

















Preview text:
CÂU HỎI LÝ THUYẾT BẢO HIỂM XÃ HỘI
Câu 1: Một trong những lý do khiến quỹ ốm đau, thai sản dễ vỡ hơn quỹ hưu trí, tử
tuất là vì không có sự tham gia của NLĐ. Anh/Chị có đồng ý với quan điểm trên?
Giải thích chi tiết cho câu trả lời của Anh/Chị.
Em đồng ý một phần với quan điểm cho rằng một trong những lý do khiến quỹ ốm đau,
thai sản dễ mất cân đối hơn quỹ hưu trí, tử tuất là vì không có sự tham gia đóng góp của
người lao động (NLĐ). Tuy nhiên, để nhìn nhận một cách toàn diện và chính xác, em cho
rằng cần phải đặt vấn đề này trong bối cảnh pháp lý, tài chính và thực tiễn quản lý quỹ
bảo hiểm xã hội tại Việt Nam hiện nay.
Theo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) năm 2024, tại khoản 1 Điều 92, quy định tỷ lệ đóng
bảo hiểm xã hội bắt buộc như sau:
“Người sử dụng lao động đóng 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; người lao động không
phải đóng vào quỹ này.”
Điều này cho thấy, toàn bộ nguồn thu của quỹ ốm đau, thai sản hiện nay phụ thuộc hoàn
toàn vào doanh nghiệp, trong khi NLĐ là đối tượng được hưởng toàn bộ các chế độ từ quỹ.
Trong khi đó, cũng theo khoản 1 Điều 92, tỷ lệ đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất là 22%,
được chia đều: NLĐ đóng 8%, NSDLĐ đóng 14%. Như vậy, quỹ hưu trí, tử tuất có sự
tham gia tài chính trực tiếp của NLĐ, và là quỹ dài hạn, có thời gian tích lũy lâu dài trước
khi chi trả. Điều này giúp cân bằng thu – chi tốt hơn, góp phần đảm bảo tính bền vững.
Mặt khác, theo khoản 1 Điều 45 và Điều 47, các chế độ từ quỹ ốm đau, thai sản rất đa
dạng và chi tiết, bao gồm: nghỉ ốm cá nhân, nghỉ chăm sóc con, nghỉ thai sản, nghỉ dưỡng
sức sau sinh, khám thai định kỳ, sẩy thai, phá thai, nạo thai, sinh con hộ, nhận con nuôi…
Việc mở rộng đối tượng hưởng và thời gian nghỉ kéo theo chi phí từ quỹ tăng lên nhanh
chóng, trong khi nguồn thu không đổi, dẫn đến nguy cơ mất cân đối quỹ.
Tuy nhiên, em cho rằng không thể quy trách nhiệm duy nhất cho việc NLĐ không tham
gia đóng quỹ. Một phần lý do còn đến từ:
Tình trạng trục lợi quỹ (giả mạo giấy nghỉ ốm, nghỉ thai sản không đúng thực tế);
Công tác kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ;
Tỷ lệ doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng BHXH vẫn còn phổ biến, làm giảm nguồn thu cho cả hệ thống quỹ;
Và theo Điều 10 và Điều 12 của Luật, nhiều NLĐ thuộc khu vực phi chính thức chưa bắt
buộc tham gia BHXH, dẫn đến diện bao phủ còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả chung của hệ thống.
Để giải quyết vấn đề này, em kiến nghị một số giải pháp:
Xem xét điều chỉnh chính sách đóng – hưởng, theo hướng nghiên cứu khả năng NLĐ
cùng đóng một tỷ lệ nhỏ vào quỹ ốm đau, thai sản để chia sẻ trách nhiệm;
Tăng cường thanh tra, xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng quỹ, đồng thời công khai minh
bạch thông tin chi – thu;
Mở rộng diện bao phủ BHXH bắt buộc và tự nguyện, đặc biệt hướng tới khu vực phi
chính thức, theo tinh thần của Điều 5 về nguyên tắc bảo hiểm xã hội toàn dân;
Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức cho cả NLĐ và NSDLĐ về vai trò của bảo
hiểm xã hội, từ đó xây dựng văn hóa tham gia và tuân thủ pháp luật.
Kết luận, quan điểm cho rằng quỹ ốm đau – thai sản dễ mất cân đối hơn quỹ hưu trí – tử
tuất do không có sự tham gia của NLĐ là đúng về mặt tài chính, nhưng chưa đủ về mặt
tổng thể. Giải pháp đặt ra không chỉ là mở rộng đối tượng đóng góp, mà còn cần cải thiện
quản trị, tăng cường hiệu quả sử dụng quỹ và đảm bảo công bằng – bền vững trong toàn
bộ hệ thống an sinh xã hội mà Luật BHXH năm 2024 hướng tới.
Câu 2: Chị A là lao động nữ, đã đóng BHXH được 8 tháng. Chị đang mang thai và
dự kiến sinh con vào tháng 12/2025. Tuy nhiên, đến tháng 7/2025, công ty cho chị
nghỉ không lương trong 6 tháng. Chị A thắc mắc: Liệu chị có được hưởng chế độ thai sản không?
Theo khoản 2 Điều 50 Luật BHXH năm 2024, điều kiện để hưởng chế độ thai sản đối với trường hợp sinh con là:
“Lao động nữ đã đóng BHXH bắt buộc từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng tính
đến thời điểm sinh con.”
Khoảng thời gian này không yêu cầu liên tục. Do đó, nếu chị A đã đóng BHXH đủ 6
tháng trong giai đoạn từ tháng 1/2025 đến tháng 12/2025, thì vẫn đủ điều kiện hưởng chế
độ thai sản, mặc dù nghỉ không lương 6 tháng cuối năm.
Vì chị A đã đóng 8 tháng BHXH trước khi nghỉ (giả định là từ tháng 11/2024 đến tháng
6/2025), nên đến thời điểm sinh vào tháng 12/2025, chị vẫn nằm trong khoảng 12 tháng
trước sinh và đã đóng đủ từ 6 tháng trở lên.
=> Kết luận: Chị A được hưởng chế độ thai sản theo quy định tại Luật BHXH năm 2024.
Câu 3: Chị Dung sinh con vào tháng 2/2025. Đến tháng 6/2025, chị xin đi làm trở lại,
khi mới nghỉ thai sản được 4 tháng. Doanh nghiệp đồng ý, nhưng yêu cầu chị ngưng
nhận trợ cấp thai sản từ tháng 6 vì "đã đi làm thì không còn hưởng nữa". Chị Dung
cho rằng mình vẫn được hưởng. Yêu cầu:
Việc doanh nghiệp yêu cầu ngưng trợ cấp có đúng luật không?
Điều kiện để lao động nữ đi làm sớm sau khi sinh là gì?
Trong trường hợp này, chị Dung có được hưởng trợ cấp song song với lương không? Đáp án
Không đúng. Nếu đủ điều kiện, NLĐ vẫn được hưởng trợ cấp thai sản cho đến hết thời hạn dù đi làm sớm.
Điều kiện để đi làm sớm:
Đã nghỉ ít nhất 4 tháng sau sinh.
Có xác nhận của cơ sở y tế đủ sức khỏe để làm việc.
Được NSDLĐ đồng ý bằng văn bản.
Nếu đủ 3 điều kiện trên, chị Dung được hưởng đồng thời:
Tiền lương do doanh nghiệp trả;
Trợ cấp thai sản do BHXH chi trả đến hết tháng thứ 6 sau sinh.
Câu 4: BHXH tự nguyện chưa hấp dẫn:
BHXH tự nguyện tại Việt Nam tuy có bước cải tiến theo Luật BHXH 2024 nhưng
vẫn chưa thực sự hấp dẫn với người lao động khu vực phi chính thức. Anh/Chị có
đồng ý với nhận định này không? Phân tích nguyên nhân và đề xuất giải pháp.
Em đồng ý với nhận định này.
Mặc dù Luật BHXH 2024 đã có những cải tiến đáng kể như bổ sung chế độ thai sản, tai
nạn lao động, giảm điều kiện hưởng hưu từ 20 năm xuống còn 15 năm, tuy nhiên mức độ
hấp dẫn của BHXH tự nguyện với người lao động khu vực phi chính thức vẫn còn hạn chế.
Nguyên nhân chính bao gồm:
- Quyền lợi chưa toàn diện: BHXH tự nguyện hiện vẫn chỉ có các chế độ hưu trí, tử tuất
và trợ cấp thai sản mức thấp. Không có chế độ ốm đau, thai sản đầy đủ như BHXH bắt buộc.
- Mức đóng còn cao so với thu nhập thực tế của lao động phi chính thức. Mức đóng tối
thiểu vẫn tính theo mức chuẩn nghèo thành thị, trong khi thu nhập của họ không ổn định.
- Thiếu chính sách hỗ trợ trực tiếp từ Nhà nước, đặc biệt khi người lao động gặp khó khăn kinh tế.
- Tâm lý “đóng dài – hưởng xa” và thiếu hiểu biết về quyền lợi làm cho người lao động
không thấy lợi ích cụ thể. Giải pháp:
- Cần thiết kế gói BHXH linh hoạt, cho phép NLĐ lựa chọn các mức đóng – mức hưởng phù hợp.
- Nhà nước có thể hỗ trợ thêm % mức đóng đối với lao động thu nhập thấp.
- Tăng cường truyền thông, đặc biệt ở khu vực phi chính thức, và cải tiến công cụ tư vấn
BHXH để cá nhân hóa quyền lợi.
- Nghiên cứu tích hợp BHXH tự nguyện với BHYT và các chương trình ASXH khác để
tạo thành mạng lưới bảo vệ đa tầng.
Câu 5: Giảm điều kiện hưởng hưu: hai mặt của chính sách:
Việc giảm điều kiện hưởng lương hưu từ 20 năm xuống còn 15 năm theo Luật
BHXH 2024 là một bước đi tích cực, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro mất cân đối quỹ
hưu trí. Anh/Chị hãy bình luận quan điểm này.
Em đồng tình với nhận định trên vì đây là một chính sách có hai mặt rõ rệt. Về mặt tích cực:
- Giúp mở rộng đối tượng đủ điều kiện hưởng lương hưu, nhất là những lao động lớn
tuổi, làm việc gián đoạn, hoặc ở khu vực phi chính thức.
- Tạo động lực để người lao động bảo lưu và tiếp tục tham gia BHXH thay vì rút một lần.
- Góp phần nâng cao tỷ lệ bao phủ BHXH, hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân theo Nghị quyết 28/NQ-TW.
Tuy nhiên, rủi ro là có thật:
- Với thời gian đóng ngắn hơn, người lao động sẽ hưởng lương hưu trong thời gian dài
hơn, tạo áp lực chi trả cho quỹ hưu trí.
- Mức đóng ngắn hạn nhưng kỳ vọng hưởng dài hạn có thể dẫn đến mất cân đối nếu
không được điều chỉnh bằng cơ chế tài chính bền vững.
- Dễ dẫn đến tâm lý “đóng tối thiểu – hưởng tối đa” nếu không quy định tỷ lệ hưởng phù hợp. Giải pháp:
- Cần thiết lập cơ chế tính lương hưu theo tỷ lệ bậc thang, dựa vào thời gian đóng để
tránh hiện tượng đồng đều hóa mức hưởng.
- Nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH để gia tăng nguồn thu.
- Truyền thông để NLĐ hiểu rằng đóng BHXH là tích lũy cho chính mình, nên cân nhắc
việc tăng mức đóng khi có khả năng.
Câu 6: Mở rộng thai sản: nhân văn hay áp lực tài chính?:
Việc mở rộng chế độ thai sản trong Luật BHXH 2024 được đánh giá là nhân văn,
nhưng có thể gây áp lực lớn cho quỹ ốm đau – thai sản. Anh/Chị hãy phân tích mặt
tích cực và tiêu cực của chính sách này.
Chính sách mở rộng chế độ thai sản có cả hai mặt: tích cực về mặt xã hội, nhưng tiềm ẩn
rủi ro tài chính với quỹ BHXH. Tích cực:
- Thể hiện sự nhân văn của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động,
đặc biệt là phụ nữ, trẻ em và những người làm cha.
- Đáp ứng tốt hơn với thực tiễn cuộc sống như: nhận con nuôi, mang thai hộ, thai sản cho lao động nam.
- Tăng cường bình đẳng giới, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực thông qua chăm sóc trẻ
sơ sinh và sức khỏe phụ nữ sau sinh.
Tuy nhiên, về mặt tài chính:
- Quỹ ốm đau – thai sản chỉ do NSDLĐ đóng 3%, trong khi số lượng người được hưởng ngày càng nhiều.
- Mở rộng đối tượng hưởng nhưng không có cơ chế bổ sung nguồn thu dễ gây mất cân đối quỹ.
- Rủi ro lạm dụng: ví dụ như lợi dụng chính sách sinh hộ, xin nghỉ thai sản không đúng để trục lợi.
Do đó, cần có giải pháp song hành:
- Tăng cường công tác hậu kiểm, ứng dụng công nghệ số trong xác minh hồ sơ hưởng.
- Cân nhắc việc NLĐ cùng đóng một tỷ lệ nhỏ vào quỹ này để chia sẻ trách nhiệm.
- Nâng cao nhận thức về quyền – nghĩa vụ BHXH trong cộng đồng lao động và doanh nghiệp.
Câu 7: Trục lợi chế độ ốm đau có đáng lo ngại?:
Một số doanh nghiệp cho rằng nhiều lao động cố tình xin nghỉ ốm có giấy khám để
trục lợi từ quỹ BHXH, gây lãng phí và mất cân đối quỹ ốm đau. Anh/Chị có đồng
tình với quan điểm này không? Giải thích và đề xuất chính sách kiểm soát.
Em đồng ý một phần với quan điểm này.
Thực tế cho thấy có hiện tượng trục lợi từ chế độ ốm đau. Việc xin giấy nghỉ ốm từ các
cơ sở y tế cấp xã/phường hiện khá dễ dàng, nhiều trường hợp không cần kiểm tra kỹ tình
trạng sức khỏe. Do đó, một số NLĐ lợi dụng để nghỉ ngắn hạn liên tục mà vẫn hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Hậu quả:
- Làm tăng chi từ quỹ ốm đau, vốn chỉ do NSDLĐ đóng.
- Mất công bằng giữa người hưởng thật và người lạm dụng.
- Gây mất lòng tin của doanh nghiệp và xã hội vào hệ thống BHXH.
Tuy nhiên, không nên quy chụp toàn bộ NLĐ là trục lợi. Cần phân biệt rõ giữa quyền
hưởng chính đáng và hành vi gian lận. Giải pháp kiểm soát:
- Tăng hậu kiểm ngẫu nhiên với các giấy nghỉ ốm ngắn ngày.
- Kết nối dữ liệu BHYT – BHXH – y tế để xác minh chéo.
- Giới hạn quyền xác nhận nghỉ ốm cho những cơ sở y tế đủ điều kiện, không chấp nhận
giấy từ cơ sở yếu kém.
- Tuyên truyền và xử phạt nghiêm hành vi gian dối nhằm đảm bảo quỹ ốm đau hoạt động đúng mục đích.
Câu 8: “Có ý kiến cho rằng, Quỹ BHXH sẽ không thể đảm bảo an toàn trong dài
hạn mà có thể sẽ bị vỡ trong một vài năm tới. Anh/Chị có đồng ý với ý kiến trên?
Minh chứng cho câu trả lời của AC bằng các số liệu thống kê.”
Em đồng ý một phần với ý kiến trên. Mặc dù quỹ BHXH Việt Nam vẫn đang được quản
lý thống nhất, có cơ chế kiểm toán định kỳ và các biện pháp đầu tư bảo toàn vốn, nhưng
vẫn tồn tại những nguy cơ mất cân đối trong dài hạn, đặc biệt là với quỹ hưu trí và tử tuất, do các lý do sau:
- Mất cân đối thu – chi ngày càng rõ rệt:
Theo Báo cáo của BHXH Việt Nam, từ năm 2015 đến nay, tốc độ chi trả lương hưu
tăng nhanh hơn tốc độ thu, đặc biệt khi dân số già hóa và người hưởng hưu trí tăng cao.
Ví dụ: Năm 2020, số người đang hưởng hưu trí là hơn 3,1 triệu người, trong khi số
người đóng BHXH thường xuyên chỉ khoảng 16,1 triệu người. Tỷ lệ này có xu hướng
xấu đi vì lực lượng lao động không tăng tương ứng.
Năm 2023, theo dự báo của Bộ LĐ-TB&XH, quỹ hưu trí và tử tuất có thể mất cân đối
vào năm 2035 nếu không cải cách chính sách (như tăng tuổi nghỉ hưu, tăng mức đóng...).
Tình trạng thu – chi quỹ hưu trí và tử tuất
Theo Báo cáo của BHXH Việt Nam (2022):
Tổng số người tham gia BHXH bắt buộc: khoảng 17 triệu người
Tổng số người đang hưởng lương hưu: hơn 3,3 triệu người
Tổng số thu quỹ hưu trí và tử tuất năm 2022: khoảng 260.000 tỷ đồng
Tổng số chi trả lương hưu và tử tuất: khoảng 190.000 tỷ đồng
Tuy thu lớn hơn chi, nhưng khoảng 45% số người nghỉ hưu đang nhận lương hưu dài hơn thời gian đóng BHXH.
Ví dụ: Một người đóng BHXH 20 năm với mức lương bình quân đóng là 10 triệu đồng/tháng
Tổng đóng vào quỹ = 22% × 10 triệu × 12 tháng × 20 năm = 528 triệu đồng
Khi nghỉ hưu, người này nhận lương hưu 5 triệu/tháng, trung bình sống thêm 20
năm → Tổng nhận = 5 triệu × 12 × 20 = 1,2 tỷ đồng
→ Quỹ đang chi gấp đôi số thu từ một người, chưa kể chi phí quản lý, đầu tư, trượt giá...
Nếu số người đóng ngắn – hưởng dài tăng lên, thì quỹ không đủ bù đắp và dễ mất cân đối.
- Độ bao phủ BHXH còn thấp:
Mặc dù tổng số người tham gia BHXH tăng hàng năm, nhưng tỷ lệ bao phủ so với lực
lượng lao động vẫn dưới 40%.
Tình trạng trốn đóng, nợ đóng BHXH vẫn còn phổ biến, làm giảm nguồn thu và tăng
gánh nặng cho quỹ trong tương lai.
- Áp lực chi trả do già hóa dân số:
Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ 2017, tỷ lệ người trên 60
tuổi tăng nhanh. Điều này đồng nghĩa với số người hưởng hưu trí tăng cao, trong khi
tuổi nghỉ hưu vẫn thấp và thời gian hưởng hưu kéo dài.
Tuy nhiên, nói “quỹ BHXH bị vỡ trong vài năm tới” là chưa chính xác, vì:
- Luật BHXH 2024 đã có các biện pháp kiểm soát rủi ro tài chính, như: kiểm toán
định kỳ 3 năm/lần; quy định đầu tư an toàn; có sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.
- Chính phủ cũng có thể can thiệp bằng các điều chỉnh chính sách (tăng tuổi nghỉ
hưu, mở rộng đối tượng tham gia, điều chỉnh tỷ lệ đóng, tăng thu từ đầu tư...).
Kết luận: Quỹ BHXH, nhất là quỹ hưu trí và tử tuất, đang đứng trước nguy cơ mất cân
đối tài chính trong dài hạn nếu không có cải cách chính sách kịp thời. Tuy nhiên, chưa
đến mức “vỡ quỹ” trong vài năm tới, vì hệ thống vẫn đang trong tầm kiểm soát và có sự
điều tiết từ nhà nước. Cần dựa trên dữ liệu thực tế và các báo cáo tài chính chính thức để
đánh giá đúng mức độ an toàn của quỹ.
Câu 9: Có ý kiến cho rằng, Quỹ BHXH không nên đầu tư vào kênh cho các ngân hàng
thương mại vay vì hoạt động của một số NHTM như thời gian vừa qua gây mất lòng tin
cho người dân. Anh/Chị có đồng ý với ý kiến trên? Minh chứng cho câu trả lời bằng số liệu
thống kê hoặc tình huống cụ thể trong và ngoài nước
Em đồng ý một phần với ý kiến trên. Việc đầu tư quỹ BHXH vào các ngân hàng thương
mại cần được kiểm soát rất chặt chẽ, không nên loại trừ hoàn toàn, nhưng phải hạn chế và
có điều kiện ràng buộc nghiêm ngặt, bởi vì:
- Tính chất của Quỹ BHXH yêu cầu đầu tư an toàn tuyệt đối
Theo Điều 121, Luật BHXH 2024, nguyên tắc đầu tư quỹ BHXH là:
An toàn – bền vững – hiệu quả, ưu tiên đầu tư vào trái phiếu chính phủ dài hạn
Không đầu tư vào ngân hàng đang bị kiểm soát đặc biệt
Quỹ BHXH là nguồn tiền an sinh xã hội, liên quan trực tiếp đến sinh kế hàng triệu người,
nên không thể mang đi đầu tư rủi ro như một quỹ đầu tư tài chính thông thường. -
Tình huống thực tế tại Việt Nam
Thời gian qua, một số ngân hàng thương mại cổ phần bị kiểm soát đặc biệt do vi phạm
pháp luật (ví dụ: SCB, DongABank...). Điều này đã gây lo ngại rằng tiền BHXH có thể
gặp rủi ro nếu gửi vào những tổ chức này. Tình huống cụ thể:
Vụ SCB (2022): Nhiều người dân bị mất niềm tin sau khi hàng loạt sổ tiết kiệm bị chậm
trả. Nếu Quỹ BHXH đầu tư vào SCB khi ngân hàng này bị kiểm soát đặc biệt, nguy cơ
mất khả năng thanh khoản là rất lớn.
Do đó, nếu Quỹ BHXH chọn gửi vào NHTM thì phải là những ngân hàng có vốn nhà
nước trên 50% và có tình hình tài chính minh bạch, như Vietcombank, BIDV, Agribank. - Số liệu minh chứng
Theo báo cáo Kiểm toán Nhà nước năm 2021:
Tổng số tiền Quỹ BHXH đầu tư vào ngân hàng thương mại: khoảng 580.000 tỷ đồng,
chiếm hơn 40% danh mục đầu tư.
Trong đó, 98% là tiền gửi có kỳ hạn tại các NHTM quốc doanh (ví dụ: VietinBank, BIDV…).
→ Điều này cho thấy quỹ BHXH vẫn đang ưu tiên tính an toàn, nhưng nếu mở rộng sang
NHTM cổ phần thì tiềm ẩn rủi ro rất cao. - Kinh nghiệm quốc tế
Tại Canada, Quỹ hưu trí CPPIB đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, BĐS,
nhưng luôn có bộ phận quản lý rủi ro độc lập và giám sát quốc hội chặt chẽ.
Tại Nhật Bản, Quỹ hưu trí GPIF cũng không gửi tiền vào ngân hàng thương mại, mà chủ
yếu mua trái phiếu chính phủ và chứng chỉ đầu tư được xếp hạng tín nhiệm cao.
→ Nhiều nước phát triển không đầu tư tiền hưu trí vào ngân hàng thương mại để tránh
mất thanh khoản trong khủng hoảng tài chính. - Kết luận
Quỹ BHXH không nên đầu tư vào mọi loại ngân hàng thương mại, đặc biệt là các NHTM
cổ phần yếu kém, kém minh bạch.
Nếu có đầu tư, chỉ nên thực hiện ở NHTM nhà nước uy tín, với kỳ hạn ngắn, mức lãi suất
rõ ràng, có bảo đảm bằng tài sản.
Cần minh bạch hóa danh mục đầu tư, tăng cường kiểm toán độc lập và có sự giám sát của Quốc hội.
Câu 10: Một người lao động phản ánh: “Tôi nghỉ việc và nhận thấy sổ BHXH của
mình bị thiếu 5 tháng đóng do doanh nghiệp cũ nợ tiền BHXH nhưng không báo.
Tôi muốn khiếu nại nhưng không biết quy trình.”
1. Quy trình khiếu nại về BHXH (theo Điều 128, Điều 129, Điều 130 Luật BHXH 2024):
Bước 1: Khiếu nại lần 1
Người lao động (NLĐ) cần nộp đơn khiếu nại về việc thiếu đóng BHXH tại doanh nghiệp
cũ hoặc cơ quan BHXH nơi NLĐ tham gia. Cơ quan BHXH phải giải quyết trong vòng
15 ngày làm việc kể từ khi nhận đơn. Nếu không giải quyết hoặc giải quyết không thỏa
đáng, NLĐ có thể khiếu nại tiếp.
Bước 2: Khiếu nại lần 2
Nếu NLĐ không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần 1 hoặc hết thời hạn quy
định mà không có kết quả, NLĐ có quyền khiếu nại lên thủ trưởng cơ quan BHXH cấp
trên trực tiếp (Ví dụ: BHXH tỉnh, thành phố). Thời gian giải quyết lần 2 là 10 ngày làm việc.
Bước 3: Khởi kiện tại Tòa án
Nếu vẫn không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại lần 2 hoặc hết thời gian quy định
mà không được giải quyết, NLĐ có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc
Tòa án cấp cao hơn nếu vụ việc phức tạp.
2. Cơ quan giải quyết khiếu nại:
Lần 1: Cơ quan BHXH nơi NLĐ tham gia hoặc công ty nơi NLĐ làm việc.
Lần 2: Thủ trưởng BHXH cấp trên trực tiếp (BHXH tỉnh).
Tòa án: Trong trường hợp không đồng ý với các quyết định của BHXH, có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân.
Câu 10: Có 2 quan điểm sau:
Quan điểm A: BHXH Việt Nam nên được tự chủ hoàn toàn đầu tư quỹ để tối đa hóa lợi nhuận
Quan điểm B: Nên duy trì cơ chế kiểm soát chặt chẽ từ Chính phủ và Kiểm toán
Nhà nước vì đây là tiền an sinh
Tôi chọn quan điểm B: Nên duy trì cơ chế kiểm soát chặt chẽ từ Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước. Lý do:
Quỹ BHXH là quỹ an sinh, có tác động trực tiếp đến hàng triệu người lao động và người
hưởng lương hưu. Đây là nguồn tiền vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến ổn định xã hội,
vì vậy cần phải đảm bảo tính an toàn và quản lý minh bạch.
Rủi ro khi cho BHXH tự chủ đầu tư quỹ:
Không kiểm soát được rủi ro đầu tư: Nếu quỹ BHXH tự chủ hoàn toàn trong đầu tư, có
thể xảy ra trường hợp đầu tư vào các tài sản có rủi ro cao (chẳng hạn như cổ phiếu, trái
phiếu doanh nghiệp có thể phá sản), điều này có thể dẫn đến việc mất an toàn tài chính cho quỹ.
Lịch sử các vụ sụp đổ tài chính: Ví dụ về việc đầu tư vào ngân hàng thương mại yếu kém,
như SCB hoặc các ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt, có thể khiến quỹ BHXH mất thanh
khoản trong thời gian ngắn. Điều này sẽ đe dọa lợi ích của người dân.
Kiểm soát chặt chẽ từ Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước:
Chính phủ: Đảm bảo chính sách phát triển BHXH đúng hướng, kiểm soát sự bền vững
của quỹ. Các chính sách như tăng tuổi nghỉ hưu, điều chỉnh tỷ lệ đóng, và các biện pháp
hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước sẽ giúp quỹ BHXH ổn định và bền vững.
Kiểm toán Nhà nước: Đảm bảo sự minh bạch trong việc quản lý tài chính, kiểm tra các
khoản thu, chi của quỹ BHXH, và giảm thiểu hành vi lạm dụng quỹ. Kinh nghiệm quốc tế:
Canada, Nhật Bản: Các quốc gia này đều duy trì cơ chế kiểm soát quỹ hưu trí rất chặt
chẽ, đảm bảo không có sự can thiệp hoặc đầu tư không an toàn vào các tài sản có rủi ro cao.
Thụy Điển: Họ đã áp dụng các phương pháp đầu tư quỹ hưu trí rất thận trọng, chỉ đầu tư
vào trái phiếu chính phủ và các tài sản có mức độ rủi ro rất thấp. Kết luận:
Việc duy trì kiểm soát chặt chẽ từ Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước sẽ đảm bảo an toàn
tài chính dài hạn cho quỹ BHXH, giúp bảo vệ quyền lợi của người lao động và người
hưởng chế độ BHXH, đồng thời tăng cường tính minh bạch trong quản lý quỹ an sinh xã hội.
Câu 11: Một số đề xuất gần đây cho rằng nên thành lập một cơ quan đầu tư tài
chính độc lập để quản lý việc đầu tư quỹ BHXH (như mô hình Canada hoặc Hà
Lan), tách rời với BHXH Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả sinh lời và giảm xung
đột lợi ích giữa đơn vị quản lý và đơn vị chi trả. Anh/Chị hãy:
a) Phân tích ưu và nhược điểm của đề xuất trên trong bối cảnh Việt Nam hiện nay
b) Nêu quan điểm của anh/chị: nên áp dụng hay không? Giải thích rõ lập luận
c) Nếu áp dụng, cần có điều kiện hay cơ chế gì để đảm bảo hiệu quả và an toàn?
a) Phân tích ưu và nhược điểm Ưu điểm:
Chuyên môn hóa cao: Tách đầu tư ra khỏi BHXH Việt Nam giúp tập trung nguồn lực,
nhân sự có chuyên môn tài chính cao, dễ theo kịp thị trường vốn và các công cụ đầu tư hiện đại.
Minh bạch và giảm xung đột lợi ích: BHXH Việt Nam hiện vừa là cơ quan tổ chức thực
hiện, vừa đầu tư quỹ. Việc này có thể dẫn tới thiên lệch hoặc thiếu khách quan. Nếu có cơ
quan độc lập, việc đầu tư được kiểm soát tốt hơn.
Kinh nghiệm quốc tế: Canada (CPPIB), Hà Lan (APG), Thụy Điển (AP Funds)... đều có
các quỹ đầu tư độc lập với bộ máy BHXH và đem lại hiệu quả sinh lời cao, ổn định. Nhược điểm:
Thiếu hành lang pháp lý: Việt Nam hiện chưa có cơ chế pháp lý đủ mạnh để điều chỉnh
hoạt động của một quỹ đầu tư tài chính lớn tách khỏi BHXH.
Nguy cơ rủi ro tài chính nếu buông lỏng kiểm soát: Nếu cơ quan mới hoạt động kém hiệu
quả, thiếu kiểm tra chặt chẽ thì có thể đầu tư sai, gây thất thoát lớn.
Chi phí vận hành lớn: Việc lập một cơ quan mới sẽ phát sinh thêm chi phí hành chính,
lương nhân sự, hạ tầng...
b) Quan điểm cá nhân: NÊN ÁP DỤNG nhưng có điều kiện
Tôi cho rằng nên tách hoạt động đầu tư quỹ BHXH ra khỏi BHXH Việt Nam, giao cho
một cơ quan chuyên nghiệp quản lý, nhưng phải đi kèm với cơ chế kiểm soát – giám sát
chặt chẽ, đảm bảo 3 nguyên tắc: an toàn – minh bạch – hiệu quả. Lý do:
Quỹ BHXH hiện nay đang đối mặt với bài toán mất cân đối dài hạn, nếu chỉ giữ tiền ở
ngân hàng hoặc trái phiếu Chính phủ thì lợi suất thấp (thường 3–5%/năm), không đủ bù
trượt giá và nghĩa vụ chi trả tương lai.
Tuy nhiên, BHXH không thể "chơi chứng khoán" như tư nhân nên cần một tổ chức có
năng lực chuyên môn đầu tư dài hạn, có trách nhiệm giải trình, và không bị can thiệp chính trị.
c) Điều kiện để áp dụng hiệu quả:
Hành lang pháp lý rõ ràng: Luật phải quy định cụ thể chức năng, giới hạn đầu tư, công
khai báo cáo đầu tư hằng quý/năm.
Hội đồng quản trị độc lập: Có đại diện từ Quốc hội, Bộ Tài chính, chuyên gia tài chính, công đoàn.
Cơ chế kiểm toán kép: Vừa kiểm toán nhà nước, vừa kiểm toán độc lập.
Giới hạn tỷ trọng tài sản rủi ro: Không đầu tư vào cổ phiếu đầu cơ, không gửi tiền vào
ngân hàng có tín dụng yếu.
Công khai lợi suất đầu tư định kỳ và cho phép người dân theo dõi Kết luận:
Việc tách cơ quan đầu tư quỹ BHXH ra khỏi BHXH Việt Nam là xu hướng hiện đại, phù
hợp với bối cảnh quỹ đang bị áp lực lớn. Tuy nhiên, phải làm từng bước thận trọng, song
song với việc cải cách quản trị, minh bạch thông tin và nâng cao năng lực quản lý đầu tư công.
Câu 12: “Quỹ BHXH nên tập trung toàn bộ vào các kênh đầu tư có lợi suất cao như
bất động sản hoặc cổ phiếu để tăng trưởng nhanh, thay vì gửi tiết kiệm và mua trái
phiếu như hiện nay vốn mang lại lợi tức thấp.”
Anh/chị có đồng ý không? Phân tích cơ hội – rủi ro và liên hệ quốc tế. Trả lời:
Tôi không hoàn toàn đồng ý với đề xuất này. Việc đầu tư quỹ BHXH phải ưu tiên an toàn
và bền vững, thay vì chỉ tối đa hóa lợi nhuận, vì đây là quỹ an sinh xã hội chứ không phải
một quỹ đầu tư thương mại.
1. Về bản chất của Quỹ BHXH:
Là quỹ tài chính phục vụ chi trả lương hưu, thai sản, tử tuất... cho hàng triệu người.
Theo Điều 121 Luật BHXH 2024, nguyên tắc đầu tư là: “an toàn – bền vững – hiệu quả”;
ưu tiên trái phiếu chính phủ dài hạn.
2. Cơ hội khi đầu tư vào cổ phiếu, bất động sản:
Lợi suất trung bình cao hơn gửi tiết kiệm (cổ phiếu có thể đạt 10–12%/năm, BĐS tăng giá nhanh).
Có thể tăng trưởng nhanh quy mô quỹ nếu đầu tư đúng thời điểm và ngành.
3. Nhưng rủi ro rất lớn:
Biến động thị trường: BĐS và cổ phiếu phụ thuộc chu kỳ kinh tế. Nếu khủng hoảng xảy
ra (như 2008, 2020), quỹ có thể mất giá trị nghiêm trọng.
Thiếu công khai minh bạch: Việt Nam chưa có hệ thống giám sát đầu tư quỹ hưu trí đủ
mạnh để ngăn xung đột lợi ích, đầu tư sai mục đích.
Tiền của người dân: Không thể lấy nguồn tiền sống còn để “mạo hiểm” với hy vọng sinh lời cao. 4. Kinh nghiệm quốc tế:
Canada (CPPIB): đầu tư đa dạng nhưng có hội đồng quản trị độc lập, kiểm toán nghiêm ngặt.
Thụy Điển (AP Funds): chỉ cho phép đầu tư một phần nhỏ vào cổ phiếu, còn lại là trái phiếu chính phủ.
→ Không nước nào dùng toàn bộ quỹ BHXH để đầu tư rủi ro. 5. Kết luận:
Quỹ BHXH chỉ nên phân bổ một tỷ lệ nhỏ vào kênh lợi suất cao, còn lại vẫn cần đặt an
toàn – ổn định lên hàng đầu. Đầu tư rủi ro cao có thể mang lại lợi nhuận nhất thời, nhưng
sự mất niềm tin của người dân sẽ khiến BHXH thất bại dài hạn.
Câu 13: “Một số người lao động cho rằng: Tôi không cần tham gia BHXH vì có thể
tiết kiệm riêng hoặc đầu tư sinh lời cao hơn.”
Anh/chị phản biện dựa trên lý luận BHXH và thực tế.
Quan điểm trên là phiến diện và nguy hiểm, vì đã đánh đồng BHXH với tiết kiệm cá
nhân, trong khi hai thứ này hoàn toàn khác nhau về bản chất và chức năng.
1. BHXH là chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, không phải đầu tư cá nhân:
BHXH thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ rủi ro giữa các thế hệ, không phụ thuộc hoàn
toàn vào đóng – hưởng cá nhân.
Dù người lao động đóng ít nhưng nếu không may bị tai nạn, bệnh hiểm nghèo, tử tuất…
thì vẫn được bảo vệ rất lớn, trong khi tiết kiệm cá nhân không thể chi trả đủ chi phí.
2. BHXH có tính ổn định và đảm bảo lâu dài:
Người đóng BHXH được hưởng trọn đời lương hưu nếu đủ điều kiện.
Ví dụ: một người đóng BHXH 22% trong 20 năm (~528 triệu đồng), có thể nhận hơn 1,2
tỷ đồng tiền hưu sau 20 năm (chưa kể BHYT, tử tuất).
3. Đầu tư cá nhân có thể sinh lời cao, nhưng không ổn định:
Gửi ngân hàng hoặc đầu tư cổ phiếu, bất động sản đều có rủi ro. Khi gặp khủng hoảng,
tài sản có thể mất giá trị rất nhanh.
Tiết kiệm cá nhân không bao gồm các chế độ như thai sản, tử tuất, ốm đau, TNLĐ – BNN... Kết luận:
BHXH là cơ chế an sinh bắt buộc vì lợi ích chung và tính ổn định dài hạn. Không nên so
sánh nó với tiết kiệm cá nhân, càng không nên từ chối tham gia chỉ vì nghĩ rằng “đầu tư
lời hơn”. Người lao động nên kết hợp cả BHXH và tiết kiệm riêng, chứ không thay thế lẫn nhau
Câu 14: Một số đề xuất gần đây cho rằng nên chuyển toàn bộ việc chi trả các chế độ
BHXH (như lương hưu, ốm đau, thai sản...) sang hệ thống ngân hàng thương mại để
tiện lợi hơn, thay vì để BHXH Việt Nam trực tiếp chi trả như hiện nay. Anh/chị hãy:
a) Phân tích ưu và nhược điểm của đề xuất trên trong bối cảnh hiện nay.
b) Đề xuất hướng tổ chức chi trả BHXH hiệu quả hơn, có tính bảo mật, giảm rủi ro và
thuận tiện cho người dân.
c) Liên hệ quy định của Luật BHXH 2024 về trách nhiệm chi trả và cơ chế kiểm soát chi trả.
a) Ưu điểm của việc chi trả qua ngân hàng:
Tiện lợi, nhanh chóng: Người dân không cần đến cơ quan BHXH, chỉ cần có tài khoản.
Giảm chi phí nhân sự chi trả, đại lý xã/phường.
Tăng minh bạch, dễ kiểm tra – kiểm toán nhờ lưu trữ điện tử. Nhược điểm:
Người hưởng vùng sâu, vùng xa có thể không có tài khoản ngân hàng, thiếu hạ tầng kết nối.
Nguy cơ lộ lọt thông tin cá nhân nếu ngân hàng quản lý dữ liệu BHXH không tốt.
Phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng: nếu ngân hàng gặp sự cố (đóng băng tài khoản, lỗi hệ
thống), người dân sẽ không thể tiếp cận tiền hưu, trợ cấp.
b) Đề xuất mô hình tổ chức chi trả tối ưu:
Áp dụng mô hình kết hợp linh hoạt:
Người dân có tài khoản: chi qua ngân hàng (tùy chọn ngân hàng).
Người dân không có tài khoản: vẫn nhận qua đại lý chi trả tại xã/phường.
Tăng cường công khai lịch chi, tra cứu online, gửi SMS thông báo.
Phải có tổng đài hỗ trợ lỗi giao dịch và cơ chế xử lý sự cố trong 24 giờ.
c) Liên hệ quy định pháp luật:
Luật BHXH 2024 – Điều 134 & Điều 135: BHXH Việt Nam tổ chức thu – chi, chịu trách
nhiệm chi trả chế độ BHXH đúng, đủ, kịp thời.
Quyết định 60/2015/QĐ-TTg: BHXH được cấp 0,78% chi phí để chi trả, trong đó 63% có
thể chi cho đại lý chi trả.
Việc chi trả qua ngân hàng là phù hợp xu hướng chuyển đổi số, nhưng không thể áp dụng
đồng loạt, cần chuyển dần và có phương án cho nhóm dễ bị tổn thương.
Câu 15: Từ 01/7/2024, mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh tăng. Nhiều doanh
nghiệp đã không điều chỉnh tiền lương đóng BHXH tương ứng, khiến hàng ngàn
NLĐ bị thiệt thòi trong các khoản trợ cấp như thai sản, ốm đau, hưu trí. Anh/chị hãy:
a) Phân tích vì sao việc không điều chỉnh lương đóng BHXH theo mức lương tối thiểu là vi phạm pháp luật.
b) Nêu rõ hậu quả pháp lý và quyền của NLĐ trong trường hợp này.
c) Đề xuất cơ chế giám sát chủ động để phát hiện tình trạng nêu trên. a) Vi phạm pháp luật:
Theo Điều 89 Luật BHXH 2024, lương đóng BHXH không được thấp hơn mức lương tối
thiểu vùng tại thời điểm đóng.
Từ 01/7/2024, nếu DN vẫn đóng BHXH theo mức cũ (ví dụ: 3.250.000 đ/tháng ở vùng
IV thay vì 3.450.000 đ) là trốn đóng một phần nghĩa vụ, xâm phạm quyền lợi NLĐ.
b) Hậu quả và quyền của NLĐ:
NLĐ bị thiệt khi tính các khoản trợ cấp:
Thai sản (100% lương bình quân đóng 6 tháng) → thấp hơn thực tế
Lương hưu → tính thấp hơn dẫn đến giảm mức hưởng trọn đời NLĐ có quyền:
Khiếu nại lên BHXH (theo Điều 128, Luật BHXH 2024)
Tố cáo hành vi vi phạm đến cơ quan thanh tra lao động
Khởi kiện ra Tòa án nếu DN cố tình trốn tránh
c) Cơ chế giám sát nên áp dụng:
BHXH phối hợp với cơ quan thuế và Sở LĐ-TB&XH để rà soát bảng lương và mức
lương tối thiểu vùng định kỳ.
Xây dựng cảnh báo tự động trên hệ thống nghiệp vụ BHXH: DN nào kê lương thấp hơn
mức tối thiểu sẽ bị báo động và thanh tra.
Công đoàn cơ sở chủ động kiểm tra hợp đồng lao động, kê khai mức đóng và hỗ trợ NLĐ
nộp đơn tố cáo nếu phát hiện sai phạm.