm 1969 ghi
rõ: “Ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng, ý nghĩa chiến lược.” Ngoại giao
một mặt trận đấu tranh song song, nhiệm vụ nêu cao tính chính nghĩa của cuộc kháng
chiến, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các nước hội chủ nghĩa, các dân tộc yêu
chuộng hòa bình công trên thế giới (kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ), hình thành một mặt
trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam.
Phân hóa, cô lập kẻ thù: Ngoại giao vạch trần bản chất xâm lược, phi nghĩa của Mỹ và chính
quyền tay sai, khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ và giữa Mỹ với các đồng minh, làm
suy yếu vị thế chính trị của đối phương.
Chuyển hóa thắng lợi quân s thành thắng lợi chính trị trên bàn đàm phán: Mặt trận ngoại
giao, đỉnh cao Hội nghị Paris, nơi diễn ra cuộc đấu trí, đấu pháp quyết liệt. Dựa trên
những thắng lợi quân sự thế mạnh chính trị, ngoại giao Việt Nam đã kiên trì, khôn khéo
đấu tranh, buộc M phải Hiệp định Paris (1973), cam kết rút hết quân Mỹ quân đồng
minh khỏi miền Nam Việt Nam, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam. Đây thắng lợi ý nghĩa chiến lược, tạo tiền đề trực tiếp cho thắng lợi
cuối cùng năm 1975.
"Vừa đánh vừa đàm": Đây là phương châm chỉ đạo tài tình, thể hiện rõ nhất sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa quân sự ngoại giao. Đánh để tạo thế cho đàm, đàm để hỗ trợ cho đánh, làm
cho đối phương lúng túng, bị động cả trên chiến trường lẫn bàn đàm phán. Thắng lợi quân sự
tạo áp lực trên bàn đàm phán, kết quả đàm phán lại tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động
quân sự.
Sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả: Trong suốt giai đoạn 1965-1975, ba mặt trận Chính trị
- Quân sự - Ngoại giao đã phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ dưới sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng. Khi quân sự giành thắng lợi lớn, ngoại giao lập tức tận dụng để tấn công địch trên bàn
đàm phán, nâng cao vị thế chính trị. Khi đấu tranh ngoại giao gặp khó khăn, cần thêm sức
nặng, quân sự lại đẩy mạnh hoạt động để tạo chuyển biến. Chính trị luôn nền tảng, mục
tiêu định hướng cho cả quân sự ngoại giao. S kết hợp này tạo thành một sức mạnh tổng
hợp to lớn, giúp Việt Nam đối đầu và chiến thắng một đế quốc hùng mạnh.
Tóm lại, mối quan hệ giữa Chính trị - Quân sự - Ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ
(1965-1975) là mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời, trong đó chính trị là gốc, quân sự
là quả đấm chủ lực và ngoại giao là một mặt trận quan trọng, hỗ trợ đắc lực. Sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng trong việc xác định đúng đắn vai trò kết hợp hài hòa, hiệu quả sức mạnh
của ba mặt trận này chính một trong những nhân tố quyết định làm nên Đại thắng mùa
Xuân 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là bài học kinh
nghiệm quý báu về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân, về phát huy sức mạnh tổng hợp
của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Câu 9: sao trong quá trình xây dựng Công nghiệp hóa Hiện đại hóa thời kỳ đổi
mới, Đảng Cộng sản Việt Nam lại gắn vấn đề Công nghiệp hóa Hiện đại hóa với vấn
đề bảo vệ môi trường?
Việc Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền CNH-HĐH với bảo vệ môi trường trong thời kỳ Đổi
mới xuất phát từ những lý do cơ bản sau:
Ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị Nghị quyết 41- NQ/TW "Về bảo vệ môi trường trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định bảo vệ môi trường vừa
mục tiêu, vừa một nội dung bản của phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH-HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên một tầm cao mới, gắn chặt với
quá trình CNHHĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển ngành, lĩnh vực, vùng các chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới so với Đại
hội X đưa thêm nội dung ''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường;
từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng không thể bỏ qua với
môi trường. Việc các làng nghề sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn đều
gây ô nhiễm môi trường. CHH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa, đây thực sự là sức ép lớn về môi
trường trong quản đô thị. Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu
những áp lực về thay đổi cấu trúc hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm
môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần được lồng ghép
ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triển kinh tế và xã hội.
Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về thực hiện một
hình tăng trưởng mới, đảm bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng; ii) Tăng trưởng an
toàn; iii) Tăng trưởng bền vững; iv) Tăng trưởng dựa vào trí tuệ; v) Tăng trưởng với lợi ích
được chia sẻ công bằng cho tất cả mọi người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá trình
CNH-HĐH nước ta.
Từ bài học kinh nghiệm của các nước đi trước và thực tiễn trong nước:
Kinh nghiệm quốc tế: Nhiều quốc gia trên thế giới, trong giai đoạn đầu CNH-HĐH, đã chạy
theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế xem nhẹ vấn đề môi trường. Hậu quả tài nguyên
thiên nhiên bị cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe con người sự phát triển bền vững của chính các quốc gia đó. Chi phí để khắc phục
những hậu quả này sau đó thường rất lớn, thậm chí những tổn thất không thể phục hồi.
Việt Nam, đi sau, có cơ hội rút kinh nghiệm từ những "vết xe đổ" này để tránh lặp lại sai lầm.
Thực tiễn Việt Nam: Trong những năm đầu Đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế, nhiều vấn
đề môi trường đã bắt đầu nảy sinh ngày càng trở nên bức xúc. Ô nhiễm không khí, nguồn
nước, đất đai tại các khu công nghiệp, đô thị; tình trạng suy thoái tài nguyên rừng, biển; gia
tăng thiên tai do biến đổi khí hậu... đã trở thành những thách thức hiện hữu. Điều này đòi hỏi
Đảng Nhà nước phải những giải pháp kịp thời, trong đó việc lồng ghép bảo vệ môi
trường vào chiến lược CNH-HĐH là một yêu cầu cấp thiết.
Bảo vệ môi trường là yêu cầu tất yếu của phát triển bền vững:
Mục tiêu của CNH-HĐH không chỉ tăng trưởng kinh tế còn nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân, đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa kinh tế, hội môi trường.
Phát triển bền vững đòi hỏi sự cân bằng giữa ba trụ cột này. Nếu chỉ tập trung vào tăng
trưởng kinh tế bỏ qua bảo vệ môi trường, sự phát triển đó s không thể bền vững. Tài
nguyên cạn kiệt, môi trường ô nhiễm sẽ làm suy yếu nền tảng cho sự phát triển kinh tế trong
tương lai, gây ra các chi phí xã hội lớn và ảnh hưởng đến thế hệ mai sau.
Đảng ta nhận thức rằng, môi trường trong lành tài nguyên thiên nhiên được bảo tồn
điều kiện tiên quyết để CNH-HĐH thành công một cách bền vững. Do đó, "không đánh đổi
môi trường lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần" đã trở thành một quan điểm chỉ đạo quan
trọng.
Bảo vệ môi trường gắn liền trực tiếp với việc nâng cao chất lượng cuộc sống sức khỏe
nhân dân:
Mục tiêu cao nhất của Đảng và Nhà nước ta là chăm lo cho cuộc sống của nhân dân. Một môi
trường sống trong lành, an toàn một trong những yếu tố bản quyết định chất lượng cuộc
sống sức khỏe của người dân. Ô nhiễm môi trường gây ra nhiều bệnh tật, làm giảm tuổi
thọ, ảnh hưởng đến năng suất lao động và hạnh phúc của mỗi gia đình, mỗi cộng đồng.
CNH-HĐH nếu không đi đôi với bảo vệ môi trường thể tạo ra của cải vật chất nhưng lại
làm suy giảm chất lượng sống. Do đó, việc gắn kết hai vấn đề này là thể hiện sự quan tâm sâu
sắc của Đảng đến lợi ích căn bản và lâu dài của nhân dân.
Bảo vệ môi trường trách nhiệm quốc gia quốc tế trong bối cảnh biến đổi khí hậu
các vấn đề môi trường toàn cầu:
Việt Nam một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu
toàn cầu (như nước biển dâng, xâm nhập mặn, gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan).
Quá trình CNH-HĐH nếu không kiểm soát tốt lượng phát thải khí nhà kính các tác động
tiêu cực khác đến môi trường sẽ càng làm trầm trọng thêm những thách thức này.
Bên cạnh đó, bảo vệ môi trường không còn vấn đề riêng của mỗi quốc gia mà đã trở thành
vấn đề toàn cầu. Việt Nam, với tư cách là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế, cần chung tay giải quyết các thách thức môi trường chung, thực hiện các cam kết quốc tế
về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Việc lồng ghép bảo vệ môi trường vào
CNH-HĐH cũng chính là thể hiện trách nhiệm này.
Sự chuyển đổi hình tăng trưởng CNH-HĐH theo hướng chất lượng, hiệu quả
bền vững:
Trong giai đoạn đầu Đổi mới, CNH-HĐH thể ưu tiên phát triển theo chiều rộng. Tuy
nhiên, khi đất nước đã đạt được những thành tựu nhất định, yêu cầu đặt ra phải chuyển đổi
hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, chú trọng hơn đến chất lượng, hiệu quả
tính bền vững.
Điều này đòi hỏi CNH-HĐH phải dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, tiết kiệm tài nguyên,
năng lượng, thân thiện với môi trường; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Việc gắn
CNH-HĐH với bảo vệ môi trường chính một định hướng quan trọng để thực hiện thành
công sự chuyển đổi này.
Tóm lại, việc Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền quá trình Công nghiệp hóa Hiện đại hóa
với vấn đề bảo vệ môi trường trong thời kỳ Đổi mới là một quyết sách đúng đắn, thể hiện tầm
nhìn chiến lược, duy phát triển bền vững trách nhiệm cao trước dân tộc các thế hệ
tương lai. Điều này không chỉ xuất phát từ những bài học kinh nghiệm quốc tế thực tiễn
đất nước còn yêu cầu nội tại của mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân,
đảm bảo an ninh môi trườngthực hiện các cam kết quốc tế. Đâynền tảng quan trọng để
Việt Nam tiếp tục phát triển nhanh, bền vững, đạt được các mục tiêu CNH-HĐH đã đề ra
trong bối cảnh mới.
Câu 10: Phân tích yếu tố thời trong đường lối giành chính quyền của Đảng Cộng Sản
Đông Dương (1939-1945). Liên hệ với việc nắm bắt thời cơ hiện nay của Việt Nam.
Yếu tố thời trong giai đoạn 1939-1945 được Đảng Cộng sản Đông Dương nhận diện
vận dụng một cách tài tình, thể hiện qua các giai đoạn và sự kiện then chốt:
Nhận diện sự chuyển biến của tình hình thế giới trong nước, chủ động chuẩn bị lực lượng
(1939 - đầu 1945):
Trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9/1939). Pháp đầu hàng Đức(6/1940),
Nhật tiến vào Đông Dương (9/1940). Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với phát xít Pháp -
Nhật ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn tiềm tàng giữa Pháp Nhật cũng một yếu tố Đảng
sớm nhận thấy.
Đường lối của Đảng tại Hội nghị Trung ương 6 (11/1939): Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu, quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương. Đây
bước chuyển hướng chiến lược quan trọng, nhận diện “thời tiềm ẩn”khi chiến tranh đế
quốc nổ ra sẽ tạo điều kiện cho cách mạng thuộc địa. Và tại Hội nghị Trung ương 8 (5/1941),
dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chiến
lược, nhấn mạnh giải phóng dân tộc nhiệm vụ bức thiết nhất. Thành lập Mặt trận Việt
Minh, đề ra chủ trương xây dựng lực lượng chính trị, trang, căn cứ địa cách mạng. Đảng
dự báo phe phát xít sẽ thất bại, phe Đồng minh sẽ thắng lợi, và đây chính là “thời cơ lớn” cho
cách mạng Việt Nam. Việc chuẩn bị lực lượng trong suốt giai đoạn này chính tạo dựng thế
và lực để đón thời cơ.
Từ sự phân tích sắc sảo này cho thấy tầm nhìn chiến lược của Đảng. Đảng không thụ động
chờ thời cơ đến mà chủ động tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần, tích cực xây dựng lực
lượng để khi thời cơ xuất hiện có thể chớp lấy.
Dự báo và chủ động hành động khi thời cơ xuất hiện (3/1945 - trước 8/1945):
Sự kiện Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945): Mâu thuẫn Pháp - Nhật lên đến đỉnh điểm,Nhật độc
chiếm Đông Dương.
Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau hành động của chúng ta" (12/3/1945): Ngay sau sự kiện,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị lịch sử. Chỉ thị nhận định cuộc đảo chính đã
tạo ra một "cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc", nhưng thời tổng khởi nghĩa chưa chín