



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội  NỘI DUNG 1 
Câu 1.1: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về giai cấp công nhân và sứ 
mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. 
Cùng với chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư; việc phát hiện ra 
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại của C.Mác. 
Để khẳng định vai trò to lớn của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng vĩ đại này, 
các nhà kinh điển đã đề cập đến trong nhiều tác phẩm của mình. Trong tác phẩm Tuyên 
ngôn của Đảng Cộng Sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Giai cấp tư sản không 
những đã rèn những vũ khí giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy – 
những công nhân hiện đại, những người vô sản”. Học thuyết của Mác đã tìm ra lực 
lượng xã hội để thực hiện việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tiến hành xây dựng xã hội mới 
– xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Và để hiểu rõ hơn về học thuyết vĩ đại này, 
chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm giai cấp công nhân và phân tích nội dung sứ mệnh lịch 
sử của giai cấp công nhân dựa trên quan điểm của chủ nghĩa khoa học xã hội. 
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Angghen đã dùng một số thuật 
ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp hiện đại, giai 
cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại công nghiệp… Mặc dù vậy, về cơ 
bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó chỉ là giai 
cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai 
cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. Dù 
diễn đạt bằng nhiều thuật ngữ khác nhau, song khái niệm giai cấp công nhân được các 
nhà kinh điển xác định trên 2 phương diện: 
Trên phương diện kinh tế - xã hội, trong phạm vi phương thức sản xuất tư bản chủ 
nghĩa, giai cấp công nhân là giai cấp có hai đặc trưng cơ bản sau đây: 
Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là 
những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất 
có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày càng có trình độ xã hội hóa cao. Theo 
sự phân tích của C.Mác và Ph.Ăngghen: "Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu 
vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm 
của bản thân nền đại công nghiệp"; "Công nhân cũng là một phát minh của thời đại 
mới, giống như máy móc vậy... Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp  hiện đại". 
Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất tư bản 
chủ nghĩa. Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người công 
nhân không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ buộc phải bán sức lao động 
cho nhà tư bản để kiếm sống và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. C.Mác và 
Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì chính nó là đặc trưng khiến cho 
giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động làm thuê cho giai cấp tư 
sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Trên phương diện chính trị - xã hội, trong cách nhìn duy vật biện chứng về lịch sử, 
sự thống trị của giai cấp tư sản, đặc biệt của bộ phận tư sản đại công nghiệp là điều kiện 
ban đầu cho sự phát triển của giai cấp công nhân. Xem xét giai cấp công nhân trên 
phương diện này, các nhà sáng lập xã hội khoa học không những làm sáng tỏ quan điểm 
về giai cấp công nhân mà còn làm sáng tỏ những đặc điểm của nó với tư cách là một 
giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới. 
* Ba đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân: 
Thứ nhất, lao động bằng phương thức công nghiệp, quá trình lao động mang tính chất 
xã hội hóa cao, đây là đặc điểm nổi bật của GCCN. 
Thứ hai, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của quá trình sản 
xuất vật chất hiện đại. Do đó, GCCN là đại biểu tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiên 
tiến, phương thức sản xuất tiên tiến mang tính chất XH hóa cao, quyết định sự tồn tại 
và phát triển của xã hội hiện đại. 
Thứ ba, nền SX đại công nghiệp và phương thức SX xã hội hóa cao đã rèn luyện cho 
giai cấp công nhân những phẩm chất về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp 
tác và tâm lý lao động công nghiệp. 
Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết cho một giai cấp cách mạng và 
có vai trò lãnh đạo cách mạng. 
Tóm lại, giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển 
cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của 
lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản 
tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất 
và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ 
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. 
Mở rộng, ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có 
hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai 
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng 
nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao 
động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ. 
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là những nhiệm vụ mà giai 
cấp công nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong là lực lượng đi đầu 
trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. 
Thứ nhất, về nội dung kinh tế là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa 
cao, là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới tiên tiến nhất dựa trên chế độ sở hữu xã hội 
công hữu về tư liệu sản xuất, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về 
xu thế phát triển của lịch sử xã hội, vai trò chủ thể của giai cấp công nhân trước hết là 
chủ thể của quá trình sản xuất vật chất, sau đó là tạo tiền đề vật chất kỹ thuật cho sự ra  đời của xã hội mới. 
Thứ hai, về nội dung chính trị xã hội giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động 
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền 
thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ bóc lột áp bức của chủ nghĩa tư bản giành 
quyền lực về ta giai cấp công nhân và nhân dân lao động thiết lập nhà nước kiểu mới 
mang bản chất giai cấp công nhân cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội mới 
phát triển kinh tế và văn hóa xây dựng nền chính trị dân chủ pháp quyền thực hiện dân 
chủ công bằng bình đẳng và tiến bộ xã hội.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Thứ ba, về nội dung văn hóa tư tưởng thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp 
công nhân trong tiến trình cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh 
vực văn hóa tư tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới lao động công bằng 
dân chủ, bình đẳng và tự do. Xét về thực chất giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách 
mạng về văn hóa tư tưởng bao gồm cải tạo cái cũ lỗi thời lạc hậu, xây dựng cái mới tiến 
bộ trong lĩnh vực ý thức tư tưởng. * Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công  nhân 
Một là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ tiền đề kinh tế - xã hội của 
sản xuất mang tính xã hội hóa với hai biểu hiện nổi bật là: 
Thứ nhất, xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất thúc đẩy sự phát 
triển của xã hội khi thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức 
sản xuất tư bản chủ nghĩa. 
Thứ hai, quá trình sản xuất này đã sinh ra giai cấp công nhân và rèn luyện nó thành chủ 
thể thực hiện sứ mệnh lịch sử 
Hai là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng của quần chúng 
và mang lại lợi ích cho đa số. 
Ba là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở hữu tư 
nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để tư hữu về tư liệu  sản xuất. 
Bốn là, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị là tiền đề cải tạo toàn diện 
sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới với mục tiêu cao nhất 
là giải phóng con người. 
* Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định giai cấp công nhân. GCCN 
là con đẻ, là sản phẩm của nền đại công nghiệp trong phương thức sản xuất tư bản chủ 
nghĩa, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại vì thế giai cấp công nhân đại 
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại tại. 
Thứ hai, do địa vị chính trị xã hội của giai cấp công nhân quy định. Đây là giai cấp tiên 
tiến giai cấp cách mạng, có tính tổ chức và kỷ luật, tự giác và đoàn kết,... * Điều kiện 
chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử 
Chủ nghĩa Mác Lênin chỉ ra những điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan để giai cấp 
công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình đó là: 
Thứ nhất, sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng. 
Thứ hai, Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân 
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng Sản - đội tiên phong của giai 
cấp công nhân ra đời và đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng, là dấu hiệu về sự 
trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng. 
Thứ ba, ngoài hai điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan liêu trên chủ nghĩa Mác Lênin 
còn chỉ rõ: để cuộc cách mạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đi tới 
thắng lợi, phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân 
và các tầng lớp lao động khác. 
* Giai cấp công nhân và việc thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân hiện nay:    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Giai cấp công nhân hiện nay: Là những tập đoàn người sản xuất và dịch vụ bằng phương 
thức công nghiệp tạo nên cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của thế giới hiện  nay. 
Thứ nhất, về điểm tương đồng: 
Giai cấp công nhân hiện nay vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại, là 
chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã hội hóa ngày càng  cao. 
Một bộ phận lớn công nhân hiện đại vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản hiện nay 
bóc lột giá trị thặng dư. 
Thứ hai, những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại Gắn liền với 
cách mạng mạng khoa học và công nghệ hiện đại với sự phát triển nền kinh tế tri thức, 
công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Tri thức hóa và trí thức hóa công nhân là 
hai mặt của cùng một quá trình của xu hướng trí tuệ hóa đối với công nhân và giai cấp 
công nhân. Tính chất xã hội hóa của lao động hiện đại ngày càng được mở rộng và nâng 
cao lực lượng sản xuất hiện đại đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia dân tộc và mang tính 
chất quốc tế. Đó là những biểu biến đổi mới của giai cấp công nhân hiện nay so với giai 
cấp công nhân thế giới thế kỷ XIX. 
* Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay 
Về nội dung kinh tế - xã hội: trong quá trình sản xuất với công nghệ hiện đại năng suất 
chất lượng cao đảm bảo cho sự phát triển bền vững sứ mệnh lịch sử của giai cấp công 
nhân, là nhân tố kinh tế xã hội thúc đẩy trứng mùi các tiền đề của chủ nghĩa xã hội trong 
lòng chủ nghĩa tư bản nhìn. Mặt khác mâu thuẫn lợi ích cơ bản bản giữa giai cấp công 
nhân với giai cấp tư sản cũng ngày càng sâu sắc ở từng quốc gia và trên phạm vi toàn  cầu. 
Về nội dung chính trị - xã hội: ở các nước tư bản mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai 
cấp công nhân và lao động là chống bất công và bất bình đẳng xã hội, mục tiêu lâu dài 
là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đối với các nước 
xã hội chủ nghĩa nghĩa là tiếp tục lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, giải quyết 
thành công các nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa. 
Về nội dung tư tưởng, là cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa hệ giá trị của giai cấp công 
nhân với hệ giá trị của giai cấp tư sản. Đó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội với 
nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác- Lênin với chủ nghĩa cá nhân thuộc ý thức hệ giai  cấp tư sản. 
Ngày nay, cuộc đấu tranh tư tưởng hết sức phức tạp, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng 
và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu vào cuối thế 
kỷ XX, nhiều người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử giai cấp 
công nhân. Các thế lực thù địch, chống cộng, cùng với các phần tử cơ hội, xét lại và 
chủ nghĩa thực chứng mới dưới mọi hình thức đã và đang mưu toan xuyên tạc, phủ 
nhận nhiều quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó có quan điểm về giai cấp 
công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong bối cảnh đó, việc làm sáng 
tỏ và nhận thức một cách đúng đắn hơn về giai cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh lịch 
sử của giai cấp công nhân không chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc, mà còn có ý nghĩa thực  tiễn hết sức to lớn.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Đối với cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân luôn có một vai trò và vị trí hết sức 
quan trọng. Trong các giai đoạn cách mạng trước đây, giai cấp công nhân Việt Nam 
không chỉ là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là một trong những lực lượng cách 
mạng chủ yếu trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm xóa bỏ sự thống 
trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phong kiến giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ 
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, giai cấp công 
nhân Việt Nam tiếp tục đảm đương sứ mệnh lịch sử lớn lao không chỉ tiếp tục là giai 
cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là lực lượng tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đổi 
mới. Để khẳng định hơn nữa về vai trò và vị trí của giai cấp công nhân Việt am trong 
giai đoạn cách mạng hiện nay, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung 
ương khóa X của Đảng Cộng Sản Việt am đã khẳng định: “Giai cấp công nhân Việt 
Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động 
chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và 
dịch vụ công nghệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”. 
Quan niệm trên, tuy chưa phải là định nghĩa, nhưng đã phản ánh được những nội dung 
chủ yếu của giai cấp công nhân Việt Nam. Đây là cơ sở để nhận biết, phân biệt giai cấp 
công nhân Việt Nam với các giai tầng khác trong cơ cấu xã hội, đồng thời cũng để phân 
biệt giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp công nhân trên thế giới. 
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, lớp công 
nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và 
thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa của thực 
dân Pháp lần thứ hai (1924 - 1929). Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, giai 
cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc 
tế. Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân 
Việt Nam còn có đặc điểm riêng: 
Thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc 
địa, nửa phong kiến, có truyền thống yêu nước, thức tự tôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ 
bé, song giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, 
dân tộc thừa nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong 
trào cứu nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại. 
Thứ hai, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn 
lên, đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, 
nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí 
Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân 
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản 
chất cách mạng triệt để. 
Thứ ba, do xuất thân từ nông dân lao động, giai cấp công công nhân Việt Nam bị thực 
dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa nên giai cấp công nhân nước ta có mối quan hệ 
máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách 
mạng, liên minh giai cấp đã trở thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn  kết dân tộc.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: “Là giai cấp lãnh đạo cách mạng 
thông qua chính đảng của nó, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai 
cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự 
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội 
dân chủ, công bằng, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân 
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Cụ thể: 
Về kinh tế, giai cấp công nhân Việt Nam là nguồn nhân lực lao động chủ yếu tham gia 
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy học 
công nghệ làm động lực, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp 
hóa - hiện đại hóa đất nước. 
Về chính trị - xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ Đảng viên cần 
phải nêu cao trách nhiệm tiên phong, đi đầu góp phần củng cố và phát triển cơ sở chính 
trị xã hội quan trọng của Đảng, đồng thời giai cấp công nhân chủ động tích cực tham 
gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, bảo vệ 
Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, để bảo vệ nhân dân đó là trọng trách lịch sử 
thuộc về sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. 
Về văn hóa - tư tưởng, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà 
bản sắc dân tộc có nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa giáo 
dục đạo đức cách mạng rèn luyện lối sống tác phong công nghiệp và văn minh hiện đại 
tham gia vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận để bảo vệ sự trong sáng của 
chủ nghĩa mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại định hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới 
cần thực hiện những nội dung cơ bản sau:    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Một là, nâng cao chất lượng công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân. Giai 
cấp công nhân Việt Nam luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền thống 
yêu nước, lao động cần cù, tính tiên phong và có khả năng sáng tạo trong lao động, sản 
xuất và trong các hoạt động của đời sống xã hội. Hàng vạn cán bộ khoa học - kỹ thuật, 
công nhân bậc cao, thợ giỏi đã thích ứng với cơ chế thị trường, tiếp cận nhanh với khoa 
học, công nghệ tiên tiến, hiện đại, có nhiều sáng chế, giải pháp hữu ích, có giá trị cao 
được áp dụng vào sản xuất và công tác. Tuy nhiên, trình độ học vấn, chuyên môn, nghề 
nghiệp của đội ngũ công nhân Việt Nam hiện nay nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng 
được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình hội nhập kinh 
tế quốc tế. Tình trạng thiếu nhiều chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi và công nhân 
có trình độ lành nghề cao, thừa lao động giản đơn đang diễn ra phổ biến ở tất cả các 
ngành và các thành phần kinh tế. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các 
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ lớn, sức cạnh tranh ngày 
càng gay gắt; nếu như giai cấp công nhân không ngừng nâng cao trình độ học vấn, tay 
nghề thì khó có thể hy vọng kiếm được việc làm và có thu nhập, hoặc không sẽ bị đào 
thải. Thực trạng trên đặt ra yêu cầu khách quan và nhiệm vụ cấp bách phải đẩy mạnh 
công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân, có như vậy mới đủ sức cạnh tranh 
việc làm khi ASEA đã chính thức hình thành, khi hiệp ước đối tác kinh tế chiến lược 
xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết. Để đạt được mục tiêu đặt ra, công tác 
đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công nhân phải đảm bảo các yêu cầu: 
+ Tăng cường đầu tư các nguồn lực để đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công nhân đảm bảo 
đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, có trình độ chuyên môn 
nghiệp vụ, tay nghề giỏi, sáng tạo trong lao động, sản xuất, có đủ khả năng làm chủ 
được công nghệ tiên tiến và thích ứng nhanh với sự năng động của cơ chế thị trường. 
+ Tăng cường quản lý nhà nước, đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác đào tạo 
nghề. Tiến hành quy hoạch mạng lưới các trường, các cơ sở dạy nghề, xây dựng trường 
chuẩn, chương trình chuẩn để đào tạo công nhân có trình độ cao cho một số ngành kinh 
tế mũi nhọn như: chế biến, dầu khí, tin học, điện tử, bưu chính viễn thông, hàng không 
và các ngành dịch vụ khác. 
+ Chú trọng gắn kết giữa đào tạo và sử dụng, nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn lao động, 
đảm bảo chất lượng cho phát triển kinh tế và hạn chế những lãng phí ngay trong công  tác đào tạo. 
+ Xây dựng chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân tự học tập nâng cao 
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và chính sách đãi ngộ hấp dẫn đối 
với công nhân có sáng kiến hay, có kinh nghiệm tốt, nhằm khích lệ đội ngũ công nhân 
phát huy tài năng, trí tuệ trong sản xuất, kinh doanh. 
Hai là, đổi mới hoạt động của tổ chức công đoàn doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích của 
người lao động, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc người nước ngoài 
làm chủ doanh nghiệp. Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đã tạo 
điều kiện cho nền kinh tế phát triển và lượng công nhân ngày càng tăng lên. Đặc biệt là 
số lượng công nhân trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng lên 
một cách rõ rệt bởi mức lương ở khu vực kinh tế này cao hơn, lợi ích hấp dẫn thu hút 
được công nhân gắn bó với nghề nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận công nhân 
vẫn chưa có việc làm ổn định, nhiều doanh nghiệp vẫn còn xảy ra tình trạng kéo dài 
thời gian lao động, điều kiện làm việc và điều kiện sống của người công nhân nhân 
chưa đảm bảo, tiền lương chưa đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu… Với tư cách là tổ 
chức bảo vệ quyền lợi của người công nhân, tổ chức công đoàn doanh nghiệp phải 
không ngừng đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động để làm tốt hơn nữa vai trò, trách    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
nhiệm của mình đối với quyền lợi, lợi ích của giai cấp công nhân. Sứ mệnh lịch sử của 
giai cấp công nhân Việt nam hiện nay. 
+ Trước hết, công đoàn doanh nghiệp phải luôn hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn 
công tác chủ yếu; lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động, tập hợp; 
lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức lao 
động thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội làm mục tiêu hoạt động. 
+ Đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp quần chúng, để thu hút, động viên được 
ngày càng đông đảo công nhân trong các thành phần kinh tế vào công đoàn và tự giác 
tham gia hoạt động công đoàn. 
+ Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hoạt 
động cho cán bộ công đoàn, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có năng lực, trình độ, 
có phẩm chất, đạo đức và bản lĩnh, nhiệt tình và tâm huyết với hoạt động công đoàn, 
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, góp phần xây dựng giai cấp công nhân 
Việt Nam vững mạnh, đủ sức thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình trong giai  đoạn mới. 
Ba là, tăng cường giáo dục công nhân ý thức tự lực tự cường, giúp nhau trong cuộc 
sống đời thường cũng như trong quá trình làm chủ khoa học công nghệ. Cùng với nhiệm 
vụ giáo dục nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cho giai cấp công nhân. 
Việc giáo dục, rèn luyện, xây dựng cho giai cấp công nhân ý thức công dân, lòng yêu 
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao bản lĩnh 
chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận rõ đối tượng, đối tác để một mặt kiên 
quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; 
mặt khác, tăng cường hợp tác với bạn bè nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nhiệm vụ hết 
sức quan trọng. goài ra, cũng cần phải xây dựng cho công nhân lối sống văn hoá, có tác 
phong công nghiệp và kỷ luật lao động; có lương tâm nghề nghiệp, có ý chí vươn lên, 
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, có quyết tâm chiến thắng trong cạnh tranh, làm giàu cho 
bản thân, gia đình và xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội  chủ nghĩa. 
Riêng bản thân em là học sinh, sinh viên….    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Giai cấp công nhân hiện đại – sản phẩm của nền nền đại công nghiệp hiện đại quy mô 
ngày càng lớn, là giai cấp tiên tiến, luôn giữ vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội. 
Xuất phát từ địa vị kinh tế - xã hội và đặc điểm chính trị xã hội, giai cấp công nhân trở 
thành giai cấp có sứ mệnh lịch sử cao cả thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ chủ 
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không chỉ ở mỗi quốc gia dân 
tộc mà trên phạm vi toàn thế giới. Để đảm đương sứ mệnh lịch sử to lớn đó, dù dưới 
chủ nghĩa tư bản hay dưới chủ nghĩa xã hội giai cấp công nhân hiện đại phải không 
ngừng nâng cao về số lượng, chất lượng và tổ chức; phải nâng cao giác ngộ và bản lĩnh 
chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp xứng đáng là lực lượng đi đầu trong công 
cuộc xây dựng xã hội mới. Công cuộc xây dựng đất nước định hướng xã hội chủ nghĩa 
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan 
trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc 
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân 
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là bằng chứng chỉ rõ năng 
lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta, vai trò không có lực lượng xã hội nào có  thể thay thế được. 
Câu 2: Quan điểm của chủ nghĩa khoa học xã hội về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa  xã hội. 
Trong chủ nghĩa xã hội, chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa mới đạt tới giới hạn 
đảm bảo cho xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối “làm theo năng lực, hưởng theo lao 
động”. Theo quan điểm của Các Mác và Ph. Angghen, sự phát triển xã hội thì hình thái 
kinh tế cộng sản chủ nghĩa ra đời từ xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển với tiền đề thực 
tiễn là sự phát triển vượt bậc của lượng sản xuất. Chính vì vậy ở những nước đó đã có 
đủ tiền đề vật chất để quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội (giai đoạn thấp của chủ nghĩa 
cộng sản) và thời kỳ quá độ là thời kỳ cải tạo các quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan 
hệ sản xuất mới- quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp với trình độ phát triển của lực 
lượng sản xuất trong xã hội. Và để hiểu rõ hơn về chế độ này, chúng ta sẽ tìm hiểu và 
phân tích thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa dựa trên quan điểm của chủ nghĩa khoa  học xã hội. 
Thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tiền tư bản 
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội của thời kỳ quá độ 
là xã hội đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của 
chủ nghĩa tư bản và những yếu tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa 
xã hội mới phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của chính 
nó. Để chuyển từ xã hội chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội mà xã hội chủ 
nghĩa phát triển trên chính cơ sở vật chất – kỹ thuật của nó, cần phải trải qua một thời 
kỳ quá độ nhất định. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải 
từ các căn cứ sau đây: 
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản 
được xây dựng dựa trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất; dựa 
trên chế độ áp bức và bốc lột. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng dựa trên cơ sở chế công 
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới hai hình thức là nhà nước và tập thể; không 
còn giai cấp đối kháng, không còn tình trạng áp bức, bốc lột. 
Hai là, chủ nghĩa khoa học xã hội được dựa trên nền sản xuất công nghiệp có trình độ 
cao. Quá trình này đã tạo ra tiền đề vật chất – kỹ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội. 
Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa xã 
hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội có    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
thể phải kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ  nghĩa. 
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát sinh trong lòng chủ nghĩa 
tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát 
triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, 
tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. 
Bốn là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới mẻ, khó khăn và phức tạp, 
phải cần có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc  đó. 
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo cách mạng 
sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn 
hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất – kỹ thuật và đời sống tinh thần của 
chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và 
nhân dân lao động giành chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. 
Có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa như  sau: 
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế 
nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất, trong đó thành phần 
kinh tế nhà nước và hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò  chủ đạo. 
Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa 
dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức 
tạp. Nói chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí 
thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tùy theo 
từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu  tranh với nhau. 
Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn 
tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa 
còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông… Lênin, tính tự phát tiểu tư 
sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách 
mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, 
chúng thường xuyên đấu tranh với nhau. 
Để hiểu rõ những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ tìm 
hiểu nội dung của thời kỳ này: 
Trong lĩnh vực chính trị: Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, 
chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước 
và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong 
hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động: xây dựng các tổ 
chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; 
xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm 
vụ của mỗi thời kỳ lịch sử. 
Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: Thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng 
khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư 
tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; 
xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn  hóa trên thế giới.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Trong lĩnh vực xã hội: Phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ 
để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp 
dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ 
tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện, 
tiền đề cho sự tự do của người khác. 
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con 
đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử 
có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà 
giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình thái kinh tế xã hội 
cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được dựa trên cơ sở hoàn thành nội dung đó. Việt Nam 
lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, 
đã tạo ra những cơ hội cũng như thách thức đáng kể trong quá trình xây dựng. Và để 
hiểu rõ con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng như trong thời kỳ quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ phân tích bản chất, đặc trưng và nhiệm vụ… 
Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt 
Nam: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 ở Miền Bắc và năm 
1975 trên phạm vi cả nước theo kiểu quá độ gián tiếp hoặc như V. I. Lênin nói là kiểu 
“đặc biệt của đặc biệt”. Đó là sự lựa chọn tất yếu dựa trên những căn cứ sau: 
+ Căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở những nước nghèo nàn 
lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà 
không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. 
+ Căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư 
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc cách mạng xã 
hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó cũng là thời đại độc lập dân tộc gắn liền với 
chủ nghĩa xã hội, nên nhiều nước đã đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ 
nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Lào… 
+ Căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong quá trình phát triển của 
cách mạng Việt Nam, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản 
trước hết là sự lựa chọn của chính Đảng ta: Ngay từ “Cương lĩnh chính trị năm 1930” 
đến “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được 
trình bày ở Đại hội VII năm 1991, Đảng ta đều thể hiện bản lĩnh chính trị về con đường 
đi lên chủ nghĩa xã hội. 
Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa chọn của chính nhân dân lao động nước ta 
khi theo Đảng là cách mạng là muốn có cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Để mang lại ấm 
no, hạnh phúc cho nhân dân không có con đường nào khác là con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội. 
Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển về kinh tế, 
chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, nhưng Đảng ta vẫn khẳng 
định đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường duy nhất đúng đắn. Chủ nghĩa xã hội vẫn 
là khuynh hướng phát triển khách quan của thời đại. Nó không chỉ là lý tưởng mà là 
hiện thực sinh động trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Từ sau khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức lại con đường 
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và xác định: phát triển kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là 
phương thức tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khái niệm “Kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa” được khẳng định tại Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam 
năm 2001. Quan điểm đó tiếp tục được được phát triển qua các kỳ Đại hội X và XI. Tại 
Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, 
đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến lược  trong 10 năm tới”. 
Kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với 
những đặc trưng “là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị 
trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động 
theo những qui luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi những nguyên 
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Một trong những yếu tố cơ bản của kinh tế thị 
trường là sự tồn tại của các chủ sở hữu độc lập và nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình 
thức sở hữu. Sở hữu hỗn hợp là đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở nước ta trong 
quá trình đổi mới. Các thành phần sở hữu cùng phát triển mạnh mẽ, trong đó công hữu 
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Trong quá trình đổi mới đất nước, quan điểm của Đảng về vai trò của các thành phần 
kinh tế đã có những thay đổi tiến bộ phù hợp với thực tiễn của thời kỳ quá độ ở nước 
ta. Trong Hiến pháp năm 1992, quy định, kinh tế nhà nước được củng cố, phát triển và 
giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của 
nền kinh tế quốc dân. Qua thực tiễn phát triển đất nước thời gian qua cho thấy, một loạt 
các tập đoàn kinh tế nhà nước được hưởng những điều kiện thuận lợi hơn so với các 
thành phần kinh tế khác, nhưng lại rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ, thậm chí đứng 
trước nguy cơ phá sản do tình trạng tham nhũng, lãng phí, quản lý kém hiệu quả. Trước 
thực trạng đó, Đảng ta đã có sự thay đổi trong quan điểm khẳng định sự bình đẳng của 
các thành phần kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường. Bản sửa đổi Hiến pháp năm 
1992 đã khẳng định: các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của 
nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài hợp tác bình đẳng và cạnh tranh theo pháp 
luật. Đây là bước thay đổi quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta tuy nhiên còn 
đòi hỏi sự quyêt tâm của Đảng và Nhà nước trong thực tiễn xây dựng đất nước. Các 
thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau, không có hiện tượng đặc quyền, đặc lợi sẽ 
tạo nên sự hợp tác, hỗ trợ giữa các thành phần kinh tế tạo nên động lực cho sự phát triển 
kinh tế. Sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gắn liền 
với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đang từng bước tạo ra tiền đề vật 
chất thiết yếu cho chủ nghĩa xã hội. 
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền 
sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo 
và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp 
trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, 
so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. 
Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh 
tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa 
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, trong 
đó nhiệm vụ trọng tâm là; 
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền 
đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội. 
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy 
xây dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài. 
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu 
to lớn trên các lĩnh vực, kinh tế, văn hóa, xã hội được bạn bè thế giới ghi nhận. Những 
thành tựu đó, chứng minh tính đúng đắn của Đảng và dân tộc ta trong việc lựa chọn con 
đường phát triển đất nước và là một minh chứng chứng minh tính đúng đắn của quan 
điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở các quốc gia 
chưa kinh qua chủ nghĩa tư bản… 
Về mặt kinh tế: Việt Nam đã có 4 năm liên tiếp 2016-2019 cơ bản hoàn thành và hoàn 
thành vượt mức kế hoạch đề ra, năm sau tốt hơn năm trước, tạo đà để Việt Nam đứng 
vững trong sóng gió. Việt Nam thuộc nhóm các nước tăng trưởng kinh tế cao nhất thế 
giới, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định, cải cách thể chế được đẩy mạnh, tổng số doanh 
nghiệp tăng gấp 1,5 lần... Đây là thành tựu chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng 
doanh nghiệp và toàn thể nhân dân, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Theo Báo cáo 
của Chính phủ về tình hình kinh tế-xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020, tốc độ tăng 
trưởng giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm. Năm 2020, mặc dù chịu 
ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, nhưng tăng trưởng vẫn đạt 2,91%; là một trong    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
những quốc gia tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Nhờ thực hiện 
đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương 
đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. 
Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở 
thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 
17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ  năm 2008. 
Về mặt tư tưởng – văn hóa: Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt 
văn hoá phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng 
Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế 
giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc 
hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) 
của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với 
các nước có cùng trình độ phát triển. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục 
miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xoá mù chữ, 
phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; 
số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam 
có 95% người lớn biết đọc, biết viết. 
Câu 3: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc trưng của chủ nghĩa xã  hội. 
Xã hội xã hội chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội – giai đoạn thấp nhất của chủ nghĩa cộng 
sản) là một xã hội có những đặc điểm cơ bản sau đây: 
Thứ nhất, cơ sở vật chất – kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp 
được phát triển lên từ những tiền đề vật chất – kỹ thuật của nền đại công nghiệp tư 
bản chủ nghĩa. Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng với 
nó, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Công cụ thủ công là 
đặc trưng cho cơ sở vật chất – kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Nền đại 
công nghiệp cơ khí đã từng là cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Chủ 
nghĩa xã hội nảy sinh với tư cách là một chế độ xã hội phủ định chế độ tư tư bản chủ 
nghĩa, do vậy cơ sở vật chất – kỹ thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp 
phát triển lên từ tiền đề vật chất – kỹ thuật của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, 
có trình độ cao hơn so với trình độ nền công nghiệp của xã hội tư bản chủ nghĩa. 
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế 
độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Theo C.Mác và Ăngghen, giai cấp vô 
sảm phải từng bước đoạt lấy tư liệu sản xuất từ trong tay giai cấp tư sản, tập trung những 
tư liệu ấy vào trong tay nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội. Do vậy, chỉ đến xã hội 
chủ nghĩa thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xác lập đầy đủ. Tới thời kỳ 
này, tư liệu sản xuất còn tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, 
người lao động làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội, do đó không còn tình trạng  người bóc lột người.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức lao 
động và kỷ luật lao động mới. Khi đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã 
mang tính xã hội hóa, không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều 
kiện cho người lao động kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích 
toàn xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội cũng tạo ra được cách thức tổ chức lao 
động mới dựa trên tinh thần tự giác của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản 
và quản lý thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. 
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối 
theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản. 
Thứ năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất giai 
cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. 
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con 
người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát  triển toàn diện. 
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ 
sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã 
khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: 
1/ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội 
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;  2/ Do nhân dân làm chủ; 
3/ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại về quan hệ sản 
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; 
4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 
5/ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh 
phúc, phát triển toàn diện; 
6/ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau  cùng tiến bộ; 
7/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân 
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; 
8/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới Phương 
hướng xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay: 
Một là, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh CNH, 
HĐH đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi 
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. 
Hai là, hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 
Ba là, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển, nâng cao chất lượng 
nguồn nhân lực; tăng cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ. 
Bốn là, xây dựng phát triển văn hóa, con người; quản lý và phát triển xã hội; thực hiện 
tiến bộ công bằng xã hội. 
Năm là, đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. 
Sáu là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và 
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Bảy là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường 
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. 
Tám là, xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, 
vì nhân dân; tiếp tục cải cách sâu rộng thủ tục hành chính; đẩy mạnh đấu tranh phòng 
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. 
Chín là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức  chiến đấu của Đảng.  Kết bài: Gợi ý:  - 
Khẳng định tính đúng đắn, tính tất yếu, khách quan của hình thái kinh tế - 
xã hộicộng sản chủ nghĩa.  - 
Khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn đi lên con đường XHCN của 
Việt Nam.Biểu hiện qua thành quả: giành thắng lợi trong 2 cuộc chiến chống Pháp, Mỹ, 
chiến tranh bảo vệ biên giới,...  - 
Liên hệ bản thân: Cần làm gì để bảo vệ thành quả đó hay xã hội đó sẽ được 
cái gì màchúng ta phải kiên trì theo đuổi,… 
Câu 4: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khao học về bản chất, nguồn gốc, tính chất 
của tôn giáo, các nguyên tắc cơ bản xử lý mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và  tôn giáo. 
Mở bài: Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng 
nhất của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện 
rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Vậy tôn giáo là gì?...  * Khái niệm tôn giáo: 
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo 
vào đầu óc của con người - những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng của 
họ, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan, thông qua 
sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên trở thành siêu tự nhiên, thần bí,... 
* Bản chất của tôn giáo: 
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo, tín ngưỡng là một loại hình thái ý thức xã 
hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan, chứa đựng những yếu tố tiêu cực và tích cực  nhất định. 
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hoá do con người sáng tạo ra. Con người 
sáng tạo ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện 
vọng, suy nghĩ của họ. Nhưng sáng tạo ra tôn giáo, con người lại sợ hãi tôn giáo, tuyệt 
đối hoá và phục tùng tôn giáo vô điều kiện. 
Về phương diện thế giới quan, nói chung, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có 
sự khác biệt với thế giới quan duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. 
Trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mác xít không bao giờ có thái độ 
xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, mà luôn 
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân. 
* Nguồn gốc của tôn giáo    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Nguồn gốc kinh tế xã hội, Do sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự 
nhiên, xã hội để giải quyết các yêu cầu, các mục đích kinh tế - xã hội, cũng như cuộc 
sống của bản thân họ. Sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức về chính trị, sự hiện diện của 
những bất công xã hội cùng với những thất vọng, bất hạnh trong cuộc đấu tranh giai 
cấp của giai cấp bị trị - đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo. Trong những thập kỷ gần 
đây, với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội, con người có điều kiện hơn 
trong quan tâm giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh. 
Đây cũng là nguyên nhân cho sự nảy sinh, phát triển nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng và 
xuất hiện những loại hình tôn giáo mới. VÍ DỤ: Khi xã hội phân chia giai cấp, con 
người bất lực trước sức mạnh tự nhiên của xã hội như bất công, giàu nghèo, bệnh tật, 
chiến tranh,... Họ cho rằng những bất hạnh dó do sự định đoạt của thần linh, thượng đế, 
do ma quỷ quấy nhiễu. Vì vậy, họ đành cúi đầu, thờ phụng để mong được che chở, tha  thứ. 
Nguồn gốc nhận thức, Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người 
về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Khi khoảng cách giữa “biết” 
và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà khoa học chưa giải thích được, thì điều 
đó thường được giải thích thông qua lăng kính các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã 
được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ dân trí thấp, thì đây vẫn là điều kiện, là 
mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển. VÍ DỤ: Ngày xưa, người ta hoàn 
toàn không biết từ đâu có các hiện tượng ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của mình 
như mưa, gió, bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, sấm sét,.. Do đó, con người đành thờ phụng, 
cầu khấn mong sự che chở của thượng đến, thần linh, trời phật. Sự bất lực và sợ hãi của 
người ta tăng lên đi đến sự hình thành của những tôn giáo đầu tiên như thờ cúng các  thần thánh, ma quỷ. 
Nguồn gốc tâm lý, Từ sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát triển của thiên nhiên và xã hội 
đã dẫn con người đến nhờ cậy đến thần linh, mà ngay cả những nét tâm lý như tình yêu, 
lòng biết ơn, sự kính trọng,… trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con 
người với con người nhiều khi cũng được thể hiện qua tín ngưỡng, tôn giáo. VÍ DỤ: 
Một đền thờ ở Ấn Độ đã bổ sung thêm “Tượng nữ thần corona” để cầu nguyện cho 
nước mình sớm vượt qua đại dịch covid 19. Tu sĩ tại đây làm lễ cầu nguyện, để lại thức 
ăn dân lên cho “nữ thần corona”, đồng thời rửa tượng thần bằng nước nghệ và sữa. Đó 
được xem là cách để thần linh giúp cho người dân vượt qua khó khăn bởi những người 
theo đạo Hindu cho rằng, cúng lễ các vị “thần” là các vi rút, nguồn gốc gây ra dịch bệnh 
thì có thể giảm bớt dịch bệnh. 
* Tính chất của tôn giáo 
Tính lịch sử của tôn giáo, Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, bởi vì nó 
có sự hình thành, tồn tại và phát triển trong những giai đoạn lịch sử nhất định, nó có 
khả năng biến đổi để thích nghi với nhiều chế độ chính trị - xã hội. 
(Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi 
khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất 
các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong 
đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người. Đương nhiên, để đi đến 
trình độ đó sẽ còn là một quá trình phát triển rất lâu dài của xã hội loài người.) 
Tính quần chúng của tôn giáo, Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả 
các dân tộc, quốc gia, châu luc, không một quốc gia nào, dân tộc nào không có một hay 
nhiều tôn giáo. Tính quần chúng biểu hiện của số lượng tín đồ, các tôn giáo là nơi sinh 
hoạt văn hoá, tinh thần của một bộ phận khá đông đảo quần chúng nhân dân lao động.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Tính chính trị của tôn giáo, Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã 
phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị. Khi xã hội 
chưa có giai cấp, tôn giáo chỉ phản ánh nhận thức hồn nhiên, ngây thơ của con người 
về bản thân và thế giới xung quanh mình, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất 
chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự 
đối kháng về lợi ích giai cấp. Trước hết, do tôn giáo là sản phẩm của những điều kiện 
kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích, nguyện vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc 
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, nên tôn giáo mang tính chính trị. Mặt khác, khi 
các giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp mình, 
chống lại các giai cấp lao động và tiến bộ xã hội, tôn giáo mang tính chính trị tiêu cực,  phản tiến bộ. 
* Nguyên tắc cơ bản ứng xử với vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH 
Thứ nhất, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân 
dân. Tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân 
dân. Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản 
chất ưu việt của chế độ XHCN. Tôn trọng tự do tín ngưỡng còn là tôn trọng quần chúng. 
Quần chúng là nguồn gốc của mọi sức mạnh, là động lực phát triển của lịch sử. Đoàn 
kết các lực lượng quần chúng có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng tôn giáo là cơ sở 
để đấu tranh chống lại các luận điệu vu cáo, các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống nhà  nước XHCN. 
Thứ hai, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với quá trình 
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chỉ hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu 
cực của tôn giáo đối với quần chúng lao động. Phải xác lập được một thế giới hiện thực 
không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học,… cũng như những tệ nạn nảy sinh 
trong xã hội. Chỉ có thông qua quá trình đó để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và 
trí tuệ con người thì mới có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo 
trong đời sống xã hội. 
Thứ ba, phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín 
ngưỡng tôn giáo trong vấn đề tôn giáo. Là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại 
mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Việc phân biệt 
hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng “tả” hoặc hữu trong quá trình quản 
lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, đến một bộ phận quần 
chúng trong xã hội (những người theo tôn giáo). 
Thứ tư, quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. Tôn giáo 
không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận động và biến 
đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể. Ở 
những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống 
xã hội không giống nhau. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, 
đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn  giáo cụ thể. 
* Quan điểm, chính sách Đảng Cộng Sản, Nhà nước đối với vấn đề tôn giáo.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, cũng là một thực thể xã hội đã tồn tại hàng 
nghìn năm cùng với xã hội loài người. Từ khi xuất hiện, tôn giáo luôn là yếu tố tham 
gia vào các quá trình xã hội, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống con người. Trong 
lịch sử phát triển, tôn giáo đã trải qua nhiều bước thăng trầm và biến đổi cùng với sự 
biến đổi của lịch sử nhân loại. Ngày nay trên thế giới, hoạt động tôn giáo vẫn không hề 
suy giảm mà đang nổi lên như một hiện tượng sống động của thời đại với những diễn 
biến phức tạp, thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều quốc gia, dân tộc. Các tôn giáo 
không chỉ có xu hướng phục hồi, phát triển mạnh mẽ ở một số nước mà còn liên quan 
chặt chẽ đến những cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc đẫm máu đang diễn ra ở nhiều nơi; 
đụng chạm đến vấn đề bảo lưu, giữ gìn bản sắc văn hóa của từng cộng đồng dân tộc 
trước xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa hiện nay. Việt Nam là một quốc gia có nhiều 
tôn giáo đã tồn tại lâu dài cùng với lịch sử dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng 
sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những chính sách đối với 
tôn giáo một cách đúng đắn nên đã vận động được đông đảo quần chúng tín đồ và chức 
sắc tôn giáo tham gia và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân 
tộc cũng như xây dựng đất nước đi theo con đường đổi mới. Từ khi thực hiện công cuộc 
đổi mới đất nước đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, 
chính sách, pháp luật quan trọng, thể hiện những quan điểm đổi mới, khoa học về tín 
ngưỡng tôn giáo, đáp ứng được những nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của quần chúng 
tín đồ và chức sắc tôn giáo. Chính điều đó đã làm cho đồng bào có đạo phấn khởi, tin 
tưởng vào chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta, tích cực góp phần 
vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Song, một thực tế khác là hoạt 
động tôn giáo ở nước ta trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng và diễn biến 
khá phức tạp. Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đa dạng, phong phú, thu hút đông đảo 
quần chúng thuộc nhiều tầng lớp xã hội tham gia. Hoạt động sửa chữa, nâng cấp, xây 
cất mới các cơ sở thờ tự tôn giáo diễn ra khắp nơi ở cả thành thị và nông thôn. 
Hiện nay, trên thế giới chỉ còn một số nước theo mô hình nhà nước phi thế tục, còn lại 
hầu hết theo mô hình nhà nước thế tục. Trong đó, những nước như Mỹ, Canada vẫn 
xem tôn giáo là chỗ dựa tinh thần của xã hội. Indonesia nhấn mạnh niềm tin Thượng 
Đế là một trong 5 nguyên tắc của nền cộng hòa, và gần như bắt buộc mỗi người dân 
phải theo một trong 5 tôn giáo đang được nhà nước cho hoạt động. Ở Thái Lan, Phật 
giáo được xác định là quốc giáo, học sinh đều phải học luân lí nhà Phật. Trong hệ thống 
xã hội chủ nghĩa trước đây, một số nước có những sai lầm khi giải quyết vấn đề tôn 
giáo. Hiến pháp Liên Xô năm 1936 ghi: “Tự do tôn giáo và tự do chống tôn giáo”. Ở 
Trung Quốc, trong thời kì Cách mạng Văn hóa (1966 - 1976), chính sách tự do tôn giáo 
bị vi phạm nghiêm trọng. Tôn giáo là một trong những đối tượng bị công kích, một số 
cơ sở thờ tự bị phá hủy. Phải đến sau Hội nghị toàn thể lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung 
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI (12/1978) mới quay lại với chính sách tôn  giáo đúng đắn.    lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24 
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội 
Nhưng với Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm xuyên suốt, nhất quán là tôn trọng 
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Ngay từ 
năm 1930, trong Chỉ thị của Đảng về việc thành lập Hội Phản đế Đồng minh đã ghi: 
“Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của quần chúng”. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng 
Tháng Tám năm 1945, Đảng và Chính phủ xác định rõ: “Tín ngưỡng tự do. Lương - 
Giáo đoàn kết”. Trong bản báo cáo tại Hội nghị phổ biến Sắc lệnh về tôn giáo năm 
1955, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã nêu ra một số nhận thức chưa đúng của cán bộ, 
đảng viên về vấn đề tôn giáo như lạm dụng câu nói của C. Mác “Tôn giáo là thuốc 
phiện, mê hoặc quần, rồi đối với tôn giáo chỉ có một chiều là chống, muốn xóa bỏ ngay, 
không thấy được tôn giáo đã biến thành một phần nhu cầu trong đời sống quần chúng. 
Tôn giáo vốn không phải là trở lực. Nó chỉ trở thành trở lực khi bị đế quốc, phong kiến 
lợi dụng và khi chính quyền làm sai chính sách sẽ đẩy quần chúng về phía đối địch. 
Cho đến năm 1981, sự nhìn nhận tôn giáo ở nước ta vẫn còn nặng về góc độ chính trị 
và xã hội. Về góc độ chính trị, chủ yếu giới hạn trong việc các tôn giáo bị các thế lực 
thù địch lợi dụng để chống phá sự nghiệp cách mạng. Về góc độ xã hội, xem tôn giáo 
là tiêu cực, buôn thần bán thánh, đánh đồng tôn giáo với mê tín khi gọi là “mê tín tôn 
giáo”. Về góc độ tư tưởng chính trị, xem niềm tin tôn giáo là “tình cảm không đúng 
và lí tưởng mù quáng”, còn đồng nhất tôn giáo với một thứ công cụ áp bức tinh thần 
đối với quần chúng lao động. Phải đến Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị khóa VI ra 
ngày 16/10/1990 có tiêu đề “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” mới 
thực sự là bước ngoặt nhận thức của Đảng đối với vấn đề tôn giáo.