ĐỀ CƯƠNG ÔN MÔN CHỦ NGHĨA HỘI KHOA HỌC
(Sách Nội dung bản của Chủ nghĩa Mác Lênin)
Câu 1. Phân tích điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của giai cấp công nhân. Liên hệ với vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo
cách mạng.
Chép giáo trình cuốn Những vấn đề bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh phần 2. Điều kiện chủ quan
để giai cấp công nhân thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới (từ trang 259 đến hết 7 dòng đầu của trang 265)
hoặc chép nội dung dưới đây:
=> Không biết từ trang 259 đến hết 7 dòng đầu của trang
265 của cuốn sách nào?
*
Phân tích điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là tất yếu khách quan,
tức không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai. Nhưng cũng như
các quy luật hội khác, không tđộng” diễn ra như các qui
luật tự nhiên cần những yếu tố chquan. Những nhân tố
chủ quan đó là :
Thứ nhất: sự phát triển của giai cấp công nhân, kết quả
của quá trình phát triển tự thân , tự giác , chủ động. Giai cấp công
nhân trưởng thành về số lượng chất lượng ngay trong quá trình
sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại trong các hoạt động
chính trị - hội: trình độ văn hoá, khoa học công nghệ, tay
nghề ngày càng cao để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
sản xuất; đời sống vật chất, tinh thần ngày càng tốt hơn. Giác ngộ
về chủ nghĩa hội, chủ nghĩa Mác-Lênin, lập trường giai cấp
vững vàng;
Với tư cách chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử, sự phát triển
giai cấp công nhân yếu tố chủ quan quy định chất lượng quy
mô, tốc độ của quá trình này. Sự phát triển giai cấp công nhân được
thể hiện ở sự phát triển về lượng và phát triển về chất.
1
Phát triển về lượng của giai cấp công nhân thể hiện sự tăng
trưởng về số lượng cũng như tỷ lệ lao động công nghiệp trong nền
kinh tế.
Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân được thể hiện
năng lực làm chủ công nghệ hiện đại ý thức giác ngộ giai cấp,
giác ngộ dân tộc.
Thứ hai: Giai cấp công nhân muốn giành được thắng lợi phải
nhận thức được vai trò, vị trí của mình, đề ra được mục tiêu, con
đường, biện pháp giải phóng mình, giải phóng hội. Để nhận thức
được điều đó, giai cấp công nhân phải được trang bị luận tiền
phong - đó chủ nghĩa Mác. Khi chủ nghĩa Mác thâm nhập vào
phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của mình -
đội tiền phong của giai cấp công nhân.
Đó Đảng cộng sản , nhân tố chủ quan bản để thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đảng cộng sản là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, lãnh đạo cả giai cấp cả
dân tộc. Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp phong trào công
nhân với ch nghĩa Mác-Lênin, (ở Việt Nam còn kết hợp với phong
trào yêu nước). Chỉ từ khi có Đảng, giai cấp công nhân mới chuyển
từ tự phát lên tự giác và trở thành giai cấp thực sự cách mạng.
Giai cấp công nhân coi Đảng cộng sản hạt nhân chính trị
của mình sự ra đời của Đảng mốc đánh dấu sự trưởng thành
của giai cấp. Chủ nghĩa Mac- Lenin khẳng định việc giai cấp công
nhân tổ chức được chính đảng trưởng thành về chính trị,
tưởng và tổ chức dấu hiệu đã trở thành giai cấp tự giác đ
năng lực để thực hiện sứ mệnh lịch sử.
Đảng coi giai cấp công nhân sở hội hàng đầu của
mình. Quan hgiữa Đảng cộng sản giai cấp công nhân quan
hệ “máu thịt”. Tính chất tiền phong thực tiến luận, tính tổ
chức khoa học chặc chẽ xác định Đảng người lãnh đạo, hạt
nhân của giai cấp công nhân.
Đảng cộng sản lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân.
không có lý luận thì phong trào công nhân không đi được xa.
Đảng cộng sản bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Bằng
hiểu biết luận kinh nghiệm thực tiễn, Đảng cộng sản định ra
cương lĩnh , đường lối, chiến lược, chính sách đấu tranh. Đảng
cũng là người tổ chc, động viên các sức mạnh, nguồn lực chính trị
xã hội trong phong trào công nhân.
2
Đảng cộng sản là đội tiên phong đấu tranh cho lợi ích của giai
cấp công nhân của dân tộc. Đây sự nghiệp cách mạng đại
của những người lao động bị áp bức, bóc lột đứng lên giải phóng
bản thân thoát khỏi áp bức giai cấp. Để làm tròn nhiệm vụ trên
Đảng của giai cấp công nhân cần phải: nắm vững và trung thành
với chủ nghĩa Mac lenin; giữ vững và không ngững tăng cường tính
chất giai cấp công nhân; giữ vng quyền lãnh đạo của Đảng , xây
dựng Đảng mạnh về chính trị , tư tưởng và tổ chức
Đảng nhân tchủ quan hàng đầu, lãnh đạo tchức quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân để giải
phóng giai cấp, giải phóng hội, giải phóng con người. thế,
Đảng Cộng sản phải luôn luôn được xây dựng, củng cố, phát triển
vững vàng về chính trị (đường lối cách mạng...), về tưởng (chủ
nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh...) về tổ chức (nguyên
tắc tập trung dân chủ; sinh hoạt Đảng để các quyết định đúng;
cán bộ, đảng viên, cấp uỷ tổ chức sở đảng vng mạnh, trong
sạch, có uy tín với nhân dân và có khả năng lãnh đạo tốt).
Thứ ba: phải sự thống nhất của phong trào công nhân
(phong trào công nhân trong từng nước với phong trào công nhân
quốc tế), từng bước xây dựng ý thức đoàn kết quốc tế.
Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản giai cấp công nn
- Đảng Cộng sản đội tiền phong của giai cấp công nhân,
bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, bao gồm những
người con ưu tú nhất, trung kiên nhất của giai cấp công nhân. Đảng
mang bản chất của giai cấp công nhân, đại diện về trí tuệ, lợi ích
cho giai cấp công nhân nhân dân lao động; thay mặt giai cấp
công nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, giành độc
lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Giai cấp công nhân sở xã hội của Đảng, là nguồn bổ
sung lực lượng cho Đảng. Giữa Đảng và giai cấp công nhân có mối
liên hệ hữu cơ, không thể tách rời.
Những đảng viên của Đảng Cộng sản th không phải
công nhân, nhưng phải người giác ngộ sứ mệnh lịch scủa giai
cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.
- Giai cấp công nhân Đảng của phải trung tâm đoàn
kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế: ý chí, nhận thức hành động
thống nhất. Đồng thời đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực
3
mọi âm mưu phá hoại của kẻ tcủa nhân dân, của chủ nghĩa
hội.
*
Liên hệ với vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân phong
trào yêu nước ở Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự phát triển cao
thống nhất của phong trào công nhân phong trào yêu nước.
Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là hệ tư tưởng luận của giai cấp
công nhân, phong trào công nhân còn khí giải phóng giai
cấp ng nhân, giải phóng dân tộc, giải phóng toàn xã hội. Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: “Việc thành lập Đảng một bước ngoặt
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. chứng tỏ
rằng giai cấp sản ta đã trưởng thành đủ sức lãnh đạo cách
mạng”. Đường lối cách mạng của Đảng thể hiện trong Cương lĩnh
mục tiêu, tưởng của Đảng, phù hợp đáp ứng đúng nguyện
vọng của giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động của
toàn dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời khẳng định giai cấp công nhân
đảng tiên phong của đứng vị trí trung tâm giữ vai trò
lãnh đạo cách mạng. Điều đó quyết định nội dung, xu hướng phát
triển của xã hội Việt Nam giành độc lập dân tộc đi tới chnghĩa
hội. Sự lựa chọn con đường cách mạng đó phù hợp với nội dung và
xu thế cách mạng của thời đại mới được mở ra từ Cách mạng
Tháng Mười Nga đại (năm 1917) chỉ đường lối độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm độc lập tự do thật sự
cho dân tộc. Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để
độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn
mạnh rằng, đây là sự lựa chọn của lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát
từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta. Từ đó, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Trong suốt 90 năm xây dựng trưởng thành, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân Việt Nam
giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là:
4
1. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 khai sinh
ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay Nhà nước Cộng
hòa hội chủ nghĩa Việt Nam) mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
2. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ
Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất T
quốc, đưa cả nước ta đi lên chủ nghĩa hội, góp phần quan trọng
vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3. Thắng lợi của snghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá
độ lên chủ nghĩa hội; xây dng chủ nghĩa hội bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được của cách mạng nước ta
dưới slãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cho chúng ta
thêm tự hào về dân tộc Việt Nam - một dân tộc anh hùng, thông
minh và sáng tạo; tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo rèn luyện đã một lòng
một dạ chiến đấu, hy sinh độc lập, tdo của Tổ quốc, hạnh
phúc của nhân dân. Trong giai đoạn lãnh đạo công cuộc đổi mới,
thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn nhất quán kiên định những vấn đề
cơ bản nhất:
- Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân
tộc chủ nghĩa hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin
tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn, thách thức,
những biến động phức tạp của tình hình thế giới khu vực, Đảng
ta luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách
đổi mới đúng đắn, phát huy những truyền thống quý báu của dân
tộc những thành tựu cách mạng đã đạt được, giữ vững độc lập
dân tộc, vữngớc đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đổi mới phải dựa vào nhân dân, lợi ích của nhân dân,
phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
- Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thi
đại.
- Đường lối đúng đắn của Đảng nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới.
5
Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân khởi xướng lãnh đạo công
cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn nghiên cứu luận, hoàn thiện
đường lối đổi mới; thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo ra
sự SỰ KIỆN - CHÍNH TRỊ thống nhất về quan điểm, ý chí và hành
động trong toàn Đảng; lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng
kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xây đắp nên những
truyền thống cực kỳ quý báu:
- Đoàn kết, truyền thống cực kỳ quý báu bài học lớn của
cách mạng nước ta.
- Quan hệ mật thiết giữa Đảng nhân dân đã trở thành nguồn
sức mạnh và truyền thống của cách mạng Việt Nam.
- Truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của nhiều thế hệ
đảng viên cộng sản quần chúng nhân dân, họ chấp nhận mọi
gian khổ, hy sinh, tiên phong gương mẫu, phấn đấu cho tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực,
tực cường trong hoạch định đường lối, chủ trương, lựa chọn
phương pháp nhằm phát huy sức mạnh của cách mạng, phát huy nội
lực của dân tộc đất nước, nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ,
khắc phục và vượt qua mọi khó khăn thử thách.
- Đảng ta nêu cao chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công
nhân, thủy chung, trong sáng trong quan hệ với đồng chí, bạn bè,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
6
Câu 2: Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về đặc trưng của
hội hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
(Trang 514)
Xây dựng CNXH sự nghiệp đại, chưa tiền lệ trong
lịch sử nhân loại. Bởi vậy, trong nhận thức và tổ chức thực tiễn
không thể trách khỏi những vấp váp, sai lầm. Vượt qua những khó
khăn, thách thức đó, Đảng ta với phương châm nhìn thẳng vào s
thật, nói đúng sự thật, n trọng quy luật khách quan đã dũng cảm
đổi mới nhận thức về CNXH, con người đi lên CNXH.
Sau 5 năm tiến hành thành công cuộc đổi mới đất nước, năm
2021, Đảng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Đại hội
đã thông qua Cương lịnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Đầy Cương lĩnh đầu tiên của Đảng trong thời kỳ đổi
mới, thể hiện tầm nhìn chiến lược về những vấn đề hệ trọng của đất
nước. Một trong những nội dung quan trọng nhất của Cương lĩnh là
xác định các đặc trưng bản của XHCN mà nhân dân ta xây dựng.
Đặc tng tổng quát được xác định “Xã hội XHCN
nhân dân ta xây dựng một hội: Do nhân dân lao động làm chủ.
một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại chế độ công hữu về các liệu SX chủ yếu. nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sách dân tộc. Con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, điều kiện phát triển toàn
diện nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp
đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân
dân tất cả các nước trên thế giới”.
1. Tại ĐH Đại biểu lần thứ VII (năm 1991):
Việc xác định 6 đặc trưng của XHCN ở nước ta tại ĐH Đại biểu
lần thứ VII một trong những đột phá về tư duy lý luận của Đảng.
Bao gồm:
Một là, Do nhân dân lao động làm chủ;
Hai là, một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
Ba là, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
7
Bốn là, Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, cuộc sống ấm no
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;
Năm là, Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ;
Sáu là, quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới.
Nhìn chung, việc xác định những đặc trưng của CNXH Việt
Nam mới chỉ bước đầu, chưa thật sự đầy đủ chính xác, tuy
nhiên đã phản ánh khá chính xác bản chất của một hội tốt đẹp
khi kết thúc thời kỳ quá độ sẽ đạt tới. Các đặc trưng đó cũng đã
bao quá khá đầy đủ các lĩnh vực, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa,
con người, lĩnh vực xã hội cũng như quan hệ quốc tế.
2. Tại ĐH Đại biểu lần thứ X (năm 2006):
Tại Đại hội Đảng lần thứ X (4-2006), trên cơ sở đánh giá những
thành tựu to lớn nhân dân ta đạt được đã nhấn mạnh: “Nhận
thức về chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội ngày
càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm luận về công cuộc đổi
mới, về hội hội chủ nghĩa con đường đi lên chủ nghĩa
hội Việt Nam đã hình thành trên những nét bản”. vậy, Đảng
ta đã bổ sung, phát triển, làm cho hình chủ nghĩa hội
Việt Nam toàn diện, đầy đủ hơn. Mô hình đó bao gồm 8 đặc trưng:
Một , hội chủ nghĩa nhân dân ta xây dựng một hội
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
Hai , Do nhân dân lao động làm chủ;
Ba là, nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất;
Bốn là, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Năm là, Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công,
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;
Sáu là, Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
Bảy là, Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
8
Tám là, quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân các nước
trên thế giới;
3. ĐH Đại biểu lần thứ XI (năm 2011) làm những điều
chỉnh mới.
Tiếp theo Đại hội X, Đại hội XI của Đảng đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định 8 đặc trưng của
xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cụ thể là:
Đặc trưng thứ nhất: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Đây đặc trưng khái quát nhất, bao trùm hệ mục tiêu cần
đạt tới của thời kỳ xây dựng bảo vệ Tổ quốc hội chủ nghĩa,
hoàn thiện từng bước hội xã hội chủ nghĩa phù hợp với nhau,
đặc điểm thực tế của Việt Nam trên các phương diện. Đây đặc
trưng mới được bổ sung so với Cương lĩnh năm 1991.
Dân giàu giàu cả đời sống vật chất văn hoá, tinh thần;
dân giàu nhưng phải làm cho nước mạnh, phải nâng cao sức mạnh
tổng hợp quốc gia; dân giàu nhưng phải đảm bảo công bằng xã hội,
đây là thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh
bổ sung phát triển năm 2011, cụm từ dân chủ được đưa lên trước
cụm từ công bằng so với Văn kiện Đại hội X của Đảng. Sự thay đổi
này phản ánh sự nhận thức càng ngày càng sâu sắc hơn của Đảng ta
đối với mục tiêu dân chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN,
vừa mục tiêu, vừa động lực, nguồn lực phát triển đất nước.
Dân chủ theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Dân chủ, dân làm chủ, dân
gốc, dân chìa khoá vạn năng. Do đó dân chủ phải được đặt vị
trí tương xứng với tầm vóc, gtrị của trong Cương lĩnh khi
đề cao dân chủ chúng ta không coi nhẹ kỹ luật, kỷ cương. Càng coi
trọng dân chủ, càng phải coi trọng kỷ luật, pháp luật kỷ cương
trong quản lý đời sống xã hội.
Đặc trưng thứ hai: Do nhân dân làm chủ.
Đặc trưng này sự khế thừa chọn lọc, thể hiện bản chất
chính trị của hội hội chủ nghĩa vốn đã được xác định từ năm
1991: Do nhân dân lao động làm chủ. Trong quá trình xây dựng
nền dân chủ hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từ thực tiễn của việc mở
rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của công dân, trong Cương
lĩnh (Bổ sung phát triển) đã xác định ràng hơn, thiết thực hơn;
xã hội hội chủ nghĩa Việt Nam phải là xã hội do nhân dân làm
9
chủ, thể hiện bản chất dân chủ rộng rãi, mọi quyền lực thuộc v
nhân dân.
Đặc trưng thứ ba: nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
So với Cương lĩnh năm 1991 đặc trưng về kinh tế này sự
điều chỉnh cách thức diễn đạt. Nếu như trong Cương lĩnh 1991,
diễn đạt quan hệ sản xuất “dựa trên chế độ công hữu về những
liệu sản xuất chủ yếu” thì Cương lĩnh bổ sung, phát triển diễn đạt
gọn hơn : “và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Cách diễn đạt y
ít nhiều cho thấy “tính mở” trong phát triển các thành phần kinh tế,
đồng thời tránh được một vấn đề luận và thực tiễn đang đặt ra:
Xác định đâu tư liệu sản xuất chủ yếu? Đâu liệu sản xuất
thứ yếu…
Đặc trưng thứ tư: nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc
Đây đặc trưng về phương diện văn hóa hội hội
chủ nghĩa ở Việt Nam cần có. Đặc trưng này là sự kế thừa nội dung
vốn của Cương lĩnh năm 1991. Nền văn hóa tiên tiến bao gồm:
những tinh hoa, giá trị văn hóa tiến bộ, hiện đại, nhân văn trên
sở mở rộng giao lưu, tiếp biến văn hóa. Mặt khác, bản sắc, giá trị
truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc Việt Nam cần được lưu
giữ, bảo tồn, phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Đặc trưng thứ năm: Con người cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc điều kiện phát triển toàn diện.
Trên sở kế thừa, chọn lọc và điều chỉnh cách thức diễn
đạt, đặc trưng này đã xác định từ việc diễn đạt gọn, hơn những
nội dung Cương lĩnh 1991 đã nêu, phản ánh mối quan hệ gia
con người và xã hội trong xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đặc trưng thứ sáu: c dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Đây đặc trưng về các mối quan hệ dân tộc - tộc người
Việt Nam. Tuy nhiên nếu so với đặc trưng đã được xác định từ
Cương lĩnh năm 1991 sự điều chỉnh bổ sung thêm một vài
thuật ngữ: Không dùng thuật ngữ “Các dân tộc trong nước”
thay bằng các “dân tộc cộng đồng Việt Nam”; bổ sung thêm thuật
ngữ “tôn trọng” trong giải quyết các quan hệ tộc người Việt Nam
nhằm tăng cường khối đại đoàn kết giữa các tộc người.
10
Đặc trưng thứ bảy: Nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, nhân dân do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.
Đây đặc trưng hoàn toàn mới được bổ sung so với các đặc
trưng trong Cương lĩnh 1991. Đặc trưng này kế thừa của Văn
kiện Đại hội X của Đảng, phản ánh đường lối xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, nhân dân, nn
dân chủ thể của quyền lực nhà nước, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế của thời đại.
hội hội chủ nghĩa Việt Nam phải được xác định
trong bản chất của Nhà nước hội hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đó Nhà nước của dân, do dân, dân. Nhà nước này phải do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quan điểm về Nhà nước của
dân, do dân, dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện
trong đặc trưng này.
Đặc trưng thứ tám: quan hệ hữu nghị hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới.
Đặc trưng này kế thừa nội dung đã từ Cương lĩnh năm
1991 khi xác định về quan hệ đối ngoại. Với tinh thần tăng cường
hội nhập quốc tế cả chiều rộng chiều sâu, đặc trưng vừa nêu thể
hiện quan điểm về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong điều
kiện mới.
Đặc trưng này phản ánh xu thế lớn của tìnnh hình thế giới
hòa bình, hợp tác và phátt triển, xu thế toàn cầu hóa hội nhập
quốc tế. Đó cũng nguyện vọng chân thành của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta.
Mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác không chỉ với nhân
dân mà với cả các Nhà nước, các Đảng Cộng sản và công nhân, các
phong trào xã hội tiến bộ, các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và các
đảng khác... nên Cương lĩnh 2011 khẳng định: Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển,
đa dạng hoá quan hệ chủ động tích cực hội nhập quốc tế. Việt
Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
11
Câu 3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về Bản chất
chế độ n chủ hội chủ nghĩa. Liên hệ với việc xây dựng nền
dân chủ hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Chép giáo trình cuốn Những vấn đề bản của chủ nga
Mác-Lênin, tưởng Hồ C Minh từ giữa trang 286 đến giữa
trang 293
hoặc chép nội dung dưới đây:
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về Bản chất chế độ
dân chủ hội chủ nghĩa
- Dân chủ một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của
hội, trong đó thừa nhận nhân dân nguồn gốc của quyền lực,
thông qua một hệ thống bầu cử tự do.
- Dân chủ XHCN là một hình thức chính trị - nhà nước của xã
hội. Trong đó con người thành viên trong xã hội đầy đủ
cách ng dân, đó là quyền làm chủ của Nhân dân. Dân chủ XHCN
nền dân chủ đó dân chủ với nghĩa toàn bộ quyền lực thuộc
về nhân dân. Bản chất của dân chủ XHCN được thể hiện trên tất cả
các khía cạnh của đời sống
a. Bản chất chính trị:
- Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một Đảng của GCCN -
trên mọi lĩnh vực hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể
hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thoả mãn
ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích của nhân dân.
- Bản chất chính trị của nền dân chủ XHCN sự lãnh đạo
chính trị của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong đó
Đảng Cộng sản đối với toàn hội, nhưng không phải chỉ để thực
hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu
là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, trong đó
có giai cấp công nhân.
- Nền dân chủ XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo yếu tố
quan trọng để đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, bởi Đảng
Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động toàn hội. Với ý nghĩa này, dân ch XHCN mang
tính nhất nguyên về chính trị.
- Trong nền dân chủ XHCN, nhân dân lao động những
người làm chủ những quan hệ chính trị trong hội. Họ quyền
12
tham gia rộng rãi vào đời sống chính trị bằng nhiều hình thức như
giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính quyền từ trung
ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính
sách, pháp luậty dựng bộ máy nhà nước và cán bộ nhà nước.
Khẳng định quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính
trị, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ XHCN thì bao
nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều nơi dân,
bao nhiêu lợi ích đều dân... Chế độ dân chủ XHCN, nhà nước
XHCN do đó về thực chất là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Cuộc cách mạng XHCN, khác với các cuộc cách mạng trước
đây chỗ là cuộc cách mạng của số đông, lợi ích của số
đông nhân dân.
Như vậy, xét về bản chất chính trị, dân chủ XHCN vừa có bản
chất giai cấp công nhân, vừa tính nhân dân rộng rãi tính dân
tộc sâu sắc. Do vậy, nền dân chru XHCN khác vchất so với nền
dân chủ tư sản ở bản chất giai cấp.
b. Bản chất kinh tế:
- Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ công hu về những
TLSX chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao
của lực lượng sản xuất dựa trên sở khoa học - công nghệ hiện
đại nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất tinh
thần của toàn thể nhân dân lao động.
- Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình
ổn định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn
xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản lãnh đạo. Để thực hiện
dân chủ XHCN thì Nnước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật
XHCN, thể chế hoá và thực thi quyền dân chủ của công dân. Nhà
nước pháp quyền XHCN phải vừa mang bản chất của giai cấp công
nhân, vừa mang tính nhân dân rộng rãi do Đảng Cộng sản lãnh
đạo.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ XHCN khác vbản chất
kinh tế của các chế độ hữu, áp bức, bóc lột, bất công, nhưng
cũng như toàn bộ nền kinh tế XHCN, không hình thành từ “hư
vô” theo mong muốn của bất kỳ ai. Kinh tế XHCN cũng s kế
thừa phát triển mọi thành tu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử,
đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm... của
các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức bóc lột,
bất công... đối với đa số nhân dân.
13
Dân chủ luôn gắn với kỷ cương, pháp luật, nhà nước XHCN
chức năng là trấn áp các thế lực bóc lột, thù địch của CNXH
chức năng tổ chức, xây dựng. Trong đó chức năng chủ yếu tổ
chức, xây dựng hội mới theo những nguyên tắc cảu CNXH.
Dưới góc độ kinh tế, dân chủ XHCN được biểu hiện sự đảm bảo
về lợi ích kinh tế, coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực
bản nhất sức thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Lao động,
việc làm và phân phối lợi ích tương ứng với kết quả lao động là nội
dung kinh tế của dân chủ. Đây cũng nội dung quyền làm chủ
được thể hiện một cách rộng rãi, trực tiếp.
c. Bản chất tưởng - văn h:
- Nền dân chủ XHCN lấy hệ tưởng Mác-Lênin - hệ tưởng
của GCCN làm nền tảng, chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức
hội khác trong hội mới (như văn học nghệ thuật, giáo dục, đạo
đức, lối sống, văn hoá, hội, tôn giáo v.v.). Đồng thời, dân chủ
XHCN kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống các
dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hoá, văn minh, tiến bộ
hội... nhân loại đã tạo ra tất cả các quốc gia, dân tộc...
Trong nền dân chủ XHCN, nhân dân được làm chủ những giá trị
văn hoá tinh thần, được nâng cao trình độ văn hoá, được thụ hưởng
những giá trị văn hoá và có điều kiện để phát triển cá nhân.
- Trong nền dân chủ XHCN đời sống tưởng - văn hoá của
nền dân chủ XHCN rất phong phú, đa dạng, toàn diện
- Tư tưởng, văn hoá ngày càng trở thành một nhân tố quan
trọng hàng đầu, thành mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Để một chế độ dân chủ thực squyền lực thuộc về nhân
dân, ngoài yếu tố giai cấp công nhân lãnh đạo, đòi hỏi cần nhiều
yếu tố nhưnG trình độ dân trí, hội công dân, việc tạo dựng
chế pháp luật đảm bảo quyền tự do nhân, quyền làm chủ nhà
nước quyền tham gia vào các quyết sách của nhà nước…
những điều kiện vật chất cần thiết để thực thi dân chủ.
* Liên hệ với việc xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay.
+ Dân chủ trong Đảng
14
Việc thực hiện dân chủ trong các mặt hoạt động của Đảng,
như công tác lý luận, công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ,
công tác kiểm tra, v.v. đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
Thứ nhất, những thành tựu ý nghĩa lịch sử của đổi mới
trong 30 năm qua kết quả của việc thực hiện các chủ trương,
đường lối đúng đắn của Đảng. Sở các chủ trương, đường lối
đúng đắn do dân chủ thảo luận Đảng biết lắng nghe ý kiến
đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, của các nhà khoa học
của nhân dân.
Thứ hai, về công tác tưởng, Đảng ta đã thường xuyên đổi
mới, nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, thuyết phục
vận động quần chúng. Trong thực tế, kết quả của công tác
tưởng thể hiện chỗ: Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, người
dân ngày càng được biết nhiều hơn về các chủ trương, chính sách
của Đảng Nhà nước. Cùng với việc dân biết, dân cũng được bàn
bạc tham gia ý kiến về nhiều việc quan trọng. Nhờ vậy, các chủ
trương, chính sách của Đảng Nhà nước nhận được sự đồng tình,
ủng hộ của quảng đại quần chúng nhân dân.
Thứ ba, công tác tổ chức, cán bộ đã nhiều chuyển biến
tích cực: Các quan Đảng, Nhà nước các đoàn thđược sắp
xếp lại, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Nhiều
chủ trương, quan điểm, giải pháp về công tác cán bộ được thể chế
hóa, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định. Đảng đã triển khai
tương đối đồng bộ các khâu đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng thực hiện chính sách
cán bộ. Công tác tổ chức, cán bộ chuyển hướng theo hướng dân chủ
a.
Thứ tư, công tác kiểm tra, giám sát phải thực hiện trong cả hệ
thống chính trị, kiểm tra, giám sát từng người đứng đầu cấp ủy, tổ
chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể
chính trị - xã hội các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao; kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chủ trương,
đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng Nhà nước.
Trong thời gian qua, công tác kiểm tra, giám sát được cấp ủy, tổ
chức đảng quan tâm lãnh đạo, ch đạo, nhiều đổi mới đạt
được những kết quả quan trọng.
Thứ năm, thực hành dân chủ thông qua các quan hệ trong nội
bộ Đảng. Đảng phải gương mẫu thực hành dân chủ không chỉ trong
các hoạt động của Đảng, cả trong quan hệ nội bộ đảng ch
15
yếu quan hệ giữa cấp trên cấp dưới. Mặt ưu điểm của thực
hành dân chủ trong quan hệ giữa cấp trên cấp dưới trong nội bộ
đảng thể hiện: (1) Sau khi nghị quyết Đại hội các hội nghị
Trung ương, các cấp dưới thực hiện việc cụ thể hóa nhanh, gọn hơn
trước; (2) Nhìn chung các cấp ủy đảng đã thể hiện sự chủ động,
năng động cao hơn trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện nghị quyết
đưa nghị quyết vào cuộc sống; (3) Các cấp ủy đảng đã coi trọng
công tác tổng kết thực tiễn và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết để
báo cáo lên cấp trên; (4) Cấp trên đã chịu khó lắng nghe các ý kiến
đóng góp của cấp dưới; cấp dưới đã mạnh dạn đóng góp ý kiến p
bình, xây dựng với cấp trên; (5) Cùng với việc kiểm tra từ trên
xuống, đã bắt đầu sự kiểm tra từ dưới lên; (6) Khắc phục được
một bước tình trạng cấp trên quan liêu, độc đoán, chuyên quyền,
dọa nạt cấp dưới, đồng thời khắc phục được phần nào tình trạng cấp
dưới hối lộ, nịnh bợ cấp trên.
+ Dân chủ trong Nhà ớc
Dân chủ trong Đảng gắn liền với dân chủ trong Nhà nước.
Nói về những thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ
trong Đảng cũng tức nói về thành tựu hạn chế của việc thực
hành dân chủ trong Nhà nước. Tuy nhiên, dân chủ trong Nhà nước
cũng có những nét đặc thù.
Nhà nước đã tạo những điều kiện thuận lợi để nhân dân nắm
bắt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được
các thủ tục hành chính giải quyết các công việc liên quan với nhân
dân, biết được quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về sử dụng đất
đai, vdự toán, quyết toán ngân sách, v.v.. Đồng thời, cùng với
việc dân biết, dân còn được bàn bạc nhiều việc quan trọng, như
những dự án, mức đóng góp xây dựng sở hạ tầng địa phương,
các kế hoạch phát triển kinh tế - hội, quy hoạch dân cư, điều
chỉnh địa giới hành chính, phương án đền giải phóng mặt bằng,
v.v.. Nhà nước đều hỏi ý kiến nhân dân.
Quan hệ giữa Nhà nước nhân dân nhiều tiến bộ tn
một số mặt, dần dần thể hiện đúng Nhà nước ta là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân nhân dân. Các quan nhà nước đã
từng bước đổi mới tổ chức hoạt động, thích ứng tổ chức tốt
hơn yêu cầu chuyển đổi cấu kinh tế, mở cửa, hội nhập và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua, việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa đã những tiến bộ
nhất định trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp pháp. Quốc
16
hội những đổi mới quan trọng trong công tác lập pháp, đã thông
qua một số lượng lớn luật, bộ luật, pháp lệnh mới với chất lượng
ngày càng được nâng cao, tạo spháp cho hoạt động quản
nhà nước và thực hành dân chủ. Tăng cường một bước tổ chức hoạt
động của bộ máy nhà nước, tránh được tình trạng ôm đồm, cồng
kềnh và quan liêu trước đây, thực hiên sự phân cấp, giảm bớt phiền
trong bộ máy hành chính. Dần dần thực hiện được tưởng quan
trọng tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Nhà nước
phục vụ nhân dân, gắn mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Chúng
ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để bảo
đảm dân chủ gắn với kỷ luật, kỷ cương; đồng thời, chỉ có thực hành
dân chủ mới xây dựng được Nhà nước pháp quyền thực sự của dân,
do dân và vì dân.
+ Dân chủ trong hội
Dân chủ trong Đảng, dân chủ trong Nhà nước dân chủ
trong xã hội liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó dân chtrong
Đảng ý nghĩa quyết định. Nếu dân chủ trong Đảng chưa tốt thì
dân chủ trong Nhà nước và trong xã hộing chưa thể tốt được.
Nhờ những chủ trương đúng đắn của Đảng, nhờ việc thể
chế hóa của Nhà nước về những chủ trương đó nên dân chủ trong
xã hội đã có nhng bước tiến đáng kể. Điều đó thể hiện:
Một là, nhân dân ta cảm nhận bầu không khí dân chủ hơn,
cởi mở hơn trong hội. sở, người dân đã chủ động bàn bạc,
tham gia ý kiến, thực hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của
mình; đồng thời, tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, chính
quyền, thể hiện tốt vai trò giám sát đối với cán bộ, đảng viên, thẳng
thắn góp ý kiến về hoạt động của các quan nhà nước địa
phương.
Hai là, trong 30 năm đổi mới vừa qua, việc thực hành dân
chủ trong hội đã những bước tiến căn bản trong các lĩnh vực,
từ kinh tế, chính trị đến văn hóa xã hội. Quyền công dân, quyền
con người được khẳng định ràng trong Hiến pháp năm 2013. Có
thể nói, một trong thành tựu quan trọng của đổi mới nền dân chủ
đang được hình thành, đang đóng vai trò là động lực của sự phát
triển xã hội.
17
Câu 4: Làm nội dung một mối quan hệ lớn cần nhận thức
giải quyết trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội Việt
Nam hiện nay. Liên hệ với quan của anh/ch trong việc giải
quyết mối quan hệ đó.
- Cần trình bày nội dung 1 trong 10 mối quan hệ sau đây:
Một là, QH giữa ổn định, đổi mới phát triển
Hai là, QH giữa đổi mới kinh tế đổi mới chính tr
Ba là, QH giữa tuân theo quy luật của thị trường bảo
đảm định hướng XHCN
Bốn là, QH giữa phát triển LLSX xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ SXXHCN.
Năm là, QH giữa nhà nước thị trường
Sáu là, QH giữa tăng trưởng kinh tế phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ công bằng hội
Bảy ,QH giữa xây dựng CNXH bảo vệ tổ quốc XHCN
Tám là, QH giữa độc lập tự ch hội nhập quốc tế
Chín , QH giữa đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ.
Mười là, QH giữa thực hành dân chủ tăng cường pháp
chế, bảo đảm kỷ cương hội”
do CHỌN: QH giữa xây dựng CNXH bảo vệ tổ quốc
XHCN
Xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ này mối quan hệ bản, xuyên suốt, chi phối
mọi mối quan hệ các lĩnh vực của đời sống hội trong sự phát
triển đất nước. Tổng kết một số vấn đề luận - thực tiễn qua 30
năm đổi mới, Đảng ta chỉ rõ: “Dựng nước đi đôi với giữ nước
quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Xây dựng chủ nghĩa
hội bảo vệ Tổ quốc hội chủ nghĩa quy luật phát triển của
cách mạng nước ta.
Xây dựng “nước ta tr thành một nước hội chủ nghĩa ngày
càng phồn vinh, hạnh phúc”
2
một quá trình cách mạng sâu sắc,
18
triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái mới cái nhằm tạo ra sự
biến đổi về chất trên mọi lĩnh vực của đời sống hội. Bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam hội chủ nghĩa nội dung toàn diện, cả phương
diện tự nhiên - lịch sử chính trị - hội trong chỉnh thể thống
nhất, “…bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nnước, nhân dân chế độ
xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp ng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn
hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn hội” Đây nhiệm vụ “trọng yếu,
thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa
tổng thể các công việc không tách rời nhau, rất nặng nề, to lớn
phức tạp rất vẻ vang. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đây
cuộc chiến đấu chống lại những đã kỹ, hư hỏng, để tạo ra
những cái mới mẻ, tốt tươi”
4
. tưởng khoa học nhân văn này
của Người đã được Đảng ta vận dụng, phát triển sáng tạo trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Mối quan hệ giữa xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hội chủ nghĩa mang tính tất yếu, khách quan, thống nhất, gắn
chặt chẽ, khăng khít với nhau, xâm nhập vào nhau, không thể tách
rời nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng sở để bảo v một “phương thức hữu hiệu
nhất” để bảo vệ, trong xây dng bảo vệ; bảo vệ tạo điều kiện
vững chắc cho xây dựng, trong bảo vệ xây dựng. Bảo vệ một
bộ phận cấu thành của xây dựng ngược lại xây dựng là một bộ
phận của bảo vệ. đâu hoạt động xây dựng thì đó hoạt
động bảo vệ và ngược lại.
Mối quan hệ giữa xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hội chủ nghĩa được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Trên lĩnh vực chính trị xây dựng bảo vệ chính trị hệ
thống chính trị trên cả diện rộng, chiều sâu, nhất xây dựng bảo
vệ cương lĩnh, đường lối chính trị, xây dựng bảo vệ Đảng, Nhà
nước, chế đ hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị. Trên lĩnh vực
kinh tế xây dựng bảo vệ lực lượng sản xuất, những sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa hội, cả xây dựng bảo vệ quan hệ
sản xuất hội chủ nghĩa, nhất đấu tranh giữ vững định hướng
hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế hiện nay; giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với quốc phòng,
19
an ninh, đối ngoại quân sự; giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại
quân sự với kinh tế…. Trên lĩnh vực văn hóa là xây dựng và bảo vệ
nền văn hóa hội chủ nghĩa, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; xây dựng những giá trị, chuẩn mực văn hóa hội chủ
nghĩa đấu tranh chống lại những quan điểm, tưởng, những
phản giá trị văn hóa, nhất nhng tàn của văn hóa phong kiến
lạc hậu sự xâm nhập của cái gọi “giá trị văn hóa phương
Tây”. Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại xây dựng
bảo vệ tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân,
xây dựng và bảo vệ lực lượng trang nhân dân, xây dựng bảo
vệ nền ngoại giao Việt Nam.
Mối quan hệ giữa xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hội chủ nghĩa thể hiện tất cả các cấp, các ngành, trên quy toàn
quốc, cũng như trên từng địa phương, sở, từng đơn vị, doanh
nghiệp, trong nhận thức cũng như trong tổ chức hoạt động thực
tiễn. Đảng, Nhà nước và nhân dân, cả hệ thống chính trị chủ thể
nhận thức và giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn, thể hiện
việc đề xuất giải pháp, biện pháp, phương thức xây dựng tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách kết hợp giữa xây dựng bảo vệ
Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - hội với củng cố quốc phòng -
an ninh…. Xây dng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của
mọi tổ chức, mọi người, mọi ngành, mọi cấp hoạt động trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống hội, diễn ra một cách thường xuyên,
phổ biến mọi lúc, mọi nơi, không phân biệt ranh giới giữa tiền
tuyến và hậu phương, trong thời bình hay thời chiến.
Trong quá tnh lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhận thức
giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng bảo vTổ quốc
Việt Nam hội chủ nghĩa. Đó là, bảo vệ không chỉ phòng ngừa
trước hết phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt,
nhất phải khắc phục được nguy tụt hậu về kinh tế; đi đôi với
xây dựng phải đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, nạn tham
nhũng, sự suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên nhân dân, đấu tranh làm thất bại
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” những biểu hiện “tự diễn
biến
Thành tựu to ln ý nghĩa quan trọng, bao trùm trong
giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hội chủ nghĩa vừa phát triển kinh tế - hội, nâng cao đời
20

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG ÔN MÔN CHỦ NGHĨA HỘI KHOA HỌC
(Sách Nội dung bản của Chủ nghĩa Mác Lênin)
Câu 1. Phân tích điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của giai cấp công nhân. Liên hệ với vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
Chép giáo trình cuốn Những vấn đề bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh phần 2. Điều kiện chủ quan
để giai cấp công nhân thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới (từ trang 259 đến hết 7 dòng đầu của trang 265)
hoặc chép nội dung dưới đây:
=> Không biết từ trang 259 đến hết 7 dòng đầu của trang
265 của cuốn sách nào?
* Phân tích điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là tất yếu khách quan,
tức là không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai. Nhưng cũng như
các quy luật xã hội khác, nó không “ tự động” diễn ra như các qui
luật tự nhiên mà nó cần có những yếu tố chủ quan. Những nhân tố chủ quan đó là :
Thứ nhất: là sự phát triển của giai cấp công nhân, là kết quả
của quá trình phát triển tự thân , tự giác , chủ động. Giai cấp công
nhân trưởng thành về số lượng và chất lượng ngay trong quá trình
sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và trong các hoạt động
chính trị - xã hội: có trình độ văn hoá, khoa học công nghệ, tay
nghề ngày càng cao để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
sản xuất; đời sống vật chất, tinh thần ngày càng tốt hơn. Giác ngộ
về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác-Lênin, lập trường giai cấp vững vàng;
Với tư cách là chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử, sự phát triển
giai cấp công nhân là yếu tố chủ quan quy định chất lượng và quy
mô, tốc độ của quá trình này. Sự phát triển giai cấp công nhân được
thể hiện ở sự phát triển về lượng và phát triển về chất. 1
Phát triển về lượng của giai cấp công nhân thể hiện sự tăng
trưởng về số lượng cũng như tỷ lệ lao động công nghiệp trong nền kinh tế.
Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân được thể hiện ở
năng lực làm chủ công nghệ hiện đại và ý thức giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc.
Thứ hai: Giai cấp công nhân muốn giành được thắng lợi phải
nhận thức được vai trò, vị trí của mình, đề ra được mục tiêu, con
đường, biện pháp giải phóng mình, giải phóng xã hội. Để nhận thức
được điều đó, giai cấp công nhân phải được trang bị lý luận tiền
phong - đó là chủ nghĩa Mác. Khi chủ nghĩa Mác thâm nhập vào
phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của mình -
đội tiền phong của giai cấp công nhân.
Đó là Đảng cộng sản , nhân tố chủ quan cơ bản để thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đảng cộng sản là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, lãnh đạo cả giai cấp và cả
dân tộc. Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp phong trào công
nhân với chủ nghĩa Mác-Lênin, (ở Việt Nam còn kết hợp với phong
trào yêu nước). Chỉ từ khi có Đảng, giai cấp công nhân mới chuyển
từ tự phát lên tự giác và trở thành giai cấp thực sự cách mạng.
Giai cấp công nhân coi Đảng cộng sản là hạt nhân chính trị
của mình và sự ra đời của Đảng là mốc đánh dấu sự trưởng thành
của giai cấp. Chủ nghĩa Mac- Lenin khẳng định việc giai cấp công
nhân có tổ chức được chính đảng trưởng thành về chính trị, tư
tưởng và tổ chức là dấu hiệu đã trở thành giai cấp tự giác và đủ
năng lực để thực hiện sứ mệnh lịch sử.
Đảng coi giai cấp công nhân là cơ sở xã hội hàng đầu của
mình. Quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân là quan
hệ “máu thịt”. Tính chất tiền phong thực tiến và lý luận, tính tổ
chức khoa học và chặc chẽ xác định Đảng là người lãnh đạo, là hạt
nhân của giai cấp công nhân.
Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân.
không có lý luận thì phong trào công nhân không đi được xa.
Đảng cộng sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Bằng
hiểu biết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, Đảng cộng sản định ra
cương lĩnh , đường lối, chiến lược, chính sách đấu tranh. Đảng
cũng là người tổ chức, động viên các sức mạnh, nguồn lực chính trị
xã hội trong phong trào công nhân. 2
Đảng cộng sản là đội tiên phong đấu tranh cho lợi ích của giai
cấp công nhân và của dân tộc. Đây là sự nghiệp cách mạng vĩ đại
của những người lao động bị áp bức, bóc lột đứng lên giải phóng
bản thân và thoát khỏi áp bức giai cấp. Để làm tròn nhiệm vụ trên
Đảng của giai cấp công nhân cần phải: nắm vững và trung thành
với chủ nghĩa Mac lenin; giữ vững và không ngững tăng cường tính
chất giai cấp công nhân; giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng , xây
dựng Đảng mạnh về chính trị , tư tưởng và tổ chức
Đảng là nhân tố chủ quan hàng đầu, lãnh đạo và tổ chức quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân để giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Vì thế,
Đảng Cộng sản phải luôn luôn được xây dựng, củng cố, phát triển
vững vàng về chính trị (đường lối cách mạng...), về tư tưởng (chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh...) và về tổ chức (nguyên
tắc tập trung dân chủ; sinh hoạt Đảng để có các quyết định đúng;
cán bộ, đảng viên, cấp uỷ và tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, trong
sạch, có uy tín với nhân dân và có khả năng lãnh đạo tốt).
Thứ ba: phải có sự thống nhất của phong trào công nhân
(phong trào công nhân trong từng nước với phong trào công nhân
quốc tế), từng bước xây dựng ý thức đoàn kết quốc tế.
Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản giai cấp công nhân
- Đảng Cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân, là
bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, bao gồm những
người con ưu tú nhất, trung kiên nhất của giai cấp công nhân. Đảng
mang bản chất của giai cấp công nhân, đại diện về trí tuệ, lợi ích
cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thay mặt giai cấp
công nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, giành độc
lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội của Đảng, là nguồn bổ
sung lực lượng cho Đảng. Giữa Đảng và giai cấp công nhân có mối
liên hệ hữu cơ, không thể tách rời.
Những đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là
công nhân, nhưng phải là người giác ngộ sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.
- Giai cấp công nhân và Đảng của nó phải là trung tâm đoàn
kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế: ý chí, nhận thức và hành động
thống nhất. Đồng thời đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực và 3
mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù của nhân dân, của chủ nghĩa xã hội.
* Liên hệ với vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước ở Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự phát triển cao
và thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là hệ tư tưởng lý luận của giai cấp
công nhân, phong trào công nhân mà còn là vũ khí giải phóng giai
cấp công nhân, giải phóng dân tộc, giải phóng toàn xã hội. Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: “Việc thành lập Đảng một bước ngoặt
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. chứng tỏ
rằng giai cấp sản ta đã trưởng thành đủ sức lãnh đạo cách
mạng”. Đường lối cách mạng của Đảng thể hiện trong Cương lĩnh
là mục tiêu, lý tưởng của Đảng, phù hợp và đáp ứng đúng nguyện
vọng của giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời khẳng định giai cấp công nhân
và đảng tiên phong của nó đứng ở vị trí trung tâm và giữ vai trò
lãnh đạo cách mạng. Điều đó quyết định nội dung, xu hướng phát
triển của xã hội Việt Nam giành độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã
hội. Sự lựa chọn con đường cách mạng đó phù hợp với nội dung và
xu thế cách mạng của thời đại mới được mở ra từ Cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại (năm 1917) và chỉ có đường lối độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm độc lập tự do thật sự
cho dân tộc. Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có
độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn
mạnh rằng, đây là sự lựa chọn của lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát
từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta. Từ đó, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong suốt 90 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân Việt Nam
giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là: 4
1. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và khai sinh
ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
2. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ
Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng
vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3. Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được của cách mạng nước ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cho chúng ta
thêm tự hào về dân tộc Việt Nam - một dân tộc anh hùng, thông
minh và sáng tạo; tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện đã một lòng
một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh
phúc của nhân dân. Trong giai đoạn lãnh đạo công cuộc đổi mới,
thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn nhất quán kiên định những vấn đề cơ bản nhất:
- Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn, thách thức,
những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng
ta luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách
đổi mới đúng đắn, phát huy những truyền thống quý báu của dân
tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được, giữ vững độc lập
dân tộc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân,
phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
- Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới. 5
Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân khởi xướng và lãnh đạo công
cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, hoàn thiện
đường lối đổi mới; thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo ra
sự SỰ KIỆN - CHÍNH TRỊ thống nhất về quan điểm, ý chí và hành
động trong toàn Đảng; lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và
kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xây đắp nên những
truyền thống cực kỳ quý báu:
- Đoàn kết, truyền thống cực kỳ quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta.
- Quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân đã trở thành nguồn
sức mạnh và truyền thống của cách mạng Việt Nam.
- Truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của nhiều thế hệ
đảng viên cộng sản và quần chúng nhân dân, họ chấp nhận mọi
gian khổ, hy sinh, tiên phong gương mẫu, phấn đấu cho lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực,
tực cường trong hoạch định đường lối, chủ trương, lựa chọn
phương pháp nhằm phát huy sức mạnh của cách mạng, phát huy nội
lực của dân tộc và đất nước, nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ,
khắc phục và vượt qua mọi khó khăn thử thách.
- Đảng ta nêu cao chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công
nhân, thủy chung, trong sáng trong quan hệ với đồng chí, bạn bè,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. 6
Câu 2: Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về đặc trưng của
hội hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. (Trang 514)
Xây dựng CNXH là sự nghiệp vĩ đại, chưa có tiền lệ trong
lịch sử nhân loại. Bởi vậy, trong nhận thức và tổ chức thực tiễn
không thể trách khỏi những vấp váp, sai lầm. Vượt qua những khó
khăn, thách thức đó, Đảng ta với phương châm nhìn thẳng vào sự
thật, nói đúng sự thật, tôn trọng quy luật khách quan đã dũng cảm
đổi mới nhận thức về CNXH, con người đi lên CNXH.
Sau 5 năm tiến hành thành công cuộc đổi mới đất nước, năm
2021, Đảng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Đại hội
đã thông qua Cương lịnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Đầy là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng trong thời kỳ đổi
mới, thể hiện tầm nhìn chiến lược về những vấn đề hệ trọng của đất
nước. Một trong những nội dung quan trọng nhất của Cương lĩnh là
xác định các đặc trưng cơ bản của XHCN mà nhân dân ta xây dựng.
Đặc trưng tổng quát được xác định là “Xã hội XHCN mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ.
Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu SX chủ yếu. Có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sách dân tộc. Con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp
đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân
dân tất cả các nước trên thế giới”.
1. Tại ĐH Đại biểu lần thứ VII (năm 1991):
Việc xác định 6 đặc trưng của XHCN ở nước ta tại ĐH Đại biểu
lần thứ VII là một trong những đột phá về tư duy lý luận của Đảng. Bao gồm:
Một là, Do nhân dân lao động làm chủ;
Hai là, Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
Ba là, Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 7
Bốn là, Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;
Năm là, Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
Sáu là, Có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Nhìn chung, việc xác định những đặc trưng của CNXH ở Việt
Nam mới chỉ là bước đầu, chưa thật sự đầy đủ và chính xác, tuy
nhiên đã phản ánh khá chính xác bản chất của một xã hội tốt đẹp
mà khi kết thúc thời kỳ quá độ sẽ đạt tới. Các đặc trưng đó cũng đã
bao quá khá đầy đủ các lĩnh vực, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa,
con người, lĩnh vực xã hội cũng như quan hệ quốc tế.
2. Tại ĐH Đại biểu lần thứ X (năm 2006):
Tại Đại hội Đảng lần thứ X (4-2006), trên cơ sở đánh giá những
thành tựu to lớn mà nhân dân ta đạt được đã nhấn mạnh: “Nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày
càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi
mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”. Vì vậy, Đảng
ta đã bổ sung, phát triển, làm cho mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam toàn diện, đầy đủ hơn. Mô hình đó bao gồm 8 đặc trưng:
Một , Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
Hai , Do nhân dân lao động làm chủ;
Ba là, Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
Bốn là, Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Năm là, Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;
Sáu là, Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
Bảy là, Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; 8
Tám là, Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới;
3. ĐH Đại biểu lần thứ XI (năm 2011) làm những điều chỉnh mới.
Tiếp theo Đại hội X, Đại hội XI của Đảng đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định 8 đặc trưng của
xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cụ thể là:
Đặc trưng thứ nhất: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Đây là đặc trưng khái quát nhất, bao trùm hệ mục tiêu cần
đạt tới của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
hoàn thiện từng bước xã hội xã hội chủ nghĩa phù hợp với nhau,
đặc điểm thực tế của Việt Nam trên các phương diện. Đây là đặc
trưng mới được bổ sung so với Cương lĩnh năm 1991.
Dân giàu là giàu cả đời sống vật chất và văn hoá, tinh thần;
dân giàu nhưng phải làm cho nước mạnh, phải nâng cao sức mạnh
tổng hợp quốc gia; dân giàu nhưng phải đảm bảo công bằng xã hội,
đây là thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh
bổ sung và phát triển năm 2011, cụm từ dân chủ được đưa lên trước
cụm từ công bằng so với Văn kiện Đại hội X của Đảng. Sự thay đổi
này phản ánh sự nhận thức càng ngày càng sâu sắc hơn của Đảng ta
đối với mục tiêu dân chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực phát triển đất nước.
Dân chủ theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Dân là chủ, dân làm chủ, dân
là gốc, dân là chìa khoá vạn năng. Do đó dân chủ phải được đặt ở vị
trí tương xứng với tầm vóc, giá trị của nó trong Cương lĩnh và khi
đề cao dân chủ chúng ta không coi nhẹ kỹ luật, kỷ cương. Càng coi
trọng dân chủ, càng phải coi trọng kỷ luật, pháp luật kỷ cương
trong quản lý đời sống xã hội.
Đặc trưng thứ hai: Do nhân dân làm chủ.
Đặc trưng này có sự khế thừa chọn lọc, thể hiện bản chất
chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa vốn đã được xác định từ năm
1991: Do nhân dân lao động làm chủ. Trong quá trình xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từ thực tiễn của việc mở
rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của công dân, trong Cương
lĩnh (Bổ sung và phát triển) đã xác định rõ ràng hơn, thiết thực hơn;
xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải là xã hội do nhân dân làm 9
chủ, thể hiện bản chất dân chủ rộng rãi, mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Đặc trưng thứ ba: nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
So với Cương lĩnh năm 1991 đặc trưng về kinh tế này có sự
điều chỉnh cách thức diễn đạt. Nếu như trong Cương lĩnh 1991,
diễn đạt có quan hệ sản xuất “dựa trên chế độ công hữu về những tư
liệu sản xuất chủ yếu” thì Cương lĩnh bổ sung, phát triển diễn đạt
gọn hơn : “và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Cách diễn đạt này
ít nhiều cho thấy “tính mở” trong phát triển các thành phần kinh tế,
đồng thời tránh được một vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra:
Xác định đâu là tư liệu sản xuất chủ yếu? Đâu là tư liệu sản xuất thứ yếu…
Đặc trưng thứ tư: nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Đây là đặc trưng về phương diện văn hóa mà xã hội xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam cần có. Đặc trưng này là sự kế thừa nội dung
vốn có của Cương lĩnh năm 1991. Nền văn hóa tiên tiến bao gồm:
những tinh hoa, giá trị văn hóa tiến bộ, hiện đại, nhân văn trên cơ
sở mở rộng giao lưu, tiếp biến văn hóa. Mặt khác, bản sắc, giá trị
truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc Việt Nam cần được lưu
giữ, bảo tồn, phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Đặc trưng thứ năm: Con người cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc điều kiện phát triển toàn diện.
Trên cơ sở kế thừa, có chọn lọc và điều chỉnh cách thức diễn
đạt, đặc trưng này đã xác định từ việc diễn đạt gọn, rõ hơn những
nội dung mà Cương lĩnh 1991 đã nêu, phản ánh mối quan hệ giữa
con người và xã hội trong xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đặc trưng thứ sáu: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Đây là đặc trưng về các mối quan hệ dân tộc - tộc người ở
Việt Nam. Tuy nhiên nếu so với đặc trưng đã được xác định từ
Cương lĩnh năm 1991 có sự điều chỉnh và bổ sung thêm một vài
thuật ngữ: Không dùng thuật ngữ “Các dân tộc trong nước” mà
thay bằng các “dân tộc cộng đồng Việt Nam”; bổ sung thêm thuật
ngữ “tôn trọng” trong giải quyết các quan hệ tộc người ở Việt Nam
nhằm tăng cường khối đại đoàn kết giữa các tộc người. 10
Đặc trưng thứ bảy: Nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, nhân dân do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.
Đây là đặc trưng hoàn toàn mới được bổ sung so với các đặc
trưng trong Cương lĩnh 1991. Đặc trưng này là kế thừa của Văn
kiện Đại hội X của Đảng, phản ánh đường lối xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhân
dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế của thời đại.
Xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải được xác định
trong bản chất của Nhà nước xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước này phải do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quan điểm về Nhà nước của
dân, do dân, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện trong đặc trưng này.
Đặc trưng thứ tám: quan hệ hữu nghị hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới.
Đặc trưng này kế thừa nội dung đã có từ Cương lĩnh năm
1991 khi xác định về quan hệ đối ngoại. Với tinh thần tăng cường
hội nhập quốc tế cả chiều rộng và chiều sâu, đặc trưng vừa nêu thể
hiện quan điểm về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong điều kiện mới.
Đặc trưng này phản ánh xu thế lớn của tìnnh hình thế giới là
hòa bình, hợp tác và phátt triển, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế. Đó cũng là nguyện vọng chân thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác không chỉ với nhân
dân mà với cả các Nhà nước, các Đảng Cộng sản và công nhân, các
phong trào xã hội tiến bộ, các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và các
đảng khác... nên Cương lĩnh 2011 khẳng định: Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển,
đa dạng hoá quan hệ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Việt
Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. 11
Câu 3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về Bản chất
chế độ dân chủ hội chủ nghĩa. Liên hệ với việc xây dựng nền
dân chủ hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Chép giáo trình cuốn Những vấn đề bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh từ giữa trang 286 đến giữa trang 293
hoặc chép nội dung dưới đây:
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về Bản chất chế độ
dân chủ hội chủ nghĩa
- Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã
hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực,
thông qua một hệ thống bầu cử tự do.
- Dân chủ XHCN là một hình thức chính trị - nhà nước của xã
hội. Trong đó con người là thành viên trong xã hội có đầy đủ tư
cách công dân, đó là quyền làm chủ của Nhân dân. Dân chủ XHCN
là nền dân chủ mà ở đó dân chủ với nghĩa toàn bộ quyền lực thuộc
về nhân dân. Bản chất của dân chủ XHCN được thể hiện trên tất cả
các khía cạnh của đời sống
a. Bản chất chính trị:
- Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một Đảng của GCCN - mà
trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể
hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thoả mãn
ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích của nhân dân.
- Bản chất chính trị của nền dân chủ XHCN là sự lãnh đạo
chính trị của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong đó là
Đảng Cộng sản đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực
hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu
là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân.
- Nền dân chủ XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo – yếu tố
quan trọng để đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, bởi vì Đảng
Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn xã hội. Với ý nghĩa này, dân chủ XHCN mang
tính nhất nguyên về chính trị.
- Trong nền dân chủ XHCN, nhân dân lao động là những
người làm chủ những quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền 12
tham gia rộng rãi vào đời sống chính trị bằng nhiều hình thức như
giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính quyền từ trung
ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính
sách, pháp luật xây dựng bộ máy nhà nước và cán bộ nhà nước.
Khẳng định quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính
trị, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ XHCN thì bao
nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân,
bao nhiêu lợi ích đều là vì dân... Chế độ dân chủ XHCN, nhà nước
XHCN do đó về thực chất là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Cuộc cách mạng XHCN, khác với các cuộc cách mạng trước
đây là ở chỗ nó là cuộc cách mạng của số đông, vì lợi ích của số đông nhân dân.
Như vậy, xét về bản chất chính trị, dân chủ XHCN vừa có bản
chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân
tộc sâu sắc. Do vậy, nền dân chru XHCN khác về chất so với nền
dân chủ tư sản ở bản chất giai cấp.
b. Bản chất kinh tế:
- Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ công hữu về những
TLSX chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao
của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện
đại nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh
thần của toàn thể nhân dân lao động.
- Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình
ổn định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn
xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản lãnh đạo. Để thực hiện
dân chủ XHCN thì Nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật
XHCN, thể chế hoá và thực thi quyền dân chủ của công dân. Nhà
nước pháp quyền XHCN phải vừa mang bản chất của giai cấp công
nhân, vừa mang tính nhân dân rộng rãi và do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ XHCN dù khác về bản chất
kinh tế của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công, nhưng
cũng như toàn bộ nền kinh tế XHCN, nó không hình thành từ “hư
vô” theo mong muốn của bất kỳ ai. Kinh tế XHCN cũng là sự kế
thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử,
đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm... của
các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức bóc lột,
bất công... đối với đa số nhân dân. 13
Dân chủ luôn gắn với kỷ cương, pháp luật, nhà nước XHCN
có chức năng là trấn áp các thế lực bóc lột, thù địch của CNXH và
chức năng tổ chức, xây dựng. Trong đó chức năng chủ yếu là tổ
chức, xây dựng xã hội mới theo những nguyên tắc cảu CNXH.
Dưới góc độ kinh tế, dân chủ XHCN được biểu hiện là sự đảm bảo
về lợi ích kinh tế, coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực
cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Lao động,
việc làm và phân phối lợi ích tương ứng với kết quả lao động là nội
dung kinh tế của dân chủ. Đây cũng là nội dung mà quyền làm chủ
được thể hiện một cách rộng rãi, trực tiếp.
c. Bản chất tưởng - văn hoá:
- Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin - hệ tư tưởng
của GCCN làm nền tảng, chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã
hội khác trong xã hội mới (như văn học nghệ thuật, giáo dục, đạo
đức, lối sống, văn hoá, xã hội, tôn giáo v.v.). Đồng thời, dân chủ
XHCN kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống các
dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hoá, văn minh, tiến bộ
xã hội... mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc...
Trong nền dân chủ XHCN, nhân dân được làm chủ những giá trị
văn hoá tinh thần, được nâng cao trình độ văn hoá, được thụ hưởng
những giá trị văn hoá và có điều kiện để phát triển cá nhân.
- Trong nền dân chủ XHCN đời sống tư tưởng - văn hoá của
nền dân chủ XHCN rất phong phú, đa dạng, toàn diện
- Tư tưởng, văn hoá ngày càng trở thành một nhân tố quan
trọng hàng đầu, thành mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Để có một chế độ dân chủ thực sự quyền lực thuộc về nhân
dân, ngoài yếu tố giai cấp công nhân lãnh đạo, đòi hỏi cần nhiều
yếu tố nhưnG trình độ dân trí, xã hội công dân, việc tạo dựng cơ
chế pháp luật đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền làm chủ nhà
nước và quyền tham gia vào các quyết sách của nhà nước… và
những điều kiện vật chất cần thiết để thực thi dân chủ.
* Liên hệ với việc xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay.
+ Dân chủ trong Đảng 14
Việc thực hiện dân chủ trong các mặt hoạt động của Đảng,
như công tác lý luận, công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ,
công tác kiểm tra, v.v. đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
Thứ nhất, những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của đổi mới
trong 30 năm qua là kết quả của việc thực hiện các chủ trương,
đường lối đúng đắn của Đảng. Sở dĩ có các chủ trương, đường lối
đúng đắn là do có dân chủ thảo luận và Đảng biết lắng nghe ý kiến
đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, của các nhà khoa học và của nhân dân.
Thứ hai, về công tác tư tưởng, Đảng ta đã thường xuyên đổi
mới, nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, thuyết phục
và vận động quần chúng. Trong thực tế, kết quả của công tác tư
tưởng thể hiện ở chỗ: Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, người
dân ngày càng được biết nhiều hơn về các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Cùng với việc dân biết, dân cũng được bàn
bạc và tham gia ý kiến về nhiều việc quan trọng. Nhờ vậy, các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhận được sự đồng tình,
ủng hộ của quảng đại quần chúng nhân dân.
Thứ ba, công tác tổ chức, cán bộ đã có nhiều chuyển biến
tích cực: Các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể được sắp
xếp lại, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Nhiều
chủ trương, quan điểm, giải pháp về công tác cán bộ được thể chế
hóa, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định. Đảng đã triển khai
tương đối đồng bộ các khâu đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách
cán bộ. Công tác tổ chức, cán bộ chuyển hướng theo hướng dân chủ hóa.
Thứ tư, công tác kiểm tra, giám sát phải thực hiện trong cả hệ
thống chính trị, kiểm tra, giám sát từng người đứng đầu cấp ủy, tổ
chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội ở các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao; kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chủ trương,
đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và Nhà nước.
Trong thời gian qua, công tác kiểm tra, giám sát được cấp ủy, tổ
chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, có nhiều đổi mới và đạt
được những kết quả quan trọng.
Thứ năm, thực hành dân chủ thông qua các quan hệ trong nội
bộ Đảng. Đảng phải gương mẫu thực hành dân chủ không chỉ trong
các hoạt động của Đảng, mà cả trong quan hệ nội bộ đảng mà chủ 15
yếu là quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới. Mặt ưu điểm của thực
hành dân chủ trong quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới trong nội bộ
đảng thể hiện: (1) Sau khi có nghị quyết Đại hội và các hội nghị
Trung ương, các cấp dưới thực hiện việc cụ thể hóa nhanh, gọn hơn
trước; (2) Nhìn chung các cấp ủy đảng đã thể hiện sự chủ động,
năng động cao hơn trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện nghị quyết
và đưa nghị quyết vào cuộc sống; (3) Các cấp ủy đảng đã coi trọng
công tác tổng kết thực tiễn và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết để
báo cáo lên cấp trên; (4) Cấp trên đã chịu khó lắng nghe các ý kiến
đóng góp của cấp dưới; cấp dưới đã mạnh dạn đóng góp ý kiến phê
bình, xây dựng với cấp trên; (5) Cùng với việc kiểm tra từ trên
xuống, đã bắt đầu có sự kiểm tra từ dưới lên; (6) Khắc phục được
một bước tình trạng cấp trên quan liêu, độc đoán, chuyên quyền,
dọa nạt cấp dưới, đồng thời khắc phục được phần nào tình trạng cấp
dưới hối lộ, nịnh bợ cấp trên.
+ Dân chủ trong Nhà nước
Dân chủ trong Đảng gắn liền với dân chủ trong Nhà nước.
Nói về những thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ
trong Đảng cũng tức là nói về thành tựu và hạn chế của việc thực
hành dân chủ trong Nhà nước. Tuy nhiên, dân chủ trong Nhà nước
cũng có những nét đặc thù.
Nhà nước đã tạo những điều kiện thuận lợi để nhân dân nắm
bắt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được
các thủ tục hành chính giải quyết các công việc liên quan với nhân
dân, biết được quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về sử dụng đất
đai, về dự toán, quyết toán ngân sách, v.v.. Đồng thời, cùng với
việc dân biết, dân còn được bàn bạc nhiều việc quan trọng, như
những dự án, mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương,
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch dân cư, điều
chỉnh địa giới hành chính, phương án đền bù giải phóng mặt bằng,
v.v.. Nhà nước đều hỏi ý kiến nhân dân.
Quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân có nhiều tiến bộ trên
một số mặt, dần dần thể hiện đúng Nhà nước ta là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các cơ quan nhà nước đã
từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động, thích ứng và tổ chức tốt
hơn yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở cửa, hội nhập và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua, việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có những tiến bộ
nhất định trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc 16
hội có những đổi mới quan trọng trong công tác lập pháp, đã thông
qua một số lượng lớn luật, bộ luật, pháp lệnh mới với chất lượng
ngày càng được nâng cao, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý
nhà nước và thực hành dân chủ. Tăng cường một bước tổ chức hoạt
động của bộ máy nhà nước, tránh được tình trạng ôm đồm, cồng
kềnh và quan liêu trước đây, thực hiên sự phân cấp, giảm bớt phiền
hà trong bộ máy hành chính. Dần dần thực hiện được tư tưởng quan
trọng là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Nhà nước
phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Chúng
ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để bảo
đảm dân chủ gắn với kỷ luật, kỷ cương; đồng thời, chỉ có thực hành
dân chủ mới xây dựng được Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân.
+ Dân chủ trong hội
Dân chủ trong Đảng, dân chủ trong Nhà nước và dân chủ
trong xã hội có liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó dân chủ trong
Đảng có ý nghĩa quyết định. Nếu dân chủ trong Đảng chưa tốt thì
dân chủ trong Nhà nước và trong xã hội cũng chưa thể tốt được.
Nhờ có những chủ trương đúng đắn của Đảng, nhờ việc thể
chế hóa của Nhà nước về những chủ trương đó nên dân chủ trong
xã hội đã có những bước tiến đáng kể. Điều đó thể hiện:
Một là, nhân dân ta cảm nhận bầu không khí dân chủ hơn,
cởi mở hơn trong xã hội. Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn bạc,
tham gia ý kiến, thực hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của
mình; đồng thời, tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, chính
quyền, thể hiện tốt vai trò giám sát đối với cán bộ, đảng viên, thẳng
thắn góp ý kiến về hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương.
Hai là, trong 30 năm đổi mới vừa qua, việc thực hành dân
chủ trong xã hội đã có những bước tiến căn bản trong các lĩnh vực,
từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và xã hội. Quyền công dân, quyền
con người được khẳng định rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013. Có
thể nói, một trong thành tựu quan trọng của đổi mới là nền dân chủ
đang được hình thành, đang đóng vai trò là động lực của sự phát triển xã hội. 17
Câu 4: Làm nội dung một mối quan hệ lớn cần nhận thức
giải quyết trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội Việt
Nam hiện nay. Liên hệ với quan của anh/chị trong việc giải
quyết mối quan hệ đó.
- Cần trình bày nội dung 1 trong 10 mối quan hệ sau đây:
Một là, QH giữa ổn định, đổi mới phát triển
Hai là, QH giữa đổi mới kinh tế đổi mới chính trị
Ba là, QH giữa tuân theo quy luật của thị trường bảo
đảm định hướng XHCN
Bốn là, QH giữa phát triển LLSX xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ SXXHCN.
Năm là, QH giữa nhà nước thị trường
Sáu là, QH giữa tăng trưởng kinh tế phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ công bằng hội
Bảy ,QH giữa xây dựng CNXH bảo vệ tổ quốc XHCN
Tám là, QH giữa độc lập tự chủ hội nhập quốc tế
Chín , QH giữa đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ.
Mười là, QH giữa thực hành dân chủ tăng cường pháp
chế, bảo đảm kỷ cương hội”
do CHỌN: QH giữa xây dựng CNXH bảo vệ tổ quốc XHCN
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ này là mối quan hệ cơ bản, xuyên suốt, chi phối
mọi mối quan hệ và các lĩnh vực của đời sống xã hội trong sự phát
triển đất nước. Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30
năm đổi mới, Đảng ta chỉ rõ: “Dựng nước đi đôi với giữ nước là
quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển của cách mạng nước ta.
Xây dựng “nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày
càng phồn vinh, hạnh phúc”2 là một quá trình cách mạng sâu sắc, 18
triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái mới và cái cũ nhằm tạo ra sự
biến đổi về chất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện, cả phương
diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống
nhất, “…bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn
hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội” Đây là nhiệm vụ “trọng yếu,
thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
tổng thể các công việc không tách rời nhau, rất nặng nề, to lớn và
phức tạp mà rất vẻ vang. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đây là
cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra
những cái mới mẻ, tốt tươi”4. Tư tưởng khoa học và nhân văn này
của Người đã được Đảng ta vận dụng, phát triển sáng tạo trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Mối quan hệ giữa xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hội chủ nghĩa mang tính tất yếu, khách quan, thống nhất, gắn bó
chặt chẽ, khăng khít với nhau, xâm nhập vào nhau, không thể tách
rời nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng là cơ sở để bảo vệ và là một “phương thức hữu hiệu
nhất” để bảo vệ, trong xây dựng có bảo vệ; bảo vệ tạo điều kiện
vững chắc cho xây dựng, trong bảo vệ có xây dựng. Bảo vệ là một
bộ phận cấu thành của xây dựng và ngược lại xây dựng là một bộ
phận của bảo vệ. Ở đâu có hoạt động xây dựng thì ở đó có hoạt
động bảo vệ và ngược lại.
Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Trên lĩnh vực chính trị là xây dựng và bảo vệ chính trị và hệ
thống chính trị trên cả diện rộng, chiều sâu, nhất là xây dựng và bảo
vệ cương lĩnh, đường lối chính trị, xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị. Trên lĩnh vực
kinh tế là xây dựng và bảo vệ lực lượng sản xuất, những cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cả xây dựng và bảo vệ quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhất là đấu tranh giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế hiện nay; giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, 19
an ninh, đối ngoại quân sự; giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại
quân sự với kinh tế…. Trên lĩnh vực văn hóa là xây dựng và bảo vệ
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; xây dựng những giá trị, chuẩn mực văn hóa xã hội chủ
nghĩa và đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng, những
phản giá trị văn hóa, nhất là những tàn dư của văn hóa phong kiến
lạc hậu và sự xâm nhập của cái gọi là “giá trị văn hóa phương
Tây”. Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại là xây dựng và
bảo vệ tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân,
xây dựng và bảo vệ lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng và bảo
vệ nền ngoại giao Việt Nam.
Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa thể hiện ở tất cả các cấp, các ngành, trên quy mô toàn
quốc, cũng như trên từng địa phương, cơ sở, từng đơn vị, doanh
nghiệp, trong nhận thức cũng như trong tổ chức hoạt động thực
tiễn. Đảng, Nhà nước và nhân dân, cả hệ thống chính trị là chủ thể
nhận thức và giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn, thể hiện ở
việc đề xuất giải pháp, biện pháp, phương thức xây dựng và tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng -
an ninh…. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của
mọi tổ chức, mọi người, mọi ngành, mọi cấp hoạt động trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, diễn ra một cách thường xuyên,
phổ biến ở mọi lúc, mọi nơi, không phân biệt ranh giới giữa tiền
tuyến và hậu phương, trong thời bình hay thời chiến.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhận thức
rõ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là, bảo vệ không chỉ là phòng ngừa
mà trước hết phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt,
nhất là phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế; đi đôi với
xây dựng phải đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, nạn tham
nhũng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, đấu tranh làm thất bại
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” và những biểu hiện “tự diễn biến”
Thành tựu to lớn ý nghĩa quan trọng, bao trùm trong
giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa là vừa phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời 20