lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
NỘI DUNG 1
Câu 1.1: Quan điểm của chủ nghĩa hội khoa học về giai cấp công nhân sứ
mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.
Cùng với chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư; việc phát hiện ra
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến đại của C.Mác.
Để khẳng định vai trò to lớn của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng vĩ đại này,
các nhà kinh điển đã đề cập đến trong nhiều tác phẩm của mình. Trong tác phẩm Tuyên
ngôn của Đảng Cộng Sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: Giai cấp sản không
những đã n những vũ khí giết mình; nó n to ra những người sử dụng vũ kấy
những công nhân hiện đi, những người sản”. Học thuyết của Mác đã tìm ra lực
lượng xã hội để thực hiện việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tiến hành xây dựng xã hội mới
– xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Và để hiểu rõ hơn về học thuyết vĩ đại này,
chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm giai cấp công nhân và phân tích nội dung sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân dựa trên quan điểm của chủ nghĩa khoa học xã hội.
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Angghen đã dùng một số thuật
ngữ khác nhau để biểu đt khái niệm đó, như: giai cấp sản, giai cấp hiện đại, giai
cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại công nghiệp… Mặc dù vậy, về cơ
bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó chỉ là giai
cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai
cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
diễn đạt bằng nhiều thuật ngữ khác nhau, song khái niệm giai cấp công nhân được các
nhà kinh điển xác định trên 2 phương diện:
Trên phương diện kinh tế - xã hội, trong phạm vi phương thc sản xuất bản ch
nghĩa, giai cấp công nhân là giai cấp có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là
những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất
tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày càng trình độ hội hóa cao. Theo
sự phân tích của C.Mác và Ph.Ăngghen: "Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp sản li là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp"; "Công nhân cũng một phát minh của thời đại
mới, giống như máy móc vậy... Công nhân Anh đứa con đầu lòng của nền công nghiệp
hiện đại".
Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất bản
chủ nghĩa. Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người công
nhân không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ buộc phải bán sức lao động
cho nhà bản để kiếm sống bị nhà bản bóc lột giá trị thặng dư. C.Mác
Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì chính nó là đặc trưng khiến cho
giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động làm thuê cho giai cấp tư
sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Trên phương diện chính trị - xã hội, trong ch nhìn duy vật biện chứng về lịch sử,
sự thống trị của giai cấp tư sản, đặc biệt của bộ phận sản đại công nghiệp là điều kiện
ban đầu cho sự phát triển của giai cấp công nhân. Xem xét giai cấp công nhân trên
phương diện này, các nhà sáng lập xã hội khoa học không những làm sáng tỏ quan điểm
về giai cấp công nhân còn làm sáng tỏ những đặc điểm của nó với tư cách một
giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới.
* Ba đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, lao động bằng phương thức công nghiệp, quá trình lao động mang tính chất
xã hội hóa cao, đây là đặc điểm nổi bật của GCCN.
Thứ hai, sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, chủ thcủa quá trình sản
xuất vật chất hiện đại. Do đó, GCCN là đại biểu tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiên
tiến, phương thức sản xuất tiên tiến mang tính chất XH hóa cao, quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội hiện đại.
Thứ ba, nền SX đại công nghiệp và phương thức SX xã hội hóa cao đã rèn luyện cho
giai cấp ng nhân những phẩm chất về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp
tác và tâm lý lao động công nghiệp.
Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết cho một giai cấp cách mạng và
có vai trò lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại, giai cấp công nhân một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng vi quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đi, với nhịp độ phát triển của
lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản
tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất
và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Mở rộng, ở các nước bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân những người không có
hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp sản và bị giai
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng
nhân dân lao động làm chủ những liệu sản xuất chủ yếu cùng nhau hợp tác lao
động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là những nhiệm vụ mà giai
cấp công nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong là lực lượng đi đầu
trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Thứ nhất, về nội dung kinh tế là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa
cao, là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới tiên tiến nhất dựa trên chế độ sở hữu xã hội
công hữu về tư liệu sản xuất, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về
xu thế phát triển của lịch sử xã hội, vai trò chủ thể của giai cấp công nhân trước hết là
chủ thể của quá trình sản xuất vật chất, sau đó là tạo tiền đề vật chất kỹ thuật cho sự ra
đời của xã hội mới.
Thứ hai, về nội dung chính trị xã hội giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động
dưới sự lãnh đo của Đảng cộng sản tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền
thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ bóc lột áp bức của chủ nghĩa bản giành
quyền lực về ta giai cấp ng nhân và nhân dân lao động thiết lập nhà nước kiểu mới
mang bản chất giai cấp công nhân cải to hội tổ chức xây dựng hội mới
phát triển kinh tế và văn hóa xây dựng nền chính trị dân chủ pháp quyền thực hiện dân
chủ công bằng bình đẳng và tiến bộ xã hội.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Thứ ba, về nội dung văn hóa tưởng thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp
công nhân trong tiến trình cách mạng cải to xã hội xây dựng xã hội mới trên lĩnh
vực văn hóa tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới lao động công bằng
dân chủ, bình đẳng và tự do. Xét v thực chất giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách
mạng về văn hóa tư tưởng bao gồm cải tạo cái lỗi thời lạc hậu, xây dựng cái mới tiến
bộ trong lĩnh vc ý thức tưởng. * Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân
Một là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ tiền đề kinh tế - xã hội của
sản xuất mang tính xã hội hóa với hai biểu hiện nổi bật là:
Thứ nhất, xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất thúc đẩy sự phát
triển của hội khi thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn bản trong lòng phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, quá trình sản xuất này đã sinh ra giai cấp công nhân và rèn luyện nó thành ch
thể thực hiện sứ mệnh lịch sử
Hai là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng của quần chúng
và mang lại lợi ích cho đa số.
Ba là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở hữu tư
nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để tư hữu về tư liệu
sản xuất.
Bốn , việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị là tiền đề cải tạo toàn diện
sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới với mục tiêu cao nhất
là giải phóng con người.
* Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định giai cấp công nhân. GCCN
là con đẻ, là sản phẩm của nền đại công nghiệp trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại vì thế giai cấp công nhân đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại tại.
Thứ hai, do địa vị chính trị hội của giai cấp công nhân quy định. Đây là giai cấp tiên
tiến giai cấp cách mạng, có tính tổ chức và kỷ luật, tự giác và đoàn kết,... * Điều kiện
chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử
Chủ nghĩa Mác Lênin chỉ ra những điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan để giai cấp
công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình đó là:
Thứ nhất, sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng.
Thứ hai, Đảng Cộng sản nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng Sản - đội tiên phong của giai
cấp công nhân ra đời và đảm nhận vai trò nh đạo cuộc cách mạng, là du hiệu về sự
trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
Thứ ba, ngoài hai điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan liêu trên chủ nghĩa Mác Lênin
còn chỉ rõ: để cuộc cách mạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đi tới
thắng lợi, phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp ng nhân với giai cấp nông dân
và các tầng lớp lao động khác.
* Giai cấp công nhân và việc thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân hiện nay:
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Giai cấp công nhân hiện nay: những tập đoàn người sản xuất dịch vụ bằng phương
thức công nghiệp tạo nên cơ sở vật chất cho sự tồn tại phát triển của thế giới hiện
nay.
Thứ nhất, về điểm tương đồng:
Giai cấp công nhân hiện nay vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại, là
chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính hội hóa ngày càng
cao.
Một bộ phận lớn công nhân hiện đại vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản hiện nay
bóc lột giá trị thặng dư.
Thứ hai, những biến đổi khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại Gắn liền với
cách mạng mạng khoa học và công nghệ hiện đại với sự phát triển nền kinh tế tri thức,
công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Tri thức hóa và trí thức hóa công nhân
hai mặt của cùng một quá trình của xu hướng trí tuệ hóa đối với công nhân và giai cấp
công nhân. Tính chất hội hóa của lao động hiện đại ngày càng được mở rộng nâng
cao lực lượng sản xuất hiện đại đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia dân tộc và mang tính
chất quốc tế. Đó là những biểu biến đổi mới của giai cấp công nhân hiện nay so với giai
cấp công nhân thế giới thế kỷ XIX.
* Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay
Về nội dung kinh tế - xã hội: trong quá trình sản xuất với công nghệ hiện đại năng suất
chất lượng cao đảm bảo cho sự phát triển bền vững sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, nhân tố kinh tế hội thúc đẩy trứng mùi c tiền đề của chủ nghĩa hội trong
lòng chủ nghĩa tư bản nhìn. Mặt khác mâu thuẫn lợi ích cơ bản bản giữa giai cấp công
nhân với giai cp tư sản cũng ngày càng sâu sắc ở từng quốc gia và trên phạm vi toàn
cầu.
Về nội dung chính trị - xã hội: ở các nước tư bản mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai
cấp công nhân và lao động là chống bất công và bất bình đẳng xã hội, mục tiêu lâu dài
là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đối với các nước
hội chủ nghĩa nghĩa tiếp tục lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, giải quyết
thành công các nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Về nội dung tưởng, cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa hệ giá trị của giai cấp công
nhân với hệ giá trị của giai cấp tư sản. Đó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội với
nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác- Lênin với chnghĩa cá nhân thuộc ý thức hệ giai
cấp tư sản.
Ngày nay, cuộc đấu tranh tư tưởng hết sức phức tạp, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng
và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu vào cuối thế
kỷ XX, nhiều người đã bộc lộ sự dao động hoài nghi về sứ mệnh lịch sử giai cấp
công nhân. c thế lực thù địch, chống cộng, cùng với các phần tử hội, xét lại
chủ nghĩa thực chứng mới dưới mọi hình thức đã đang mưu toan xuyên tạc, phủ
nhận nhiều quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó có quan điểm về giai cấp
công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong bối cảnh đó, việc làm sáng
tỏ và nhận thức một cách đúng đắn hơn về giai cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh
lịch
sử của giai cấp công nhân không chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc, mà còn có ý nghĩa thực
tiễn hết sức to lớn.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Đối với cách mạng Vit Nam, giai cấp công nhân luôn có một vai trò và vị trí hết sức
quan trọng. Trong các giai đoạn cách mạng trước đây, giai cấp công nhân Việt Nam
không chỉ giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là một trong những lực lượng cách
mạng chủ yếu trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm xóa bỏ sự thống
trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phong kiến giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, giai cấp công
nhân Việt Nam tiếp tục đảm đương smệnh lịch sử lớn lao không chỉ tiếp tục giai
cấp lãnh đạo cách mạng còn lực lượng tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đổi
mới. Để khẳng định hơn nữa về vai trò và vị trí của giai cấp công nhân Việt am trong
giai đoạn cách mạng hiện nay, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung
ương khóa X ca Đảng Cộng Sản Việt am đã khẳng định: “Giai cấp công nhân Việt
Nam một lực lượng hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động
chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh
dịch vụ công nghệp, hoặc sản xuất kinh doanh dịch v tính chất công nghiệp”.
Quan niệm trên, tuy chưa phải là định nghĩa, nhưng đã phản ánh được những nội dung
chủ yếu của giai cấp công nhân Việt Nam. Đây là cơ sở để nhận biết, phân biệt giai cấp
công nhân Việt Nam với các giai tầng khác trong cơ cấu xã hội, đồng thời cũng để phân
biệt giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp công nhân trên thế giới.
sản phẩm trực tiếp của chính ch khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, lớp công
nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897)
thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp lần thứ hai (1924 - 1929). Cùng với quá tnh phát triển của cách mạng, giai
cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc
tế. Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân
Việt Nam còn có đặc điểm riêng:
Thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra và lớn lên từ một nước vốn thuộc
địa, nửa phong kiến, có truyền thống yêu nước, thức ttôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ
bé, song giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử,
dân tộc thừa nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong
trào cứu nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại.
Thứ hai, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn
lên, đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tưởng của giai cấp công nhân quốc tế,
nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí
Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản
chất cách mạng triệt để.
Thứ ba, do xuất thân từ nông dân lao động, giai cấp công công nhân Việt Nam bị thực
dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa nên giai cấp công nhân nước ta có mối quan hệ
máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách
mạng, liên minh giai cấp đã trở thành động lực là cơ sở vững chắc cho khối đi đoàn
kết dân tộc.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: “Là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua chính đảng của nó, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai
cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lc lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Cụ thể:
Về kinh tế, giai cấp công nhân Việt Nam là nguồn nhân lực lao động chủ yếu tham gia
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy học
công nghệ làm động lực, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước.
Về chính trị - xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ Đảng viên cần
phải nêu cao trách nhiệm tiên phong, đi đầu góp phần củng cố và phát triển cơ sở chính
trị xã hội quan trọng của Đảng, đồng thời giai cấp công nhân chủ động tích cực tham
gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ hội chủ nghĩa, để bảo vnhân dân đó trọng trách lịch sử
thuộc về sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Về văn hóa - tư tưởng, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc có nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa giáo
dục đạo đức cách mạng rèn luyện lối sống tác phong công nghiệp và văn minh hiện đại
tham gia vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận để bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại định hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới
cần thực hiện những nội dung cơ bản sau:
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Một , nâng cao chất lượng công tác đào tạo đào tạo lại đội ngũ ng nhân. Giai
cấp công nhân Việt Nam luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền thống
yêu nước, lao động cần cù, tính tiên phong và có khả năng sáng tạo trong lao động, sản
xuất và trong các hoạt động của đời sống xã hội. Hàng vạn cán bộ khoa học - kỹ thuật,
công nhân bậc cao, thợ giỏi đã thích ứng với cơ chế thị trường, tiếp cận nhanh với khoa
học, công nghệ tiên tiến, hiện đại, có nhiều sáng chế, giải pháp hữu ích, có giá tr cao
được áp dụng vào sản xuất và công tác. Tuy nhiên, trình độ học vấn, chuyên môn, nghề
nghiệp của đội ngũ công nhân Việt Nam hiện nay nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Tình trạng thiếu nhiều chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản giỏi công nhân
trình độ lành nghề cao, thừa lao động giản đơn đang din ra phổ biến tất cả c
ngành và các thành phần kinh tế. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm t lệ lớn, sức cạnh tranh ngày
càng gay gắt; nếu như giai cấp công nhân không ngừng nâng cao trình độ học vấn, tay
nghề thì khó có thể hy vọng kiếm được việc làm và có thu nhập, hoặc không sẽ bị đào
thải. Thực trạng trên đặt ra yêu cầu khách quan và nhiệm vụ cấp bách phải đẩy mạnh
công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân, có như vậy mới đủ sức cạnh tranh
việc làm khi ASEA đã chính thức hình thành, khi hip ước đối tác kinh tế chiến lược
xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết. Để đạt được mục tiêu đặt ra, công tác
đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công nhân phải đảm bảo các yêu cầu:
+ Tăng cường đầu tư các nguồn lực để đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công nhân đảm bảo
đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng, đồng bộ về cấu, trình độ chuyên n
nghiệp vụ, tay nghề giỏi, sáng tạo trong lao động, sản xuất, đủ khả năng làm chủ
được công nghệ tiên tiến và thích ứng nhanh với sự năng động của cơ chế thị trường.
+ Tăng cường quản lý nhà nước, đầu cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác đào tạo
nghề. Tiến hành quy hoạch mạng lưới các trường, các cơ sở dạy nghề, xây dựng trường
chuẩn, chương trình chuẩn để đào to công nhân có trình độ cao cho một số ngành kinh
tế mũi nhọn như: chế biến, dầu khí, tin học, điện tử, bưu chính viễn thông, hàng không
và các ngành dịch vụ khác.
+ Ctrọng gắn kết giữa đào tạo và sử dụng, nhằm đáp ng yêu cu nguồn lao động,
đảm bảo chất lượng cho phát triển kinh tế và hạn chế những lãng phí ngay trong công
tác đào tạo.
+ Xây dựng chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân tự học tập nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và chính sách đãi ngộ hấp dẫn đối
với công nhân có sáng kiến hay, có kinh nghiệm tốt, nhằm khích lệ đội ngũ công nhân
phát huy tài năng, trí tuệ trong sản xuất, kinh doanh.
Hai là, đổi mới hoạt động của tổ chức công đoàn doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích của
người lao động, nhất doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài, hoặc người nước ngoài
làm chủ doanh nghiệp. Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đã tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển và lượng công nhân ngày càng tăng lên. Đặc biệt
số lượng công nhân trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng lên
một cách rõ rệt bởi mức lương ở khu vực kinh tế này cao hơn, lợi ích hấp dẫn thu hút
được công nhân gắn bó với nghề nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận công nhân
vẫn chưa việc làm ổn đnh, nhiều doanh nghiệp vẫn còn xảy ra tình trạng kéo dài
thời gian lao động, điều kiện làm việc điều kiện sống của người công nhân nhân
chưa đảm bảo, tiền lương chưa đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu… Với tư cách là tổ
chức bảo vệ quyền lợi của người công nhân, tổ chức công đoàn doanh nghiệp phải
không ngừng đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động để làm tốt hơn nữa vai trò, trách
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
nhiệm của mình đối với quyền lợi, lợi ích của giai cấp công nhân. Sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt nam hiện nay.
+ Trước hết, công đoàn doanh nghiệp phải luôn hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn
công tác chủ yếu; lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động, tập hợp;
lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức lao
động thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội làm mục tiêu hoạt động.
+ Đa dng hóa các hình thức vận động, tập hợp quần chúng, để thu hút, động viên được
ngày càng đông đảo công nhân trong các thành phần kinh tế vào công đoàn và tự giác
tham gia hoạt động công đoàn.
+ Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên n, nghiệp vụ, kỹ năng hoạt
động cho cán bộ công đoàn, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có năng lực, trình độ,
phẩm chất, đạo đức và bn lĩnh, nhiệt tình và tâm huyết với hoạt động công đoàn,
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, góp phần xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam vững mạnh, đủ sức thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình trong giai
đoạn mới.
Ba , tăng cường giáo dục công nhân ý thức t lực tự cường, giúp nhau trong cuộc
sống đời thường cũng như trong quá trình làm chủ khoa học công nghệ. Cùng với nhiệm
vụ giáo dục nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cho giai cấp công nhân.
Việc giáo dục, rèn luyện, xây dựng cho giai cấp công nhân ý thức công dân, lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa hi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao bản lĩnh
chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận đối tượng, đối tác để một mặt kiên
quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch;
mặt khác, tăng cường hợp tác với bạn bè nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nhiệm vụ hết
sức quan trọng. goài ra, cũng cần phải xây dựng cho công nhân lối sống văn hoá, có tác
phong công nghiệp và kỷ luật lao động; có lương tâm nghề nghiệp, có ý chí vươn lên,
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, có quyết tâm chiến thắng trong cạnh tranh, làm giàu cho
bản thân, gia đình và xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
Riêng bản thân em là học sinh, sinh viên….
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Giai cấp công nhân hiện đại – sản phẩm của nền nền đại công nghiệp hiện đại quy mô
ngày càng lớn, giai cấp tiên tiến, luôn giữ vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội.
Xuất phát từ địa vị kinh tế - xã hội và đặc điểm chính trị xã hội, giai cấp công nhân trở
thành giai cấp sứ mệnh lịch sử cao cả thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không chỉ ở mỗi quốc gia dân
tộc mà trên phạm vi toàn thế giới. Để đm đương sứ mệnh lịch sử to lớn đó, dù dưới
chủ nghĩa bản hay dưới chủ nghĩa hội giai cấp công nhân hiện đại phải không
ngừng nâng cao về số lượng, chất lượng và tổ chức; phải nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình đ học vấn nghề nghiệp xứng đáng lực lượng đi đầu trong công
cuộc xây dựng xã hội mới. Công cuộc xây dựng đất nước định hướng xã hội chủ
nghĩa
do Đảng ta khởi xướng lãnh đo đã đạt được những thành tựu to lớn, ý nghĩa quan
trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất trong việc
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là bằng chứng chỉ rõ năng
lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta, vai trò không có lực lượng xã hội nào có
thể thay thế được.
Câu 2: Quan điểm của chủ nghĩa khoa học xã hội về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Trong chủ nghĩa hội, chế độ kinh tế sự phát triển văn hóa mới đạt tới giới hạn
đảm bảo cho xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối “làm theo năng lực, hưởng theo lao
động”. Theo quan điểm của Các Mác và Ph. Angghen, sự phát triển xã hội thì hình thái
kinh tế cộng sản chủ nghĩa ra đời từ xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển với tiền đề thực
tiễn là sự phát triển vượt bậc của lượng sản xuất. Chính vì vậy ở những nước đó đã có
đủ tiền đề vật chất để quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hi (giai đoạn thấp của chủ nghĩa
cộng sản) và thời kỳ quá độ là thời kỳ cải tạo các quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan
hệ sản xuất mới- quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trong hội.để hiểu rõ hơn về chế độ này, chúng ta sẽ tìm hiểu và
phân tích thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa dựa trên quan điểm của chủ nghĩa khoa
học xã hội.
Thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tiền tư bản
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội của thời kỳ quá độ
là xã hội đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của
chủ nghĩa tư bản và những yếu t mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa
hội mới phát sinh chưa phải chủ nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của chính
nó. Để chuyển từ xã hi chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội mà xã hi ch
nghĩa phát triển trên chính cơ sở vật chất – kỹ thuật của nó, cần phải trải qua một thời
kỳ quá độ nhất định. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hi được lý giải
từ các căn cứ sau đây:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản
được xây dựng dựa trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất; dựa
trên chế độ áp bức và bốc lột. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng dựa trên cơ sở chế công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới hai hình thức là nhà nước và tập thể; không
còn giai cấp đối kháng, không còn tình trạng áp bức, bốc lột.
Hai là, chủ nghĩa khoa học xã hội được dựa trên nền sản xuất công nghiệp có trình độ
cao. Quá trình này đã tạo ra tiền đề vật chất – kỹ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội.
Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa xã
hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
thể phải kéo dài vi nhiệm vụ trọng tâm ca nó là tiến hành công nghiệp hóahội chủ
nghĩa.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát sinh trong lòng chủ nghĩa
bản, chúng kết quả của quá trình xây dựng cải tạo hội chủ nghĩa. Sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện,
tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Bốn , xây dựng chủ nghĩa xã hội một công cuộc mới mẻ, khó khăn phức tạp,
phải cần có thời gian đ giai cấp công nhân từng bước làm quen với những ng việc
đó.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo cách mạng
sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất – kỹ thuật và đời sống tinh thần của
chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và
nhân dân lao động giành chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa như
sau:
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời kỳ quá độ thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế
nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất, trong đó thành phần
kinh tế nhà nước và hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò
chủ đạo.
Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa
dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức
tạp. Nói chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí
thức, những người sản xuất nhỏ, tng lớp tư sản một số tầng lớp xã hội khác tùy theo
từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu
tranh với nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn
tại nhiều yếu tố tưởng và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tưởng xã hội chủ nghĩa
còn tồn tại tưởng sản, tiểu sản, tâm lý tiểu nông… Lênin, tính tự phát tiểu tư
sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách
mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá mới,
chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Để hiểu những đặc điểm của thời kỳ quá đlên chủ nghĩa hội, chúng ta sẽ tìm
hiểu nội dung của thời kỳ này:
Trong lĩnh vực chính trị: Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lc thù địch,
chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội; tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước
và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong
hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, hội của nhân dân lao động: xây dựng các tổ
chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động;
xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vng mạnh ngang tầm vi các nhiệm
vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong lĩnh vực tưởng - văn hoá: Thực hiện tuyên truyền phổ biến những tưởng
khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư
tưởng tâm lý ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa hội;
xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn
hóa trên thế giới.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Trong lĩnh vực xã hội: Phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ
để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp
dân cư trong xã hội nhằm thc hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ
tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện,
tiền đề cho sự tự do của người khác.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con
đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử
có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù
giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa chỉ thể được dựa trên cơ sở hoàn thành nội dung đó. Việt Nam
lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa,
đã tạo ra những cơ hội cũng như thách thức đáng kể trong quá trình xây dựng. Và để
hiểu rõ con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng ntrong thời kỳ qđộ
lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ phân tích bản chất, đặc trưng và nhiệm vụ…
Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa Việt
Nam: Qđộ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 ở Miền Bắc và năm
1975 trên phạm vi cả nước theo kiểu quá độ gián tiếp hoặc như V. I. Lênin nói là kiểu
“đặc biệt của đặc biệt”. Đó là sự lựa chọn tất yếu dựa trên những căn cứ sau:
+ Căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở những nước nghèo nàn
lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà
không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
+ Căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bng cuộc cách mạng
hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó cũng là thời đại độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, nên nhiều nước đã đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Lào…
+ Căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong quá trình phát triển của
cách mạng Vit Nam, con đường quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ tư bản
trước hết là sự lựa chọn của chính Đảng ta: Ngay từ “Cương lĩnh chính trị năm 1930”
đến “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được
trình bày ở Đại hội VII năm 1991, Đảng ta đều thể hiện bản lĩnh chính trị về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa chọn của chính nhân dân lao động nước ta
khi theo Đảng cách mạng là muốn có cuộc đi ấm no, hạnh phúc. Để mang lại ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân không con đường nào khác con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển về kinh tế,
chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô Đông Âu, nhưng Đảng ta vẫn khẳng
định đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường duy nhất đúng đắn. Chủ nghĩa xã hội vẫn
khuynh hướng phát triển khách quan của thời đi. không chỉ làtưởng
hiện thực sinh động trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Từ sau khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức lại con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và xác định: phát triển kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
phương thức tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khái niệm “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” được khẳng định tại Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 2001. Quan điểm đó tiếp tục được được phát triển qua các kỳ Đại hội X và XI. Tại
Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế,
đổi mới hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến lược
trong 10 năm tới”.
Kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với
những đặc trưng “là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường sự quản ca Nnước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động
theo những qui luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi những nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Một trong những yếu tcơ bản của kinh tế thị
trường là sự tồn tại của các chủ sở hữu độc lập và nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình
thức sở hữu. Sở hữu hỗn hợp đặc trưng của nền kinh tế thị trường nước ta trong
quá trình đổi mới. Các thành phần sở hữu cùng phát triển mạnh mẽ, trong đó công hữu
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Trong quá trình đổi mới đất nước, quan điểm của Đảng về vai trò của các thành phần
kinh tế đã có những thay đổi tiến bộ phù hợp với thực tiễn của thời kỳ quá độ ở nước
ta. Trong Hiến pháp năm 1992, quy định, kinh tế nhà nước được củng cố, phát triển và
giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Qua thực tiễn phát triển đất nước thời gian qua cho thấy, một loạt
các tập đoàn kinh tế nhà nước được hưởng những điều kiện thuận lợi hơn so với
các
thành phần kinh tế khác, nhưng lại rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ, thậm chí đứng
trước nguy cơ phá sản do tình trạng tham nhũng, lãng phí, quản kém hiệu quả. Trước
thực trạng đó, Đảng ta đã có sự thay đổi trong quan điểm khẳng định sự bình đẳng của
các thành phần kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường. Bản sửa đổi Hiến pháp năm
1992 đã khẳng định: các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài hợp tác bình đẳng và cạnh tranh theo pháp
luật. Đây bước thay đổi quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta tuy nhiên còn
đòi hỏi sự quyêt tâm ca Đảng Nhà nước trong thực tiễn xây dựng đất nước. Các
thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau, không có hiện tượng đặc quyền, đặc lợi sẽ
tạo nên sự hợp tác, hỗ trợ giữa các thành phần kinh tế tạo nên động lực cho sphát triển
kinh tế. Sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gắn liền
với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đang từng bước tạo ra tiền đề vật
chất thiết yếu cho chủ nghĩa xã hội.
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền
sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo
phát triển nn kinh tế quốc dân cũng cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp
trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ,
so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi.
Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, trong
đó nhiệm vụ trọng tâm là;
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền
đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy
xây dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn trên các lĩnh vực, kinh tế, văn hóa, xã hội được bạn bè thế giới ghi nhận. Những
thành tựu đó, chứng minh tính đúng đắn của Đảng dân tộc ta trong việc lựa chọn con
đường phát triển đất nước và là một minh chứng chứng minh tính đúng đắn của quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội các quốc gia
chưa kinh qua chủ nghĩa tư bản…
Về mặt kinh tế: Việt Nam đã có 4 năm liên tiếp 2016-2019 cơ bản hoàn thành và hoàn
thành vượt mức kế hoạch đ ra, năm sau tốt hơn năm trước, tạo đà để Việt Nam đứng
vững trong sóng gió. Việt Nam thuộc nhóm các nước tăng tởng kinh tế cao nhất thế
giới, kinh tế duy trì ổn định, cải cách thể chế được đẩy mạnh, tổng số doanh
nghiệp tăng gấp 1,5 lần... Đây là thành tựu chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng
doanh nghiệp toàn thể nhân dân, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Theo Báo cáo
của Chính phủ về tình hình kinh tế-xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020, tốc độ tăng
trưởng giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm. Năm 2020, mặc dù chịu
ảnh hưởng nặng nề của dch bệnh, nhưng tăng tởng vẫn đạt 2,91%; một trong
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
những quốc gia tăng trưởng cao nhất trong khu vực trên thế giới. Nhờ thực hiện
đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương
đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm.
Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở
thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng
17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ
năm 2008.
Về mặt tư tưởng – văn hóa: Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt
văn hoá phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng
Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế
giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc
hiện thực hc Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI)
của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với
các nước có cùng trình độ phát triển. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục
miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xoá chữ,
phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010;
số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam
có 95% người lớn biết đọc, biết viết.
Câu 3: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc trưng của chủ nghĩa
hội.
hội hội chủ nghĩa (chủ nghĩa hội giai đoạn thấp nhất của chủ nghĩa cộng
sản) là một xã hội có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cơ sở vật chất – kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp
được phát triển lên từ những tiền đề vật chất – kỹ thuật của nền đại công nghiệp tư
bản chủ nghĩa. Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng với
nó, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Công cụ thủ công là
đặc trưng cho cơ sở vật chất – kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Nền đại
công nghiệp cơ khí đã từng là cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa xã hội nảy sinh với tư cách là một chế độ xã hội phủ định chế độ tư tư bản chủ
nghĩa, do vậy cơ sở vật chất – kỹ thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp
phát triển lên từ tiền đề vật chất – kỹ thuật của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa,
có trình độ cao hơn so với trình độ nền công nghiệp của xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế
độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Theo C.Mác và Ăngghen, giai cấp vô
sảm phải từng bước đoạt lấy liệu sản xuất từ trong tay giai cấp tư sản, tp trung những
liệu ấy vào trong tay nhà nước để phục v cho toàn xã hội. Do vậy, chỉ đến xã hội
chủ nghĩa thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xác lập đầy đủ. Tới thời kỳ
này, tư liệu sản xuất còn tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể,
người lao động làm chủ các liu sản xuất của hội, do đó không còn tình trạng
người bóc lột người.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức lao
động và kỷ luật lao động mới. Khi đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã
mang tính xã hội hóa, không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều
kiện cho người lao động kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích
toàn xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội cũng tạo ra được cách thức tổ chức lao
động mới dựa trên tinh thần tự giác của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản
và quản lý thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa một chế độ hội thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản.
Thứ năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất giai
cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.
Thứ sáu, hội hội chủ nghĩa một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con
người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát
triển toàn diện.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
1/ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
2/ Do nhân dân làm chủ;
3/ nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại về quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
5/ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện;
6/ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau
cùng tiến bộ;
7/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân n, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
8/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới Phương
hướng xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay:
Một là, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hai là, hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ba là, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển, nâng cao cht lượng
nguồn nhân lực; tăng cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.
Bốn là, xây dựng phát triển văn hóa, con người; quản lý và phát triển xã hội; thực hiện
tiến bộ công bằng xã hội.
Năm là, đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Sáu , thực hiện đường lối đi ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Bảy là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Tám là, xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân; tiếp tục cải cách sâu rộng thủ tục hành chính; đẩy mạnh đấu tranh phòng
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Chín , xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo sức
chiến đấu của Đảng.
Kết bài: Gợi ý:
- Khẳng định tính đúng đắn, tính tất yếu, khách quan của hình thái kinh tế -
xã hộicộng sản chủ nghĩa.
- Khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn đi lên con đường XHCN của
Việt Nam.Biểu hiện qua thành quả: giành thắng lợi trong 2 cuộc chiến chống Pháp, Mỹ,
chiến tranh bảo vệ biên giới,...
- Liên hệ bản thân: Cần làm gì để bảo vệ thành quả đó hay xã hội đó sẽ được
cái gì màchúng ta phải kiên trì theo đuổi,…
Câu 4: Quan điểm của chủ nghĩa hội khao học về bản chất, nguồn gốc, tính chất
của tôn giáo, các nguyên tắc bản xử mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội
tôn giáo.
Mở bài: Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng
nhất của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện
rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Vậy tôn giáo là gì?...
* Khái niệm tôn giáo:
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo
vào đầu óc của con người - những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng của
họ, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan, thông qua
sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên trở thành siêu tự nhiên, thần bí,...
* Bản chất của tôn giáo:
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo, tín ngưỡng một loại hình thái ý thức
hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan, chứa đựng những yếu tố tiêu cực và tích cực
nhất định.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hoá do con người sáng tạo ra. Con người
sáng tạo ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện
vọng, suy nghĩ của họ. Nhưng sáng tạo ra tôn giáo, con người lại sợ hãi tôn giáo, tuyệt
đối hoá và phục tùng tôn giáo vô điều kiện.
Về phương diện thế giới quan, nói chung, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có
sự khác biệt với thế giới quan duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mác xít không bao giờ có thái độ
xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, mà luôn
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân.
* Nguồn gốc của tôn giáo
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Nguồn gốc kinh tế hội, Do sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự
nhiên, xã hội để giải quyết các yêu cầu, các mục đích kinh tế - xã hội, cũng như cuộc
sống của bản thân họ. Sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức về chính trị, sự hiện diện của
những bất công xã hội cùng với những thất vọng, bất hạnh trong cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp bị tr- đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo. Trong những thập kỷ gần
đây, với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - hội, con người điều kiện hơn
trong quan tâm giải quyết những vấn đề liên quan đến n giáo, tín ngưỡng, tâm linh.
Đây cũng là nguyên nhân cho sự nảy sinh, phát triển nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng
xuất hiện những loại hình tôn giáo mới. DỤ: Khi hội phân chia giai cấp, con
người bất lực trước sức mạnh tự nhiên của xã hội như bất công, giàu nghèo, bệnh tật,
chiến tranh,... Họ cho rằng những bất hạnh dó do sự định đoạt của thần linh, thượng đế,
do ma quỷ quấy nhiễu. Vì vậy, họ đành cúi đầu, thờ phụng để mong được che chở, tha
thứ.
Nguồn gốc nhận thức, Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người
về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Khi khoảng cách giữa “biết”
và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà khoa học chưa giải thích được, thì điều
đó thường được giải thích thông qua lăng kính các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã
được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ dân trí thấp, thì đây vẫn là điều kiện, là
mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển. DỤ: Ngày xưa, người ta hoàn
toàn không biết từ đâu có các hiện tượng ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của mình
như mưa, gió, bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, sấm sét,.. Do đó, con người đành thờ phụng,
cầu khấn mong sự che chở của thượng đến, thần linh, trời phật. Sự bt lực sợ hãi của
người ta ng lên đi đến sự hình thành của những tôn giáo đầu tiên như thờ cúng các
thần thánh, ma quỷ.
Nguồn gốc tâm lý, Từ sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát triển của thiên nhiên và xã hội
đã dẫn con người đến nhờ cậy đến thần linh, mà ngay cả những nét tâm lý như tình yêu,
lòng biết ơn, sự kính trọng,… trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên con
người với con ngưi nhiều khi cũng được thể hiện qua tín ngưỡng, tôn giáo. DỤ:
Một đền thờ Ấn Độ đã bổ sung thêm “Tượng nữ thần corona” để cầu nguyện cho
nước mình sớm vượt qua đại dịch covid 19. Tu sĩ tại đây làm lễ cầu nguyện, để lại thức
ăn dân lên cho “nữ thần corona”, đồng thời rửa tượng thần bằng nước nghệ và sữa. Đó
được xem là cách để thần linh giúp cho người dân vượt qua khó khăn bởi những người
theo đạo Hindu cho rằng, cúng lcác vị “thần” các vi rút, nguồn gốc gây ra dịch bệnh
thì có thể giảm bớt dịch bệnh.
* Tính chất của tôn giáo
Tính lịch sử của tôn giáo, Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, bởi vì
sự hình thành, tồn tại phát triển trong những giai đoạn lịch sử nhất định,
khả năng biến đổi để thích nghi với nhiều chế độ chính trị - xã hội.
(Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi
khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất
các hiện tượng trong tự nhiên vàhội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong
đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người. Đương nhiên, để đi đến
trình độ đó sẽ còn là một quá trình phát triển rất lâu dài của xã hội loài người.)
Tính quần chúng của tôn giáo, Tôn giáo là một hiện tượng hội phổ biến ở tất cả
các dân tộc, quốc gia, châu luc, không một quốc gia nào, dân tộc nào không có một hay
nhiều tôn giáo. Tính quần chúng biểu hiện của số lượng tín đồ, các tôn giáo là nơi sinh
hoạt văn hoá, tinh thần của một bộ phận khá đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Tính chính trị của tôn giáo, Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi hội đã
phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị. Khi xã hội
chưa có giai cấp, tôn giáo chỉ phản ánh nhận thức hồn nhiên, ngây thơ của con người
về bản thân và thế giới xung quanh mình, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất
chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự
đối kháng v lợi ích giai cấp. Trước hết, do tôn giáo là sản phẩm của những điều kiện
kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích, nguyện vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, nên tôn giáo mang tính chính trị. Mặt khác, khi
các giai cấp bóc lột, thống trị sử dng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp mình,
chống lại các giai cấp lao động và tiến bộ xã hội, tôn giáo mang tính chính trị tiêu cực,
phản tiến bộ.
* Nguyên tắc cơ bản ứng xử với vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Thứ nhất, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng không tín ngưỡng của nhân
dân. Tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân
dân. Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản
chất ưu việt của chế độ XHCN. Tôn trọng tự do tín ngưỡng còn là tôn trọng quần chúng.
Quần chúng là nguồn gốc ca mọi sức mạnh, là động lực phát triển của lịch sử. Đoàn
kết các lc lượng quần chúng có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng tôn giáo là cơ sở
để đấu tranh chống lại các luận điệu vu cáo, các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống nhà
nước XHCN.
Thứ hai, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cc của tôn giáo gắn liền với quá trình
cải tạo xã hội cũ, xây dựng hội mới. Chỉ hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu
cực của tôn giáo đối với quần chúng lao động. Phải xác lập được một thế giới hiện thực
không áp bức, bất công, nghèo đói và thất học,… cũng như những tệ nạn nảy sinh
trong xã hội. Chỉ có thông qua quá trình đó để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và
trí tuệ con người thì mới có khả năng gạt bỏ dần những nh hưởng tiêu cực của tôn giáo
trong đời sống xã hội.
Thứ ba, phân biệt hai mặt chính trị tưởng, tín ngưỡng tôn giáo lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo trong vn đề tôn giáo. phân biệt tính chất khác nhau của hai loại
mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Việc phân biệt
hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng “tả” hoặc hữu trong quá trình quản
lý, ứng xử những vấn đ liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, đến một bộ phận quần
chúng trong xã hội (những người theo tôn giáo).
Thứ tư, quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. Tôn giáo
không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, luôn luôn vận động và biến
đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - hội - lịch sử cụ thể.
những thi kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống
hội không giống nhau. Vì vậy, cn phải quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét,
đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn
giáo cụ thể.
* Quan điểm, chính sách Đảng Cộng Sản, Nhà nước đối với vấn đề tôn giáo.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Tôn giáo một hình thái ý thức hội, cũng một thực thể hội đã tồn tại hàng
nghìn năm cùng với xã hội loài người. Từ khi xuất hiện, tôn giáo luôn là yếu tố tham
gia vào các quá trình xã hội, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống con người. Trong
lịch sử phát triển, tôn giáo đã trải qua nhiều bước thăng trầm và biến đổi cùng với sự
biến đổi của lịch sử nhân loại. Ngày nay trên thế giới, hoạt động tôn giáo vẫn không hề
suy giảm mà đang nổi lên như một hiện tượng sống động của thời đại với những diễn
biến phức tạp, thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều quốc gia, dân tộc. Các tôn giáo
không chỉ có xu hướng phục hồi, phát triển mạnh mẽ một số nước mà còn liên quan
chặt chẽ đến những cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc đẫm u đang diễn ra nhiều nơi;
đụng chạm đến vn đề bảo lưu, giữ gìn bản sắc văn hóa của từng cộng đồng dân tộc
trước xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa hiện nay. Việt Nam là một quốc gia có nhiều
tôn giáo đã tồn tại lâu dài cùng với lịch sử dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những chính sách đối với
tôn giáo một cách đúng đắn nên đã vận động được đông đảo quần chúng tín đồ và chức
sắc tôn giáo tham gia và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc cũng như xây dựng đất nước đi theo con đường đổi mới. Từ khi thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, pháp luật quan trọng, thể hiện những quan điểm đổi mới, khoa học về tín
ngưỡng tôn giáo, đáp ứng được những nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của quần chúng
tín đồ và chức sắc tôn giáo. Chính điều đó đã làm cho đồng bào có đạo phấn khởi, tin
tưởng vào chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng Nhà nước ta, tích cực góp phần
vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Song, một thực tế khác là hoạt
động tôn giáo ở nước ta trong những năm gần đây chiều hướng gia tăng và diễn biến
khá phức tạp. Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đa dạng, phong phú, thu t đông đảo
quần chúng thuộc nhiều tầng lớp xã hội tham gia. Hoạt động sửa chữa, nâng cấp, xây
cất mới các cơ sở thờ tự tôn giáo diễn ra khắp nơi ở cả thành thị và nông thôn.
Hiện nay, trên thế giới chỉ còn một số nước theo mô hình nhà nước phi thế tục, còn lại
hầu hết theo hình nhà nước thế tục. Trong đó, những nước như Mỹ, Canada vẫn
xem tôn giáo chỗ dựa tinh thần của hội. Indonesia nhấn mạnh niềm tin Thượng
Đế một trong 5 nguyên tắc của nền cộng hòa, gần như bắt buộc mỗi người dân
phải theo một trong 5 tôn giáo đang được nhà nước cho hoạt động. Thái Lan, Phật
giáo được xác định là quốc giáo, học sinh đều phải học luân nPhật. Trong hệ thống
hội chủ nghĩa trước đây, một số nước những sai lầm khi giải quyết vấn đề tôn
giáo. Hiến pháp Liên Xô năm 1936 ghi: “Tự do tôn giáo và tự do chống tôn giáo”.
Trung Quốc, trong thời kì Cách mạng Văn hóa (1966 - 1976), chính sách tự do tôn giáo
bị vi phạm nghiêm trọng. Tôn giáo là một trong những đối tượng bị công kích, một số
cơ sở thờ tự bị phá hủy. Phải đến sau Hội nghị toàn thể ln thứ 3, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI (12/1978) mới quay lại vi chính sách tôn
giáo đúng đắn.
lOMoARcPSD| 58707906
19:07 13/9/24 Đ cương Ch nghĩa Khoa hc xã hi
Nhưng với Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm xuyên suốt, nhất quán tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Ngay từ
năm 1930, trong Chỉ thị của Đảng về việc thành lập Hội Phản đế Đồng minh đã ghi:
“Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của quần chúng”. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, Đảng Chính phủ xác định rõ: “Tín ngưỡng tự do. Lương -
Giáo đoàn kết”. Trong bản báo cáo tại Hội nghị phổ biến Sắc lệnh về tôn giáo năm
1955, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã nêu ra một số nhận thức chưa đúng của cán bộ,
đảng viên về vấn đề tôn giáo như lạm dụng câu nói của C. Mác “Tôn giáo thuốc
phiện, hoặc quần, rồi đối với tôn giáo chỉ có một chiều chống, muốn xóa bỏ ngay,
không thấy được tôn giáo đã biến thành một phần nhu cầu trong đời sống quần chúng.
Tôn giáo vốn không phải là trở lực. Nó chỉ trở thành trở lực khi bị đế quốc, phong kiến
lợi dụng khi chính quyền làm sai chính sách sẽ đẩy quần chúng về phía đối địch.
Cho đến năm 1981, sự nn nhận tôn giáo ở nước ta vẫn còn nặng về góc độ chính trị
và xã hội. Về góc độ chính trị, chủ yếu giới hạn trong việc các tôn giáo bị các thế lực
thù địch lợi dụng để chống phá sự nghiệp cách mạng. Về góc độ xã hội, xem tôn giáo
là tiêu cực, buôn thần bán thánh, đánh đồng tôn giáo với n khi gọi là “mê tín tôn
giáo”. Về góc độ tư tưởng chính trị, xem niềm tin n giáo là “tình cảm không đúng
tưởng mù quáng”, còn đồng nhất tôn giáo với một thứ công cụ áp bức tinh thần
đối với quần chúng lao động. Phải đến Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị khóa VI ra
ngày 16/10/1990 tiêu đề “Tăng cường ng tác tôn giáo trong tình hình mới” mới
thực sự là bước ngoặt nhận thức của Đảng đối với vấn đề tôn giáo.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội NỘI DUNG 1
Câu 1.1: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.
Cùng với chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư; việc phát hiện ra
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại của C.Mác.
Để khẳng định vai trò to lớn của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng vĩ đại này,
các nhà kinh điển đã đề cập đến trong nhiều tác phẩm của mình. Trong tác phẩm Tuyên
ngôn của Đảng Cộng Sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Giai cấp tư sản không
những đã rèn những vũ khí giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy –
những công nhân hiện đại, những người vô sản”. Học thuyết của Mác đã tìm ra lực
lượng xã hội để thực hiện việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tiến hành xây dựng xã hội mới
– xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Và để hiểu rõ hơn về học thuyết vĩ đại này,
chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm giai cấp công nhân và phân tích nội dung sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân dựa trên quan điểm của chủ nghĩa khoa học xã hội.
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Angghen đã dùng một số thuật
ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp hiện đại, giai
cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại công nghiệp… Mặc dù vậy, về cơ
bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó chỉ là giai
cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai
cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. Dù
diễn đạt bằng nhiều thuật ngữ khác nhau, song khái niệm giai cấp công nhân được các
nhà kinh điển xác định trên 2 phương diện:
Trên phương diện kinh tế - xã hội, trong phạm vi phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, giai cấp công nhân là giai cấp có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là
những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất
có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày càng có trình độ xã hội hóa cao. Theo
sự phân tích của C.Mác và Ph.Ăngghen: "Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp"; "Công nhân cũng là một phát minh của thời đại
mới, giống như máy móc vậy... Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại".
Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người công
nhân không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ buộc phải bán sức lao động
cho nhà tư bản để kiếm sống và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. C.Mác và
Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì chính nó là đặc trưng khiến cho
giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động làm thuê cho giai cấp tư
sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Trên phương diện chính trị - xã hội, trong cách nhìn duy vật biện chứng về lịch sử,
sự thống trị của giai cấp tư sản, đặc biệt của bộ phận tư sản đại công nghiệp là điều kiện
ban đầu cho sự phát triển của giai cấp công nhân. Xem xét giai cấp công nhân trên
phương diện này, các nhà sáng lập xã hội khoa học không những làm sáng tỏ quan điểm
về giai cấp công nhân mà còn làm sáng tỏ những đặc điểm của nó với tư cách là một
giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới.
* Ba đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, lao động bằng phương thức công nghiệp, quá trình lao động mang tính chất
xã hội hóa cao, đây là đặc điểm nổi bật của GCCN.
Thứ hai, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của quá trình sản
xuất vật chất hiện đại. Do đó, GCCN là đại biểu tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiên
tiến, phương thức sản xuất tiên tiến mang tính chất XH hóa cao, quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội hiện đại.
Thứ ba, nền SX đại công nghiệp và phương thức SX xã hội hóa cao đã rèn luyện cho
giai cấp công nhân những phẩm chất về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp
tác và tâm lý lao động công nghiệp.
Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết cho một giai cấp cách mạng và
có vai trò lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại, giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của
lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản
tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất
và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Mở rộng, ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có
hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng
nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao
động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là những nhiệm vụ mà giai
cấp công nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong là lực lượng đi đầu
trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Thứ nhất, về nội dung kinh tế là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa
cao, là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới tiên tiến nhất dựa trên chế độ sở hữu xã hội
công hữu về tư liệu sản xuất, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về
xu thế phát triển của lịch sử xã hội, vai trò chủ thể của giai cấp công nhân trước hết là
chủ thể của quá trình sản xuất vật chất, sau đó là tạo tiền đề vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.
Thứ hai, về nội dung chính trị xã hội giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền
thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ bóc lột áp bức của chủ nghĩa tư bản giành
quyền lực về ta giai cấp công nhân và nhân dân lao động thiết lập nhà nước kiểu mới
mang bản chất giai cấp công nhân cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội mới
phát triển kinh tế và văn hóa xây dựng nền chính trị dân chủ pháp quyền thực hiện dân
chủ công bằng bình đẳng và tiến bộ xã hội. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Thứ ba, về nội dung văn hóa tư tưởng thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp
công nhân trong tiến trình cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh
vực văn hóa tư tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới lao động công bằng
dân chủ, bình đẳng và tự do. Xét về thực chất giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách
mạng về văn hóa tư tưởng bao gồm cải tạo cái cũ lỗi thời lạc hậu, xây dựng cái mới tiến
bộ trong lĩnh vực ý thức tư tưởng. * Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Một là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ tiền đề kinh tế - xã hội của
sản xuất mang tính xã hội hóa với hai biểu hiện nổi bật là:
Thứ nhất, xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất thúc đẩy sự phát
triển của xã hội khi thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, quá trình sản xuất này đã sinh ra giai cấp công nhân và rèn luyện nó thành chủ
thể thực hiện sứ mệnh lịch sử
Hai là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng của quần chúng
và mang lại lợi ích cho đa số.
Ba là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở hữu tư
nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để tư hữu về tư liệu sản xuất.
Bốn là, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị là tiền đề cải tạo toàn diện
sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới với mục tiêu cao nhất
là giải phóng con người.
* Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định giai cấp công nhân. GCCN
là con đẻ, là sản phẩm của nền đại công nghiệp trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại vì thế giai cấp công nhân đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại tại.
Thứ hai, do địa vị chính trị xã hội của giai cấp công nhân quy định. Đây là giai cấp tiên
tiến giai cấp cách mạng, có tính tổ chức và kỷ luật, tự giác và đoàn kết,... * Điều kiện
chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử

Chủ nghĩa Mác Lênin chỉ ra những điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan để giai cấp
công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình đó là:
Thứ nhất, sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng.
Thứ hai, Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng Sản - đội tiên phong của giai
cấp công nhân ra đời và đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng, là dấu hiệu về sự
trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
Thứ ba, ngoài hai điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan liêu trên chủ nghĩa Mác Lênin
còn chỉ rõ: để cuộc cách mạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đi tới
thắng lợi, phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và các tầng lớp lao động khác.
* Giai cấp công nhân và việc thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân hiện nay: lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Giai cấp công nhân hiện nay: Là những tập đoàn người sản xuất và dịch vụ bằng phương
thức công nghiệp tạo nên cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của thế giới hiện nay.
Thứ nhất, về điểm tương đồng:
Giai cấp công nhân hiện nay vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại, là
chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã hội hóa ngày càng cao.
Một bộ phận lớn công nhân hiện đại vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản hiện nay
bóc lột giá trị thặng dư.
Thứ hai, những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại Gắn liền với
cách mạng mạng khoa học và công nghệ hiện đại với sự phát triển nền kinh tế tri thức,
công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Tri thức hóa và trí thức hóa công nhân là
hai mặt của cùng một quá trình của xu hướng trí tuệ hóa đối với công nhân và giai cấp
công nhân. Tính chất xã hội hóa của lao động hiện đại ngày càng được mở rộng và nâng
cao lực lượng sản xuất hiện đại đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia dân tộc và mang tính
chất quốc tế. Đó là những biểu biến đổi mới của giai cấp công nhân hiện nay so với giai
cấp công nhân thế giới thế kỷ XIX.
* Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay
Về nội dung kinh tế - xã hội: trong quá trình sản xuất với công nghệ hiện đại năng suất
chất lượng cao đảm bảo cho sự phát triển bền vững sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, là nhân tố kinh tế xã hội thúc đẩy trứng mùi các tiền đề của chủ nghĩa xã hội trong
lòng chủ nghĩa tư bản nhìn. Mặt khác mâu thuẫn lợi ích cơ bản bản giữa giai cấp công
nhân với giai cấp tư sản cũng ngày càng sâu sắc ở từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu.
Về nội dung chính trị - xã hội: ở các nước tư bản mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai
cấp công nhân và lao động là chống bất công và bất bình đẳng xã hội, mục tiêu lâu dài
là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đối với các nước
xã hội chủ nghĩa nghĩa là tiếp tục lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, giải quyết
thành công các nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Về nội dung tư tưởng, là cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa hệ giá trị của giai cấp công
nhân với hệ giá trị của giai cấp tư sản. Đó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội với
nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác- Lênin với chủ nghĩa cá nhân thuộc ý thức hệ giai cấp tư sản.
Ngày nay, cuộc đấu tranh tư tưởng hết sức phức tạp, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng
và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu vào cuối thế
kỷ XX, nhiều người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử giai cấp
công nhân. Các thế lực thù địch, chống cộng, cùng với các phần tử cơ hội, xét lại và
chủ nghĩa thực chứng mới dưới mọi hình thức đã và đang mưu toan xuyên tạc, phủ
nhận nhiều quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó có quan điểm về giai cấp
công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong bối cảnh đó, việc làm sáng
tỏ và nhận thức một cách đúng đắn hơn về giai cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân không chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc, mà còn có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Đối với cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân luôn có một vai trò và vị trí hết sức
quan trọng. Trong các giai đoạn cách mạng trước đây, giai cấp công nhân Việt Nam
không chỉ là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là một trong những lực lượng cách
mạng chủ yếu trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm xóa bỏ sự thống
trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phong kiến giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, giai cấp công
nhân Việt Nam tiếp tục đảm đương sứ mệnh lịch sử lớn lao không chỉ tiếp tục là giai
cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là lực lượng tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đổi
mới. Để khẳng định hơn nữa về vai trò và vị trí của giai cấp công nhân Việt am trong
giai đoạn cách mạng hiện nay, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung
ương khóa X của Đảng Cộng Sản Việt am đã khẳng định: “Giai cấp công nhân Việt
Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động
chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và
dịch vụ công nghệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
Quan niệm trên, tuy chưa phải là định nghĩa, nhưng đã phản ánh được những nội dung
chủ yếu của giai cấp công nhân Việt Nam. Đây là cơ sở để nhận biết, phân biệt giai cấp
công nhân Việt Nam với các giai tầng khác trong cơ cấu xã hội, đồng thời cũng để phân
biệt giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp công nhân trên thế giới.
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, lớp công
nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và
thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp lần thứ hai (1924 - 1929). Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, giai
cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc
tế. Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân
Việt Nam còn có đặc điểm riêng:
Thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc
địa, nửa phong kiến, có truyền thống yêu nước, thức tự tôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ
bé, song giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử,
dân tộc thừa nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong
trào cứu nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại.
Thứ hai, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn
lên, đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế,
nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí
Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản
chất cách mạng triệt để.
Thứ ba, do xuất thân từ nông dân lao động, giai cấp công công nhân Việt Nam bị thực
dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa nên giai cấp công nhân nước ta có mối quan hệ
máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách
mạng, liên minh giai cấp đã trở thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: “Là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua chính đảng của nó, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai
cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Cụ thể:
Về kinh tế, giai cấp công nhân Việt Nam là nguồn nhân lực lao động chủ yếu tham gia
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy học
công nghệ làm động lực, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước.
Về chính trị - xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ Đảng viên cần
phải nêu cao trách nhiệm tiên phong, đi đầu góp phần củng cố và phát triển cơ sở chính
trị xã hội quan trọng của Đảng, đồng thời giai cấp công nhân chủ động tích cực tham
gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, để bảo vệ nhân dân đó là trọng trách lịch sử
thuộc về sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Về văn hóa - tư tưởng, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc có nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa giáo
dục đạo đức cách mạng rèn luyện lối sống tác phong công nghiệp và văn minh hiện đại
tham gia vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận để bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại định hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới
cần thực hiện những nội dung cơ bản sau: lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Một là, nâng cao chất lượng công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân. Giai
cấp công nhân Việt Nam luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền thống
yêu nước, lao động cần cù, tính tiên phong và có khả năng sáng tạo trong lao động, sản
xuất và trong các hoạt động của đời sống xã hội. Hàng vạn cán bộ khoa học - kỹ thuật,
công nhân bậc cao, thợ giỏi đã thích ứng với cơ chế thị trường, tiếp cận nhanh với khoa
học, công nghệ tiên tiến, hiện đại, có nhiều sáng chế, giải pháp hữu ích, có giá trị cao
được áp dụng vào sản xuất và công tác. Tuy nhiên, trình độ học vấn, chuyên môn, nghề
nghiệp của đội ngũ công nhân Việt Nam hiện nay nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Tình trạng thiếu nhiều chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi và công nhân
có trình độ lành nghề cao, thừa lao động giản đơn đang diễn ra phổ biến ở tất cả các
ngành và các thành phần kinh tế. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ lớn, sức cạnh tranh ngày
càng gay gắt; nếu như giai cấp công nhân không ngừng nâng cao trình độ học vấn, tay
nghề thì khó có thể hy vọng kiếm được việc làm và có thu nhập, hoặc không sẽ bị đào
thải. Thực trạng trên đặt ra yêu cầu khách quan và nhiệm vụ cấp bách phải đẩy mạnh
công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân, có như vậy mới đủ sức cạnh tranh
việc làm khi ASEA đã chính thức hình thành, khi hiệp ước đối tác kinh tế chiến lược
xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết. Để đạt được mục tiêu đặt ra, công tác
đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công nhân phải đảm bảo các yêu cầu:
+ Tăng cường đầu tư các nguồn lực để đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công nhân đảm bảo
đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, tay nghề giỏi, sáng tạo trong lao động, sản xuất, có đủ khả năng làm chủ
được công nghệ tiên tiến và thích ứng nhanh với sự năng động của cơ chế thị trường.
+ Tăng cường quản lý nhà nước, đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác đào tạo
nghề. Tiến hành quy hoạch mạng lưới các trường, các cơ sở dạy nghề, xây dựng trường
chuẩn, chương trình chuẩn để đào tạo công nhân có trình độ cao cho một số ngành kinh
tế mũi nhọn như: chế biến, dầu khí, tin học, điện tử, bưu chính viễn thông, hàng không
và các ngành dịch vụ khác.
+ Chú trọng gắn kết giữa đào tạo và sử dụng, nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn lao động,
đảm bảo chất lượng cho phát triển kinh tế và hạn chế những lãng phí ngay trong công tác đào tạo.
+ Xây dựng chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân tự học tập nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và chính sách đãi ngộ hấp dẫn đối
với công nhân có sáng kiến hay, có kinh nghiệm tốt, nhằm khích lệ đội ngũ công nhân
phát huy tài năng, trí tuệ trong sản xuất, kinh doanh.
Hai là, đổi mới hoạt động của tổ chức công đoàn doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích của
người lao động, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc người nước ngoài
làm chủ doanh nghiệp. Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đã tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển và lượng công nhân ngày càng tăng lên. Đặc biệt là
số lượng công nhân trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng lên
một cách rõ rệt bởi mức lương ở khu vực kinh tế này cao hơn, lợi ích hấp dẫn thu hút
được công nhân gắn bó với nghề nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận công nhân
vẫn chưa có việc làm ổn định, nhiều doanh nghiệp vẫn còn xảy ra tình trạng kéo dài
thời gian lao động, điều kiện làm việc và điều kiện sống của người công nhân nhân
chưa đảm bảo, tiền lương chưa đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu… Với tư cách là tổ
chức bảo vệ quyền lợi của người công nhân, tổ chức công đoàn doanh nghiệp phải
không ngừng đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động để làm tốt hơn nữa vai trò, trách lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
nhiệm của mình đối với quyền lợi, lợi ích của giai cấp công nhân. Sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt nam hiện nay.
+ Trước hết, công đoàn doanh nghiệp phải luôn hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn
công tác chủ yếu; lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động, tập hợp;
lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức lao
động thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội làm mục tiêu hoạt động.
+ Đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp quần chúng, để thu hút, động viên được
ngày càng đông đảo công nhân trong các thành phần kinh tế vào công đoàn và tự giác
tham gia hoạt động công đoàn.
+ Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hoạt
động cho cán bộ công đoàn, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có năng lực, trình độ,
có phẩm chất, đạo đức và bản lĩnh, nhiệt tình và tâm huyết với hoạt động công đoàn,
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, góp phần xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam vững mạnh, đủ sức thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn mới.
Ba là, tăng cường giáo dục công nhân ý thức tự lực tự cường, giúp nhau trong cuộc
sống đời thường cũng như trong quá trình làm chủ khoa học công nghệ. Cùng với nhiệm
vụ giáo dục nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cho giai cấp công nhân.
Việc giáo dục, rèn luyện, xây dựng cho giai cấp công nhân ý thức công dân, lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao bản lĩnh
chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận rõ đối tượng, đối tác để một mặt kiên
quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch;
mặt khác, tăng cường hợp tác với bạn bè nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nhiệm vụ hết
sức quan trọng. goài ra, cũng cần phải xây dựng cho công nhân lối sống văn hoá, có tác
phong công nghiệp và kỷ luật lao động; có lương tâm nghề nghiệp, có ý chí vươn lên,
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, có quyết tâm chiến thắng trong cạnh tranh, làm giàu cho
bản thân, gia đình và xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Riêng bản thân em là học sinh, sinh viên…. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Giai cấp công nhân hiện đại – sản phẩm của nền nền đại công nghiệp hiện đại quy mô
ngày càng lớn, là giai cấp tiên tiến, luôn giữ vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội.
Xuất phát từ địa vị kinh tế - xã hội và đặc điểm chính trị xã hội, giai cấp công nhân trở
thành giai cấp có sứ mệnh lịch sử cao cả thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không chỉ ở mỗi quốc gia dân
tộc mà trên phạm vi toàn thế giới. Để đảm đương sứ mệnh lịch sử to lớn đó, dù dưới
chủ nghĩa tư bản hay dưới chủ nghĩa xã hội giai cấp công nhân hiện đại phải không
ngừng nâng cao về số lượng, chất lượng và tổ chức; phải nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp xứng đáng là lực lượng đi đầu trong công
cuộc xây dựng xã hội mới. Công cuộc xây dựng đất nước định hướng xã hội chủ nghĩa
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan
trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là bằng chứng chỉ rõ năng
lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta, vai trò không có lực lượng xã hội nào có thể thay thế được.
Câu 2: Quan điểm của chủ nghĩa khoa học xã hội về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong chủ nghĩa xã hội, chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa mới đạt tới giới hạn
đảm bảo cho xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối “làm theo năng lực, hưởng theo lao
động”. Theo quan điểm của Các Mác và Ph. Angghen, sự phát triển xã hội thì hình thái
kinh tế cộng sản chủ nghĩa ra đời từ xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển với tiền đề thực
tiễn là sự phát triển vượt bậc của lượng sản xuất. Chính vì vậy ở những nước đó đã có
đủ tiền đề vật chất để quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội (giai đoạn thấp của chủ nghĩa
cộng sản) và thời kỳ quá độ là thời kỳ cải tạo các quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan
hệ sản xuất mới- quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trong xã hội. Và để hiểu rõ hơn về chế độ này, chúng ta sẽ tìm hiểu và
phân tích thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa dựa trên quan điểm của chủ nghĩa khoa học xã hội.
Thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tiền tư bản
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội của thời kỳ quá độ
là xã hội đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của
chủ nghĩa tư bản và những yếu tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa
xã hội mới phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của chính
nó. Để chuyển từ xã hội chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội mà xã hội chủ
nghĩa phát triển trên chính cơ sở vật chất – kỹ thuật của nó, cần phải trải qua một thời
kỳ quá độ nhất định. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải
từ các căn cứ sau đây:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản
được xây dựng dựa trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất; dựa
trên chế độ áp bức và bốc lột. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng dựa trên cơ sở chế công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới hai hình thức là nhà nước và tập thể; không
còn giai cấp đối kháng, không còn tình trạng áp bức, bốc lột.
Hai là, chủ nghĩa khoa học xã hội được dựa trên nền sản xuất công nghiệp có trình độ
cao. Quá trình này đã tạo ra tiền đề vật chất – kỹ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội.
Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa xã
hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội có lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
thể phải kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát sinh trong lòng chủ nghĩa
tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện,
tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới mẻ, khó khăn và phức tạp,
phải cần có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc đó.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo cách mạng
sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất – kỹ thuật và đời sống tinh thần của
chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và
nhân dân lao động giành chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa như sau:
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế
nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất, trong đó thành phần
kinh tế nhà nước và hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò chủ đạo.
Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa
dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức
tạp. Nói chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí
thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tùy theo
từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn
tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa
còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông… Lênin, tính tự phát tiểu tư
sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách
mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới,
chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Để hiểu rõ những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ tìm
hiểu nội dung của thời kỳ này:
Trong lĩnh vực chính trị: Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch,
chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước
và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong
hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động: xây dựng các tổ
chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động;
xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm
vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: Thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng
khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư
tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội;
xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Trong lĩnh vực xã hội: Phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ
để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp
dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ
tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện,
tiền đề cho sự tự do của người khác.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con
đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử
có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà
giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được dựa trên cơ sở hoàn thành nội dung đó. Việt Nam
lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
đã tạo ra những cơ hội cũng như thách thức đáng kể trong quá trình xây dựng. Và để
hiểu rõ con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng như trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ phân tích bản chất, đặc trưng và nhiệm vụ…
Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 ở Miền Bắc và năm
1975 trên phạm vi cả nước theo kiểu quá độ gián tiếp hoặc như V. I. Lênin nói là kiểu
“đặc biệt của đặc biệt”. Đó là sự lựa chọn tất yếu dựa trên những căn cứ sau:
+ Căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở những nước nghèo nàn
lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà
không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
+ Căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó cũng là thời đại độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, nên nhiều nước đã đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Lào…
+ Căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong quá trình phát triển của
cách mạng Việt Nam, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
trước hết là sự lựa chọn của chính Đảng ta: Ngay từ “Cương lĩnh chính trị năm 1930”
đến “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được
trình bày ở Đại hội VII năm 1991, Đảng ta đều thể hiện bản lĩnh chính trị về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa chọn của chính nhân dân lao động nước ta
khi theo Đảng là cách mạng là muốn có cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Để mang lại ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân không có con đường nào khác là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển về kinh tế,
chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, nhưng Đảng ta vẫn khẳng
định đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường duy nhất đúng đắn. Chủ nghĩa xã hội vẫn
là khuynh hướng phát triển khách quan của thời đại. Nó không chỉ là lý tưởng mà là
hiện thực sinh động trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Từ sau khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức lại con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và xác định: phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là
phương thức tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khái niệm “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” được khẳng định tại Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 2001. Quan điểm đó tiếp tục được được phát triển qua các kỳ Đại hội X và XI. Tại
Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế,
đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới”.
Kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với
những đặc trưng “là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động
theo những qui luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi những nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Một trong những yếu tố cơ bản của kinh tế thị
trường là sự tồn tại của các chủ sở hữu độc lập và nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình
thức sở hữu. Sở hữu hỗn hợp là đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở nước ta trong
quá trình đổi mới. Các thành phần sở hữu cùng phát triển mạnh mẽ, trong đó công hữu
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Trong quá trình đổi mới đất nước, quan điểm của Đảng về vai trò của các thành phần
kinh tế đã có những thay đổi tiến bộ phù hợp với thực tiễn của thời kỳ quá độ ở nước
ta. Trong Hiến pháp năm 1992, quy định, kinh tế nhà nước được củng cố, phát triển và
giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Qua thực tiễn phát triển đất nước thời gian qua cho thấy, một loạt
các tập đoàn kinh tế nhà nước được hưởng những điều kiện thuận lợi hơn so với các
thành phần kinh tế khác, nhưng lại rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ, thậm chí đứng
trước nguy cơ phá sản do tình trạng tham nhũng, lãng phí, quản lý kém hiệu quả. Trước
thực trạng đó, Đảng ta đã có sự thay đổi trong quan điểm khẳng định sự bình đẳng của
các thành phần kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường. Bản sửa đổi Hiến pháp năm
1992 đã khẳng định: các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài hợp tác bình đẳng và cạnh tranh theo pháp
luật. Đây là bước thay đổi quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta tuy nhiên còn
đòi hỏi sự quyêt tâm của Đảng và Nhà nước trong thực tiễn xây dựng đất nước. Các
thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau, không có hiện tượng đặc quyền, đặc lợi sẽ
tạo nên sự hợp tác, hỗ trợ giữa các thành phần kinh tế tạo nên động lực cho sự phát triển
kinh tế. Sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gắn liền
với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đang từng bước tạo ra tiền đề vật
chất thiết yếu cho chủ nghĩa xã hội.
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền
sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo
và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp
trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ,
so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi.
Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, trong
đó nhiệm vụ trọng tâm là;
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền
đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy
xây dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn trên các lĩnh vực, kinh tế, văn hóa, xã hội được bạn bè thế giới ghi nhận. Những
thành tựu đó, chứng minh tính đúng đắn của Đảng và dân tộc ta trong việc lựa chọn con
đường phát triển đất nước và là một minh chứng chứng minh tính đúng đắn của quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở các quốc gia
chưa kinh qua chủ nghĩa tư bản…
Về mặt kinh tế: Việt Nam đã có 4 năm liên tiếp 2016-2019 cơ bản hoàn thành và hoàn
thành vượt mức kế hoạch đề ra, năm sau tốt hơn năm trước, tạo đà để Việt Nam đứng
vững trong sóng gió. Việt Nam thuộc nhóm các nước tăng trưởng kinh tế cao nhất thế
giới, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định, cải cách thể chế được đẩy mạnh, tổng số doanh
nghiệp tăng gấp 1,5 lần... Đây là thành tựu chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng
doanh nghiệp và toàn thể nhân dân, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Theo Báo cáo
của Chính phủ về tình hình kinh tế-xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020, tốc độ tăng
trưởng giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm. Năm 2020, mặc dù chịu
ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, nhưng tăng trưởng vẫn đạt 2,91%; là một trong lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
những quốc gia tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Nhờ thực hiện
đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương
đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm.
Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở
thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng
17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.
Về mặt tư tưởng – văn hóa: Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt
văn hoá phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng
Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế
giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc
hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI)
của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với
các nước có cùng trình độ phát triển. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục
miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xoá mù chữ,
phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010;
số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam
có 95% người lớn biết đọc, biết viết.
Câu 3: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội – giai đoạn thấp nhất của chủ nghĩa cộng
sản) là một xã hội có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cơ sở vật chất – kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp
được phát triển lên từ những tiền đề vật chất – kỹ thuật của nền đại công nghiệp tư
bản chủ nghĩa. Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng với
nó, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Công cụ thủ công là
đặc trưng cho cơ sở vật chất – kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Nền đại
công nghiệp cơ khí đã từng là cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa xã hội nảy sinh với tư cách là một chế độ xã hội phủ định chế độ tư tư bản chủ
nghĩa, do vậy cơ sở vật chất – kỹ thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp
phát triển lên từ tiền đề vật chất – kỹ thuật của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa,
có trình độ cao hơn so với trình độ nền công nghiệp của xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế
độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Theo C.Mác và Ăngghen, giai cấp vô
sảm phải từng bước đoạt lấy tư liệu sản xuất từ trong tay giai cấp tư sản, tập trung những
tư liệu ấy vào trong tay nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội. Do vậy, chỉ đến xã hội
chủ nghĩa thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xác lập đầy đủ. Tới thời kỳ
này, tư liệu sản xuất còn tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể,
người lao động làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội, do đó không còn tình trạng người bóc lột người. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức lao
động và kỷ luật lao động mới. Khi đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã
mang tính xã hội hóa, không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều
kiện cho người lao động kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích
toàn xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội cũng tạo ra được cách thức tổ chức lao
động mới dựa trên tinh thần tự giác của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản
và quản lý thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản.
Thứ năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất giai
cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con
người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
1/ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; 2/ Do nhân dân làm chủ;
3/ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại về quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
5/ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện;
6/ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ;
7/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
8/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới Phương
hướng xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay:
Một là, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hai là, hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ba là, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực; tăng cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.
Bốn là, xây dựng phát triển văn hóa, con người; quản lý và phát triển xã hội; thực hiện
tiến bộ công bằng xã hội.
Năm là, đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Sáu là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Bảy là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Tám là, xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân; tiếp tục cải cách sâu rộng thủ tục hành chính; đẩy mạnh đấu tranh phòng
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Chín là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Kết bài: Gợi ý: -
Khẳng định tính đúng đắn, tính tất yếu, khách quan của hình thái kinh tế -
xã hộicộng sản chủ nghĩa. -
Khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn đi lên con đường XHCN của
Việt Nam.Biểu hiện qua thành quả: giành thắng lợi trong 2 cuộc chiến chống Pháp, Mỹ,
chiến tranh bảo vệ biên giới,... -
Liên hệ bản thân: Cần làm gì để bảo vệ thành quả đó hay xã hội đó sẽ được
cái gì màchúng ta phải kiên trì theo đuổi,…
Câu 4: Quan điểm của chủ nghĩa xã hội khao học về bản chất, nguồn gốc, tính chất
của tôn giáo, các nguyên tắc cơ bản xử lý mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo.
Mở bài: Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng
nhất của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện
rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Vậy tôn giáo là gì?... * Khái niệm tôn giáo:
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo
vào đầu óc của con người - những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng của
họ, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan, thông qua
sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên trở thành siêu tự nhiên, thần bí,...
* Bản chất của tôn giáo:
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo, tín ngưỡng là một loại hình thái ý thức xã
hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan, chứa đựng những yếu tố tiêu cực và tích cực nhất định.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hoá do con người sáng tạo ra. Con người
sáng tạo ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện
vọng, suy nghĩ của họ. Nhưng sáng tạo ra tôn giáo, con người lại sợ hãi tôn giáo, tuyệt
đối hoá và phục tùng tôn giáo vô điều kiện.
Về phương diện thế giới quan, nói chung, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có
sự khác biệt với thế giới quan duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mác xít không bao giờ có thái độ
xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, mà luôn
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân.
* Nguồn gốc của tôn giáo lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Nguồn gốc kinh tế xã hội, Do sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự
nhiên, xã hội để giải quyết các yêu cầu, các mục đích kinh tế - xã hội, cũng như cuộc
sống của bản thân họ. Sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức về chính trị, sự hiện diện của
những bất công xã hội cùng với những thất vọng, bất hạnh trong cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp bị trị - đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo. Trong những thập kỷ gần
đây, với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội, con người có điều kiện hơn
trong quan tâm giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh.
Đây cũng là nguyên nhân cho sự nảy sinh, phát triển nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng và
xuất hiện những loại hình tôn giáo mới. VÍ DỤ: Khi xã hội phân chia giai cấp, con
người bất lực trước sức mạnh tự nhiên của xã hội như bất công, giàu nghèo, bệnh tật,
chiến tranh,... Họ cho rằng những bất hạnh dó do sự định đoạt của thần linh, thượng đế,
do ma quỷ quấy nhiễu. Vì vậy, họ đành cúi đầu, thờ phụng để mong được che chở, tha thứ.
Nguồn gốc nhận thức, Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người
về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Khi khoảng cách giữa “biết”
và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà khoa học chưa giải thích được, thì điều
đó thường được giải thích thông qua lăng kính các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã
được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ dân trí thấp, thì đây vẫn là điều kiện, là
mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển. VÍ DỤ: Ngày xưa, người ta hoàn
toàn không biết từ đâu có các hiện tượng ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của mình
như mưa, gió, bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, sấm sét,.. Do đó, con người đành thờ phụng,
cầu khấn mong sự che chở của thượng đến, thần linh, trời phật. Sự bất lực và sợ hãi của
người ta tăng lên đi đến sự hình thành của những tôn giáo đầu tiên như thờ cúng các thần thánh, ma quỷ.
Nguồn gốc tâm lý, Từ sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát triển của thiên nhiên và xã hội
đã dẫn con người đến nhờ cậy đến thần linh, mà ngay cả những nét tâm lý như tình yêu,
lòng biết ơn, sự kính trọng,… trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con
người với con người nhiều khi cũng được thể hiện qua tín ngưỡng, tôn giáo. VÍ DỤ:
Một đền thờ ở Ấn Độ đã bổ sung thêm “Tượng nữ thần corona” để cầu nguyện cho
nước mình sớm vượt qua đại dịch covid 19. Tu sĩ tại đây làm lễ cầu nguyện, để lại thức
ăn dân lên cho “nữ thần corona”, đồng thời rửa tượng thần bằng nước nghệ và sữa. Đó
được xem là cách để thần linh giúp cho người dân vượt qua khó khăn bởi những người
theo đạo Hindu cho rằng, cúng lễ các vị “thần” là các vi rút, nguồn gốc gây ra dịch bệnh
thì có thể giảm bớt dịch bệnh.
* Tính chất của tôn giáo
Tính lịch sử của tôn giáo, Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, bởi vì nó
có sự hình thành, tồn tại và phát triển trong những giai đoạn lịch sử nhất định, nó có
khả năng biến đổi để thích nghi với nhiều chế độ chính trị - xã hội.
(Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi
khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất
các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong
đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người. Đương nhiên, để đi đến
trình độ đó sẽ còn là một quá trình phát triển rất lâu dài của xã hội loài người.)
Tính quần chúng của tôn giáo, Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả
các dân tộc, quốc gia, châu luc, không một quốc gia nào, dân tộc nào không có một hay
nhiều tôn giáo. Tính quần chúng biểu hiện của số lượng tín đồ, các tôn giáo là nơi sinh
hoạt văn hoá, tinh thần của một bộ phận khá đông đảo quần chúng nhân dân lao động. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Tính chính trị của tôn giáo, Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã
phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị. Khi xã hội
chưa có giai cấp, tôn giáo chỉ phản ánh nhận thức hồn nhiên, ngây thơ của con người
về bản thân và thế giới xung quanh mình, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất
chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự
đối kháng về lợi ích giai cấp. Trước hết, do tôn giáo là sản phẩm của những điều kiện
kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích, nguyện vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, nên tôn giáo mang tính chính trị. Mặt khác, khi
các giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp mình,
chống lại các giai cấp lao động và tiến bộ xã hội, tôn giáo mang tính chính trị tiêu cực, phản tiến bộ.
* Nguyên tắc cơ bản ứng xử với vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Thứ nhất, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân
dân. Tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân
dân. Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản
chất ưu việt của chế độ XHCN. Tôn trọng tự do tín ngưỡng còn là tôn trọng quần chúng.
Quần chúng là nguồn gốc của mọi sức mạnh, là động lực phát triển của lịch sử. Đoàn
kết các lực lượng quần chúng có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng tôn giáo là cơ sở
để đấu tranh chống lại các luận điệu vu cáo, các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống nhà nước XHCN.
Thứ hai, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với quá trình
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chỉ hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu
cực của tôn giáo đối với quần chúng lao động. Phải xác lập được một thế giới hiện thực
không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học,… cũng như những tệ nạn nảy sinh
trong xã hội. Chỉ có thông qua quá trình đó để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và
trí tuệ con người thì mới có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo
trong đời sống xã hội.
Thứ ba, phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo trong vấn đề tôn giáo. Là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại
mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Việc phân biệt
hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng “tả” hoặc hữu trong quá trình quản
lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, đến một bộ phận quần
chúng trong xã hội (những người theo tôn giáo).
Thứ tư, quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. Tôn giáo
không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận động và biến
đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể. Ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống
xã hội không giống nhau. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét,
đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.
* Quan điểm, chính sách Đảng Cộng Sản, Nhà nước đối với vấn đề tôn giáo. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, cũng là một thực thể xã hội đã tồn tại hàng
nghìn năm cùng với xã hội loài người. Từ khi xuất hiện, tôn giáo luôn là yếu tố tham
gia vào các quá trình xã hội, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống con người. Trong
lịch sử phát triển, tôn giáo đã trải qua nhiều bước thăng trầm và biến đổi cùng với sự
biến đổi của lịch sử nhân loại. Ngày nay trên thế giới, hoạt động tôn giáo vẫn không hề
suy giảm mà đang nổi lên như một hiện tượng sống động của thời đại với những diễn
biến phức tạp, thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều quốc gia, dân tộc. Các tôn giáo
không chỉ có xu hướng phục hồi, phát triển mạnh mẽ ở một số nước mà còn liên quan
chặt chẽ đến những cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc đẫm máu đang diễn ra ở nhiều nơi;
đụng chạm đến vấn đề bảo lưu, giữ gìn bản sắc văn hóa của từng cộng đồng dân tộc
trước xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa hiện nay. Việt Nam là một quốc gia có nhiều
tôn giáo đã tồn tại lâu dài cùng với lịch sử dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những chính sách đối với
tôn giáo một cách đúng đắn nên đã vận động được đông đảo quần chúng tín đồ và chức
sắc tôn giáo tham gia và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc cũng như xây dựng đất nước đi theo con đường đổi mới. Từ khi thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, pháp luật quan trọng, thể hiện những quan điểm đổi mới, khoa học về tín
ngưỡng tôn giáo, đáp ứng được những nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của quần chúng
tín đồ và chức sắc tôn giáo. Chính điều đó đã làm cho đồng bào có đạo phấn khởi, tin
tưởng vào chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta, tích cực góp phần
vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Song, một thực tế khác là hoạt
động tôn giáo ở nước ta trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng và diễn biến
khá phức tạp. Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đa dạng, phong phú, thu hút đông đảo
quần chúng thuộc nhiều tầng lớp xã hội tham gia. Hoạt động sửa chữa, nâng cấp, xây
cất mới các cơ sở thờ tự tôn giáo diễn ra khắp nơi ở cả thành thị và nông thôn.
Hiện nay, trên thế giới chỉ còn một số nước theo mô hình nhà nước phi thế tục, còn lại
hầu hết theo mô hình nhà nước thế tục. Trong đó, những nước như Mỹ, Canada vẫn
xem tôn giáo là chỗ dựa tinh thần của xã hội. Indonesia nhấn mạnh niềm tin Thượng
Đế là một trong 5 nguyên tắc của nền cộng hòa, và gần như bắt buộc mỗi người dân
phải theo một trong 5 tôn giáo đang được nhà nước cho hoạt động. Ở Thái Lan, Phật
giáo được xác định là quốc giáo, học sinh đều phải học luân lí nhà Phật. Trong hệ thống
xã hội chủ nghĩa trước đây, một số nước có những sai lầm khi giải quyết vấn đề tôn
giáo. Hiến pháp Liên Xô năm 1936 ghi: “Tự do tôn giáo và tự do chống tôn giáo”. Ở
Trung Quốc, trong thời kì Cách mạng Văn hóa (1966 - 1976), chính sách tự do tôn giáo
bị vi phạm nghiêm trọng. Tôn giáo là một trong những đối tượng bị công kích, một số
cơ sở thờ tự bị phá hủy. Phải đến sau Hội nghị toàn thể lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI (12/1978) mới quay lại với chính sách tôn giáo đúng đắn. lOMoAR cPSD| 58707906 19:07 13/9/24
Đề cương Chủ nghĩa Khoa học xã hội
Nhưng với Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm xuyên suốt, nhất quán là tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Ngay từ
năm 1930, trong Chỉ thị của Đảng về việc thành lập Hội Phản đế Đồng minh đã ghi:
“Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của quần chúng”. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, Đảng và Chính phủ xác định rõ: “Tín ngưỡng tự do. Lương -
Giáo đoàn kết”. Trong bản báo cáo tại Hội nghị phổ biến Sắc lệnh về tôn giáo năm
1955, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã nêu ra một số nhận thức chưa đúng của cán bộ,
đảng viên về vấn đề tôn giáo như lạm dụng câu nói của C. Mác “Tôn giáo là thuốc
phiện, mê hoặc quần, rồi đối với tôn giáo chỉ có một chiều là chống, muốn xóa bỏ ngay,
không thấy được tôn giáo đã biến thành một phần nhu cầu trong đời sống quần chúng.
Tôn giáo vốn không phải là trở lực. Nó chỉ trở thành trở lực khi bị đế quốc, phong kiến
lợi dụng và khi chính quyền làm sai chính sách sẽ đẩy quần chúng về phía đối địch.
Cho đến năm 1981, sự nhìn nhận tôn giáo ở nước ta vẫn còn nặng về góc độ chính trị
và xã hội. Về góc độ chính trị, chủ yếu giới hạn trong việc các tôn giáo bị các thế lực
thù địch lợi dụng để chống phá sự nghiệp cách mạng. Về góc độ xã hội, xem tôn giáo
là tiêu cực, buôn thần bán thánh, đánh đồng tôn giáo với mê tín khi gọi là “mê tín tôn
giáo”. Về góc độ tư tưởng chính trị, xem niềm tin tôn giáo là “tình cảm không đúng
và lí tưởng mù quáng”, còn đồng nhất tôn giáo với một thứ công cụ áp bức tinh thần
đối với quần chúng lao động. Phải đến Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị khóa VI ra
ngày 16/10/1990 có tiêu đề “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” mới
thực sự là bước ngoặt nhận thức của Đảng đối với vấn đề tôn giáo.