Câu 1. Phân tích điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Giải thích vì sao hàng hóa
lại có hai thuộc tính?
*Khái niệm:
Sản xuất hàng hóa cách thức tổ chức sản xuất trong đó các sản phẩm làm ra dùng để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của một bộ phận hoặc đa số bộ phận người dân sử dụng, chứ không phải
để đáp ứng cho chính người trực tiếp sản xuất ra hàng hóa.
1) Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hra đời, tồn tại phát triển
dựa vào hai điều kiện
a) Phân công lao động hội sự phân chia lao động trong hội thành các ngành,
nghề khác nhau.
+ Kéo theo sự phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá lao động, dẫn đến chuyên
môn hóa sản xuất; mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một vài loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu
của cuộc sống đòi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó họ cần đến sản phẩm của nhau,
buộc phải trao đổi với nhau để thoả mãn nhu cầu của mỗi người.
+ Phân công lao động xã hội là cơ sở và tiền đề, là điều kiện cần của sản xuất hàng hoá. Phân
công lao động xã hội càng phát triển thì sản xuất và trao đổi hàng hoá càng mở rộng và đa dạng hơn.
b) Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. Sự tách biệt này do các quan
hệ sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định
người sở hữu liệu sản xuất người sở hữu sản phẩm lao động. Trong quá trình sản xuất những
người sản xuất quyền quyết định về việc sản xuất loại hàng hoá nào, số lượng bao nhiêu, bằng cách
nào và trao đổi với ai.
+ Chế độ tư hữu làm cho những người sản xuất hàng hoá độc lập với nhau, nhưng phân công
lao động lại làm cho hphụ thuộc vào nhau tạo thành mâu thuẫn. Muốn giải quyết mâu thuẫn này
phải thông qua trao đổi, mua-bán sản phẩm của nhau.
+ Như vậy, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất là điều kiện đủ để nền sản
xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
Trên đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện ấy
thì sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hoá.
2) Giải thích vì sao hàng hóa lại có hai thuộc tính
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tínhgiá trị sử dụng giá trị lao động sản xuất hàng hóa có
tính hai mặt. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng
- Khái niệm: Hàng hóa là một hoặc nhiều những sản phẩm của người lao động có thể giúp
thỏa nhu cầu nào đó của con người dùng đó để trao đổi với nhau để thể phục vụ nhu cầu
thiết yếu của cuộc sống.
- Vẽ sơ đồ:
a) Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên
môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động
kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Chẳng
hạn, lao động của thmay và lao động của thợ mộc hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động
cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
b)Lao động trừu tượnglao động của người sản xuất hàng hóa đã gạt bỏ hình thức biểu hiện
cụ thể của nó để quy về các chung đồng nhất, đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao sức cơ bắp, thần
kinh của con người. Nếu lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì lao động trừu tượng tạo ra giá trị
của hàng hóa. thể nói, giá trị của hàng hóa lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa,
kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Phần thêm nếu còn time:
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất nhân nh chất hội
của người sản xuất hàng hóa.
- Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào việc riêng của mỗi
người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ mang nh chất nhân và lao động cụ thể của
họ sẽ là biểu hiện của lao động tư nhân
- Đồng thời, lao động của mỗi người nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung, tức lao
động trừu ợng, thì luôn một phận của lao động hội thống nhất, nằm trong hệ thống phân
công lao động, nên lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Trong nền sản xuất hàng hóa, lao động tư nhân và lao động xã hội không phải là hai lao động
khác nhau, chỉ hai mặt đối lập của một lao động thống nhất chúng mâu thuẫn với nhau tạo
ra mẫu thuẫn cơ bản của “sản xuất hàng hóa” :
- Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không phù hợp
với nhu cầu của xã hội
- Hao phí lao động biệt của người sản xuất thể thấp hơn hoặc cao hơn hao phí lao
động mà xã hội có thể chấp nhận.
Câu 2. Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa. Lấy VD thực tiễn để minh họa giải thích vì sao
hàng hóa lại có hai thuộc tính.
1) Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá:
a) Khái niệm: Hàng hóa một hoặc nhiều những sản phẩm của người lao động thể giúp
thỏa nhu cầu nào đó của con người dùng đó để trao đổi với nhau để thể phục vụ nhu cầu
thiết yếu của cuộc sống.
b) Hai thuộc tính:
- Giá trị sử dụng:
+ Do công dụng thuộc tính tự nhiên của quy định. Công dụng đó nhằm thoả mãn một nhu
cầu nào đó của con người, thể nhu cầu cho tiêu ng nhân, cũng thể nhu cầu cho tiêu
dùng sản xuất.
+ Bất cứ hàng hoá nào cũng có một hoặc một số công dụng nhất định và chính công dụng đó làm
cho hàng hóa có giá trị sử dụng; giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần trong quá trình phát
triển của khoa học, kỹ thuật và lực lượng sản xuất (ngày xưa than đá chỉ được dùng để nấu, sưởi ấm;
khi bếp nấu (sưởi) ra đời, than đá được dùng làm chất đốt; về sau nó cũng được dùng làm nguyên liệu
cho công nghiệp hoá chất v.v).
+ Giá trị sử dụng hay công cụ của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết
định.Với ý nghĩa như vậy thì giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
+ Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nội dung vật chất của
của cải không kể hình thức hội của của cải đó như thế nào. Giá trị sử dụng dành cho người khác,
cho xã hội được thực hiện thông qua việc trao đổi mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng
là cái mang giá trị trao đổi.
- Giá trị hàng hoá: Muốn hiểu được giá trị của hàng hphải bắt đầu nghiên cứu giá trị trao
đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
+ dụ, 1m vải có giá trị trao đổi bằng 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác
nhau về chất, nhưng chúng thể trao đổi với nhau theo tỷ lệ nào đó do giữa chúng một cơ sở
chung cả vải thóc đều sản phẩm của lao động, đều lao động kết tinh trong đó. Nhờ
sở chung đó các hàng hoá thể trao đổi được với nhau. vậy, khi người ta trao đổi hàng hoá
cho nhau về thực chất trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong những hàng hóa ấy. Do vậy thể
nói, lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá là cơ sở chung cho vic trao đổi và nó tạo thành giá trị
của hàng hoá.
+ Như vậy, giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất ra hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa. Với ý nghĩa như vậy thì giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử.
2) Giải thích vì sao hàng hóa lại có hai thuộc tính (như câu 1)
3) VD: (các vật làm ra có công dụng ntn, nếu nó đáp ứng đc nhu cầu của xã hội thì chúng ta
sẽ mua nó, nếu như công dụng rất cao nhưng giá trị vượt ngưỡng khả năng thì cũng
không thể thực hiện việc trao đổi mua bán). Nho có rất nhiều giá trị sử dụng như cung cấp
vitamin, khoáng chất, tăng sức đề kháng cho cơ thể, chữa bệnh đường ruột và cả bệnh ung
thư nhưng
bán với giá 22 triệu thì không ai dám mua.
Câu 3. Phân tích khái niệm, ưu thế, khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Liên hệ thực tiễn nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
*Khái niệm KTTT:
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền kinh tế
hàng hóa phát triển cao, đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá
trình trao đổi, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Tất cả các quan hệ kinh tế trong qua trình tái sản xuất hội đều được tiền tệ hóa, các yếu tố
của sản xuất như: đất đai tài nguyền, vốn bằng tiền vốn vật chất, sức lao động, công nghệ
quản lý,... đều là đối tượng mua – bán và hàng hóa.
Ưu thế:
Một là: nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự ra hình thành ý tưởng mới
của các chủ thể kinh tế.
+ Các chủ thể luôn hội để tìm ra động lực cho sự sáng tạo của mình trong nền kinh tế thtrường.
+ phương thức hữu hiệu kích thích sự sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ => thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản
xuất, làm cho nền kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả.
+ Nền KTTT chấp nhận mọi ý tưởng sáng tạo mới trong thực hiện sản xuất kinh doanh quản lý,
tạo môi trường rộng mở cho các mô hình mới theo đà phát triển của xã hội.
Ví dụ: Công ty Grabbike đã tạo ra mô hình vận tải khách mới, sử dụng người có phương tiện đi lại cá
nhân và nền tảng công nghệ, làm sôi động mảng dịch vụ kinh doanh vận tải.
Hai là: nền kinh tế thị trường luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các
vùng miền cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới.
dụ: nhnền KTTT những tiềm năng về du lịch biển, than Quảng Ninh được phát huy một
cách hiệu quả, hay tiềm năng về sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long.
Ba là: nền kinh tế thị trường tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người,
từ đó thức đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
+ Nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời; người tiêu dùng
được thỏa mãn nhu cầu cũng như đáp ứng đầy đủ mọi chủng loại hàng hóa, dịch vụ.
Ví dụ: nhu cầu về nhu yếu phẩm của người dân Việt Nam hiện nay được thỏa mãn thông qua mua bán
rất dễ dàng so với những năm nước ta thực hiện chính sách kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Khuyết tật:
Thứ nhất, xét trên phạm vi toàn bnền sản xuất hội, nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
những rủi ro khủng khoảng
+ Sự khó khăn đối với các nền kinh tế thị trường thể hiện chỗ, các quốc gia rất khó dự báo chính
xác thời điểm xảy ra khung khoảng (đại dịch covid 19). Nền kinh tế thị trường k tự khắc phục những
rủi ro này. => Thách thức đối với nền kinh tế thị trường.
+ dụ: Cuộc Đại khủng hoảng Mỹ năm 1929 chính kết quả của sự tăng trưởng sản xuất quá
mức trong thập kỷ 1920 mà không có sự điều tiết hợp lý của chính phủ.
Thứ 2, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không
thể tái tạo, suy thái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
+ động lợi nhuận, các thủ thể sản xuất kinh doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để
chạy theo mục tiêu làm giàu, thậm chí phạm pháp.
Thứ 3, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong
hội.
+ Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ loại hình hoạt động tham gia thị trường,
cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu.
Do những khuyết tật của nền kinh tế thị trường nên trong thực tế không tồn tại 1 nền kinh tế thị
trường thần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế
thị trường. Khi đó nền kinh tế thị trường được gọi kinh tế thị trường sự điều tiết của nhà
nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
Liên hệ ở VN:
Những tháng cuối năm 2019 dịch bệnh xuất phát từ một đất nước kinh tế hùng mạnh như Mỹ,
dịch lan nhanh, rất nguy hiểm, cứ thế là tràn ra khắp thế giới. Tác động bởi sự suy thoái toàn cầu, đã
đảo lộn ảnh hưởng đến các nước, nhất vẫn hệ thống tài chính, ngân hàng của mỗi ớc. Tại
Việt nam, phần lớn hoạt động sản xuất phục vụ cho lĩnh vực xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong
đó các thị trường lớn như : Mỹ, EU, Nhật là những thị trường truyền thống nhập khẩu hàng sản xuất
từ Việt nam đang bị khủng hoảng, do mức sinh hoạt của người dân bị đảo lộn, đòi hỏi mọi người phải
cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buột bụng, mức độ mua hàng giảm, nhu cầu thanh toán yếu …Việt nam là
một trong những nước ảnh hưởng nặng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Nền KTTT không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái
môi trường tự nhiên, môi trường hội. Do phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền KTTT
luôn đặt mục tiêu lợi nhuận tối đa nền luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm n đối với nguồn lực tài nguyên,
môi trường, nguyên tắc đạo đức, gây ra sự cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, ô nhiễm môi trường,
xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức xã hội. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận mà các chủ thể
hoạt động sản xuất kinh doanh thể không tham gia vào các lĩnh vực thiết yếu cho nền kinh tế. Tự
nền KTTT không thể khắc phục được các khuyết tật này.
dụ: Thời sự Chuyển động 24h đưa ra nhiều dẫn chứng, nh ảnh về các công ty đã cắt giảm chi
tiêu, đầu cho các công trình xử nước thải xả thải trực tiếp ra sông suối gây ô nhiễm môi
trường, cuộc sống của người dân vùng ven gặp nhiều khó khăn, gây ra những hệ lụy lâu dài.
Ví dụ: 1 vùng xảy ra dịch bệnh nên bị thiếu thuốc men, nếu Nhà nước không can thiệp (quy định
mức giá tối đa, cấm đầu cơ tích trữ) thì các nhà buôn thuốc sẽ lợi dụng tình trạng này để đẩy giá bán
thuốc chữa bệnh, khẩu trang, vật tư y tế lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ không đủ tiền mua thuốc và
sẽ phải chết vì bệnh dịch.(liên hệ với dịch Covit-19)
Nền KTTT không tự khắc phục được hiện ợng phân hóa sâu sắc trong hội. Các quy luật
thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độloại hình hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác
động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu. Bản thân nền KTTT không thể tự khắc
phục được khía cạnh phân hóa có xu hướng sâu sắc.
dụ: Mỹ mặc GDP bình quân đầu người rất cao nhưng sự phân hóa giàu nghèo, địa vị
hội sâu sắc gây ra sự bất công, tha hóa đạo đức.
Liên hệ VN: bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ lệ hộ nghèo
tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt,
kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai.
Câu 4. Phân tích nội dung, yêu cầu, tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa. Ý
nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
1) Nội dung của quy luật giá trị.
+ Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá, ở đâu có sản xuất và trao
đổi hàng hóa thì ở đó tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị; quy định việc sản xuất và trao
đổi hàng hoá phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao
phí lao động cá biệt của mình phù hợp (nhỏ hơn hoặc bằng) với mức hao phí lao động hội cần thiết
để có thể tồn tại;
+ Trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá- tức là giá cả phải
dựa trên cơ sở giá trị. Quy luật giá trị buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo
“mệnh lệnh” của giá cả thị trường.
+ Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị.
Giá cả thị trường lên xuống tự phát xoay quanh giá trị hàng hoá (cung – cầu) và biểu hiện sự tác động
của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá.
2)Yêu cầu của quy luật giá trị
Yêu cầu chung của quy luật giá trị việc sản xuất trao đổi hàng hóa phải dựa trên sở
hao phí lao động xã hội cần thiết
3) Tác dụng của quy luật giá trị. Trong sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị có ba tác động.
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất lưu thông hàng hoá: Điều tiết sản xuất tức điều hoà, phân bổ
các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác lộng này của quy luật giá trị
thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung - cầu.
+ Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra lãi, bán
chạy. Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để tăng cung; ngược lại cầu
giảm vì giá tăng.
+ Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấp hơn giá
trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra quyết định ngừng hoặc
giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó là nhân tố làm cho cung tăng.
+ Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế người ta thường
gọi là “bão hòa”.
+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị thông qua giá cả thị trường. Sự biến động của giá cả
thị trường g có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho hàng
hoá giữa các vùng scân bằng nhất định. Như vậy, sự biến động của giá cả thị trường không những
chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực
lượng sản xuất xã hội phát triển:
+ Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó có mức hao phí lao
động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải được trao đổi theo mức hao
phí lao động xã hội cần thiết.
+ người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động
hội cần thiết, sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi.
+ Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp hoá sản xuất,
cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm v.v nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
+ Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người
sản xuất nào g làm như vậy cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng
lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu,
người nghèo:
+ Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện
sản xuất thuận lợi, trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp
hơn hao plao động hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm
liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong
kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
4) Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
- Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy luật giá trị
trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của nước ta hiện nay.
- Cần vận dụng cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước để phát huy vai trò tích cực của cơ
chế thị trường hạn chế mặt tiêu cực của để thúc đẩy sản xuất phát triển, đảm bảo cân bằng
hội.
- Quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yêu kém, kích thích các nhân tố tích
cực phát triển. Sự phân hóa giàu nghèo tạo ra sự bất bình đằng trong xã hội.
Câu 5. Phân tích hàng hóa sức lao động. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
1) Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt:
- Khái niệm: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn
tại trong thể, trong một con người đang sống, được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
- Điều kiện để trở thành hàng hóa:
Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình
và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
Vd: Trong hội lệ chiếm hữu phong kiến, người lệ người nông không được
tự do về mặt thân thể, khắc nghiệt nhất là trong hội chiếm hữu lệ, người lệ không được quyền
sở hữu chính bản thân mình, ngay cả quyền cơ bản nhất của con người là quyền được sống, được tồn
tại thì người nô lệ cũng không có quyền quyết định mà việc định đoạt đó là do chủ nô của anh ta.
Thứ hai, người lao động không liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức sản
xuất nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
Vd: Người nông nô người lệ sau khi được giải phóng khỏi hội phong kiến chế độ chiếm
hữu nô lệ thì họ đã có quyền tự do về mặt thân thể nhưng họ không có tư liệu sản xuất, không có của
cải để duy trì cuộc sống tối thiểu của mình nên họ phải bán sức lao động để duy trì cuộc sống.
2) Hai thuộc tính của hàng hoá SLĐ:
- Giá trị hàng hóa sức lao động:
+ Do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quy định.
+ Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp thông qua lượng giá trị của các
tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
→ Cấu thành giá trị của hàng hóa sức lao động sẽ bao gồm:
Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động
Phí tổn đào tạo người lao động
Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết nuôi con của người lao động.
+ Giá trị hàng hóa sức lao động mang tính lịch sử - tinh thần:
Tinh thần: người công nhân còn tinh thần về văn hóa, du lịch, vui chơi, giải
trí
Lịch sử: trình độ phát triển của mỗi quốc gia hay các yếu tố về điều kiện địa lý,
khí hậu, mức độ thỏa mãn nhu cầu,ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất sức
lao động
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:
+ Là thỏa mãn nhu cầu của người mua, tức là mua để tiêu dùng vào quá trình lao động.
VD: muốn được nhận vào một vị trí nhân viên giao dịch của một ngân hàng thì bạn phải thỏa
mãn các yêu cầu về trình độ ngoại ngữ, kĩ năng sử dụng phần mềm,…
+ Nhưng khác với hàng hóa thông thường, quá trình sử dụng hàng hóa sức lao động th
tạo
ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó chính là đặc điểm khác biệt của hàng hóa
sức lao động, là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
3) Ý nghĩa việc xuất hiện hàng hoá sức lao động:
- Là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản;
- Vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư, đó là lao động không công của người công nhân làm
thuê tạo ra trong quá trình sản xuất và bị nhà tư bản chiếm không;
- Vạch rõ bản chất cơ bản nhất của xã hội tư bản đó là quan hệ bóc lột của tư bản đối với lao
động làm thuê;
- Vạch rõ được các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư: Lợi nhuận, lợi nhuận bình quân,
lợi tức, địa tô …
- Vạch rõ được nguồn gốc, bản chất của tích lũy tư bản.
*Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này ở nước ta hiện nay:
- Đảng Nhà nước ta đã thừa nhận sức lao động hàng a cho nên việc xây dựng thị trường
sức lao động là tất yếu.
- Nói đến sức lao động hàng hóa thì phải nói đến nguồn nhân lực. Nói đến nguồn nhân lực thì
nhất định phải bàn về số lượng chất lượng, đặc biệt nhấn mạnh về chất lượng – chất lượng
về giáo dục đào tạo. Một trong những chính sách của Đảng Nhà nước ta đổi mới căn
bản hoàn thiện giáo dục đạo tạo, nghquyết hành chính,ng cao chất ợng nguồn
nhân lực, đáp ứng nhu cầu phát triển của hội hội nhập thị trường kinh tế quốc tế, cách
mạng công nghiệp 4.0,… Phần thêm nếu còn time:
- Cơ hội lựa chọn việc làm của người lao động ngày càng được mở rộng do chính sách
chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
- Các quan hệ lao động – việc làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự do phát huy năng
lực của mình và tự chủ hơn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ cung cầu lao
động trên thị trường.
- Khu vực kinh tế nhân được thừa nhận khuyến khích phát triển, mở ra khả năng to lớn
giải quyết việc làm tạo ra nhiều cơ hội cho người lao động bán sức lao động của mình
- Nhà nước cũng đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật: Luật Đầu ớc ngoài, Luật
Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu trong nước…, nên đã thúc đẩy các
yếu tố của các thị trường, trong đó thị trường sức lao động hình thành, mở ra tiềm ng mới
giải phóng các tiềm năng lao động và tạo mở việc làm.
Câu 6. Vì sao sức lao động là hàng hóa đặc biệt?
- Khái niệm: Sức lao động hay ng lực lao động toàn bộ những năng lực thể chất tinh
thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng
mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị
sử dụng.
- Giá trị hàng hóa sức lao động:
+ Do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quy định.
+ Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp thông qua lượng giá trị của các
tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
→ Cấu thành giá trị của hàng hóa sức lao động sẽ bao gồm:
Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động
Phí tổn đào tạo người lao động
Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết nuôi con của người lao động.
+ Giá trị hàng hóa sức lao động mang tính lịch sử - tinh thần:
Tinh thần: người công nhân còn tinh thần về văn hóa, du lịch, vui chơi, giải
trí
Lịch sử: trình độ phát triển của mỗi quốc gia hay các yếu tố về điều kiện địa lý,
khí hậu, mức độ thỏa mãn nhu cầu,ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất sức
lao động
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:
+ Là thỏa mãn nhu cầu của người mua, tức là mua để tiêu dùng vào quá trình lao động.
VD: muốn được nhận vào một vị trí nhân viên giao dịch của một ngân hàng thì bạn phải thỏa
mãn các yêu cầu về trình độ ngoại ngữ, kĩ năng sử dụng phần mềm,…
Sở dĩ sức lao động trở thành hàng hóa đặc biệt bởi vì sức lao động có những điểm
khác biệt sau:
+ Thứ nhất, khác với hàng hóa thông thường, quá trình sử dụng hàng hóa sức lao động có thể tạo
ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư. Như
vậy, hàng hoá sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó chính là đặc điểm khác biệt
của hàng hóa sức lao động, là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
+ Thứ hai, con người là chủ thể của hàng hoá sức lao động vậy, việc cung ứng sức lao động phụ
thuộc o những đặc điểm về tâm lý, kinh tế, hội của người lao động. Đối với hầu hết các thị trường
khác thì nhu cầu phụ thuộc vào con người với những đặc điểm của họ, nhưng đối với thị trường lao
động thì con người lại có ảnh hưởng quyết định tới cùng.
Câu 7. Phân ch phương pháp sản xuất gtrị thặng dư, từ đó rút ra ý nghĩa của việc nghiên
cứu các phương pháp này.
* Khái niệm: Giá trị thặng dư chính là giá trị dôi ra do công nhân làm thuê lao động sản sinh ra
vượt quá giá trị sức lao động của họ nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt hết.
1) Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối:
* Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Được áp dụng trong giai đoạn đầu của CNTB
- Giá trị thặng dư tuyệt đối: là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời
gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động cần
thiết không thay đổi.
Ví dụ : Giả sử ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4 giờ là
thời gian lao động thặng dư.
m' x 100% = 100%
Giả dụ nhà tư bản tăng cường bóc lột công nhân bằng cách kéo dài ngày lao động từ 8 giờ lên
10 giờ trong điều kiện thời gian cần thiết không thay đổi vẫn là 4 giờ, thì thời gian lao động thặng
dư sẽ từ 4 giờ tăng lên 6 giờ.
m' x 100% = 150%
Phương pháp ng cao trình độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày lao động một cách
tuyệt đối gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
[ THÊM: Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của chủ nghĩa bản, khi kỹ thuật còn thấp thì
phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân. Tuy nhiên bóc
lột giá trị thặng tuyệt đối gặp phải giới hạn về thể chất tinh thần, đồng thời vấp phải sức đấu
tranh ngày càng mạnh mẽ của công nhân nên với độ dài ngày lao động không thay đổi, nhà tư bản sẽ
nâng cao trình độ bóc lột bằng việc tăng cường độ lao động. Thực chất tăng cường độ lao động cũng
giống như kéo dài ngày lao động. Khi CNTB phát triển, trình độ tự giác của người công nhân được
nâng lên, họ đứng lên đấu tranh đòi tăng ơng, giảm giờ làm thế nhà bản đã sử dụng phương
pháp sản xuất GTTD tương đối.]
* Sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Được áp dụng trong giai đoạn sau, khi nền đại công
nghiệp cơ khí đã phát triển.
Giá trị thặng tương đối giá trị thặng thu được bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần
thiết trên sở tăng năng suất lao động hội do đó kéo dài một cách tương ng thời gian lao
động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động không thay đổi.
Ví dụ :
Nếu thời gian lao động cần thiết rút từ 4 giờ xuống còn 2 giờ, thì thời gian lao động thặng
sẽ tăng từ 4 giờ lên 6 giờ.
m' x 100% = 300%
Phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo
dài thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài của ngày lao động vẫn như cũ gọiphương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Để rút ngắn thời gian lao động cần thiết nhà tư bản phải tìm cách hạ thấp giá trị sức lao động
bằng cách hạ thấp giá trị tư liệu sinh hoạt. Chỉ có nâng cao năng suất lao động xã hội trong các ngành
sản xuất tư liệu sinh hoạt cho công nhân, cũng như trong các ngành sản xuất tư liệu sản xuất trực tiếp
liên quan đến các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt thì mới đạt được kết quả đó.
=> So sánh hai phương pháp:
Tiêu chí khác biệt
Sx GTTD tuyệt đối
Sx GTTD tương đối
Thời gian lao động tất yếu
Giữ nguyên
Giảm xuống
Giá trị sức lao động
Không đổi
Giảm xuống
Biện pháp
Kéo dài thời gian hoặc tăng
CĐLD
Tăng NSLĐ
Thời gian áp dụng chủ yếu
Giai đoạn đầu của CNTB
Giai đoạn đại công nghiệp
khí phát triển
*Giá trị thặng dư siêu ngạch:
Giá trị thặng siêu ngạch phần giá trị thặng phụ thêm xuất hiện khi doanh nghiệp áp dụng
công nghệ mới sớm hơn các doanh nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị
xã hội.
Giá trị thặng siêu ngạch động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà bản cải tiến kỹ thuật,
hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị của hàng
hoá.
Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối vì chúng có một cơ sở chung: Chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.
2) Ý nghĩa :
Nếu bỏ qua mục đích và tính chất của tư bản chủ nghĩa có thể thấy:
- Cả hai phương pháp sản xuất giá trị thặng sư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối đều có thể áp
dụng vào nền kinh tế. Tạo ra nhiều sản phẩm thặng cho hội là tiền đề cho việc tái sản xuất
mở rộng, phát triển quy mô, tăng trưởng kinh tế.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng siêu ngạch có tác dụng mạnh
mẽ kích thích cá nhân và tập thể cải tiến kĩ thuật, áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất;
cải tiến quản sản xuất; nâng cao năng suất lao động; lực lượng sản xuất tiến bộ phát triển
nhanh.
Phần thêm nếu còn time:
- Quá trình nghiên cứu 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng cho thấy khi gạt bỏ mục đích tính
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì sản xuất giá trị thặng dư chính là khoa học sử dụng lao động
hiệu quả nhất bất kỳ hội nào cũng cần phải quan m. Bởi vậy, các phương pháp sản xuất
giá trị thặng thể vận dụng trong các doanh nghiệp nước ta nhằm kích thích sản xuất tăng
năng suất lao động hội, sử dụng thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất.
- Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị
thặng gợi ra cho nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải thúc đẩy phát triển
kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần
tận dụng triệt để các nguồn lực nhất là lao động sản xuất kinh doanh. Về bản lâu dài cần phải
coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, đẩy manh công nghiệp hoa hiện đại hóa nền kinh tế
quốc dân là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội.
- Quy luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trò to lớn của đem lại những tiến bộ vượt bậc và thành
tựu kinh tế cho CNTB. Nước ta nói riêng và các nước XHCN nói chung cần nỗ lực không ngừng
trên con đường của nh để xây dựng XHCN trên thế giới. Riêng nước ta, đang trong giai đoạn
quá độ lên CNXH từ chế độ PK bỏ qua giai đoạn TBCN với xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc
hậu chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho
CNXH. Vì vậy, chúng ta phải học tập những thành tựu mà CNTB đã đạt được trong đó quan tâm
đặc biệt đến quy luật kinh tế bản của giá trị thặng dư, sửa chữa quan niệm sai lầm trước
kia trong xây dựng kinh tế.
Câu 8. Phân tích căn cứ, nội dung, ý nghĩa của việc phân chia bản thành các cặp phạm trù:
bản bất biến - bản khả biến, bản cđịnh - bản lưu động. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu vấn đề này.
- Khái niệm bản: giá trị mang lại giá trị thặng bằng cách bóc lột lao động làm thuê. Nếu
hiểu theo nghĩa này thì tư bản là một phạm trù lịch sử biểu hiện quan hệ sản xuất giữa giai cấp tư
bản và giai cấp công nhân làm thuê.
1) Tư bản bất biến - tư bản khả biến a)
Căn cứ:
- Dựa vào vai trò khác nhau của những bộ phận tư bản trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Trong đó,
tư bản bất biến đóng vai trò là điều kiện còn tư bản khả biến đóng vai trò quyết định giá trị thặng dư.
b) Nội dung:
Tư bản bất biến (c):
+ Khái niệm: là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất (nhà xưởng, máy móc, thiết bị,
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ…) giá trị của nó được lao động cụ thể của người công nhân
chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm mới, tức là giá trị không thay đổi về lượng trong quá trình sản xuất.
+ Không tạo ra giá trị thặng dư nhưng là điều kiện cần thiết để quá trình tạo ra giá trị thặng dư được
diễn ra
+ Phân loại: c được chia thành C
1
và C
2
,
C
1
tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng,
C
2
tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ…
+ Ví dụ: Để sản xuất sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền là 50 USD để mua 50 kg bông, 3 USD
hao mòn máy móc để kéo 50 kg bông thành sợi. Tư bản này gọi là tư bản bất biến
Tư bản khả biến (v):
+ Khái niệm: bộ phận bản tồn tại dưới hình thái sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông
qua lao động trừu tượng của công nhân tăng lên, tức biến đổi về dố lượng trong quá trình sản xuất.
+ Là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư (m). - Kí hiệu: V
+ dụ: Nhà tư bản bỏ ra 10 USD để thuê công nhân lao động trong 8 giờ nhưng chỉ cần 4 giờ
đồng hồ, nhà tư bản đã thu về 10 USD từ sản phẩm người công nhân làm ra.Vượt qua điểm bù lại giá
trị sức lao động này, người công nhân bắt đầu tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản
c) Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
- Sự phân chia này đã vạch rõ nguồn gốc thực sự của giá trị thặng do tư bản khả biến
tạo ra, còn bản bất biến tuy không phải nguồn gốc của giá trị thặng nhưng điều kiện cần
thiết không thể thiếu được.
- Như vậy, Mác đã chỉ ra vai trò khác nhau của các bộ phận bản trong quá trình hình
thành giá trị nhờ sự phân chia này. Từ đó làm rõ bản chất bóc lột của CNTB. 2) Tư bản cố định - tư
bản lưu động a) Căn cứ:
- Căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức chu chuyển về mặt giá trị của các bộ phận
tư bản ở trong sản xuất.
b) Nội dung:
bản sản xuất gồm nhiều bộ phận thời gian chu chuyển khác nhau về mặt giá trị, do đó
ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức
(đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản
xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu dộng.
Tư bản cố định (C
1
)
+ Khái niệm: là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, V.V.
tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết mệt lần vào sản phẩm
mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.
+ Dẫn tới hao mòn:
Hao mòn hữu hình: sự mất dần về GT và GTSD do tác động tự nhiên gây ra.
Hao mòn vô hình: sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị do sựu tăng lên NSLD để sản xuất TLLĐ.
+ Ví dụ: Để sản xuất ra đồ gỗ mỹ nghệ, nhà tư bản phải mua máy móc, thiết bị nhà xưởng (máy cưa,
máy xẻ, máy cắt, bào, đục…)
Tư bản lưu động (C
2
+V)
+ Khái niệm: bộ phận bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ,
sức lao động, v.v.. Giá trị của nó được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất,
khi hàng hóa được bán xong.
+ Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động làm cho tỉ suất và khối lượng giá trị thặng
hàng năm tăng lên.
+ dụ: Trong xưởng sản xuất sợi, nhà bản bỏ ra 100 USD mua bông 20 USD thuê công
nhân dệt sợi làm 8 giờ. Bình thường, người công nhân làm trong 4 giờ, nhà bản đã thu về đủ tiền
vốn và tỉ suất giá trị thặng dư là 100%. Nhưng khi áp dụng tiến bộ khí thuật, đẩy nhanh quá trình chu
chuyển, nhà tư bản thể thu hồi được vốn sau 3 giờ làm việc của công nhântỉ suất giá trị thặng
dư lúc này là 167 %.
c) Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
- Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý kinh
tế. Nó là cơ sở để quản lý, sử dụng vốn cố định và vốn lưu động một cách hiệu quả.
- Việc nghiên cứu 2 phạm trù này giúp ta hiểu được tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là
một biện pháp quan trọng để ng quỹ khấu hao tài sản cố định làm cho lượng bản sử dụng tăng
lên, tránh được thiệt hại hao mòn. Nhờ đó mà có điều kiện đổi mới và nâng cấp thiết bị nhanh chóng
hơn.
Câu 9. Phân tích tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là
mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự tất yếu
đó xuất phát từ những lí do cơ bản sau đây:
- Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với tính
quy luật phát triển khách quan
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Khi có đủ các
điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hóa tự hình thành. Sự phát triển của nền kinh
tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới trình độ nền kinh tế thị trường. Đó tính quy luật. VN,
các điều kiện cho sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa luôn tồn tại. Do đó, sự hình thành kinh
tế thị trường ở VN là tất yếu khách quan.
Kinh tế thị trường sẽ và còn tồn tại lâu dài ở nước ta
Đây là 1 tất yếu khách quan và là cần thiết cho 1 cuộc xây dựng CNXH
Nền sản xuất hàng hóa không mất đi, việc sản xuất phân phối phải được thông qua th
trường, thông qua quan h hàng-tiền, giá cả-giá trị.
- Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường thức đẩy phát triển
Thực tiễn trên thế giới VN cho thấy kinh tế thị trường phương thức phân bố nguồn
lực hiệu quả mà loài người đã đạt được so với các mô hình kinh tế phi thị trường
Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có
hiệu quả, Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế luôn phát triển theo hướng năng động,
kích thích tiến bộ kỹ thuật công nghệ, nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm giá
thành hạ
Sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nhanh hiệu quả, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường cần chú ý tới những thất bại và khuyết tật
của thị trường để có sự can thiệp, điều tiết kịp thời của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, do đó mô hình kinh tế thị trường phù hợp với nguyện vọng của nhân dân mong
muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trên thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường, nhưng việc phát triển mà dẫn tới dân
không giàu, nước không mạnh, không dân chủ, kém n minh thì không ai mong muốn. Thế giới cũng
vậy nhân dân VN cũng vậy. Cho nên, phấn đấu mục tiêu dân giàu nước mạnh, hội dân chủ,
công bằng, n minh khát vọng của nhân dân VN. Để thực hiện a khát vọng như vậy, việc thực
hiện kinh tế thị trường mà trong đó hướng tới giá trị mới, do đó, là tất yếu khách quan.
Kinh tế thị trường không phải là phạm trù riêng của CNTB, nó có tính độc lập tương
đối và phát triển theo quy luật riêng có của nó. Dù nó tồn tại ở đâu, thời điểm nào trong lịch sử, xong
sự tồn tại trong thực tế sẽ không thể 1 nền kinh tế nào trìu tượng, chung cho mọi hình thái
kinh tế xã hội, cho mọi quốc gia, dân tộc.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phá vỡ tính tự cấp, tự túc
của nền kinh tế; đẩy mạnh nhân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề; tạo việc làm cho người
lao động; thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, khuyến khích ứng dựng thuật công nghệ
mới đảm bảo năng suất lao động, tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ góp phần
từng bước cải thiện nâng cao đời sống nhân dân; thúc đẩy tích tụ tập trung sản xuất, mở rộng
giao lưu kinh tế giữa các vùng miền trong ớc với nước ngoài; khuyến khích tính năng dộng,
sáng tạo trong các hoạt động kinh tế; tạo cơ chế phân bố sự dụng các nguồn lực hội một cách
hợp lý, tiết kiệm…
Có thể xem phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là bước
đi quan trọng nhắm xã hội hóa nền sản xuất xã hội, là bước đi tất yếu của sự phát triển từ sản xuất nhỉ
lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên CNXH.
Câu 10. Phân tích đặc trưng bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
- Khái niệm : Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các
quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó
dân giàu nước manh, dân chủ , công bằng, văn minh, có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Các đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở VN:
1. Về mục tiêu:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát triển lực lượng sản
xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện
“dân giàu , nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”.
Đây là sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa. Mục đích đó bắt nguồn từ cơ sở kinh tế - hội của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và là sự phản ánh mục tiêu của chính trị - xã hội mà nhân dân ta đang phấn đấu dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặt khác, đi đôi với việc phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại, quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam còn gắn với xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp nhằm ngày càng hoàn thiện cơ sở kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội.
2. Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức

Preview text:

Câu 1. Phân tích điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Giải thích vì sao hàng hóa
lại có hai thuộc tính? *Khái niệm:
Sản xuất hàng hóa là cách thức tổ chức sản xuất mà trong đó các sản phẩm làm ra dùng để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của một bộ phận hoặc đa số bộ phận người dân sử dụng, chứ không phải
để đáp ứng cho chính người trực tiếp sản xuất ra hàng hóa.
1) Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá ra đời, tồn tại và phát triển dựa vào hai điều kiện a)
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành, nghề khác nhau.
+ Kéo theo sự phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá lao động, dẫn đến chuyên
môn hóa sản xuất; mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một vài loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu
của cuộc sống đòi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó họ cần đến sản phẩm của nhau,
buộc phải trao đổi với nhau để thoả mãn nhu cầu của mỗi người.
+ Phân công lao động xã hội là cơ sở và tiền đề, là điều kiện cần của sản xuất hàng hoá. Phân
công lao động xã hội càng phát triển thì sản xuất và trao đổi hàng hoá càng mở rộng và đa dạng hơn. b)
Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. Sự tách biệt này do các quan hệ sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định
người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động. Trong quá trình sản xuất những
người sản xuất có quyền quyết định về việc sản xuất loại hàng hoá nào, số lượng bao nhiêu, bằng cách
nào và trao đổi với ai.
+ Chế độ tư hữu làm cho những người sản xuất hàng hoá độc lập với nhau, nhưng phân công
lao động lại làm cho họ phụ thuộc vào nhau tạo thành mâu thuẫn. Muốn giải quyết mâu thuẫn này
phải thông qua trao đổi, mua-bán sản phẩm của nhau.
+ Như vậy, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất là điều kiện đủ để nền sản
xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
Trên đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện ấy
thì sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hoá.
2) Giải thích vì sao hàng hóa lại có hai thuộc tính
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị vì lao động sản xuất hàng hóa có
tính hai mặt. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng
- Khái niệm: Hàng hóa là một hoặc nhiều những sản phẩm của người lao động có thể giúp
thỏa nhu cầu nào đó của con người và dùng đó để trao đổi với nhau để có thể phục vụ nhu cầu
thiết yếu của cuộc sống. - Vẽ sơ đồ:
a) Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và
kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Chẳng
hạn, lao động của thợ may và lao động của thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động
cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
b)Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa đã gạt bỏ hình thức biểu hiện
cụ thể của nó để quy về các chung đồng nhất, đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao sức cơ bắp, thần
kinh của con người. Nếu lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì lao động trừu tượng tạo ra giá trị
của hàng hóa. Có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa,
kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Phần thêm nếu còn time:
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội
của người sản xuất hàng hóa. -
Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi
người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ mang tính chất tư nhân và lao động cụ thể của
họ sẽ là biểu hiện của lao động tư nhân -
Đồng thời, lao động của mỗi người nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung, tức lao
động trừu tượng, thì nó luôn là một phận của lao động xã hội thống nhất, nằm trong hệ thống phân
công lao động, nên lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Trong nền sản xuất hàng hóa, lao động tư nhân và lao động xã hội không phải là hai lao động
khác nhau, mà chỉ là hai mặt đối lập của một lao động thống nhất và chúng mâu thuẫn với nhau tạo
ra mẫu thuẫn cơ bản của “sản xuất hàng hóa” : -
Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không phù hợp
với nhu cầu của xã hội -
Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể thấp hơn hoặc cao hơn hao phí lao
động mà xã hội có thể chấp nhận.
Câu 2. Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa. Lấy VD thực tiễn để minh họa và giải thích vì sao
hàng hóa lại có hai thuộc tính.
1) Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá:
a) Khái niệm: Hàng hóa là một hoặc nhiều những sản phẩm của người lao động có thể giúp
thỏa nhu cầu nào đó của con người và dùng đó để trao đổi với nhau để có thể phục vụ nhu cầu
thiết yếu của cuộc sống. b) Hai thuộc tính: - Giá trị sử dụng:
+ Do công dụng và thuộc tính tự nhiên của nó quy định. Công dụng đó nhằm thoả mãn một nhu
cầu nào đó của con người, có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, cũng có thể là nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất.
+ Bất cứ hàng hoá nào cũng có một hoặc một số công dụng nhất định và chính công dụng đó làm
cho hàng hóa có giá trị sử dụng; giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần trong quá trình phát
triển của khoa học, kỹ thuật và lực lượng sản xuất (ngày xưa than đá chỉ được dùng để nấu, sưởi ấm;
khi bếp nấu (sưởi) ra đời, than đá được dùng làm chất đốt; về sau nó cũng được dùng làm nguyên liệu
cho công nghiệp hoá chất v.v).
+ Giá trị sử dụng hay công cụ của hàng hoá là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết
định.Với ý nghĩa như vậy thì giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
+ Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là nội dung vật chất của
của cải không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào. Giá trị sử dụng dành cho người khác,
cho xã hội được thực hiện thông qua việc trao đổi mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng
là cái mang giá trị trao đổi.
- Giá trị hàng hoá: Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải bắt đầu nghiên cứu giá trị trao
đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
+ Ví dụ, 1m vải có giá trị trao đổi bằng 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác
nhau về chất, nhưng chúng có thể trao đổi với nhau theo tỷ lệ nào đó là do giữa chúng có một cơ sở
chung là cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ
sở chung đó mà các hàng hoá có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy, khi người ta trao đổi hàng hoá
cho nhau về thực chất là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong những hàng hóa ấy. Do vậy có thể
nói, lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá là cơ sở chung cho việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hoá.
+ Như vậy, giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất ra hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa. Với ý nghĩa như vậy thì giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử.
2) Giải thích vì sao hàng hóa lại có hai thuộc tính (như câu 1)
3) VD: (các vật làm ra có công dụng ntn, nếu nó đáp ứng đc nhu cầu của xã hội thì chúng ta
sẽ mua nó, nếu như công dụng rất cao nhưng giá trị vượt ngưỡng khả năng thì cũng
không thể thực hiện việc trao đổi mua bán). Nho có rất nhiều giá trị sử dụng như cung cấp
vitamin, khoáng chất, tăng sức đề kháng cho cơ thể, chữa bệnh đường ruột và cả bệnh ung thư nhưng
bán với giá 22 triệu thì không ai dám mua.
Câu 3. Phân tích khái niệm, ưu thế, khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Liên hệ thực tiễn nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. *Khái niệm KTTT:
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền kinh tế
hàng hóa phát triển cao, ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá
trình trao đổi, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Tất cả các quan hệ kinh tế trong qua trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hóa, các yếu tố
của sản xuất như: đất đai và tài nguyền, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và
quản lý,... đều là đối tượng mua – bán và hàng hóa. Ưu thế:
Một là: nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự ra hình thành ý tưởng mới
của các chủ thể kinh tế.
+ Các chủ thể luôn có cơ hội để tìm ra động lực cho sự sáng tạo của mình trong nền kinh tế thị trường.
+ Là phương thức hữu hiệu kích thích sự sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ => thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản
xuất, làm cho nền kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả.
+ Nền KTTT chấp nhận mọi ý tưởng sáng tạo mới trong thực hiện sản xuất kinh doanh và quản lý,
tạo môi trường rộng mở cho các mô hình mới theo đà phát triển của xã hội.
Ví dụ: Công ty Grabbike đã tạo ra mô hình vận tải khách mới, sử dụng người có phương tiện đi lại cá
nhân và nền tảng công nghệ, làm sôi động mảng dịch vụ kinh doanh vận tải.
Hai là: nền kinh tế thị trường luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các
vùng miền cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới.
Ví dụ: nhờ nền KTTT mà những tiềm năng về du lịch biển, than ở Quảng Ninh được phát huy một
cách hiệu quả, hay tiềm năng về sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long.
Ba là: nền kinh tế thị trường tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người,
từ đó thức đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
+ Nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời; người tiêu dùng
được thỏa mãn nhu cầu cũng như đáp ứng đầy đủ mọi chủng loại hàng hóa, dịch vụ.
Ví dụ: nhu cầu về nhu yếu phẩm của người dân Việt Nam hiện nay được thỏa mãn thông qua mua bán
rất dễ dàng so với những năm nước ta thực hiện chính sách kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Khuyết tật:
Thứ nhất, xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
những rủi ro khủng khoảng
+ Sự khó khăn đối với các nền kinh tế thị trường thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự báo chính
xác thời điểm xảy ra khung khoảng (đại dịch covid 19). Nền kinh tế thị trường k tự khắc phục những
rủi ro này. => Thách thức đối với nền kinh tế thị trường.
+ Ví dụ: Cuộc Đại khủng hoảng ở Mỹ năm 1929 chính là kết quả của sự tăng trưởng sản xuất quá
mức trong thập kỷ 1920 mà không có sự điều tiết hợp lý của chính phủ.
Thứ 2, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không
thể tái tạo, suy thái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
+ Vì động cơ lợi nhuận, các thủ thể sản xuất kinh doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để
chạy theo mục tiêu làm giàu, thậm chí phạm pháp.
Thứ 3, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong xã hội.
+ Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham gia thị trường,
cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu.
➢ Do những khuyết tật của nền kinh tế thị trường nên trong thực tế không tồn tại 1 nền kinh tế thị
trường thần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế
thị trường. Khi đó nền kinh tế thị trường được gọi là kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước hay nền kinh tế hỗn hợp. Liên hệ ở VN:
Những tháng cuối năm 2019 dịch bệnh xuất phát từ một đất nước kinh tế hùng mạnh như Mỹ,
dịch lan nhanh, rất nguy hiểm, cứ thế là tràn ra khắp thế giới. Tác động bởi sự suy thoái toàn cầu, đã
đảo lộn và ảnh hưởng đến các nước, rõ nhất vẫn là hệ thống tài chính, ngân hàng của mỗi nước. Tại
Việt nam, phần lớn hoạt động sản xuất phục vụ cho lĩnh vực xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong
đó các thị trường lớn như : Mỹ, EU, Nhật là những thị trường truyền thống nhập khẩu hàng sản xuất
từ Việt nam đang bị khủng hoảng, do mức sinh hoạt của người dân bị đảo lộn, đòi hỏi mọi người phải
cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buột bụng, mức độ mua hàng giảm, nhu cầu thanh toán yếu …Việt nam là
một trong những nước ảnh hưởng nặng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Nền KTTT không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái
môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Do phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền KTTT
luôn đặt mục tiêu lợi nhuận tối đa nền luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên,
môi trường, nguyên tắc đạo đức, gây ra sự cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, ô nhiễm môi trường,
xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức xã hội. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận mà các chủ thể
hoạt động sản xuất kinh doanh có thể không tham gia vào các lĩnh vực thiết yếu cho nền kinh tế. Tự
nền KTTT không thể khắc phục được các khuyết tật này.
Ví dụ: Thời sự Chuyển động 24h đưa ra nhiều dẫn chứng, hình ảnh về các công ty đã cắt giảm chi
tiêu, đầu tư cho các công trình xử lý nước thải mà xả thải trực tiếp ra sông suối gây ô nhiễm môi
trường, cuộc sống của người dân vùng ven gặp nhiều khó khăn, gây ra những hệ lụy lâu dài.
Ví dụ: 1 vùng xảy ra dịch bệnh nên bị thiếu thuốc men, nếu Nhà nước không can thiệp (quy định
mức giá tối đa, cấm đầu cơ tích trữ) thì các nhà buôn thuốc sẽ lợi dụng tình trạng này để đẩy giá bán
thuốc chữa bệnh, khẩu trang, vật tư y tế lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ không đủ tiền mua thuốc và
sẽ phải chết vì bệnh dịch.(liên hệ với dịch Covit-19)
Nền KTTT không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong xã hội. Các quy luật
thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác
động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu. Bản thân nền KTTT không thể tự khắc
phục được khía cạnh phân hóa có xu hướng sâu sắc.
Ví dụ: ở Mỹ mặc dù GDP bình quân đầu người rất cao nhưng có sự phân hóa giàu nghèo, địa vị xã
hội sâu sắc gây ra sự bất công, tha hóa đạo đức.
Liên hệ ở VN: bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ lệ hộ nghèo
tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt,
kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai.
Câu 4. Phân tích nội dung, yêu cầu, tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa. Ý
nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
1) Nội dung của quy luật giá trị.
+ Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá, ở đâu có sản xuất và trao
đổi hàng hóa thì ở đó tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị; quy định việc sản xuất và trao
đổi hàng hoá phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao
phí lao động cá biệt của mình phù hợp (nhỏ hơn hoặc bằng) với mức hao phí lao động xã hội cần thiết để có thể tồn tại;
+ Trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá- tức là giá cả phải
dựa trên cơ sở giá trị. Quy luật giá trị buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo
“mệnh lệnh” của giá cả thị trường.
+ Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị.
Giá cả thị trường lên xuống tự phát xoay quanh giá trị hàng hoá (cung – cầu) và biểu hiện sự tác động
của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá.
2)Yêu cầu của quy luật giá trị
Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở
hao phí lao động xã hội cần thiết
3) Tác dụng của quy luật giá trị. Trong sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị có ba tác động.
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ
các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác lộng này của quy luật giá trị
thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung - cầu.
+ Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có lãi, bán
chạy. Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để tăng cung; ngược lại cầu giảm vì giá tăng.
+ Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấp hơn giá
trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra quyết định ngừng hoặc
giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó là nhân tố làm cho cung tăng.
+ Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế người ta thường gọi là “bão hòa”.
+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị thông qua giá cả thị trường. Sự biến động của giá cả
thị trường g có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho hàng
hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định. Như vậy, sự biến động của giá cả thị trường không những
chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực
lượng sản xuất xã hội phát triển:
+ Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó có mức hao phí lao
động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải được trao đổi theo mức hao
phí lao động xã hội cần thiết.
+ người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã
hội cần thiết, sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi.
+ Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,
cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm v.v nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
+ Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người
sản xuất nào g làm như vậy cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng
lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người nghèo:
+ Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện
sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp
hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư
liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong
kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
4) Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
- Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy luật giá trị
trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của nước ta hiện nay.
- Cần vận dụng cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước để phát huy vai trò tích cực của cơ
chế thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của nó để thúc đẩy sản xuất phát triển, đảm bảo cân bằng xã hội.
- Quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yêu kém, kích thích các nhân tố tích
cực phát triển. Sự phân hóa giàu nghèo tạo ra sự bất bình đằng trong xã hội.
Câu 5. Phân tích hàng hóa sức lao động. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
1) Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt:
- Khái niệm: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn
tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
- Điều kiện để trở thành hàng hóa:
Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình
và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
Vd: Trong xã hội nô lệ và chiếm hữu phong kiến, người nô lệ và người nông nô không được
tự do về mặt thân thể, khắc nghiệt nhất là trong xã hội chiếm hữu nô lệ, người nô lệ không được quyền
sở hữu chính bản thân mình, ngay cả quyền cơ bản nhất của con người là quyền được sống, được tồn
tại thì người nô lệ cũng không có quyền quyết định mà việc định đoạt đó là do chủ nô của anh ta.
Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức sản
xuất nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
Vd: Người nông nô và người nô lệ sau khi được giải phóng khỏi xã hội phong kiến và chế độ chiếm
hữu nô lệ thì họ đã có quyền tự do về mặt thân thể nhưng họ không có tư liệu sản xuất, không có của
cải để duy trì cuộc sống tối thiểu của mình nên họ phải bán sức lao động để duy trì cuộc sống.
2) Hai thuộc tính của hàng hoá SLĐ:
- Giá trị hàng hóa sức lao động:
+ Do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quy định.
+ Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp thông qua lượng giá trị của các
tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
→ Cấu thành giá trị của hàng hóa sức lao động sẽ bao gồm:
▪ Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động
▪ Phí tổn đào tạo người lao động
▪ Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết nuôi con của người lao động.
+ Giá trị hàng hóa sức lao động mang tính lịch sử - tinh thần:
▪ Tinh thần: người công nhân còn có tinh thần về văn hóa, du lịch, vui chơi, giải trí
▪ Lịch sử: trình độ phát triển của mỗi quốc gia hay các yếu tố về điều kiện địa lý,
khí hậu, mức độ thỏa mãn nhu cầu,… ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất sức lao động
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:
+ Là thỏa mãn nhu cầu của người mua, tức là mua để tiêu dùng vào quá trình lao động.
VD: muốn được nhận vào một vị trí nhân viên giao dịch của một ngân hàng thì bạn phải thỏa
mãn các yêu cầu về trình độ ngoại ngữ, kĩ năng sử dụng phần mềm,…
+ Nhưng khác với hàng hóa thông thường, quá trình sử dụng hàng hóa sức lao động có thể tạo
ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó chính là đặc điểm khác biệt của hàng hóa
sức lao động, là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
3) Ý nghĩa việc xuất hiện hàng hoá sức lao động:
- Là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản;
- Vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư, đó là lao động không công của người công nhân làm
thuê tạo ra trong quá trình sản xuất và bị nhà tư bản chiếm không;
- Vạch rõ bản chất cơ bản nhất của xã hội tư bản đó là quan hệ bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê;
- Vạch rõ được các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư: Lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, lợi tức, địa tô …
- Vạch rõ được nguồn gốc, bản chất của tích lũy tư bản.
*Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này ở nước ta hiện nay:
- Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sức lao động là hàng hóa cho nên việc xây dựng thị trường
sức lao động là tất yếu.
- Nói đến sức lao động hàng hóa thì phải nói đến nguồn nhân lực. Nói đến nguồn nhân lực thì
nhất định phải bàn về số lượng và chất lượng, đặc biệt nhấn mạnh về chất lượng – chất lượng
về giáo dục đào tạo. Một trong những chính sách của Đảng và Nhà nước ta là đổi mới căn
bản và hoàn thiện giáo dục đạo tạo, nghị quyết hành chính,… nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội hội nhập thị trường kinh tế quốc tế, cách
mạng công nghiệp 4.0,… Phần thêm nếu còn time:
- Cơ hội lựa chọn việc làm của người lao động ngày càng được mở rộng do chính sách và cơ
chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
- Các quan hệ lao động – việc làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự do phát huy năng
lực của mình và tự chủ hơn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ cung cầu lao
động trên thị trường.
- Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển, mở ra khả năng to lớn
giải quyết việc làm tạo ra nhiều cơ hội cho người lao động bán sức lao động của mình
- Nhà nước cũng đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật: Luật Đầu tư nước ngoài, Luật
Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước…, nên đã thúc đẩy các
yếu tố của các thị trường, trong đó thị trường sức lao động hình thành, mở ra tiềm năng mới
giải phóng các tiềm năng lao động và tạo mở việc làm.
Câu 6. Vì sao sức lao động là hàng hóa đặc biệt?
- Khái niệm: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh
thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng
mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
- Giá trị hàng hóa sức lao động:
+ Do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quy định.
+ Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp thông qua lượng giá trị của các
tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
→ Cấu thành giá trị của hàng hóa sức lao động sẽ bao gồm:
▪ Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động
▪ Phí tổn đào tạo người lao động
▪ Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết nuôi con của người lao động.
+ Giá trị hàng hóa sức lao động mang tính lịch sử - tinh thần:
▪ Tinh thần: người công nhân còn có tinh thần về văn hóa, du lịch, vui chơi, giải trí
▪ Lịch sử: trình độ phát triển của mỗi quốc gia hay các yếu tố về điều kiện địa lý,
khí hậu, mức độ thỏa mãn nhu cầu,… ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất sức lao động
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:
+ Là thỏa mãn nhu cầu của người mua, tức là mua để tiêu dùng vào quá trình lao động.
VD: muốn được nhận vào một vị trí nhân viên giao dịch của một ngân hàng thì bạn phải thỏa
mãn các yêu cầu về trình độ ngoại ngữ, kĩ năng sử dụng phần mềm,…
Sở dĩ sức lao động trở thành hàng hóa đặc biệt bởi vì sức lao động có những điểm khác biệt sau:
+ Thứ nhất, khác với hàng hóa thông thường, quá trình sử dụng hàng hóa sức lao động có thể tạo
ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư. Như
vậy, hàng hoá sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó chính là đặc điểm khác biệt
của hàng hóa sức lao động, là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
+ Thứ hai, con người là chủ thể của hàng hoá sức lao động vì vậy, việc cung ứng sức lao động phụ
thuộc vào những đặc điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao động. Đối với hầu hết các thị trường
khác thì nhu cầu phụ thuộc vào con người với những đặc điểm của họ, nhưng đối với thị trường lao
động thì con người lại có ảnh hưởng quyết định tới cùng.
Câu 7. Phân tích phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, từ đó rút ra ý nghĩa của việc nghiên
cứu các phương pháp này.
* Khái niệm: Giá trị thặng dư chính là giá trị dôi ra do công nhân làm thuê lao động sản sinh ra
vượt quá giá trị sức lao động của họ nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt hết.
1) Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối:
* Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Được áp dụng trong giai đoạn đầu của CNTB
- Giá trị thặng dư tuyệt đối: là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời
gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động cần
thiết không thay đổi.
Ví dụ : Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4 giờ là
thời gian lao động thặng dư. m' x 100% = 100%
Giả dụ nhà tư bản tăng cường bóc lột công nhân bằng cách kéo dài ngày lao động từ 8 giờ lên
10 giờ trong điều kiện thời gian cần thiết không thay đổi vẫn là 4 giờ, thì thời gian lao động thặng
dư sẽ từ 4 giờ tăng lên 6 giờ. m' x 100% = 150%
Phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày lao động một cách
tuyệt đối gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
[ THÊM: Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của chủ nghĩa tư bản, khi kỹ thuật còn thấp thì
phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân. Tuy nhiên bóc
lột giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải giới hạn về thể chất và tinh thần, đồng thời vấp phải sức đấu
tranh ngày càng mạnh mẽ của công nhân nên với độ dài ngày lao động không thay đổi, nhà tư bản sẽ
nâng cao trình độ bóc lột bằng việc tăng cường độ lao động. Thực chất tăng cường độ lao động cũng
giống như kéo dài ngày lao động. Khi CNTB phát triển, trình độ tự giác của người công nhân được
nâng lên, họ đứng lên đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm vì thế nhà tư bản đã sử dụng phương
pháp sản xuất GTTD tương đối.]
* Sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Được áp dụng trong giai đoạn sau, khi nền đại công
nghiệp cơ khí đã phát triển.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần
thiết trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội và do đó kéo dài một cách tương ứng thời gian lao
động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động không thay đổi. Ví dụ :
Nếu thời gian lao động cần thiết rút từ 4 giờ xuống còn 2 giờ, thì thời gian lao động thặng dư
sẽ tăng từ 4 giờ lên 6 giờ. m' x 100% = 300%
Phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo
dài thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài của ngày lao động vẫn như cũ gọi là phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Để rút ngắn thời gian lao động cần thiết nhà tư bản phải tìm cách hạ thấp giá trị sức lao động
bằng cách hạ thấp giá trị tư liệu sinh hoạt. Chỉ có nâng cao năng suất lao động xã hội trong các ngành
sản xuất tư liệu sinh hoạt cho công nhân, cũng như trong các ngành sản xuất tư liệu sản xuất trực tiếp
liên quan đến các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt thì mới đạt được kết quả đó.
=> So sánh hai phương pháp:
Tiêu chí khác biệt
Sx GTTD tuyệt đối
Sx GTTD tương đối
Thời gian lao động tất yếu Giữ nguyên Giảm xuống Giá trị sức lao động Không đổi Giảm xuống Biện pháp
Kéo dài thời gian LĐ hoặc tăng Tăng NSLĐ CĐLD
Thời gian áp dụng chủ yếu
Giai đoạn đầu của CNTB
Giai đoạn đại công nghiệp cơ khí phát triển
*Giá trị thặng dư siêu ngạch:
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi doanh nghiệp áp dụng
công nghệ mới sớm hơn các doanh nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật,
hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị của hàng hoá.
Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối vì chúng có một cơ sở chung: Chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. 2) Ý nghĩa :
Nếu bỏ qua mục đích và tính chất của tư bản chủ nghĩa có thể thấy:
- Cả hai phương pháp sản xuất giá trị thặng sư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối đều có thể áp
dụng vào nền kinh tế. Tạo ra nhiều sản phẩm thặng dư cho xã hội là tiền đề cho việc tái sản xuất
mở rộng, phát triển quy mô, tăng trưởng kinh tế.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có tác dụng mạnh
mẽ kích thích cá nhân và tập thể cải tiến kĩ thuật, áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất;
cải tiến quản lý sản xuất; nâng cao năng suất lao động; lực lượng sản xuất tiến bộ và phát triển nhanh.
Phần thêm nếu còn time:
- Quá trình nghiên cứu 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cho thấy khi gạt bỏ mục đích và tính
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì sản xuất giá trị thặng dư chính là khoa học sử dụng lao động
có hiệu quả nhất mà bất kỳ xã hội nào cũng cần phải quan tâm. Bởi vậy, các phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư có thể vận dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất tăng
năng suất lao động xã hội, sử dụng kĩ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất.
- Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị
thặng dư gợi ra cho nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải thúc đẩy phát triển
kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần
tận dụng triệt để các nguồn lực nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài cần phải
coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, đẩy manh công nghiệp hoa hiện đại hóa nền kinh tế
quốc dân là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội.
- Quy luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trò to lớn của nó đem lại những tiến bộ vượt bậc và thành
tựu kinh tế cho CNTB. Nước ta nói riêng và các nước XHCN nói chung cần nỗ lực không ngừng
trên con đường của mình để xây dựng XHCN trên thế giới. Riêng nước ta, đang trong giai đoạn
quá độ lên CNXH từ chế độ PK bỏ qua giai đoạn TBCN với xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc
hậu chủ yếu là dựa vào nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho
CNXH. Vì vậy, chúng ta phải học tập những thành tựu mà CNTB đã đạt được trong đó quan tâm
đặc biệt đến quy luật kinh tế cơ bản của nó là giá trị thặng dư, sửa chữa quan niệm sai lầm trước
kia trong xây dựng kinh tế.
Câu 8. Phân tích căn cứ, nội dung, ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành các cặp phạm trù:
tư bản bất biến - tư bản khả biến, tư bản cố định - tư bản lưu động. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu vấn đề này.
- Khái niệm tư bản: là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động làm thuê. Nếu
hiểu theo nghĩa này thì tư bản là một phạm trù lịch sử biểu hiện quan hệ sản xuất giữa giai cấp tư
bản và giai cấp công nhân làm thuê.
1) Tư bản bất biến - tư bản khả biến a) Căn cứ:
- Dựa vào vai trò khác nhau của những bộ phận tư bản trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Trong đó,
tư bản bất biến đóng vai trò là điều kiện còn tư bản khả biến đóng vai trò quyết định giá trị thặng dư. b) Nội dung:
Tư bản bất biến (c):
+ Khái niệm: là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất (nhà xưởng, máy móc, thiết bị,
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ…) mà giá trị của nó được lao động cụ thể của người công nhân
chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm mới, tức là giá trị không thay đổi về lượng trong quá trình sản xuất.
+ Không tạo ra giá trị thặng dư nhưng là điều kiện cần thiết để quá trình tạo ra giá trị thặng dư được diễn ra
+ Phân loại: c được chia thành C1 và C2,
C1 tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng,
C2 tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ…
+ Ví dụ: Để sản xuất sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền là 50 USD để mua 50 kg bông, 3 USD
hao mòn máy móc để kéo 50 kg bông thành sợi. Tư bản này gọi là tư bản bất biến
Tư bản khả biến (v):
+ Khái niệm: là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông
qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tức biến đổi về dố lượng trong quá trình sản xuất.
+ Là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư (m). - Kí hiệu: V
+ Ví dụ: Nhà tư bản bỏ ra 10 USD để thuê công nhân lao động trong 8 giờ nhưng chỉ cần 4 giờ
đồng hồ, nhà tư bản đã thu về 10 USD từ sản phẩm người công nhân làm ra.Vượt qua điểm bù lại giá
trị sức lao động này, người công nhân bắt đầu tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản
c) Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này: -
Sự phân chia này đã vạch rõ nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư là do tư bản khả biến
tạo ra, còn tư bản bất biến tuy không phải là nguồn gốc của giá trị thặng dư nhưng là điều kiện cần
thiết không thể thiếu được. -
Như vậy, Mác đã chỉ ra vai trò khác nhau của các bộ phận tư bản trong quá trình hình
thành giá trị nhờ sự phân chia này. Từ đó làm rõ bản chất bóc lột của CNTB. 2) Tư bản cố định - tư
bản lưu động a) Căn cứ: -
Căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức chu chuyển về mặt giá trị của các bộ phận
tư bản ở trong sản xuất. b) Nội dung:
Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau về mặt giá trị, do đó
ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức
(đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản
xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu dộng.
• Tư bản cố định (C1)
+ Khái niệm: là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, V.V.
tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết mệt lần vào sản phẩm
mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất. + Dẫn tới hao mòn:
Hao mòn hữu hình: sự mất dần về GT và GTSD do tác động tự nhiên gây ra.
Hao mòn vô hình: sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị do sựu tăng lên NSLD để sản xuất TLLĐ.
+ Ví dụ: Để sản xuất ra đồ gỗ mỹ nghệ, nhà tư bản phải mua máy móc, thiết bị nhà xưởng (máy cưa,
máy xẻ, máy cắt, bào, đục…)
• Tư bản lưu động (C2+V)
+ Khái niệm: là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ,
sức lao động, v.v.. Giá trị của nó được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất,
khi hàng hóa được bán xong.
+ Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động làm cho tỉ suất và khối lượng giá trị thặng hàng năm tăng lên.
+ Ví dụ: Trong xưởng sản xuất sợi, nhà tư bản bỏ ra 100 USD mua bông và 20 USD thuê công
nhân dệt sợi làm 8 giờ. Bình thường, người công nhân làm trong 4 giờ, nhà tư bản đã thu về đủ tiền
vốn và tỉ suất giá trị thặng dư là 100%. Nhưng khi áp dụng tiến bộ khí thuật, đẩy nhanh quá trình chu
chuyển, nhà tư bản có thể thu hồi được vốn sau 3 giờ làm việc của công nhân và tỉ suất giá trị thặng dư lúc này là 167 %.
c) Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
- Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý kinh
tế. Nó là cơ sở để quản lý, sử dụng vốn cố định và vốn lưu động một cách hiệu quả.
- Việc nghiên cứu 2 phạm trù này giúp ta hiểu được tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là
một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao tài sản cố định làm cho lượng tư bản sử dụng tăng
lên, tránh được thiệt hại hao mòn. Nhờ đó mà có điều kiện đổi mới và nâng cấp thiết bị nhanh chóng hơn.
Câu 9. Phân tích tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là
mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự tất yếu
đó xuất phát từ những lí do cơ bản sau đây:
- Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với tính
quy luật phát triển khách quan
• Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Khi có đủ các
điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hóa tự hình thành. Sự phát triển của nền kinh
tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới trình độ nền kinh tế thị trường. Đó là tính quy luật. Ở VN,
các điều kiện cho sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa luôn tồn tại. Do đó, sự hình thành kinh
tế thị trường ở VN là tất yếu khách quan.
• Kinh tế thị trường sẽ và còn tồn tại lâu dài ở nước ta
 Đây là 1 tất yếu khách quan và là cần thiết cho 1 cuộc xây dựng CNXH
 Nền sản xuất hàng hóa không hè mất đi, việc sản xuất và phân phối phải được thông qua thị
trường, thông qua quan h hàng-tiền, giá cả-giá trị.
- Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường thức đẩy phát triển
• Thực tiễn trên thế giới và VN cho thấy kinh tế thị trường là phương thức phân bố nguồn
lực hiệu quả mà loài người đã đạt được so với các mô hình kinh tế phi thị trường
• Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có
hiệu quả, Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế luôn phát triển theo hướng năng động,
kích thích tiến bộ kỹ thuật – công nghệ, nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm và giá thành hạ
• Sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nhanh và có hiệu quả, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
• Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường cần chú ý tới những thất bại và khuyết tật
của thị trường để có sự can thiệp, điều tiết kịp thời của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, do đó mô hình kinh tế thị trường phù hợp với nguyện vọng của nhân dân mong
muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
• Trên thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường, nhưng việc phát triển mà dẫn tới dân
không giàu, nước không mạnh, không dân chủ, kém văn minh thì không ai mong muốn. Thế giới cũng
vậy và nhân dân VN cũng vậy. Cho nên, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân VN. Để thực hiện hóa khát vọng như vậy, việc thực
hiện kinh tế thị trường mà trong đó hướng tới giá trị mới, do đó, là tất yếu khách quan.
• Kinh tế thị trường không phải là phạm trù riêng của CNTB, nó có tính độc lập tương
đối và phát triển theo quy luật riêng có của nó. Dù nó tồn tại ở đâu, thời điểm nào trong lịch sử, xong
sự tồn tại trong thực tế sẽ không thể có 1 nền kinh tế nào là trìu tượng, là chung cho mọi hình thái
kinh tế xã hội, cho mọi quốc gia, dân tộc.
• Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phá vỡ tính tự cấp, tự túc
của nền kinh tế; đẩy mạnh nhân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề; tạo việc làm cho người
lao động; thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, khuyến khích ứng dựng kĩ thuật công nghệ
mới đảm bảo năng suất lao động, tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ góp phần
từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng
giao lưu kinh tế giữa các vùng miền trong nước và với nước ngoài; khuyến khích tính năng dộng,
sáng tạo trong các hoạt động kinh tế; tạo cơ chế phân bố và sự dụng các nguồn lực xã hội một cách hợp lý, tiết kiệm…
• Có thể xem phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là bước
đi quan trọng nhắm xã hội hóa nền sản xuất xã hội, là bước đi tất yếu của sự phát triển từ sản xuất nhỉ
lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên CNXH.
Câu 10. Phân tích đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Khái niệm : Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các
quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó
dân giàu nước manh, dân chủ , công bằng, văn minh, có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Các đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở VN:
1. Về mục tiêu:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát triển lực lượng sản
xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện
“dân giàu , nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”.
Đây là sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa. Mục đích đó bắt nguồn từ cơ sở kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và là sự phản ánh mục tiêu của chính trị - xã hội mà nhân dân ta đang phấn đấu dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặt khác, đi đôi với việc phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại, quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam còn gắn với xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp nhằm ngày càng hoàn thiện cơ sở kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội.
2. Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức