






Preview text:
ĐẠI HỌC UEH
TRƯỜNG KINH DOANH
KHOA KẾ TOÁN
⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘⁘ ⁘⁘
BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
Tên học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã lớp học phần: POL510025
Giảng viên: PGS.TS Vũ Anh Tuấn
Sinh viên thực hiện: Phạm Thanh Bảo Thi - Lớp KNC03
Mã số sinh viên: 31221024100
Khóa/Hệ: K48/ Đại học Chính quy Chất lượng cao
TP. HỒ CHÍ MINH
I. ĐỀ BÀI:
1. Phân tích các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ?
2. Hãy nêu quan điểm cá nhân về nội dung thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước
Việt Nam đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay ?
3. Mối quan hệ giữa dân tộc với tôn giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của mối quan hệ
này đến sự ổn định chính trị - xã hội của nước ta? BÀI LÀM
I. PHÂN TÍCH CÁC NGUYÊN TẮC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã có sự biến
đổi trên nhiều mặt. Vì vậy, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Thứ nhất, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
+ Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng
thiêng liêng nào đó mà họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó,tự do tín
ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Quyền
này nói lên rằng việc theo đạo đổi đạo, hay không theo đạo là thuộc quyền tự do lựa
chọn của mỗi người dân, không một cá nhân, tổ chức nào kể cả những chức sắc tôn
giáo, tổ chức hội giáo…được quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành vi cấm
đoán, ngăn cản tự do theo đạo, đổi đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt buộc người dân phải
theo đạo đều xâm phạm đến quyền tự do tư tưởng của họ.
Ví dụ: người chồng ép vợ mình đổi từ đạo Thiên Chúa sang đạo Phật để giống với gia
đình, dòng họ nhà chồng; hành vi này vi phạm Điều 24 Hiến pháp 2013 và Luật Hôn
nhân và Gia đình "quyền Bình đẳng Hôn nhân Và Gia đình trong quan hệ nhân thân".
+ Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể
hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không
can thiệp và không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng,
quyền lựa chọn theo hay không theo tôn giáo của nhân dân. Các tôn giáo và hoạt động
tôn giáo bình thường, các cơ sở thờ tự, các các phương tiện phục vụ nhằm thỏa mãn
nhu cầu tín ngưỡng của người dân được nhà nước Xã hội chủ nghĩa tôn trọng và bảo hộ.
Ví dụ: Nhà nước Việt Nam cho phép các nhà thờ, giáo xứ đạo Thiên Chúa hằng tuần
tổ chức các buổi đọc Kinh thánh, nghe giảng và xem những tiết mục liên quan đến Thiên Chúa giáo.
- Thứ hai, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắnl iền
với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
+ Nguyên tắc này để khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ hướng vào việc giải quyết
những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân mà không chủ
trương can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo.
Ví dụ:Việt Nam bài trừ các "tà đạo", các giáo hội không được Nhà nước cho phép như
Hội Thánh Đức Chúa Trời tại thành phố Hồ Chí Minh; trừng phạt những người mạo
danh là các mục sư đi lang thang ngoài đường hòng trục lợi từ lòng tin,lòng hướng Phật của người dân.
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải
thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng này sinh trong tư tưởng con
người, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Điều cần thiết trước hết là phải xác
lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học…
cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Đó là một quá trình lâu dài, và không
thể thực hiện được nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
+ Trong xã hội công xã nguyên thủy, tín ngưỡng, tôn giáo chỉ biểu hiện thuần túy về
tư tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn giai cấp – chính trị ít
nhiều đều in rõ trong các tôn giáo. Từ đó, hai mặt chính trị và tư tưởng thường thể
hiện và có mối quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn giáo.
Ví dụ: trong xã hội chiếm hữu nô lệ, những tầng lớp, giai cấp nô lệ bị áp bức, bóc lột,
bần cùng nặng nề bởi chủ nô (chính trị), vì thế họ tin tưởng rằng có một thế lực siêu
trần thế có thể cứu giúp họ và cho họ tự do,hạnh phúc (tư tưởng).
+ Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ và phản tiến bộ, phản ánh mâu
thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa những
thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích nhân dân lao
động. Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về niềm tin,mức độ tin tưởng giữa những
người có tín ngưỡng tôn giáo và những người không theo tôn giáo, cũng như những
người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau,phản ánh mâu thuẫn không mang tính đối kháng.
+ Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo thực chất là
phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn
giáo và trong vấn đề tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh
khuynh hướng cực đoan trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
- Cuối cùng, quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng,tôn
giáo. Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn
vận động và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế -xã hội -
lịch sử . Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển nhất
định. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với
đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo
dân về những lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có
quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có
liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.
Ví dụ: Ở triều đại phong kiến, Phật giáo được truyền vào Việt Nam để hình thành giá
trị văn hóa chùa, làng. Còn ngày nay, đạo Phật không chỉ giữ gìn văn hóa đền chùa
mà còn tổ chức rất nhiều buổi tọa đàm giảng dạy,khóa tu, các lễ thiền, lễ phóng sanh,
siêu độ cho các vong linh mới qua đời,...
II. HÃY NÊU QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VỀ NỘI DUNG THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO HIỆN NAY
Vốn được biết đến là một quốc gia có nhiều tôn giáo, đa dạng về nguồn gốc vàtruyền
thống lịch sử. Mang trong mình là niềm tự hào với sự đa dạng về tôn giáonhưng lại
luôn gắn bó mật thiết với nhau, hiếm khi xảy ra những xung đột hay chiếntranh tôn
giáo. Có được điều đó chính là nhờ nhân dân lao động ta luôn mang trongmình lòng
yêu nước, tinh thần đoàn kết và cùng với sự phát triển văn minh của xã hộinước ta
hiện nay. Và từ lâu, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng và đề cao hoạtđộng
tôn giáo, ban hành các chủ trương, chính sách, tạo điều kiện để các hoạt động tôngiáo
được thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, hiến pháp và pháp luật. Trên quan điểmcủa
Chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề tôn giáo, bản thân em cũng có những quan điểmvề
vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Thứ nhất, tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu
tinhthần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình
xâydựng CNXH ở nước ta. Với sự quan trọng và luôn tôn chỉ sự bình đẳng, công bằng
nênmỗi chúng ta hãy luôn thực hiện tốt những nhất quán về quyền tự do tín ngưỡng
tôngiáo và càng khẳng định được Việt Nam ta không có sự phân biệt hay kì thị nào
giữanhững người có theo tôn giáo, tín ngưỡng hay không. Thứ hai, công tác tôn giáo
làtrách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Do công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều
lĩnhvực của đời sống xã hội, địa phương các cấp luôn nghiêng về chính sách đối nội
và đốingoại của Đảng, nhà nước. Không chỉ thế công tác tôn giáo còn gắn liền với
công tácđấu tranh chống âm mưu, lợi dụng tôn giáo gây ảnh hưởng đến lợi ích nước
nhà. Vớimỗi bản thân chúng ta hãy luôn đề cao trách nhiệm của bản thân trong công
tác quảnlý, luôn có tâm thế đấu tranh, bài trừ những hành động mang tính tiêu cực ảnh
hưởngđến tôn giáo cũng như đất nước. Thứ ba, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín
đồtheo tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền tự do thực hiện quyền trong tín ngưỡng,
tôngiáo nhưng phải theo quy định không được trái pháp luật. Tuy nhiên, không vì thế
màlại lợi dụng tôn giáo để đi tuyên truyền tà đạo hay mê tín dị đoan hoặc ép buộc
ngườikhác đi theo; nghiêm cấm những hành động truyền đạo trái phép vi phạm quy
địnhHiến pháp và pháp luật. Đúng thế, với mỗi bản thân chúng ta dù đang theo tôn
giáohoặc không theo thì cũng nên luôn có trách nhiệm quan trọng trong công cuộc
xâydựng xã hội đặc biệt là về vấn đề tôn giáo hiện nay. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng
lợidụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm những điều bất chính, tuyên truyền những mê
tín,thiếu văn hoá đang là vấn đề làm ảnh hưởng rõ nét đến đời sống tinh thần của
conngười. Những hiện trạng thi đua nhau mở lễ hội với quy mô ngày càng “phóng
đại”,nội dung nghèo nàn mang đậm tính thương mại đã làm mờ đi tính nhân văn, nhân
đạocủa tôn giáo, tín ngưỡng. Đặc biệt, sự phát triển đa dạng và mạnh mẽ của tôn giáo
hiệnnay lại càng chính là “công cụ” bị lợi dụng kiếm lời, gây mất ổn định chính trị và
pháhoại đi trật tự cũng như chính quyền nhân dân. Do đó, để chấn chỉnh và chấm dứt
đihiện trạng đó thì mỗi bản thân, chức trách cán bộ của Đảng và Nhà nước phải luôn
đề cao trách nhiệm của bản thân, luôn nắm bắt, tìm hiểu cũng như lắng nghe dân để
thấuhiểu tâm tư, nguyện vọng của dân; giúp cho đất nước ngày càng văn minh, nhân
đạochứ không mang tính thương mại, lợi dụng lợi ích của nước nhà. Đồng thời, bản
thânmỗi con người cần phải trau dồi thêm các kiến thức để tránh các hiện tượng bị các
thếlực dụ dỗ, lôi kéo vào các con đường tà đạo, những loại tôn giáo ngoại lai không
rõnguồn gốc. Đứng ra tuyên truyền cho mọi người cùng hiểu rõ hơn về tôn giáo và tự
dotín ngưỡng nhằm nâng cao nhận thức của bản thân, gia đình, bạn bè, nâng cao khối đạiđoàn kết dân tộc III.
Mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc là sự liên kết qua lại, sự vận động, biến đổi các
tôn giáo gắn liền với sự vận động, biến đổi của các vấn đề dân tộc, như vậy có thể
thấy:- Sự đoàn kết giữa tôn giáo và dân tộc trở thành xu thế nổi trội trong quá trình
toàn cầu hóa của Việt Nam hiện nay.Các tôn giáo tham gia tích cực vào khối đại đoàn
kết dân tộc , tích cực tham gia cáchoạt động chính trị-xã hội , tham gia xây dựng
chính quyền các cấp trên nền tảng của sự đoàn kết, hưởng ứng chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là vận động cử tri theo tôn giáo
tham gia bẩu cử Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Tại Quốc hội khóa
XIV, các Đại biểu Quốc hội là chức sắc, chức việc tôn giáo đã tích cực tham gia góp ý
vào nội dung của dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo để Luật phù hợp với thực tiễn,
góp phần vào thành công của Luật tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua với tỷ lệ cao
tại Quốc hội và đáp ứng kịp thời nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng của người dân.
Tại đợt bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV có tới 7 người là chức sắc, chức việc
thuộc 3 tôn giáo: Phật giáo, Công giáo và Cao Đài, từ đó cho thấy Các Đại biểu Quốc
hội là chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo là những cánh tay nối dài, giúp đem
tiếng nói của đông đảo nhân dân và tín đồ các tôn giáo góp ý vào các nghị quyết và
văn bản luật pháp quan trọng của Quốc hội.Tinh thần đoàn kết giữa mối quan hệ tôn
giáo và dân tộc cũng được chứng minh rõ rệt qua cuộc kháng chiến chống Pháp và
Mỹ, tinh thần đó đã trở thành sức mạnh quật khởi để dân tộc Việt Nam chiến thắng kẻ
thù.về góc độ văn hoá, các tôn giáo tích cực hưởng ứng, tham gia xây dựng đời sống
văn hoá cơ sở, xây dựng làng văn hoá, xã văn hoá, gia đình văn hoá. Có thể thấy tôn
giáo không ngừng bồi dưỡng đạo đức, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộphận
nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với xây dựng con người mới, xã
hội mới, các cấp uỷ Đảng và chính quyền cùng với Mặt trận Tổ quốc các cấp và các
đoàn thể tạo thuận lợi cho đồng bào theo các tôn giáo sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo
của mình Sự gắn liền giữa tôn giáo và dân tộc tạo bản sắc văn hóa trước xuthế toàn
cầu hóaNho giáo, học thuyết chính trị-xã hội, song khi được du nhập vào Việt Nam đã
mang màu sắc tôn giáo rõ nét. Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo cũng được du nhâp vào
nước ta, bị “dân tộc hóa”, 2 tôn giáo này cũng như một số tôn giáo khác dần đi vào
tâm thức của nhân dân ta, tạo ra những nét, những đặc điểm riêng cộng với vănhóa
bản địa riêng ở nơi đây đã tạo nên bản sắc văn hóa riêng chỉ nước ta mới có – đây là
yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh của dân tộc chống lại mưu đồ đồng hóa dân tộc
hàng ngàn năm của phương Bắc, giành lại độc lập dân tộc đồng thời cũng chống.
Trước xu thế toàn cầu hoá sự gắn kết giữa tôn giáo và dân tộc tạo nên bản sắc văn hoá
vẫn là xu hướng cơ bản, song có điều trong quá trình đó các tôn giáo cũng tự phải
biến đổi mình để thích nghi, để tồn tại, thậm chí phát triển theo yêu cầu xã hội tiến
nhanh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.- Các thế lực thù địch lợi dụng
tôn giáo, tộc người nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộcTrong giai đoạn hiện nay
dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá, sự lợi dụng vấn đề tôn giáo của các thế lực thù
địch mang nội dung mới và tính chất phức tạp hơn nhiều. Ở nước ta, từ sau năm 2001
các thế lực thù địch công khai ủng hộ, dựng lên cái gọi là "Nhà nước Đềga", "Tin
Lành Đềga" nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa người Kinh và người Thượng, chia rẽ và
phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, và muốn tách Tây Nguyên ra khỏi Tổ quốc Việt
Nam. Mưu đồ này được dựng bởi những kịch bản tương tự như “Tổ quốc của người
Mông” với Tin Lành - Vàng Chứ ở các tỉnh miền núi phía Bắc, “Nhà nước Khmer
Crôm” gắn với Phật giáo Nam Tông ở khu vực Tây Nam Bộ. Tất cả nhằm chia rẽ, gây
mất đoàn kết dân tộc, tôn giáo trong một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo như nước ta
dẫn đến suy giảm và lụi tàn văn hóa ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống chính trị-xã
hội, cũng như ảnh hưởng đến thực hiện chủ trưởng chính sách của Đảng và nhà nước