MỤC LỤC
Câu 1: Hiện nay giai cấp công nhân ở các nước tư bản còn rất ít. Mà giai cấp công
nhân ngày càng bị thu hẹp lại, bị “teo đi”, vậy thì giai cấp công nhân có còn sứ mệnh
lịch sử nữa hay không? ....................................................................................................... 2
Câu 2: Công nhân ở các nước tư bản đã được trung lưu hoá, giai cấp công nhân đã
bắt tay với tư bản nên giai cấp công nhân không còn mục đích lật đổ tư bản nữa? .....
3
Câu 3: Công nhân ngày càng được trí thức hoá. Vậy phải chăng công nhân đã trở
thành trí thức rồi, không còn là công nhân nữa? ............................................................ 4
Câu 4: Quan điểm của chủ nghĩa Mác nin về tính quy luật của sự ra đời của
Đảng Cộng sản đã được áp dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta như thế o? ........ 5
Câu 5. Liên hệ thực tiễn về vấn đề dân tộc ....................................................................... 7
Câu 6: (Chương 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân) ......................................... 8
Câu 7: (Chương 3: Chủ nghĩahộithời kỳ quá độ lên CNXH) .............................. 9
Câu 8. (Chương 4: Dân chủ xhcn và nhà nước xhcn) ...................................................... 9
Câu 9. Liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩahội Việt Nam hiện nay ............. 11
Câu 10. Liên hệ thực tiễn, lấy vd thực tế trong cuộc sống về tư tưởng Hồ Chí Minh,
về văn hóa và sự vận dụng của ĐCSVN trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc .................................................................................................... 12
Câu 1: Hiện nay giai cấp công nhân ở các nước tư bản còn rất ít. Mà giai cấp công
nhân ngày càng bị thu hẹp lại, bị “teo đi”, vậy thì giai cấp công nhân còn sứ mệnh
lịch sử nữa hay không?
Chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn luôn tồn tại, phát triển trong cải cách, đổi mới; giai
cấp công nhân vẫn không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượngkhẳng định vai
trò sứ mệnh lịch sử của họ.
Theo chủ nghĩa Mác Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách
mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất sứ mệnh lịch sử. Sứ mệnh lịch sử sự tổng
quát của giai cấp công nhân thông qua chính đảng tiền phong, giai cấp công nhân tổ
chức, lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột người, xóa
bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp công nhân nhân dân lao động khỏi mọi sự áp
bức, nghèo nàn, lạc hậu xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Hiện nay, thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, nhưng học thuyết C. Mác vẫn
sáng ngời, khẳng định giá trị của nó trong nhận thức chủ nghĩa tư bản hiện đại. Về lực
lượng sản xuất, các nước bản phát triển triệt để tận dụng những thành tựu mới nhất của
cách mạng khoa học và công nghệ để mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, đưa sản xuất phát triển vào chiều sâu, tính chất chuyên môn hóa ngày càng cao.
Kinh tế tri thức ra đời với sự tăng lên rất nhanh của cải vật chất, đã đáp ứng nhu cầu
hội ngày càng đa dạng. Theo đó, đời sống của người công nhân với tư cách là lực lượng
sản xuất chủ yếu cũng được quan tâm, nâng cao, phúc lợi xã hội được tăng cường. Về
quan hệ sản xuất, vẫn bảo tồn chế độ sở hữu tư nhân tư bản về nguyên tắc, còn trong
hình thức tổ chức đã những bước điều chỉnh mở rộng các hình thức sở hữu bản như
mở rộng chế độ cổ phần, bán cổ phiếu giá trị nhỏ cho người lao động. Hiện tượng này
đã được các nhà lý luận tư sản tô vẽ là "chủ nghĩa tư bản nhân dân, nhân đạo", người
công nhân có cổ phần trở thành hữu sản. Trên thực tế, mặc dù đời sống công nhân các
nước phát triển, có thể ít nhiều được cải thiện nhưng địa vị kinh tế của họ vẫn không vì
thế mà thay đổi; quyền chi phối xí nghiệp vẫn do các chủ tư bản chiếm đa số cổ phần
điều hành và bản chất bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản vẫn không hề thay đổi.
Cùng với sự phát triển của dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều thay
đổi, phát triển cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu và vai trò trong xã hội. Thông qua
chính đảng tiền phong của mình, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh
đạo cách mạng, lãnh đạohội, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướnghội
chủ
nghĩa đến thắng lợi. Vai trò lãnh đạo, bản chất cách mạng, tính tiền phong của giai cấp
công nhân Việt Nam không hề thay đổi. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Việt Nam trong tình hình mới, cấp thiết phải xây
dựng giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nhất là việc nâng cao bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ
luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Phát huy vai trò của giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 2: Công nhân các nước bản đã được trung lưu hoá, giai cấp công nhân đã
bắt tay với tư bản nên giai cấp công nhân không còn mục đích lật đổ tư bản nữa?
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ bản chủ nghĩa,
xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại
khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công hội cộng sản chủ nghĩa. phát triển về
số lượngchất lượng, nâng cao giác ngộbản lĩnh chính trị, trình độ học vấnnghề
nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào
sản xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò
lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.
Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và luôn
vận động phát triển do sự thay đổi không ngừng của công cụ lao động ở trình độ ngày
càng cao. Nhưng trình độ của công cụ lao động thay đổi được là kết quả của hoạt động
sáng tạo của con người.Trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội với nền sản xuất đại
công nghiệp ngày càng phát triển, giai cấp công nhân trở thành bộ phận quan trọng nhất,
cách mạng nhất trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Lao động sống của giai
cấp công nhân tạo ra phần lớn của cải vật chất cho xã hội và đóng vai trò có ý nghĩa
quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Trong chủ nghĩa tư bản, do không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất, giai cấp công
nhân buộc phải bán sức lao động trở thành người làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai
cấp tư sản bóc lột nặng nề. Trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản chỉ có thể bóc lột
được giai cấp công nhân khi họ nắm giữ, chi phối tư liệu sản xuất của xã hội. Do vậy,
bằng mọi giá, giai cấp tư sản phải duy trì chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Mặt
khác, giai cấp công nhân cũng chỉ được giải phóng khỏi mọi sự áp bức, bóc lột khi xoá
bỏ được chế độ sở hữu nhân về liệu sản xuấtthay thế vào đó chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất.
Giai cấp tư sản bóc lột, song giai cấp công nhân là đối tượng bị bóc lột trực tiếp và
nặng nề nhất. Do vậy, lợi ích bản của giai cấp công nhân đối lập trực tiếp với lợi ích
cơ bản của giai cấp tư sản.Giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích
của đại đa số nhân dân lao động, bởimuốn giải phóng nh khỏi mọi sự áp bức, bóc
lột, giai cấp công nhân phải đấu tranh xoá bỏ chế độ sở hữu nhân về liệu sản xuất.
Nếu điều này trở thành hiện thực thì giai cấp công nhân không chỉ giải phóng mình mà
còn
giải phóng toàn xã hội khỏi mọi sự áp bức, bóc lột. Hơn nữa, do điều kiện làm việc và
điều kiện sống chủ yếu là ở các khu công nghiệp tập trung và ở các thành phố lớn, nên
giai cấp công nhân có khả năng tập hợp lực lượng, đoàn kết với các giai cấp, tầng lớp
nhân dân lao động khác trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp sản để giải phóng mình
và giải phóng toàn xã hội.
Câu 3: Công nhân ngày càng được trí thức hoá. Vậy phải chăng công nhân đã trở
thành trí thức rồi, không còn là công nhân nữa?
Vai trò của trí thức đối với sự phát triểnhội quan trọng, cấp thiết, thể hiện nét
trong kinh tế tri thức, kinh tế số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Với những đóng
góp từ lao động của trí thức giúp cho quá trình sản xuất vật chất của công nhân và nông
dân không ngừng nâng cao về năng xuất, chất lượng, năng lực cạnh tranh, tạo ra sự phát
triển nhanh của đất nước. Nhưng trí thức không thể lãnh đạo xã hội vì: theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác Lênin, trí thức không phải là một giai cấp, mà là một lực lượng xã
hội đặc biệt, có nguồn gốc xuất thân không thuần nhất. Trí thức không đại diện cho một
phương thức sản xuất độc lập nào, phương thức sản xuất của trí thức là độc lập nghiên
cứu, sáng tạo; sản phẩm của trí thức là lý thuyết, phát minh, sáng chế, tồn tại dưới dạng
những giá trị lý thuyết tinh thần là chủ yếu. Trí thức không có hệ tư tưởng riêng, tư
tưởng của trí thức phụ thuộc hệ tư tưởng của các giai cấp thống trị xã hội.
Từ xưa đến nay, trí thức tồn tại với tư cách là lực lượng xã hội đặc biệt. Số lượng trí
thức không đông bằng giai cấp công nhân và nông dân, không phải một lực ợng kinh
tế, chính trị - xã hội độc lập, không thể so với sự đông đảo của giai cấp công nhân và giai
cấp nông dân. Trên thực tế, trí thức chỉ tồn tại và phát triển dựa vào giai cấp công nhân
hoặc nông dân, dựa trên lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, đó là môi trường để trí thức
thể áp dụng các thuyết, phát minh, sáng chế, thiết kế của mình để kiểm nghiệm thực
tiễn, đánh giá tính đúng sai, kiểm tra chân lý, qua đó mà trí thức mới có thu nhập, được
nuôi dưỡng, tồn tại và phát triển.
Hiện nay, với sự phát triển của xã hội, số lượng người lao động được đào tạo ở trình
độ, tay nghề cao ngày càng nhiều, do nhu cầu về việc làm, thu nhập mà những người
trình độ cao đã không ngừng tham gia vào phương thức sản xuất công nghiệp, bổ sung
cho giai cấp công nhân, kể cả chuyên gia đầu ngành, làm cho giai cấp công nhân không
ngừng tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Kinh tế tri thức và kinh tế số là một
trình độ mới của lực lượng sản xuất hiện đại vai trò của tri thức một số lĩnh vực sản
xuất đã được khẳng định. Việc quan tâm phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số là xu thế
chung hiện nay, nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Giai cấp
công nhân Việt Nam vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội Việt Nam thông qua Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, giai cấp công nhân nước ta có khoảng 20,5 triệu người, có sự phát triển
nhanh về số lượngchất lượng, đa dạng về cấu, lĩnh vực, ngành nghề; trình độ tay
nghề, vai trò của giai cấp công nhân càng ngày được khẳng định. Giai cấp công nhân
nước ta hiện chiếm tỷ lệ khoảng 14% dân số, 27% lực lượng lao động xã hội, nhưng
hằng năm đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% giá trị thu ngân
sách Nhà nước. Theo Tổng cục Thống kê:“ dịch Covid-19 lần thứ tư với biến chủng mới
diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất công nghiệp...nên chỉ số sản xuất
công nghiệp tháng 7/2021 chỉ tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 2,2% so với cùng kỳ
năm trước, tính chung 7 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,9% so với 7
tháng năm 2020.
Điều đó chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta không hề suy yếu, ngược lại giai cấp
công nhân Việt Nam đã phát huy mạnh mẽ vai trò của giai cấp lãnh đạo xã hội, trở thành
nền tảng chính trị đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng tăng cường sức mạnh Nhà nước.
Câu 4: Quan điểm của chủ nghĩa Mác nin về tính quy luật của sự ra đời của
Đảng Cộng sản đã được áp dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta như thế nào?
Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo những nguyên lý đảng kiểu
mới của ch nghĩa Mác-Lênin vào xây dựng Đảng Cng sản Vit Nam, thể hin những
vấn đề cơ bản sau:
Về nguyên tắc tập trung dân chủ: Vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển quan
nim, bản chất nguyên tắc tp trung dân chủ. "Mọi vic đều bàn bạc mt cách dân chủ
tập thể. Khi đã quyết định rồi, thì phân phối công tác phải rạch ròi, giao cho mt hoc
mấy đồng chí phụ trách làm đến nơi đến chốn". Mở rng nội hàm nguyên tắc tập trung
dân chủ: Thiểu số phục tùng đa số; cá nhân phục tùng tổ chức; cấp dưới phục tùng cấp
trên; các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội toàn quốc và Ban Chấp hành Trung
ương; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách…
Về tự phê bình và phê bình: Trong bản Di chúc, Người căn dặn “Trong Đảng thực
hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách
tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: “Mt Đảng gan thừa nhn khuyết điểm của nh, vạch rõ những cái đó,đâu
khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa
chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là vic cần thực hiện thường xuyên, hàng
ngày của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán b, đảng viên “như rửa mt hàng ngày”, vic tự phê
bình và phê bình nêu ưu điểm, chỉ khuyết điểm để giúp nhau phát huy ưu điểm, sửa
chữa khuyết điểm, để cùng nhau tiến bộ, tự phê bình và phê bình phải đúng lúc, đúng
cách, phải tôn trọng lẫn nhau…
Về đoàn kết thống nhất trong Đảng: Đây là nét sáng tạo đc sắc trong tư tưởng của
Người, Người chỉ rõ: "Đảng ta là Đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin…Đảng ta
là một Đảng lãnh đạo. Tất cả cán bộ, đảng viên dù ở cương vị khác nhau, làm công tác
khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí". Trong Đảng phải sự đoàn kết nhất trí, làm
hạt nhân đoàn kết toàn dân tộc và nhân rộng ra là đoàn kết quốc tế, vì vậy, Người kêu
gọi:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết". Đảng có đoàn kết thực sự thì mới tạo nên sức mạnh,
mới đủ năng lực lãnh đạo cách mạng đến thành công "Đoàn kết sức mạnh, then chốt
của thành công". Trước lúc từ biệt thế giới này, Người không quên căn dặn chúng ta:
"Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình"… Như vậy, Hồ Chí Minh không chỉ nhận
thức sâu sắc, vn dụng sáng tạo, mà còn phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin về
đoàn kết thống nhất, đó là sự kết hợp, quyện chặt giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với truyền
thống văn hóa đoàn kết của dân tc Việt Nam và nhân loại.
Về cán b và công tác cán b: Đề cập đến vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của đi
ngũ cán bộ, Hồ Chí Minh khẳng định: "Cán b là cái gốc của mọi công vic". "Muôn
vic thành công hoc thất bại, đều do cán b tốt hoc kém" . Và: "Cán b những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng".
Theo Hồ Chí Minh, trong công tác cán b phải thực sự công tâm, khách quan, phải
khéo dùng cán b, rèn luyện, dạy dỗ cán bộ, vì công việc mà chọn người, phải biết
thương yêu cán b đúng cách; cần trách các căn bnh thích ng người thân, bạn bè, cục
bộ, không nên cất nhắc cán bộ như giã gạo, “một người làm quan cả họ được nhờ”…
Về tổ chức cơ sở đảng: Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề củng cố tổ chức, xây dựng
Đảng từ sở, vì chính tổ chức sở đảng, chi b nơi lãnh đạo các hoạt động sở,
là hạt nhân lãnh đạo các tổ chức trong h thống chính trị và các mặt hoạt động ở cơ sở,
nơi giáo dục, quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, là môi trường để đảng viên
phấn đấu, rèn luyện, trưởng thành và phát triển, nơi gắnmáu thịt với nhân dân, là nền
tảng của Đảng, do vậy, Người chỉ rõ: "Chi bộ là nền móng của Đảng, chi b tốt thì mọi
vic sẽ tốt". "Chi b là gốc rễ của Đảng…Chi bộ vững mạnh thì mọi chính sách của
Đảng và Chính phủ nhất định thi hành được tốt". "Mỗi chi b của Đảng phải là hạt nhân
lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên h mt thiết với quần chúng, phát
huy được trí truệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng. Mỗi cấp b của Đảng phải là một
cơ quan lãnh đạo vững chắc ở địa phương, theo đúng đường lối, chính sách của Trung
ương".
Về xây dựng đạo đức cách mạng cho cán b, đảng viên: Hồ Chí Minh dành nhiều thời
gian, công sức, trí tuệ bàn về đạo đức cách mạng, dày công rèn luyn đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, và, chính Người là tấm gương sáng thực hành đạo đức
cách mạng như “Lòng sông gương sáng bụi không mờ”. Theo Người, cán bộ, đảng viên
phải có cả đức lẫn tài, “vừa hồng”, “vừa chuyên”, giữa đức và tài thì đức là gốc, là nền
tảng: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Đạo đức cách mạng là: Trung
với nước, hiếu với dân; nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã quán trit nghiêm túc, vận dụng triệt để, kế thừa chọn lọc,
sáng tạo và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về đảng cộng sản phù
hợp với hoàn cảnh của Việt Nam, đã sáng lập, rèn luyện, xây dựng thành công Đảng
Cng sản Vit Nam-mt đảng cách mạng, chân chính, năng lực lãnh đạo sức chiến
đấu cao, xứng đáng là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cng sản Vit Nam luôn trung thành, vn dụng sáng tạo
luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh m nền tảng tưởng, kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng, nhờ vậy, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và, chắc chắn chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu:
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Câu 5. Liên hệ thực tiễn về vấn đề dân tộc
1. Liên hệ thực tiễn.
Vai trò: Chính trị dân tộc vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng.
Nguyên tắc: Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Thực hiện:
- Áp dụng ơng lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mac-Lenin vào chính sách dân tộc
- Ban hành hệ thống chính sách, hỗ trợ đầu phát triển khá đồng bộ
Xây dựng đât nước dân tộc bình đẳng, tự quyết, đoàn kết dân tộc.
Nội dung: Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về việc thực
hiện chính sách dân tộc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về các nghị quyết của Đảng
về vấn đề dân tộc:
- Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh đẩy mạnh hiện quy chế dân chủ
cơ sở.
- Ưu tiên phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục.
- Xóa đói, giảm nghèo, giám sát việc thực hiện các chính sách dân tộc.
Thứ hai, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọngcùng phát triển giữa các dân tộc:
- Huy động mọi nguồn lực, tận dụng đặc điểm, tiềm năng, thế mạnh của từng
vùng Đảm bảo an sinh cho cộng đồng, phát triển kinh tế - xã hội.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất giao thông nông thôn, thủy lợi, nước sinh
hoạt, điện,… Phát triển, xây dựng nông thôn, đô thị mới.
Thứ ba, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc nói chung
từng dân tộc nói riêng:
- Xây dựngđầu trang thiết bị trung tâm hoạt động cộng đồng.
- Tổ chức nhiều hoạt động lễ hội văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của
đồng bào các dân tộc.
- “Nhà nước và nhân dân cùng làm
- “Tn
Thứ tư, tăng cường phòng thủ những vùng sâu vùng xa nơi tiếp giáp với các nước trên
thế giới:
- Quốc phòng phối hợp với nhân dân cùng nhau đứng lên bảo vệ đất nước vùng
biên giới.
- Thực hiện tốt chính sách đảm bảo an ninh chính trị quốc gia, an ninh xã hội.
2. Liên hệ bản thân (Thanh niên, sinh viên)
Vai trò: lực lượnghội quan trọng, một trong những nhân tố quyết định tương lai,
vận mệnh của đất nước.
Nghĩa vụ:
- Cố gắng học tập, trau dồi kiến thức và rèn luyện bản thân:
+ Nhận thức được những vấn đề trong cuộc sống liên quan đến chúng ta, đặc
biệt về vấn đề dân tộc.
+ Biết thế nào quyền bình đẳng, quyền tự quyết, liên hiệp giữa các dân tộc
tránh để các thế lực thù địch lợi dụng.
- Lên án những hành vi thể hiện sự phân biệt vùng miền, phân biệt giữa các dân
tộc.
- Tích cực tuyên truyền những quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề dân
tộc, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Nêu cao sự đoàn kết của toàn dân tộc, tôn trọng những phong tục tập quán của
các dân tộc, kế thừa phát huy những nét đẹp truyền thống của họ làm đa dạng
thêm văn hóa của nước nhà.
Câu 6: (Chương 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân)
- Sinh viên phải không ngừng học tập, rèn luyện làm chủ kiến thức, kỹ năng…
tốt nghiệp thể trở thành công nhân, trí thức… đóng góp xây dựng quê
hương, đất nước…; ủng hộ các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới…
- Sinh viên giác ngộ được lập trường, lý tưởng của giai cấp công nhân xây
dựng một hội tiến bộ, dân giàu, nước mạnh… phấn đấu đảng viên Đảng
CSVN, viết tiếp những trang sử hào hùng cho dân tộc.
- Sinh viên hiểu được đặc điểm ra đời của giai cấp công nhân VN từ một xã hội
lạc hậu, cơ cấu giai cấp còn lạc hậu -> trình độ thấp, tác phong công nghiệp
hạn chế sinh viên phải đóng góp tích cực o sự nghiệp CNH, HĐH VN -
vậy, sinh viên phải người tiên phong trong tiếp thu, giáo dục, phổ biến
tri thức góp phần nâng cao tri thức cho cộng đồng (thực hiện bằng nhiều cách
khác nhau, phù hợp điều kiện hoàn cảnh của từng sinh viên)
- Tin tưởng vào chủ nghĩa Mác – Lênin, vào sự lãnh đạo của Đảng CSVN, vào
con đường độc lập dân tộcchủ nghĩahội, phê phán những quan điểm sai
trái phủ nhân sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong phong trào cách
i nền dân chủhội chủ nghĩanền dân chủ XHCN
mạng thế giới, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩahội trên thế giới Việt
Nam.
Câu 7: (Chương 3: Chủ nghĩahộithời kỳ quá độ lên CNXH)
- Tích cực học tập CN Mác, trang bị thế giới quan và phương pháp luận biện
chứng duy vật, nắm được sự vận động phát triển của quy luật xã hội loài
người sẽ đi lên CNXH, tin tưởng vào con đường của Đảng chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lựa chọn đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (sợi chỉ đỏ xuyên
suốt trong CNVN đưa đất nước đi lên)
- Sinh viên tích cực học tập tri thức khoa học, kỹ năng tốt, phẩm chất tốt, vừa
có tài, vừa có đức Chung tay đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng
nước nhà, xây dụng chủ nghĩa xã hội (vai trò, trách nhiệm), mỗi sinh viên:
+ Chính trị: Hiểu, thực hiện đúng chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng
và Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ thành quả của cách mạng, tham gia tích cực đóng góp và
công việc của Nhà nước, tích cực tham gia các đoàn thể trong nhà trường
(Đoàn thanh niên, Hội sinh viên), hoạt động tình nguyện…
+ Kinh tế: Cùng với nhân dân xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, chủ động, tích cực đến vùng sâu, dân tộc thiểu số để chuyển giao tri
thức, khoa học kỹ thuật, trong trường tiến hành các hoạt động lao động công
ích (nếu có) để xây dựng nhà trường, bảo vệ các tài sản của nhà trường, sử
dụng tiết kiệm các thiết bị, điện, nước…
+ Văn hoá, tư tưởng: Sinh viên phải hiểu biết và bảo vệ chân lý khoa học của
chủ nghĩa ML và TTHCM (các học giả tư sản, thế lực phản động luôn muốn
phủ nhận chủ nghĩa ML, xuyên tạc chủ nghĩa ML, TTHCM), giữ gìn bản sắc
văn hoá, truyền thống lịch sử (tiếp thu cái mới trên sở bản sắc cốt cách dân
tộc), đấu tranh với các quan điểm sai trái (phủ nhận con đường XHCN, phủ
nhận chủ nghĩa Mác…) phê phán những lệch lạc trong nhận thức của người
khác về chủ nghĩa xã hội, cổ suý chủ nghĩa tư bản một chiều.
- Hiểu được đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ (sự tồn tại đấu tranh đan xen
giữa cái mới và cái cũ) không bi quan, dao động, mất niềm tin trước luận
điệu xuyên tạc, nắm được quy luật vận động, quyết tâm xây dựng thành công
CNXH.- Thấy được thuận lợi và khó khăn của VN khi bước vào thời kỳ quá
độ đặc biệt quá độ bỏ qua nên sẽ khó khăn, phức tạp hơn tích cực học
tập, đóng góp công sức, trí tuệ vào công cuộc xây dựng đất nước.
- Tham gia tích cực vào xây dựnghội lành mạnh cả môi trường thựcmôi
trường ảo. Trong điều kiện hiện nay, khi cuộc cách mạng 4.0 phát triển mạnh
mẽ, nền kinh tế tri thức bắt đầu xuất hiện thì cuộc đấu tranh trên không gian
mạng diễn ra rất phức tạp đấu tranh đẩy lùi tiêu cực, hạn chế trên cả môi
trường thực và ảo.
Câu 8. (Chương 4: Dân chủ xhcn và nhà nước xhcn)
- Đối v Việt Nam:
+ Nhận thức được sự ra đời của nền dân chủhội chủ nghĩa một quá trình,
là sự khác biệt về bản chất so với các nền dân chủ khác, muốn có nền dân chủ
đó phải bằng sự tham gia, đóng góp tích cực của người dân nhân dân là chủ
thể của quyền lực.
+ Phê phán những quan điểm sai lầm đồng nhất dân chủ với chỉ duy nhất bản
chất chính trị, ca ngợi thể chế đa nguyên đa đảng ở các nước tư bản, yêu cầu
chúng ta phải thực hiện đa nguyên đa dảng, nguỵ biện cho rằng chỉ có đa
nguyên đa đảng mới dân chủ qua đó, mỗi sinh viên nâng cao nhận thức
chính trị, tham gia vào nhiệm vụ bảo vệ Đảng và Nhà nước, chế độ XHCN
(trong lịch sử VN, dân tộc đã từng giao phó sứ mệnh cho giai cấp tầng lớp
khác không thắng lợi. chỉ khi Đảng ra đời, lãnh đạo CMVN đi từ thằng lợi
này đến thắng lợi khác vai trò lãnh đạo của ĐCSVN xuất phát từ thực tiễn
CMVN, chính yêu cầu khách quan của CMVN quy định)
+ Dân chủ ở nước ta được thực hiện thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và
gián tiếp. Mỗi sinh viên phải nghiên cứu, chọn lọc, bầu được các đại biểu quốc
hội, hội đồng nhân dân…; phải tích cực tham gia đóng góp công việc của nhà
nước (khi nhà nước trưng cầu dân ý, xin ý kiến về các luật…), giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, phát hiện và dũng cảm lên án những biểu hiện vi
phạm pháp luật, tham ô, tham nhũng, lãng phí…(nắm được cơ chế thông tin
nhà nước tới nhân dân cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra)
+ Mỗi sinh viên tích cực giáo dục, nâng cao trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật
để người dân thực hiện tốt các quyền của mình…
- Đối với nhà nướchội chủ nghĩa nhà nước pháp quyền XHCN VN
+ Sinh viên phải nhận thức được sự ra đời của nhà nước XHCN… là kết quả
của quá trình đấu tranh gian khổ, hy sinh của quần chúng nhân dân mỗi sinh
viên tiếp tục giữ gìn, phát huy sự nghiệp cách mạng đó.
+ Sinh viên đóng góp công sức vào xây dựng nhà nước phép quyền XHCN ở
VN để nhà nước ngày càng vững mạnh, công cụ cải tạo hội cũ, xây dựng
xã hội mới. Chung tau, ủng hộ nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình,
trong đó có chức năng trấn áp tội phạm, bè lũ phản động, vi phạm pháp luật.
Chẳng hạn trong đại dịch COVID 19, Nhà nước phải thực hiện tốt chức năng
đối ngoại để nhận được vaccin hỗ trợ từ WHO, đàm phán mua vaccin từ các
hãng dược lớn, đưa người VN những nước đại dịch về nước…; chức năng
đối nội như kiểm soát tốt biên giới, thực hiện dãn cách xã hội, xử lý nghiêm
những người đưa người vượt biên trái phép, những người vi phạm quy định
phòng chống dịch bệnh như không đeo khẩu trang, không chịu cách ly, trốn
cách ly…
+ Sinh viên phải người gương mẫu, thượng tôn pháp luật, thực hiện đúng
quy định, nội quy của nhà trường, chính sách, pháp luật của nhà nước
+ Mỗi sinh viên cần bản lĩnh chính trị vững vàng, đấu tranh, phê phán với
các quan điểm phản động như đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, lên án
các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện, tố giác những kẻ phạm tội, những
tiêu cực trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước như quan liêu, cửa
quyền, hách dịch…
+ Muốn thực hiện được điều trên, mỗi sinh viên phải tích cực, chủ động học
tập tốt, tích cực đóng góp công sức vào sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN…
Câu 9. Liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩahội Việt Nam hiện nay
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay không chỉ là một
giai đoạn lịch sử trong quá khứ còn một quá trình đang diễn ra ngày nay.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong quá khứ và hiện tại có
những điểm liên hệ và sự liên tục. Việc liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam thường được thực hiện thông qua nghiên cứu lịch sử,
văn hóa, và chính trị của đất nước.
- Trong thời kỳ này, Việt Nam đặt ra mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng,
tiến bộ, nơi mọi người có cơ hội tiếp cận các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế
và an sinh xã hội. Mục tiêu này là nền tảng của cả hai thời kỳ. Chính phủ Việt
Nam đã và đang triển khai các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, cải thiện điều kiện sống cho người dân, và giảm bớt
khoảng cách giàu nghèo. Ngoài ra, chính phủ Việt Nam còn chú trọng vào việc
xây dựng và phát triển các nguyên tắc chủ nghĩa xã hội trong các lĩnh vực như
công bằng xã hội, tăng cường vai trò của người lao động và các tầng lớp lao
động khác, đảm bảo quyền lợi của những người yếu thế tronghội. Bên cạnh
đó, Việt Nam đang trải qua sự chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp đến nền
kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Việc này đồng nghĩa với việc thay đổi cơ cấu
lao động và sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên,
việc thực hiện chủ nghĩa xã hội ở một quốc gia đang phát triển như Việt Nam
cũng đối diện với nhiều thách thức, bao gồm cải cách hệ thống chính trị và
tăng cường sự minh bạch và công bằng trong xã hội. Đồng thời, cần có sự đổi
mới và thích ứng linh hoạt với biến đổi toàn cầu để đảm bảo bền vững và hiệu
quả của mô hình phát triển chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam. Việc điều hành sự
thay đổi và đảm bảo tính bền vững của mô hình xã hội đòi hỏi sự linh hoạt và
sáng tạo, cũng như khả năng ứng phó với các biến động nội bộ và quốc tế.
- Liên hệ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa hội Việt Nam hiện nay.
+ Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượngtăng tính bền vững
với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết thể
chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển
nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu
hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2,
trang 337 - 338). Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo
bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác,
nâng cao hơn nữa đời sống văn hoá cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây
dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong
sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo
sức chiến đấu của Đảng.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn
toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy
thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không
thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo
đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng
hộ và tham gia tích cực của nhân dân
Câu 10. Liên hệ thực tiễn, lấy vd thực tế trong cuộc sống về tưởng Hồ Chí Minh,
về văn hóa sự vận dụng của ĐCSVN trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và sự vận dụng của Đảng CSVN trong xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được áp dụngthể hiện trong nhiều
lĩnh vực và hoạt động trong cuộc sống thực tế. Dưới đây là một số ví dụ:
1. Bảo tồnphát huy gtrị n hóa dân tộc: Đảng CSVN đã đưa ra nhiều chính
sách và biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc.
- dụ, việc khuyến khích và tạo điều kiện cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát
triển văn hóa dân tộc các dân tộc thiểu số, văn hóa dân tộc miền núi, vùng sông
nước, văn hóa dân gian, văn hóa dân tộc Cồn, văn hóa dân tộc Chăm, văn hóa
dân tộc Khơ Me, v.v
2. Xây dựng hệ thống giáo dục với tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh: Đảng
CSVN đã đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống giáo dục nhằm truyền đạttruyền
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời đào tạo nuôi dưỡng thế hệ trẻ với ý thức
yêu nước, ý thức cống hiến và ý thức bảo vệ phát huy giá trị văn hóa dân tộc.
3. Khuyến khích phát triển nghệ thuật dân gian: Đảng CSVN đã tạo điều kiện
và khuyến khích sự phát triển của nghệ thuật dân gian, như hát chèo, hát xẩm, hát
quan họ, múa rối nước, v.v. Những hoạt động này không chỉ giúp bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa dân tộc còn góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam
đậm đà bản sắc dân tộc
4. Bảo vệ và phát triển di sản văn hóa: Đảng CSVN đã quan tâm và thực hiện
công tác bảo vệ và phát triển di sản văn hóa của Việt Nam, như di sản văn hóa phi
vật thể, di sản văn hóa truyền miệng, di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, v.v.
Những hoạt động này giúp gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa đặc trưng
của dân tộc Việt Nam.
5. Xây dựng các sự kiệnlễ hội văn hóa: Đảng CSVN đã tổ chức hỗ trợ việc
tổ chức các sự kiện và lễ hội văn hóa nhằm quảng bá và tôn vinh giá trị văn hóa
dân tộc.- Ví dụ, lễ hội Huế, lễ hội Đường sách, lễ hội văn hóa Mông, v.v
Tổng hợp lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóasự vận dụng củaĐảng
CSVN trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
đã được th hiện thông qua việc bảo tồnphát huy giá trị văn hóa dân tộc,
xây dựng hệ thống giáo dục theo tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh, khuyến
khích nghệ thuật dân gian, bảo vệ di sản văn hóa, và tổ chức các sự kiện và
lễ hội văn hóa. Những nỗ lực này đóng góp vào việc xây dựng một nền văn
hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và tự hào với bản sắc dân tộc

Preview text:

MỤC LỤC
Câu 1: Hiện nay giai cấp công nhân ở các nước tư bản còn rất ít. Mà giai cấp công
nhân ngày càng bị thu hẹp lại, bị “teo đi”, vậy thì giai cấp công nhân có còn sứ mệnh
lịch sử nữa hay không?
....................................................................................................... 2
Câu 2: Công nhân ở các nước tư bản đã được trung lưu hoá, giai cấp công nhân đã
bắt tay với tư bản nên giai cấp công nhân không còn mục đích lật đổ tư bản nữa?
..... 3
Câu 3: Công nhân ngày càng được trí thức hoá. Vậy phải chăng công nhân đã trở
thành trí thức rồi, không còn là công nhân nữa?
............................................................ 4
Câu 4: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tính quy luật của sự ra đời của
Đảng Cộng sản đã được áp dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta như thế nào?
........ 5
Câu 5. Liên hệ thực tiễn về vấn đề dân tộc ....................................................................... 7
Câu 6: (Chương 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân) ......................................... 8
Câu 7: (Chương 3: Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên CNXH) .............................. 9
Câu 8. (Chương 4: Dân chủ xhcn và nhà nước xhcn) ...................................................... 9
Câu 9. Liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay ............. 11
Câu 10. Liên hệ thực tiễn, lấy vd thực tế trong cuộc sống về tư tưởng Hồ Chí Minh,
về văn hóa và sự vận dụng của ĐCSVN trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc
.................................................................................................... 12
Câu 1: Hiện nay giai cấp công nhân ở các nước tư bản còn rất ít. Mà giai cấp công
nhân ngày càng bị thu hẹp lại, bị “teo đi”, vậy thì giai cấp công nhân có còn sứ mệnh
lịch sử nữa hay không?

Chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn luôn tồn tại, phát triển trong cải cách, đổi mới; giai
cấp công nhân vẫn không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng và khẳng định vai
trò sứ mệnh lịch sử của họ.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách
mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử. Sứ mệnh lịch sử là sự tổng
quát của giai cấp công nhân thông qua chính đảng tiền phong, giai cấp công nhân tổ
chức, lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột người, xóa
bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp công nhân nhân dân lao động khỏi mọi sự áp
bức, nghèo nàn, lạc hậu xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Hiện nay, thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, nhưng học thuyết C. Mác vẫn
sáng ngời, khẳng định giá trị của nó trong nhận thức chủ nghĩa tư bản hiện đại. Về lực
lượng sản xuất, các nước tư bản phát triển triệt để tận dụng những thành tựu mới nhất của
cách mạng khoa học và công nghệ để mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, đưa sản xuất phát triển vào chiều sâu, tính chất chuyên môn hóa ngày càng cao.
Kinh tế tri thức ra đời với sự tăng lên rất nhanh của cải vật chất, đã đáp ứng nhu cầu xã
hội ngày càng đa dạng. Theo đó, đời sống của người công nhân với tư cách là lực lượng
sản xuất chủ yếu cũng được quan tâm, nâng cao, phúc lợi xã hội được tăng cường. Về
quan hệ sản xuất, vẫn bảo tồn chế độ sở hữu tư nhân tư bản về nguyên tắc, còn trong
hình thức tổ chức đã có những bước điều chỉnh mở rộng các hình thức sở hữu tư bản như
mở rộng chế độ cổ phần, bán cổ phiếu có giá trị nhỏ cho người lao động. Hiện tượng này
đã được các nhà lý luận tư sản tô vẽ là "chủ nghĩa tư bản nhân dân, nhân đạo", người
công nhân có cổ phần trở thành hữu sản. Trên thực tế, mặc dù đời sống công nhân các
nước phát triển, có thể ít nhiều được cải thiện nhưng địa vị kinh tế của họ vẫn không vì
thế mà thay đổi; quyền chi phối xí nghiệp vẫn do các chủ tư bản chiếm đa số cổ phần
điều hành và bản chất bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản vẫn không hề thay đổi.
Cùng với sự phát triển của dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều thay
đổi, phát triển cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu và vai trò trong xã hội. Thông qua
chính đảng tiền phong của mình, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh
đạo cách mạng, lãnh đạo xã hội, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa đến thắng lợi. Vai trò lãnh đạo, bản chất cách mạng, tính tiền phong của giai cấp
công nhân Việt Nam không hề thay đổi. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” ở Việt Nam trong tình hình mới, cấp thiết phải xây
dựng giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nhất là việc nâng cao bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ
luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Phát huy vai trò của giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 2: Công nhân ở các nước tư bản đã được trung lưu hoá, giai cấp công nhân đã
bắt tay với tư bản nên giai cấp công nhân không còn mục đích lật đổ tư bản nữa?

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại
khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa. Và phát triển về
số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề
nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào
sản xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò
lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.
Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và luôn
vận động phát triển do sự thay đổi không ngừng của công cụ lao động ở trình độ ngày
càng cao. Nhưng trình độ của công cụ lao động thay đổi được là kết quả của hoạt động
sáng tạo của con người.Trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội với nền sản xuất đại
công nghiệp ngày càng phát triển, giai cấp công nhân trở thành bộ phận quan trọng nhất,
cách mạng nhất trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Lao động sống của giai
cấp công nhân tạo ra phần lớn của cải vật chất cho xã hội và đóng vai trò có ý nghĩa
quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Trong chủ nghĩa tư bản, do không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất, giai cấp công
nhân buộc phải bán sức lao động trở thành người làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai
cấp tư sản bóc lột nặng nề. Trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản chỉ có thể bóc lột
được giai cấp công nhân khi họ nắm giữ, chi phối tư liệu sản xuất của xã hội. Do vậy,
bằng mọi giá, giai cấp tư sản phải duy trì chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Mặt
khác, giai cấp công nhân cũng chỉ được giải phóng khỏi mọi sự áp bức, bóc lột khi xoá
bỏ được chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và thay thế vào đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Giai cấp tư sản bóc lột, song giai cấp công nhân là đối tượng bị bóc lột trực tiếp và
nặng nề nhất. Do vậy, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập trực tiếp với lợi ích
cơ bản của giai cấp tư sản.Giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích
của đại đa số nhân dân lao động, bởi vì muốn giải phóng mình khỏi mọi sự áp bức, bóc
lột, giai cấp công nhân phải đấu tranh xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Nếu điều này trở thành hiện thực thì giai cấp công nhân không chỉ giải phóng mình mà còn
giải phóng toàn xã hội khỏi mọi sự áp bức, bóc lột. Hơn nữa, do điều kiện làm việc và
điều kiện sống chủ yếu là ở các khu công nghiệp tập trung và ở các thành phố lớn, nên
giai cấp công nhân có khả năng tập hợp lực lượng, đoàn kết với các giai cấp, tầng lớp
nhân dân lao động khác trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải phóng mình
và giải phóng toàn xã hội.
Câu 3: Công nhân ngày càng được trí thức hoá. Vậy phải chăng công nhân đã trở
thành trí thức rồi, không còn là công nhân nữa?

Vai trò của trí thức đối với sự phát triển xã hội là quan trọng, cấp thiết, thể hiện rõ nét
trong kinh tế tri thức, kinh tế số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Với những đóng
góp từ lao động của trí thức giúp cho quá trình sản xuất vật chất của công nhân và nông
dân không ngừng nâng cao về năng xuất, chất lượng, năng lực cạnh tranh, tạo ra sự phát
triển nhanh của đất nước. Nhưng trí thức không thể lãnh đạo xã hội vì: theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin, trí thức không phải là một giai cấp, mà là một lực lượng xã
hội đặc biệt, có nguồn gốc xuất thân không thuần nhất. Trí thức không đại diện cho một
phương thức sản xuất độc lập nào, phương thức sản xuất của trí thức là độc lập nghiên
cứu, sáng tạo; sản phẩm của trí thức là lý thuyết, phát minh, sáng chế, tồn tại dưới dạng
những giá trị lý thuyết tinh thần là chủ yếu. Trí thức không có hệ tư tưởng riêng, tư
tưởng của trí thức phụ thuộc hệ tư tưởng của các giai cấp thống trị xã hội.
Từ xưa đến nay, trí thức tồn tại với tư cách là lực lượng xã hội đặc biệt. Số lượng trí
thức không đông bằng giai cấp công nhân và nông dân, không phải là một lực lượng kinh
tế, chính trị - xã hội độc lập, không thể so với sự đông đảo của giai cấp công nhân và giai
cấp nông dân. Trên thực tế, trí thức chỉ tồn tại và phát triển dựa vào giai cấp công nhân
hoặc nông dân, dựa trên lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, đó là môi trường để trí thức
có thể áp dụng các lý thuyết, phát minh, sáng chế, thiết kế của mình để kiểm nghiệm thực
tiễn, đánh giá tính đúng – sai, kiểm tra chân lý, qua đó mà trí thức mới có thu nhập, được
nuôi dưỡng, tồn tại và phát triển.
Hiện nay, với sự phát triển của xã hội, số lượng người lao động được đào tạo ở trình
độ, tay nghề cao ngày càng nhiều, do nhu cầu về việc làm, thu nhập mà những người có
trình độ cao đã không ngừng tham gia vào phương thức sản xuất công nghiệp, bổ sung
cho giai cấp công nhân, kể cả chuyên gia đầu ngành, làm cho giai cấp công nhân không
ngừng tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Kinh tế tri thức và kinh tế số là một
trình độ mới của lực lượng sản xuất hiện đại mà vai trò của tri thức ở một số lĩnh vực sản
xuất đã được khẳng định. Việc quan tâm phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số là xu thế
chung hiện nay, nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Giai cấp
công nhân Việt Nam vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội Việt Nam thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, giai cấp công nhân nước ta có khoảng 20,5 triệu người, có sự phát triển
nhanh về số lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu, lĩnh vực, ngành nghề; trình độ tay
nghề, vai trò của giai cấp công nhân càng ngày được khẳng định. Giai cấp công nhân
nước ta hiện chiếm tỷ lệ khoảng 14% dân số, 27% lực lượng lao động xã hội, nhưng
hằng năm đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% giá trị thu ngân
sách Nhà nước. Theo Tổng cục Thống kê:“ dịch Covid-19 lần thứ tư với biến chủng mới
diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất công nghiệp...nên chỉ số sản xuất
công nghiệp tháng 7/2021 chỉ tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 2,2% so với cùng kỳ
năm trước, tính chung 7 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,9% so với 7 tháng năm 2020.
Điều đó chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta không hề suy yếu, ngược lại giai cấp
công nhân Việt Nam đã phát huy mạnh mẽ vai trò của giai cấp lãnh đạo xã hội, trở thành
nền tảng chính trị đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh Nhà nước.
Câu 4: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tính quy luật của sự ra đời của
Đảng Cộng sản đã được áp dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta như thế nào?

Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo những nguyên lý đảng kiểu
mới của chủ nghĩa Mác-Lênin vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện ở những vấn đề cơ bản sau:
Về nguyên tắc tập trung dân chủ: Vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển quan
niệm, bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ. "Mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ và
tập thể. Khi đã quyết định rồi, thì phân phối công tác phải rạch ròi, giao cho một hoặc
mấy đồng chí phụ trách làm đến nơi đến chốn". Mở rộng nội hàm nguyên tắc tập trung
dân chủ: Thiểu số phục tùng đa số; cá nhân phục tùng tổ chức; cấp dưới phục tùng cấp
trên; các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội toàn quốc và Ban Chấp hành Trung
ương; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách…
Về tự phê bình và phê bình: Trong bản Di chúc, Người căn dặn “Trong Đảng thực
hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách
tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: “Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu
mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa
chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là việc cần thực hiện thường xuyên, hàng
ngày của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên “như rửa mặt hàng ngày”, việc tự phê
bình và phê bình là nêu ưu điểm, chỉ rõ khuyết điểm để giúp nhau phát huy ưu điểm, sửa
chữa khuyết điểm, để cùng nhau tiến bộ, tự phê bình và phê bình phải đúng lúc, đúng
cách, phải tôn trọng lẫn nhau…
Về đoàn kết thống nhất trong Đảng: Đây là nét sáng tạo đặc sắc trong tư tưởng của
Người, Người chỉ rõ: "Đảng ta là Đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin…Đảng ta
là một Đảng lãnh đạo. Tất cả cán bộ, đảng viên dù ở cương vị khác nhau, làm công tác
khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí". Trong Đảng phải có sự đoàn kết nhất trí, làm
hạt nhân đoàn kết toàn dân tộc và nhân rộng ra là đoàn kết quốc tế, vì vậy, Người kêu gọi:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết". Đảng có đoàn kết thực sự thì mới tạo nên sức mạnh,
mới đủ năng lực lãnh đạo cách mạng đến thành công "Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt
của thành công". Trước lúc từ biệt thế giới này, Người không quên căn dặn chúng ta:
"Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình"… Như vậy, Hồ Chí Minh không chỉ nhận
thức sâu sắc, vận dụng sáng tạo, mà còn phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin về
đoàn kết thống nhất, đó là sự kết hợp, quyện chặt giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với truyền
thống văn hóa đoàn kết của dân tộc Việt Nam và nhân loại.
Về cán bộ và công tác cán bộ: Đề cập đến vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của đội
ngũ cán bộ, Hồ Chí Minh khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc". "Muôn
việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" . Và: "Cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng".
Theo Hồ Chí Minh, trong công tác cán bộ phải thực sự công tâm, khách quan, phải
khéo dùng cán bộ, rèn luyện, dạy dỗ cán bộ, vì công việc mà chọn người, phải biết
thương yêu cán bộ đúng cách; cần trách các căn bệnh thích dùng người thân, bạn bè, cục
bộ, không nên cất nhắc cán bộ như giã gạo, “một người làm quan cả họ được nhờ”…
Về tổ chức cơ sở đảng: Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề củng cố tổ chức, xây dựng
Đảng từ cơ sở, vì chính tổ chức cơ sở đảng, chi bộ là nơi lãnh đạo các hoạt động ở cơ sở,
là hạt nhân lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị và các mặt hoạt động ở cơ sở,
nơi giáo dục, quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, là môi trường để đảng viên
phấn đấu, rèn luyện, trưởng thành và phát triển, nơi gắn bó máu thịt với nhân dân, là nền
tảng của Đảng, do vậy, Người chỉ rõ: "Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi
việc sẽ tốt". "Chi bộ là gốc rễ của Đảng…Chi bộ vững mạnh thì mọi chính sách của
Đảng và Chính phủ nhất định thi hành được tốt". "Mỗi chi bộ của Đảng phải là hạt nhân
lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát
huy được trí truệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một
cơ quan lãnh đạo vững chắc ở địa phương, theo đúng đường lối, chính sách của Trung ương".
Về xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên: Hồ Chí Minh dành nhiều thời
gian, công sức, trí tuệ bàn về đạo đức cách mạng, dày công rèn luyện đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, và, chính Người là tấm gương sáng thực hành đạo đức
cách mạng như “Lòng sông gương sáng bụi không mờ”. Theo Người, cán bộ, đảng viên
phải có cả đức lẫn tài, “vừa hồng”, “vừa chuyên”, giữa đức và tài thì đức là gốc, là nền
tảng: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Đạo đức cách mạng là: Trung
với nước, hiếu với dân; nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã quán triệt nghiêm túc, vận dụng triệt để, kế thừa chọn lọc,
sáng tạo và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về đảng cộng sản phù
hợp với hoàn cảnh của Việt Nam, đã sáng lập, rèn luyện, xây dựng thành công Đảng
Cộng sản Việt Nam-một đảng cách mạng, chân chính, có năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu cao, xứng đáng là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành, vận dụng sáng tạo
và luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng, nhờ vậy, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và, chắc chắn chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu:
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Câu 5. Liên hệ thực tiễn về vấn đề dân tộc
1. Liên hệ thực tiễn.
Vai trò: Chính trị dân tộc có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng.
Nguyên tắc: Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Thực hiện:
- Áp dụng cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mac-Lenin vào chính sách dân tộc
- Ban hành hệ thống chính sách, hỗ trợ đầu tư và phát triển khá đồng bộ
➔ Xây dựng đât nước dân tộc bình đẳng, tự quyết, đoàn kết dân tộc.
Nội dung: Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về việc thực
hiện chính sách dân tộc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về các nghị quyết của Đảng về vấn đề dân tộc:
- Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và đẩy mạnh hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Ưu tiên phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục.
- Xóa đói, giảm nghèo, giám sát việc thực hiện các chính sách dân tộc.
Thứ hai, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và cùng phát triển giữa các dân tộc:
- Huy động mọi nguồn lực, tận dụng đặc điểm, tiềm năng, thế mạnh của từng
vùng Đảm bảo an sinh cho cộng đồng, phát triển kinh tế - xã hội.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông nông thôn, thủy lợi, nước sinh
hoạt, điện,… Phát triển, xây dựng nông thôn, đô thị mới.
Thứ ba, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc nói chung và
từng dân tộc nói riêng:
- Xây dựng và đầu tư trang thiết bị trung tâm hoạt động cộng đồng.
- Tổ chức nhiều hoạt động lễ hội văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc.
- “Nhà nước và nhân dân cùng làm”
- “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
Thứ tư, tăng cường phòng thủ ở những vùng sâu vùng xa nơi tiếp giáp với các nước trên thế giới:
- Quốc phòng phối hợp với nhân dân cùng nhau đứng lên bảo vệ đất nước vùng biên giới.
- Thực hiện tốt chính sách đảm bảo an ninh chính trị quốc gia, an ninh xã hội.
2. Liên hệ bản thân (Thanh niên, sinh viên)
Vai trò: Là lực lượng xã hội quan trọng, một trong những nhân tố quyết định tương lai,
vận mệnh của đất nước. Nghĩa vụ:
- Cố gắng học tập, trau dồi kiến thức và rèn luyện bản thân:
+ Nhận thức được những vấn đề trong cuộc sống liên quan đến chúng ta, đặc
biệt về vấn đề dân tộc.
+ Biết thế nào là quyền bình đẳng, quyền tự quyết, liên hiệp giữa các dân tộc
tránh để các thế lực thù địch lợi dụng.
- Lên án những hành vi thể hiện sự phân biệt vùng miền, phân biệt giữa các dân tộc.
- Tích cực tuyên truyền những quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề dân
tộc, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Nêu cao sự đoàn kết của toàn dân tộc, tôn trọng những phong tục tập quán của
các dân tộc, kế thừa phát huy những nét đẹp truyền thống của họ làm đa dạng
thêm văn hóa của nước nhà.
Câu 6: (Chương 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân)
- Sinh viên phải không ngừng học tập, rèn luyện làm chủ kiến thức, kỹ năng…
tốt nghiệp có thể trở thành công nhân, trí thức… đóng góp xây dựng quê
hương, đất nước…; ủng hộ các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới…
- Sinh viên giác ngộ được lập trường, lý tưởng của giai cấp công nhân xây
dựng một xã hội tiến bộ, dân giàu, nước mạnh… phấn đấu là đảng viên Đảng
CSVN, viết tiếp những trang sử hào hùng cho dân tộc.
- Sinh viên hiểu được đặc điểm ra đời của giai cấp công nhân VN từ một xã hội
lạc hậu, cơ cấu giai cấp còn lạc hậu -> trình độ thấp, tác phong công nghiệp
hạn chế sinh viên phải đóng góp tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH ở VN -
Vì vậy, sinh viên phải là người tiên phong trong tiếp thu, giáo dục, phổ biến
tri thức góp phần nâng cao tri thức cho cộng đồng (thực hiện bằng nhiều cách
khác nhau, phù hợp điều kiện hoàn cảnh của từng sinh viên)
- Tin tưởng vào chủ nghĩa Mác – Lênin, vào sự lãnh đạo của Đảng CSVN, vào
con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phê phán những quan điểm sai
trái phủ nhân sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong phong trào cách
mạng thế giới, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam.
Câu 7: (Chương 3: Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên CNXH)
- Tích cực học tập CN Mác, trang bị thế giới quan và phương pháp luận biện
chứng duy vật, nắm được sự vận động phát triển của quy luật xã hội loài
người sẽ đi lên CNXH, tin tưởng vào con đường của Đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lựa chọn đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (sợi chỉ đỏ xuyên
suốt trong CNVN đưa đất nước đi lên)
- Sinh viên tích cực học tập tri thức khoa học, có kỹ năng tốt, phẩm chất tốt, vừa
có tài, vừa có đức Chung tay đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng
nước nhà, xây dụng chủ nghĩa xã hội (vai trò, trách nhiệm), mỗi sinh viên:
+ Chính trị: Hiểu, thực hiện đúng chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng
và Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ thành quả của cách mạng, tham gia tích cực đóng góp và
công việc của Nhà nước, tích cực tham gia các đoàn thể trong nhà trường
(Đoàn thanh niên, Hội sinh viên), hoạt động tình nguyện…
+ Kinh tế: Cùng với nhân dân xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, chủ động, tích cực đến vùng sâu, dân tộc thiểu số để chuyển giao tri
thức, khoa học kỹ thuật, trong trường tiến hành các hoạt động lao động công
ích (nếu có) để xây dựng nhà trường, bảo vệ các tài sản của nhà trường, sử
dụng tiết kiệm các thiết bị, điện, nước…
+ Văn hoá, tư tưởng: Sinh viên phải hiểu biết và bảo vệ chân lý khoa học của
chủ nghĩa ML và TTHCM (các học giả tư sản, thế lực phản động luôn muốn
phủ nhận chủ nghĩa ML, xuyên tạc chủ nghĩa ML, TTHCM), giữ gìn bản sắc
văn hoá, truyền thống lịch sử (tiếp thu cái mới trên cơ sở bản sắc cốt cách dân
tộc), đấu tranh với các quan điểm sai trái (phủ nhận con đường XHCN, phủ
nhận chủ nghĩa Mác…) phê phán những lệch lạc trong nhận thức của người
khác về chủ nghĩa xã hội, cổ suý chủ nghĩa tư bản một chiều.
- Hiểu được đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ (sự tồn tại đấu tranh đan xen
giữa cái mới và cái cũ) không bi quan, dao động, mất niềm tin trước luận
điệu xuyên tạc, nắm được quy luật vận động, quyết tâm xây dựng thành công
CNXH.- Thấy được thuận lợi và khó khăn của VN khi bước vào thời kỳ quá
độ đặc biệt là quá độ bỏ qua nên sẽ khó khăn, phức tạp hơn tích cực học
tập, đóng góp công sức, trí tuệ vào công cuộc xây dựng đất nước.
- Tham gia tích cực vào xây dựng xã hội lành mạnh cả môi trường thực và môi
trường ảo. Trong điều kiện hiện nay, khi cuộc cách mạng 4.0 phát triển mạnh
mẽ, nền kinh tế tri thức bắt đầu xuất hiện thì cuộc đấu tranh trên không gian
mạng diễn ra rất phức tạp đấu tranh đẩy lùi tiêu cực, hạn chế trên cả môi trường thực và ảo.
Câu 8. (Chương 4: Dân chủ xhcn và nhà nước xhcn) - Đối vớ
i nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ XHCN ở Việt Nam:
+ Nhận thức được sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình,
là sự khác biệt về bản chất so với các nền dân chủ khác, muốn có nền dân chủ
đó phải bằng sự tham gia, đóng góp tích cực của người dân – nhân dân là chủ thể của quyền lực.
+ Phê phán những quan điểm sai lầm đồng nhất dân chủ với chỉ duy nhất bản
chất chính trị, ca ngợi thể chế đa nguyên đa đảng ở các nước tư bản, yêu cầu
chúng ta phải thực hiện đa nguyên đa dảng, nguỵ biện cho rằng chỉ có đa
nguyên đa đảng mới có dân chủ qua đó, mỗi sinh viên nâng cao nhận thức
chính trị, tham gia vào nhiệm vụ bảo vệ Đảng và Nhà nước, chế độ XHCN
(trong lịch sử VN, dân tộc đã từng giao phó sứ mệnh cho giai cấp tầng lớp
khác không thắng lợi. chỉ khi Đảng ra đời, lãnh đạo CMVN đi từ thằng lợi
này đến thắng lợi khác vai trò lãnh đạo của ĐCSVN xuất phát từ thực tiễn
CMVN, chính yêu cầu khách quan của CMVN quy định)
+ Dân chủ ở nước ta được thực hiện thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và
gián tiếp. Mỗi sinh viên phải nghiên cứu, chọn lọc, bầu được các đại biểu quốc
hội, hội đồng nhân dân…; phải tích cực tham gia đóng góp công việc của nhà
nước (khi nhà nước trưng cầu dân ý, xin ý kiến về các luật…), giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, phát hiện và dũng cảm lên án những biểu hiện vi
phạm pháp luật, tham ô, tham nhũng, lãng phí…(nắm được cơ chế thông tin
nhà nước tới nhân dân – cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra)
+ Mỗi sinh viên tích cực giáo dục, nâng cao trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật
để người dân thực hiện tốt các quyền của mình…
- Đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền XHCN ở VN
+ Sinh viên phải nhận thức được sự ra đời của nhà nước XHCN… là kết quả
của quá trình đấu tranh gian khổ, hy sinh của quần chúng nhân dân mỗi sinh
viên tiếp tục giữ gìn, phát huy sự nghiệp cách mạng đó.
+ Sinh viên đóng góp công sức vào xây dựng nhà nước phép quyền XHCN ở
VN để nhà nước ngày càng vững mạnh, là công cụ cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới. Chung tau, ủng hộ nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình,
trong đó có chức năng trấn áp tội phạm, bè lũ phản động, vi phạm pháp luật.
Chẳng hạn trong đại dịch COVID 19, Nhà nước phải thực hiện tốt chức năng
đối ngoại để nhận được vaccin hỗ trợ từ WHO, đàm phán mua vaccin từ các
hãng dược lớn, đưa người VN ở những nước có đại dịch về nước…; chức năng
đối nội như kiểm soát tốt biên giới, thực hiện dãn cách xã hội, xử lý nghiêm
những người đưa người vượt biên trái phép, những người vi phạm quy định
phòng chống dịch bệnh như không đeo khẩu trang, không chịu cách ly, trốn cách ly…
+ Sinh viên phải là người gương mẫu, thượng tôn pháp luật, thực hiện đúng
quy định, nội quy của nhà trường, chính sách, pháp luật của nhà nước…
+ Mỗi sinh viên cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, đấu tranh, phê phán với
các quan điểm phản động như đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, lên án
các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện, tố giác những kẻ phạm tội, những
tiêu cực trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước như quan liêu, cửa quyền, hách dịch…
+ Muốn thực hiện được điều trên, mỗi sinh viên phải tích cực, chủ động học
tập tốt, tích cực đóng góp công sức vào sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN…
Câu 9. Liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay không chỉ là một
giai đoạn lịch sử trong quá khứ mà còn là một quá trình đang diễn ra ngày nay.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong quá khứ và hiện tại có
những điểm liên hệ và sự liên tục. Việc liên hệ với thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam thường được thực hiện thông qua nghiên cứu lịch sử,
văn hóa, và chính trị của đất nước.
- Trong thời kỳ này, Việt Nam đặt ra mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng,
tiến bộ, nơi mọi người có cơ hội tiếp cận các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế
và an sinh xã hội. Mục tiêu này là nền tảng của cả hai thời kỳ. Chính phủ Việt
Nam đã và đang triển khai các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, cải thiện điều kiện sống cho người dân, và giảm bớt
khoảng cách giàu nghèo. Ngoài ra, chính phủ Việt Nam còn chú trọng vào việc
xây dựng và phát triển các nguyên tắc chủ nghĩa xã hội trong các lĩnh vực như
công bằng xã hội, tăng cường vai trò của người lao động và các tầng lớp lao
động khác, đảm bảo quyền lợi của những người yếu thế trong xã hội. Bên cạnh
đó, Việt Nam đang trải qua sự chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp đến nền
kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Việc này đồng nghĩa với việc thay đổi cơ cấu
lao động và sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên,
việc thực hiện chủ nghĩa xã hội ở một quốc gia đang phát triển như Việt Nam
cũng đối diện với nhiều thách thức, bao gồm cải cách hệ thống chính trị và
tăng cường sự minh bạch và công bằng trong xã hội. Đồng thời, cần có sự đổi
mới và thích ứng linh hoạt với biến đổi toàn cầu để đảm bảo bền vững và hiệu
quả của mô hình phát triển chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam. Việc điều hành sự
thay đổi và đảm bảo tính bền vững của mô hình xã hội đòi hỏi sự linh hoạt và
sáng tạo, cũng như khả năng ứng phó với các biến động nội bộ và quốc tế.
- Liên hệ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
+ Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững
với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể
chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển
nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu
hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2,
trang 337 - 338). Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo
bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác,
nâng cao hơn nữa đời sống văn hoá cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây
dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong
sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn
toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy
thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không
thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo
đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng
hộ và tham gia tích cực của nhân dân
Câu 10. Liên hệ thực tiễn, lấy vd thực tế trong cuộc sống về tư tưởng Hồ Chí Minh,
về văn hóa và sự vận dụng của ĐCSVN trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và sự vận dụng của Đảng CSVN trong xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được áp dụng và thể hiện trong nhiều
lĩnh vực và hoạt động trong cuộc sống thực tế. Dưới đây là một số ví dụ:
1. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc: Đảng CSVN đã đưa ra nhiều chính
sách và biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc.
- Ví dụ, việc khuyến khích và tạo điều kiện cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát
triển văn hóa dân tộc các dân tộc thiểu số, văn hóa dân tộc miền núi, vùng sông
nước, văn hóa dân gian, văn hóa dân tộc Cồn, văn hóa dân tộc Chăm, văn hóa dân tộc Khơ Me, v.v
2. Xây dựng hệ thống giáo dục với tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh: Đảng
CSVN đã đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống giáo dục nhằm truyền đạt và truyền
bá tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời đào tạo và nuôi dưỡng thế hệ trẻ với ý thức
yêu nước, ý thức cống hiến và ý thức bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc.
3. Khuyến khích và phát triển nghệ thuật dân gian: Đảng CSVN đã tạo điều kiện
và khuyến khích sự phát triển của nghệ thuật dân gian, như hát chèo, hát xẩm, hát
quan họ, múa rối nước, v.v. Những hoạt động này không chỉ giúp bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa dân tộc mà còn góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam
đậm đà bản sắc dân tộc
4. Bảo vệ và phát triển di sản văn hóa: Đảng CSVN đã quan tâm và thực hiện
công tác bảo vệ và phát triển di sản văn hóa của Việt Nam, như di sản văn hóa phi
vật thể, di sản văn hóa truyền miệng, di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, v.v.
Những hoạt động này giúp gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam.
5. Xây dựng các sự kiện và lễ hội văn hóa: Đảng CSVN đã tổ chức và hỗ trợ việc
tổ chức các sự kiện và lễ hội văn hóa nhằm quảng bá và tôn vinh giá trị văn hóa
dân tộc.- Ví dụ, lễ hội Huế, lễ hội Đường sách, lễ hội văn hóa Mông, v.v
➔ Tổng hợp lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và sự vận dụng củaĐảng
CSVN trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
đã được thể hiện thông qua việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc,
xây dựng hệ thống giáo dục theo tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh, khuyến
khích nghệ thuật dân gian, bảo vệ di sản văn hóa, và tổ chức các sự kiện và
lễ hội văn hóa. Những nỗ lực này đóng góp vào việc xây dựng một nền văn
hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và tự hào với bản sắc dân tộc