BÀI 2: CHẾ BẢO HIẾN VIỆT NAM: LỊCH SỬ, HIỆN TẠI, THÁCH THỨC TRIỂN VỌNG
I. CƠ CHẾ BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM QUA 5 BẢN HIẾN PHÁP (CƠ CHẾ BẢO HIẾN TRONG LỊCH SỬ LẬP HIẾN
VN)
Kinh nghiệm lập hiến của nhân loại đã chỉ ra rằng, một bản hiến pháp muốn đảm bảo được tính tối cao không phụ thuộc vào bản
hiến pháp đó có dành ra 1 điều khoản để quy định về tính tối cao hay không mà phụ thuộc vào 3 yếu tố sau đây:
Một là quyền lập hiến thuộc về ai: Nếu quyền lập hiến thuộc về nhân dân thì bản HP đó sẽ tối cao, ngược lại nếu bản HP thuộc về
CQNN thì bản HP đó chỉ là một công cụ trong tay nhà cầm quyền.
Hai là thủ tục sửa đổi, bổ sung HP: càng phức tạp thì HP càng bất khả xâm phạm, càng tối cao và ngược lại nếu sửa HP hời hợt, dễ
dài thì HP trở thành công cụ trong tay nhà cầm quyền.
Ba chế bảo hiến hữu hiệu hay không: HP luật nội dung thì những hành vi, văn bản vi hiến phải được đem ra xử lý.
Vì vậy chúng ta sẽ nghiên cứu lịch sử lập hiến VN theo 3 tiêu chí vừa nêu.
TIÊU
CHÍ SO
SÁNH
HIẾN PHÁP 1946
HIẾN PHÁP 1959, 1980, 1992
HIẾN PHÁP 2013
Chủ th
Quyền lập hiến thuộc về nhân dân
Quyền lập hiến thuộc về QH, NN
Rất nỗ lực cố gắng thể hiện lại
thực hiện
cho nên bản HP 1946 thật sự một
Căn cứ vào: lời nói đầu, nhng
tưởng quyền lập hiến thuộc về nhân
quyền lập
bản hợp đồng, một bản khế ước hội
chương quy đình về QH.
dân (không như HP 46)
hiến
như Rut đã nói.
(i) Lời nói đầu của những bản
Căn cứ vào lời nói đầu, Điều 69 HP 2013
Để khẳng định bản HP 46 thể hiện
HP này nhìn chung rất cương lĩnh,
khi quy định về QH, Điều 119, Điều 120.
quyền lập hiến thuộc về nhân dân dựa
dài dòng (đặc biệt HP 80).
(i) Lời i đầu của bản HP này đã
vào lời nói đầu, chương 3, sắc lệnh 83
các bản HP này kể về thành quả,
viết ngắn gọn lại, bỏ hết những đoạn về
của Chủ tịch HCM.
chiến
công
của
cách
mạng
VN,
lịch sử, chiến công của CMVN. Đáng
(i) Lời
nói đầu: rất
ngắn
gn,
những trang sử hào hùng của lịch
chú ý đoạn cuối của lời nói đầu HP
không tuyên ngôn, không cương lĩnh,
sử. Nhưng lời nói đầu của các bản
2013 câu sau đây: “Nhân dân VN ra
không
dài
dòng
nhưng
lại
toát
lên
HP này không trả lời được câu hỏi
sức xây dựng bản HP này mục tiêu dân
được, thể hiện được hai nội dung
quyền lập hiến thuộc về ai HP
giàu, nước mạnh, hội công bằng văn
bản bất cứ một lời nói đầu nào của
làm ra bằng phương pháp nào
minh …” ý đồ của các nhà lập hiến
một bản HP trên TG cũng đều hướng
(nghệ thuậttránh lấp liếm).
khẳng định HP 2013 công sức, trí tuệ
tới giải quyết: quyền lập hiến thuộc về
(ii) Chương về QH trong các
của cả nhân dân VN.
ai? (quyền lập hiến thuộc về ai) Bản
HP này được làm ra dựa trên những
nguyên tắc nào? (làm ra như thế nào).
Theo đó lời nói đầu của HP 1946
đoạn viết như sau: “được quốc dân
trao cho nhiệm vụ thảo bản HP này,
QH nhận thấy rằng …”. Như vậy,
đoạn văn trên ý nghĩa quyền lập
ra HP thuộc về nhân dân toàn quốc,
nhưng do điều kiện hoàn cảnh thực tế
của đất nước lúc bấy giờ như: 95%
dân số chữ, 2 triệu người mới vừa
chết đói, 2 triệu đồng bạc rách trong
ngân sách, an ninh chính trị phức tạp,
đa đảng, thù trong giặc ngoài,
với tình hình này nhân dân không thể
trực tiếp làm HP được, cho nên nhân
dân mới trao quyền lập hiến đó cho
QH lập hiến QH này chức năng
thay mặt nhân dân để thông qua một
bản HP rồi sẽ giải tán. Trên sở của
HP 1946, thì nước ta sẽ tổ chức một
cuộc tổng tuyển c để bầu ra Nghị
viện nhân dân chức năng lập pháp,
làm ra thường luật
Như vậy, QH được đề cập đến
trong lời nói đầu của HP 1946
được hiểu QH lập hiến. Còn
Nghị viện nhân dân được quy định
trong chương 3 ca HP 46 được
hiểu quan lập pháp chỉ
chức năng m ra thường luật
(Điều 23 của HP 46 quy định Nghị
viện nhân dân chỉ quan
bản HP này đều quy định rằng: QH
quan duy nhất quyền lập
hiến và lập pháp
Bình luận quy định này:
- Với hai từ duy nhất” đã thể
hiện sự quyết tâm, ý chí sắt đá
của các nhà lập hiến chỉ
QH mới quyền lập hiến,
ngoài QH không còn quan
nào khác suy tôn QH QH
toàn quyền mặc dù, nếu
không ng hai từ “duy nht”
thì QH vẫn chỉ quan
quyền lập hiến việc dùng hai
từ này hơi thừa thải không
pháp lý. Không pháp chỗ:
đây là văn nói.
- Với việc khẳng định là: muốn
thông qua HP chỉ cần 2/3 tổng
số đại biểu QH biểu quyết tán
thành, các nhà lập hiến lập
luận rằng: việc thông qua HP
khó n thông qua đạo luật
thường (thông qua một đạo luật
thường chỉ cần quá bán số đại
biểu QH). Tuy nhiên, đặt trong
bối cảnh QH VN QH đơn
viện VN hơn 95% đại
biểu QH
người của
một
Đảng vậy để tìm kiếm
được sự thống nhất cao từ 90%
số phiếu trở lên một điều quá
dễ dàng.
Với việc trao quyền lập hiến
(ii) Điều 69 HP 2013: khi quy định
về chức năng của QH thì hai điểm mới
sau đây (so với HP 92):
- Bỏ đi hai từ duy nhất” diễn
đạt lại chức năng lập hiến, lập pháp của
QH một cách vừa phải mang tính
pháp hơn. Việc bỏ đi hai chữ duy
nhất” có ý nghĩa sau đây:
+ Không thể quy định QH quan duy
nhất quyền lập hiến bởi đa số các
nước trên thế giới đều quan niệm quyền
lập hiến phải thuộc về nhân dân.
VN ta trong điều kiện hoàn cảnh hiện
nay: trình độ dân trí còn thấp, kinh tế còn
nghèo, cho nên người dân không thể
thực hiện cuộc trưng cầu dân ý trực tiếp.
vậy, người dân mới tạm giao cho QH
quyền lập hiến cho QH QH thay mt
nhân dân làm ra bản HP đó Điều này
nghĩa đến một lúc nào đó, người
dân đủ điều kiện để tự mình thông qua
HP thì QH phải trả quyền lập hiến trả v
cho nhân dân không thể quy định QH
duy nhất lập hiến.
+ Cũng không nên quy định QH
quan duy nhất quyền lập pháp bởi
nhìn chung lập pháp một quy trình rất
phức tạp với rất nhiều công đoạn sự
tham gia của rất nhiều chủ thể khác nhau
tự thân QH thì không thể nào m luật
được: Hơn 95% dự án luật do CP viết
(đây giai đoạn quan trọng nhất của 1
quy tình làm luật). Dự án đó được các
nhà khoa học, các chuyên gia các cấp,
quyền làm ra các đạo luật chứ
không quyền lập hiến lập
pháp như QH bây giờ)
HP 46 sự phân biệt rạch ròi giữa
QH lập hiến và Nghị viện lập pháp
đây cách ban hành HP
phù hợp với xu thế chung văn
minh nhân loại.
(ii)
Để củng cố thêm những căn cứ
pháp để thấy tưởng quyền lập
hiến thuộc về nhân dân rất nét
trong HP 46. thể căn cứ thêm vào
sắc lệnh 83 của Chủ tịch HCM năm
1945. Sắc lệnh này đã đặt nền tảng cho
cuộc tổng tuyển c ngày 6/1/1946
trong sắc lệnh này quy định
cuộc tổng tuyển cử 6/1/1946 mục
đích lập ra QH lập hiến, thay mặt nhân
dân làm ra bản HP rồi giải tán. Trên
sở đó, chúng ta sẽ tổ chức một cuộc
tổng tuyển cứ khác để bầu ra Nghị
viện lập pháp NV này chỉ chức
năngm ra thường luật thường luật
này phải hợp hiến. Tuy nhiên, vào
9/11/1946, tại ngày làm việc thứ 22 kỳ
họp thứ 2 Nghị viện khóa 1, tập thể
NV đã bỏ phiếu nhất trí thông qua bản
HP này với 242 phiếu thuận 2 phiếu
chống (NV khóa 1 bầu ra 333 đại
biểu nhưng tại kỳ họp này ngày làm
việc đó chỉ 244 người tham dự).
bản HP này đang trong giai đoạn chờ
Chủ tịch nước ký lệnh công bố thì
cuộc kháng chiến toàn quốc đã bùng
cho QH thông qua HP với 1 thủ
tục đơn giản nhẹ nhàng thì nhìn
chung không phù hợp với xu
thế chung của nhân loại, việc áp
dụng một hình QH vừa lập
hiến vừa lập pháp sẽ dẫn đến nhiều
nguy cơ nguy hiểm:
Một chúng ta đã đặt QH 1
quan nhà nước cao hơn HP
HP không kiểm soát được NN
HP dễ trở thành công cụ trong tay
QH để quản dân như thường
luật.
Hai đặt HP v thế tương
đương với thường luật, không hề
sự phân biệt giữa HP và thường
luật rất khó có dân chủ.
các ngành đóng góp ý kiến, các quan
chuyên môn sẽ thẩm tra dự luật đó QH
chỉ bấm nút” thảo luận để thông qua
một dự luật mà thôi. thảo luận thông
qua một dự luật chỉ một khâu một giai
đoạn để để thông qua 1 dự luật
vậy cần phải phân biệt làm luật #
thông qua luật (=lập pháp), lập pháp chỉ
là một khâu của làm luật.
-
Nếu HP 92 quy định QH
quan duy nhất quyền lập hiến lập
pháp cách quy định này chứng tỏ HP
92 coi quyền lập hiến lập pháp
một, đánh đồng lập hiến lập pháp
một quyền từ đó dẫn đến một duy
nguy hiểm đáng đồng giữa HP với
thường luật việc đánh đồng giữa HP
với thường luật lại tiếp tục dẫn đến điều
nguy hiểm tình biến HP thành một
công cụ trong tay NN để quản dân
như thường luật đây một điều
không phù hợp w xu thế chung, văn
minh nhân loại, xa lạ w dân chủpháp
quyền.
Rút kinh nghiệm này Điều 69 HP
2013 sửa lại QH quan thực hiện
quyền lập hiến, lập pháp quyền lập
hiến, lập pháp hai quyền khác nhau
độc lập với nhau. Theo đó, quyền lập
hiến bao giờ cũng thuộc về nhân dân,
nhân dân sẽ bằng một bản HP (bản HP
như một bản hợp đồng, một bản khế
ước) để ấn định 3 quyền lực còn lại
(hành pháp, lập pháp, pháp) trao
nổ (người La một câu nói nổi
tiếng: khi tiếng súng gầm lên thì luật
pháp sẽ im tiếng) cho nên thể nói
những giá trị tinh thần của chưa
được áp dụng nhiều chuyên gia cho
rằng HP 46 được như một tia sáng
lóe lên đài chính trị của VN trong
một thời khắc ngắn ngủi rồi chợt liệm
tắt đi trong tiếng súng đạn của đại
bác).
Như vậy, do hoàn cảnh chiến tranh
lan rộng nên không thể nào tổ chức
tổng tuyển cử bầu ra NV lập pháp.
vậy, QH lập hiến mới chuyển sang m
nhiệm vụ của một QH lập pháp.
theo quy định của HP 46 thì NV lập
pháp chỉ nhiệm k3 năm thôi,
nhưng do hoàn cảnh chiến tranh mà
NV khóa 1 của VN đã kéo dài suốt 13
năm NV nhiệm kỳ dài nhất trong
lịch sử VN (mãi cho đến năm 1959 khi
hòa bình đã lập lại miền Bắc thì
chúng ta mới hội để tổng tuyển
cử ở miền Bắc bầu ra QH khóa 2).
TÓM LẠI: NV khóa 1 VN 2
điểm đặc biệt:
- Ban đầu lập ra chỉ để lập hiến
nhưng sau đó chuyển sang lập
pháp.
- NV kéo dài suốt 13 năm dài nhất
trong lịch sử
Hai sự đặc biệt trên chỉ được giải
thích bởi 1 do duy nhất chiến
tranh lan rộng, kháng chiến bùng nổ
cho quan nào, kiểm soát nhau như
thế nào quyền lập hiến phải quyền
nguyên thủy, đặt trên 3 quyền lập - hành
- pháp. Sự phân biệt lập pháp lập
hiến sẽ dẫn đến việc phân biệt rạch ròi
HP thường luật (khác nhau ít nhất 4
điểm chủ thể ban hành, thủ tục sửa
đổi, mục đích ra đời nội dung bản,
giá trị của HP). Bên cạnh đó, sự phân
biệt HP và thường luật càng ràng thì
hội càng dân chủ HP đã trở
thành một đạo luật mang ý nghĩa nhân
văn sâu sắc bảo vệ con người trước
nhà cầm quyền.
(iii) Điều 119 (giá trị hiệu lực của
một bản HP), Điều 120 (thủ tục sửa
HP) được phân tích trong tiêu chí 2
3
** ý kiến cho rằng, để quyền lập
hiến thật sự thuộc về nhân dân tnên
tiếp thu kinh nghiệm của bản HP 1946
tổ chức 2 QH theo đó có QH lập hiến
riêng và QH lập pháp riêng
Tuy nhiên ý kiến y không hợp
lý không khả thi ở chỗ: kinh nghiệm lập
hiến của nhân loại đã chỉ ra rằng: việc tổ
chức 2 QH để lập hiến lập pháp chỉ
ý nghĩa khi CM vừa mới thành công và
QG đó mới bắt tay vào viết bản HP đầu
tiên. Còn trong thực tế hiện nay, thì việc
để quyền lập hiến thuộc về nhân dân
chỉ được thể hiện tập trung khâu thủ
tục sửa HP. Nếu việc sửa HP đem ra
trưng cầu dân ý hoặc phúc quyết thì vẫn
(vào thời điểm QH lập hiến chuyển
sang làm nhiệm vụ của NV lập pháp
thì Bác đã xin thêm 70 ghế trong NV,
đại diện cho Việt Quốc Việt Cách
không qua bầu cử - để đại diện đầy
đủ của các đảng phái)
đảm bảo quyền lập hiến thuộc về nhân
dân.
Thủ tục
sửa đổi,
bổ sung
HP
Thủ tục sửa đổi, bổ sung rất phức
tạp, chặt chẽ, làm cho bản HP 46 rất
cương tính và bất khả xâm phạm.
Theo Điều 70 HP 1946, thủ tục sửa
đổi như sau:
- Chỉ ít nhất 2/3 tổng số nghị
mới quyền đề nghị với NV v
việc sửa đổi HP QH m 1946
một QH đa đảng, phức tạp, cho nên để
tìm được quá bán 51% một điều
khó khăn, để m được 2/3 một
điều không tưởng. Như vậy, HP không
phải một món đồ chơi, khó thể
sửa.
- QH lập một ủy ban để dự thảo
về những điều sửa đổi.
- Dự thảo sửa đổi phải được ít
nhất 2/3 tổng số nghị biểu quyết tán
thành (đa đảng, phức tạp cho nên 2/3
không tưởng). Tuy nhiên đây mới
điều kiện cần để sửa HP chứ chưa phải
là điều kiện đủ.
- Điều kiện đủ: Sau khi được NV
thông qua thì bản HP đó phải đem ra
toàn thể nhân dân phúc quyết.
LƯU Ý: cần phân biệt trưng cầu
dân ý với lấy ý kiến nhân dân; phúc
Thủ tục sửa đổi, bổ sung nhìn
chung rất đơn giản, dễ dàng cho
nên không phù hợp w xu thế
chung, không đảm bảo được tính
tối cao của Hiến pháp.
Điều 147 của Hiến Pháp 1992
rất nhiều hạn chế và bất cập, cụ
thể là:
- Không quy định chủ thể nào
quyền đề nghị với QH về việc
sửa đổi bổ sung HP (tức không
quy định về sáng quyền lập
hiến) dẫn đến một cách hiểu khá
tùy tiện ai cũng quyền đề
xuất sửa đổi, bổ sung nếu hiểu
như thế thì HP không còn bất khả
xâm phạm và tối cao nữa.
- Không quy định dự thảo sửa
đổi, bổ sung HP phải đem ra lấy ý
kiến toàn thể nhân dân như một
thủ tục bắt buộc. vậy không
đảm bảo tính khế ước, tính thương
lượng, tính thỏa hiệp của một bản
hợp đồng đã trở thành sự áp đặt
một chiều từ quan soạn thảo.
Điều này không phù hợp w xu thế
chung văn minh nhân loại,
Rút kinh nghiệm này, Điều 120 HP
2013, đã 3 điểm mới quan trọng sau
đây so với Điều 147 HP 92:
-
Hiến pháp 2013 đã quy định chỉ
1 trong 4 chủ thể sau đây mới
quyền đề nghị QH sửa đổi, bổ sung HP
(sáng quyền lập hiến):
+ Uỷ ban thường vụ QH
+ Chủ tịch nước
+ Chính Phủ
+ Ít nhât 1/3 tổng số đại biểu yêu cầu.
Với quy định này hạn chế sự tùy tiện
và đảm bảo tính tối cao, bất khả xâm
phạm của HP.
- Sau khi đã hoàn tất dự thảo những
điều sửa đổi, thì ban dự thảo (Cơ quan
trách nhiệm soạn thảo những điều sửa
đổi) phải đem dự thảo ra cho toàn thể
nhân dân đóng góp ý kiến. Đây thủ tục
bắt buộc. Trưởng ban dự thảo phải tổng
hợp ý kiến của nhân dân và báo cáo, giải
trình w QH một cách chi tiết, tường tận
ban dự thảo đã tiếp thu ý kiến nào
sao tiếp thu, không tiếp thu ý kiến nào
sao không tiếp thu. Qua đó, thể
hiện tính thỏa ước, thương lượng của
một bản hợp đồng phản ánh được sự
quyết.
+ Trưng cầu dân ý với lấy ý kiến
nhân dân khác nhau về mặt bản
chất.
Theo đó kết quả của cuộc trưng cầu
dân ý chỉ gtrị tham khảo đối với
CQNN (CQNN thể tiếp thu hoặc
không tiếp thu) CQNN phải chịu
trách nhiệm đối với quyết định của
mình.
Còn lấy ý kiến nhân dân thì kết quả
ý nghĩa bắt buộc thực hiện đối với
CQNN người chịu trách nhiệm cuối
cùng là người dân.
+ Trưng cầu dân ý phúc quyết:
Giống nhau chỗ đều dân quyết
kết quả ý nghĩa bắt buộc thực hiện
đối với quan nhà nước, người chịu
trách nhiệm cuối cùng là dân.
Khác nhau cách làm. Đối với trưng
cầu dân ý thì được đem ra để dân bỏ
phiếu. Còn phúc quyết thì phải đưa ra
cho NV đồng ý trước sự đồng ý của
NV giá trị vấn định hướng cho
người dân sau khi NV quyết thì mới
đưa ra cho dân, việc đưa ra cho dân chỉ
để phúc tra kiểm tra lại ý của dân
giống với NV không.
BÌNH LUẬN VỀ TH TỤC SỬA
ĐỔI HP NÀY:
(i) Thủ tục này phù hợp w văn
minh nhân loại, xu thế chung đảm
bảo được giá trị tối cao của HP.
(ii) Cho thấy một sự sáng của c.
không đảm bảo quyền lập hiến
thuộc về nhân dân.
-
Quy định QH quan
quyền sửa đổi HP với ít nhất 2/3
tổng số đại biểu QH tán thành.
Quy định này cho thấy quyền lập
hiến thuộc về QH, thuộc về CQNN
dễ dẫn đến nguy biến HP
thành công cụ trong tay NN để
quản dân như thường luật; sự
khác biệt giữa HP thường luật
rất mập mờ, không nét. Mặc
các nhà lập hiến giải thích rằng:
thủ tục sửa đổi HP phức tạp hơn
đạo luật thường chỗ: muốn sửa
đổi thường luật thì chỉ cần quá bán
tổng số đại biểu QH biểu quyết tán
thành được, còn HP phải ít nhất
2/3 tổng số đại biểu QH tán thành.
Tuy nhiên, nếu đặt trong điều kiện
VN ta, QH theo hình đơn
viện trong điều kiện 1 Đảng
cầm quyền, n 95% đại biểu QH
người 1 Đảng để tìm kiếm sự
đồng thuận nhất trí cao trong
QH là một điều quá dễ dàng.
KẾT LUẬN: thủ tục sửa đổi, bổ
sung HP của VN được xét vào nhu
tính, dễ dàng không phù hợp.
bình đẳng qua lại 2 bên của một bản
hợp đồng góp phần bảo đảm quyền lập
hiến thuộc về nhân dân.
- Vẫn quy định QH quan
thẩm quyền sửa đổi HP nếu ít nhất 2/3
tổng số đại biểu QH tán thành, nhưng
bổ sung thêm một quy định mới như sau:
trong trường hợp cần thiết thì QH sẽ
quyết định trưng cầu dân ý về Hiến pháp.
BÌNH LUẬN VỀ ĐIỂM MỚI NÀY:
nỗ lực chung của các nhà lập hiến để
dung hòa giữa làm sao để bảo đảm
quyền lập hiến thuộc về nhân dân”
nhưng “phải phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh vkinh tế, dân trí, văn hóa, hội,
an ninh của VN hiện tại” (trong điều kiện
hiện nay VN do trình độ dân trí còn
thấp, kinh tế còn khó khăn, an ninh còn
phức tạp nên không để cho nhân dân sửa
HP được, buộc phải giao cho QH thay
mặt dân để sửa HP. Nhưng nếu giao toàn
quyền cho QH thì dẫn đến nguy
quyền lập hiến không thuộc về nhân n,
HP trở thành công cụ trong tay NN để
quản dân. thế, các nhà lập hiến m
2013 đành phải chọn một giải pháp dung
hòa giao cho QH được thay mặt dân
quyết định sửa HP. Tuy nhiên, khi điều
kiện hoàn cảnh đã thay đổi, trình độ dân
trí cao, an ninh chính trị đỡ phức tạp và
QH nhận thấy nội dung nào phù hợp
nhu cầu để dân quyết thì QH sẽ quyết
định trưng cầu dân ý).
Bởi vì, thủ tục này độc nhất nhị chỉ
trong HP 46 của VN. Cho đến ngày
nay, trên thế giới không một cách
sửa đổi nào giống trong HP 46 của
VN. Với sự sáng tạo này đã dung hòa
được cái gọi quyền lập hiến phải
thuộc về nhân dân, nhưng phải phù
hợp w điều kiện dân trí và kinh tế,
hội của đất nước.
Hiệu lực
của HP
cơ chế
bảo hiến
HP 1946 không một điều luật nào
quy định về hiệu lực của HP chế
bảo hiến.
Không một điều luật nào quy
định về hiệu lực của HP vì: Bác
các nhà lập hiến năm 1946 nhận thức
rằng tính tối cao của một bản HP được
xem chân lý, sự thật hiển nhiên nên
không cần quy định trong HP (Hầu hết
các ớc trên TG đều cách nhận
thức như thế). Trên thực tế một bản HP
thật sự tối cao hay không hoàn
toàn phụ thuộc vào 3 yếu tố:
(i) Quyền lập hiến thuộc về
nhân dân hay không (HP 1946 đã đảm
bảo tốt tiêu chí này)
(ii) Thủ tục, bổ sung HP nhiêu
khê, phức tạp không (HP 46 cũng đảm
bảo rất tốt tiêu chí này)
(iii) Có cơ chế bảo vệ HP một cách
chuyên trách và hiệu quả hay không.
Hiến pháp 1946 đã bảo đảm được hai
tiêu
chí,
không
tiêu
chí
thứ
3
HP 1959 1992: Đều giành ra
một điều luật để quy định về tính
tối cao trong HP. Tuy nhiên, cách
quy định rất hạn chế, bất cập
hở.
Cụ thể Điều 146 HP 1992
những điểm hạn chế sau:
(i) Quy định HP nước
CHXHCNVN luật bản của
Nhà nước. Với quy định này, làm
cho người ta suy nghĩ rằng từ
“Nhà nước” để chỉ cán bộ, công
chức NN, để chỉ quan NN, bộ
máy NN để chỉ nhà cầm quyền,
người mang quyền lực (tức chỉ
khoảng 4 triệu cán bộ, công chức –
người đang mang quyền lực
thực thi quyền lực VN) với
cách hiểu này tình biến HP
thành công cụ trong tay NN để
quản dân như thường luật. Điều
này hoàn toàn không phù hợp với
mục đích ra đời nội dung
Rút kinh nghiệm từ từ bản HP 92, Điều
119 HP 2013 3 điểm mới quan trọng
so với Điều 146 HP 1992:
(i) Hiến pháp luật bản của nước
CHXHCNVN. Điều này nghĩa HP
luật bản của đất nước VN, của dân
tộc, của toàn thể nhân dân VN. Như vậy,
quyền lập hiến thuộc về nhân dân; HP
thật sự ý chí của toàn dân, công cụ
trong tay của người dân để kiểm soát
nhà nước. Cách hiểu này phù hợp với xu
thế chung và văn minh nhân loại.
(ii) Quy định không chỉ văn bản
QPPL hợp hiến mọi hành vi vi
hiến của các quan chức đều phải xử
nghiêm minh, công bằng và xử như
vậy mới điều kiện để đảm bảo dân chủ
pháp quyền mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật.
(iii) quy định về trách nhiệm bảo
hiến chế bảo hiến (khoản 3 Điều
119) quy định này như một điều
kiện tiên quyết để bảo đảm tính tối cao,
(không chế bảo hiến)
Không quy định về chế bảo
hiến vì: tại thời điểm HP 46 được ban
hành thì vấn đề bảo hiến trên khắp thế
giới rất khai chưa nét: Châu
âu, trước 1920 chưa bảo hiến
NVTC thống trị; k từ 1920 TAHP
được thành lập đầu tiên Áo nhưng
chưa phổ biến; mãi đến sau thế chiến
thứ 2, thì người Đức công lao phát
triển TAHP thành một bài văn mẫu
được đa số các nước trên thế giới áp
dụng. Ngay cả Pháp thì mãi đến
1958 (tức 12 năm sau) thì Degaulle
mới thành lập HĐBH CHP Trên
TG, việc bảo hiến chỉ được đặt ra
rầm rộ từ nửa cuối TK 20 trở về sau
vậy HP 46 không quy định về
chế bảo hiến một điều dễ hiểu. Thực
tế ngày nay, các QG trên TG đều quy
định chế bảo hiến trong một đạo
luật chứ ít quy định trong HP. Chính
điều này mà lẽ Bác các nhà lập
hiến cho rằng: sau này khi tình hình ổn
định thì vấn đề bảo hiến sẽ được lựa
chọn được quy định trong một đạo
luật, không cần quy định trong HP.
bản của các bản HP trên thế giới
không phù hợp w văn minh
nhân loại.
(ii) Chỉ quy định mọi văn bản
quy phạm pháp luật phải hợp
hiến quy định này thiếu chỗ:
mới chỉ thừa nhận tính tối cao của
HP trong hệ thống pháp luật như
luật gốc, luật mẹ, xương sống
của HTPLQG. Tuy nhiên, HP
không chỉ tối cao trong HTPL
còn phải tối cao trong đời sống
XH. vậy, HP còn đặt ra yêu cầu
các hành vi của các quan chức
cũng phải hợp hiến, mọi hành vi vi
hiến đều phải được xử một cách
nghiêm minh, công bằng đó mới
điều kiện tiên quyết của tính tối
cao của một bản HP đảm bảo
dân chủ và pháp quyền.
(iii) Không quy định vtrách
nhiệm bảo hiến và cơ chế bảo hiến
(tố tụng HP, trình tự thủ tục để bảo
vệ HP) không tố tụng HP
cho nên đã làm cho quy định về
tính tối cao của HP chỉ tuyên
ngôn, cương lĩnh, hào. vậy,
tính tối cao của những bản HP này
không mang tính khả thi trong
thực tế.
bất khả xâm phạm của một bản HP. Quy
định này làm cho những tuyên bố về tính
tối cao của HP mới tính khả thi
khả năng áp dụng trong thực tế cuộc
sống. Tuy nhiên hiện nay kết thúc Điều
119 bằng một quy định: chế bảo hiến
do luật định” đồ của các nhà lập hiến
bảo hiến bằng chế nào, hình
nào sẽ được quyết định sau, QH sẽ
ban hành một đạo luật để quyết định
hình bảo hiến) nhìn chung quy định
này cũng phù hợp w thế giới (Ở Châu
âu, trước 1920 chưa bảo hiến
NVTC thống trị; kể từ 1920 TAHP được
thành lập đầu tiên Áo nhưng chưa phổ
biến; mãi đến sau thế chiến th 2, thì
người Đức công lao phát triển TAHP
thành một bài văn mẫu được đa số
các nước trên thế giới áp dụng. Ngay cả
Pháp thì mãi đến 1958 (tức 12 năm
sau) thì Degaulle mới thành lập HĐBH
CHP Trên TG, việc bảo hiến chỉ được
đặt ra rầm rộ từ nửa cuối TK 20 trở
về sau) tuy nhiên, vấn đề bảo hiến y
khá mới mẻ nhạy cảm, cho nên trong
10 năm qua từ khi HP 2013 được thi
hành đến nay, vấn đề bảo hiến VN vẫn
đang dậm chân tại chỗ - không tiến triển
trách nhiệm này phụ thuộc vào sự
nghiên cứu của chúng ta để tìm ra
hình bảo hiến thích hợp.
BÀI TẬP
Câu hỏi bắt buộc: Điều 119 HP 2013 quy định chế bảo hiến do luật định”. Anh chị hãy phân tích những nhu cầu phải một đạo
luật về cơ chế bảo hiến ở VN hiện nay (tại sao cần có cơ chế bảo hiến). Theo anh chị nếu QH có ban hành đạo luật này thì kết cấu và
nội dung chính của đạo luật này sẽ như thế nào?
Chọn 1 trong 3 chủ đề sau để làm:
1. ý kiến cho rằng VN hiện nay cần trao việc bảo hiến cho TP các TA thường như Mỹ - Nhật (đứng đầu tòa tối cao). Anh chị
hãy bình luận ý kiến trên. Theo anh chị nếu chúng ta trao quyền bảo hiến cho TA thường và đặc biệt TATC thì cần tái cấu trúc lại
TANDTC ở VN như thế nào? (chọn TP điều kiện tiêu chuẩn thế nào, cấu trúc TA, thủ tục bảo hiến trao thêm quyền gì)
2. ý kiến cho rằng VN để bảo vệ HP mộtch hữu hiệu thì cần thành lập TAHP. Nếu TAHP VN được thành lập thì theo anh chị
cấu trúc TAHP sẽ như thế nào? (giống câu 1)
3. ý kiến cho rằng VN để bảo vệ HP một cách hữu hiệu thì cần thành lập HĐBH. Nếu thành lập HĐBH thì cấu trúc như thế nào?
Thiết kế (giống câu 1)
II. NHỮNG KHÓ KHĂN THÁCH THỨC TRONG VIỆC THÀNH LẬP MỘT CHẾ BẢO HIẾN CHUYÊN
TRÁCH Ở VN HIỆN NAY
Một là, VN ta chịu ảnh hưởng bởi nguyên tắc tập quyền hội chủ nghĩa (nguyên tắc này được áp dụng từ HP 1959 cho đến nay)
với nguyên tắc này thì QH quan quyền lực NN cao nhất, QH quyền lập ra, trao quyền, giám sát, bãi nhiễm các CQNN khác
nhưng không chiều ngược lại (không quan nào được kiểm soát QH). Kinh nghiệm về vấn đề lập hiến bảo hiến của nhân
loại đã chỉ ra rằng: nếu QG nào trung thành với thuyết NVTC, đề cao QH thì không thể được một quan bảo hiến chuyên trách
được. Châu âu trước 1920 NVTC nên không đặt ra vấn đề bảo hiến sau này Hant Kesel phải vận động cả Châu âu để thay đổi
thuyết NVTC thành HPTC). nước ta từ năm 1992 cho đến nay thì nguyên tắc tập quyền XHCN đã bị nhận thức lại thay vào đó là
cơ chế phân công, phối hợp kiểm soát quyền lực QH vẫn là cơ quan cao nhất và không bị kiểm soát chính vì lẽ đó Tòa án không
quyền tuyên bố một đạo luật do NV ban hành và từ chối áp dụng.
Hai là, do sự ảnh hưởng của tập quyền, đề cao QH, toàn bộ quyền lực đều dồn cho QH, cho nên rất nhiều quyền hạn lẽ ra thuộc về
Tòa nhưng lại không trao cho Tòa án trao cho QH hoặc những CQNN khác biểu hiện của sự phân công, phân nhiệm không rõ
ràng không hợp lý.
(i) Một trong những quyền quan trọng nhất không giao cho TA lại giao cho UBTVQH: giải thích HP pháp luật. Quyền này
các nước trên TG đều giao cho TA TA một cơ quan áp dụng pháp luật, còn VN giao cho UBTVQH không phải một cơ quan
áp dụng pháp luật UBTVQH rất lúng túng khi sử dụng quyền này, khi gặp sức ép từ các quan khác hay luận thì UBTVQH mới
giải thích một cách khiên cưỡng. Tòa án VN không được phép giải thích pháp luật nhưng nhu cầu được giải thích pháp luậtrất lớn,
cho nên trên thực tế hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án thường núp bóng dưới dạng “hướng dẫn TA cấp dưới áp dụng thống nhất
pháp luật”.
(ii) Quyền thứ hai đáng lẽ nên trao cho TA xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các VB do các CQNN ban hành các quyền này
rất cần chuyên môn sâu thuộc về quan áp dụng pháp luật cho nên trên TG trao quyền này cho TA, tuy nhiên VN lại trao cho
QH, trong khi đại biểu QH không thể thực hiện nỗi quyền này. Do đó, sau bao nhiêu năm quyền này đều bị lấp lửng, yếu kém.
(iii) Quyền thứ ba án lệ cho phép TP người vừa áp dụng pháp luật, đồng thời người sáng tạo ra luật. Đứng trước một VBPL
hở, thì TP bằng tài năng, trí tuệ, bằng tất cả chức người TP tích lũy được sẽ tạo ra một bản án để giải quyết vấn đề đó (do
không luật áp dụng) TP chứng minh được rằng bản án đó luân lý, công bằng bản án này sẽ được cái TP khác tôn trọng, áp
dụng co những vụ việc tương tự xảy ra về sau. Việt Nam chỉ mới bắt đầu thừa nhận án lệ khoảng trên 10 năm nay, hiện nay chỉ mới
thừa nhận mấy chục cái án lệ, nhưng nhìn chung những án lệ này còn hạn chế chủ yếu được hình thành trong hệ thống luật (dân
sự, lao động, thương mại) còn trong lĩnh vực hành chính, hiến pháp gần như con số không. Ngoài ra, các án lệ VN hầu hết do TP tối
cao tổng kết kinh nghiệm xét xử, qua đó, mới ấn định đó án lệ yêu cầu các Tòa trên khắp VN tôn trọng, áp dụng; VN chưa
một TP đủ tư chức để lập ra một án lệ đúng nghĩa án lệ VN vẫn mang dáng dóc của giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng
pháp luật chứ không phải là một án lệ đúng nghĩa án lệ ở VN đã có nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu.
(iv) Một số quyền sau đây các nước trên TG cũng trao cho Tòa án nhưng Tòa án VN không quyền này: quyền giải quyết các
tranh chấp trong các cuộc bầu cử (VN chỉ giao cho Hội đồng bầu cử giải quyết bằng con đường hành chính nội bộ); giải quyết tranh
chấp quyền lực giữa TW ĐP (muốn giải quyết được thì phải tự quản địa phương); giải quyết tranh chấp quyền lực giữa các
CQNN ở TW với nhau (phải phân quyền mạnh, triệt để mi làm được).
Ba là, duy bảo hiến VN bị ảnh hưởng bởi lối mòn của các nước Liên Xô, quan niệm rằng HP một báo vật QG, luật bản, vì
vậy không thể giao cho một TAHP hoặc HĐBH nào đó để mà bảo hiến. Do đó, bảo hiến phải thuộc về chức năng của cả một hệ thống
chính trị. Tuy nhiên, những điều này quá chung chung, không rõ ràng, không chế pháp cụ thể, dẫn đến hậu quả là không ai bảo
vệ HP (bảo hiến).
Bốn là, ảnh hưởng của lịch sử, văn hóa, tưởng, m lý của người VN. VN chế độ phong kiến hằng ngàn năm tồn tại, không dễ
dàng thay đổi ý thức hệ đó. Chính sự thống trị của Nho giáo đã m cho BMNN VN hình thành nên thứ bậc, đặc biệt tưởng Nho
giáo thông qua lý thuyết “phụ mẫu chi dân” - coi quan lại, người cầm quyền cha mẹ, còn dân chúng là con cái. vậy, chỉ chấp nhận
con cái sai thì cha mẹ được xử chứ không chiều ngược lại. Từ tưởng đó mà Tòa án ở VN chỉ được quan niệm công cụ trong tay
của Nhà nước (của cha mẹ) lập ra để xử dân thường phạm tội, những tranh chấp nhỏ của dân chúng; còn nếu cán bộ, công chức
làm sai sẽ không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa. Hơn nữa, với truyền thống văn minh nông nghiệp, tự trị làng xã, phép vua thua lệ
làng, phúc đáo tụng đình, đã tạo nên sự cấu kết cộng đồng, coi trọng lệ làng, hương ước, từ đó dẫn đến tâm coi thường pháp
luật coi kiện tụng phúc, xui xẻo ở VN không truyền thống đề cao TP, luật , do đó thể nói vị thế của chánh án tối
cao, TP không được coi trọng không bằng CTN, Thủ tướng, Chủ tịch QH, Tổng thư đã đành còn không bằng một Phó Thủ
tướng, vị thế của CATC thậm chí còn thua một số Bộ trưởng, thư của một số tỉnh thành Chánh án VN hiện nay chỉ được xếp
ngang với một số Bộ trưởng “bình thường” (bộ trưởng bộ y tế…), do đó không thể trao quyền tuyên bố một đạo luật là vi hiến cho Tòa
án đây là một thách thức và trở ngại rất lớn.
Năm , nhìn chung nhận thức của người VN về quyền pháp quan thực hiện quyền pháp khác xa với các nước trên TG.
Quyền
pháp
quan thực
hiện
QUAN NIỆM CỦA THẾ GIỚI
QUAN NIỆM CỦA VIỆT NAM
Về phạm
Thế giới hiểu về quyền pháp theo một nghĩa rất hẹp.
Trong khi đó, VN hiểu về quyền pháp
vi chức
theo một nghĩa rất rộng.
năng thực
hiện quyền
pháp

Preview text:

BÀI 2: CƠ CHẾ BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ, HIỆN TẠI, THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG I.
CƠ CHẾ BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM QUA 5 BẢN HIẾN PHÁP (CƠ CHẾ BẢO HIẾN TRONG LỊCH SỬ LẬP HIẾN VN)
Kinh nghiệm lập hiến của nhân loại đã chỉ ra rằng, một bản hiến pháp muốn đảm bảo được tính tối cao không phụ thuộc vào bản
hiến pháp đó có dành ra 1 điều khoản để quy định về tính tối cao hay không mà phụ thuộc vào 3 yếu tố sau đây:
Một là quyền lập hiến thuộc về ai: Nếu quyền lập hiến thuộc về nhân dân thì bản HP đó sẽ tối cao, ngược lại nếu bản HP thuộc về
CQNN thì bản HP đó chỉ là một công cụ trong tay nhà cầm quyền.
Hai là thủ tục sửa đổi, bổ sung HP: càng phức tạp thì HP càng bất khả xâm phạm, càng tối cao và ngược lại nếu sửa HP hời hợt, dễ
dài thì HP trở thành công cụ trong tay nhà cầm quyền.
Ba là có cơ chế bảo hiến hữu hiệu hay không: HP là luật nội dung thì những hành vi, văn bản vi hiến phải được đem ra xử lý.
Vì vậy chúng ta sẽ nghiên cứu lịch sử lập hiến VN theo 3 tiêu chí vừa nêu. TIÊU HIẾN PHÁP 1946
HIẾN PHÁP 1959, 1980, 1992 HIẾN PHÁP 2013 CHÍ SO SÁNH Chủ thể
Quyền lập hiến thuộc về nhân dân Quyền lập hiến thuộc về QH, NN
Rất nỗ lực và cố gắng thể hiện lại tư
thực hiện cho nên bản HP 1946 thật sự là một Căn cứ vào: lời nói đầu, những tưởng quyền lập hiến thuộc về nhân
quyền lập bản hợp đồng, một bản khế ước xã hội chương quy đình về QH.
dân (không rõ như HP 46) hiến như Rut Xô đã nói. (i)
Lời nói đầu của những bản Căn cứ vào lời nói đầu, Điều 69 HP 2013
Để khẳng định bản HP 46 thể hiện HP này nhìn chung rất cương lĩnh, khi quy định về QH, Điều 119, Điều 120.
quyền lập hiến thuộc về nhân dân dựa dài dòng (đặc biệt là HP 80). Vì (i)
Lời nói đầu của bản HP này đã
vào lời nói đầu, chương 3, sắc lệnh 83 các bản HP này kể về thành quả, viết ngắn gọn lại, bỏ hết những đoạn về của Chủ tịch HCM.
chiến công của cách mạng VN, lịch sử, chiến công của CMVN. Đáng (i)
Lời nói đầu: rất ngắn gọn, những trang sử hào hùng của lịch chú ý là đoạn cuối của lời nói đầu HP
không tuyên ngôn, không cương lĩnh, sử. Nhưng lời nói đầu của các bản 2013 có câu sau đây: “Nhân dân VN ra
không dài dòng nhưng lại toát lên HP này không trả lời được câu hỏi sức xây dựng bản HP này vì mục tiêu dân
được, thể hiện được hai nội dung cơ quyền lập hiến thuộc về ai và HP giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn
bản mà bất cứ một lời nói đầu nào của làm ra bằng phương pháp nào minh …” ý đồ của các nhà lập hiến
một bản HP trên TG cũng đều hướng (nghệ thuật né tránh và lấp liếm).
khẳng định HP 2013 là công sức, trí tuệ
tới giải quyết: quyền lập hiến thuộc về (ii)
Chương về QH trong các của cả nhân dân VN.
ai? (quyền lập hiến thuộc về ai) Bản bản HP này đều quy định rằng: QH (ii) Điều 69 HP 2013: khi quy định
HP này được làm ra dựa trên những là cơ quan duy nhất quyền lập về chức năng của QH thì có hai điểm mới
nguyên tắc nào? (làm ra như thế nào). hiến và lập pháp sau đây (so với HP 92):
Theo đó lời nói đầu của HP 1946 có ⇨ Bình luận quy định này:
- Bỏ đi hai từ “duy nhất” và diễn
đoạn viết như sau: “được quốc dân - Với hai từ “duy nhất” đã thể đạt lại chức năng lập hiến, lập pháp của
trao cho nhiệm vụ thảo bản HP này,
hiện sự quyết tâm, ý chí sắt đá QH một cách vừa phải và mang tính
QH nhận thấy rằng …”. Như vậy,
của các nhà lập hiến là chỉ có pháp lý hơn. Việc bỏ đi hai chữ “duy
đoạn văn trên có ý nghĩa là quyền lập
QH mới có quyền lập hiến, nhất” có ý nghĩa sau đây:
ra HP thuộc về nhân dân toàn quốc,
ngoài QH không còn cơ quan + Không thể quy định QH là cơ quan duy
nhưng do điều kiện hoàn cảnh thực tế
nào khác – suy tôn QH và QH nhất có quyền lập hiến bởi vì đa số các
của đất nước lúc bấy giờ như: 95% toàn quyền
mặc dù, nếu nước trên thế giới đều quan niệm quyền
dân số mù chữ, 2 triệu người mới vừa
không dùng hai từ “duy nhất” lập hiến phải thuộc về nhân dân. Và ở
chết đói, 2 triệu đồng bạc rách trong
thì QH vẫn chỉ là cơ quan có VN ta trong điều kiện hoàn cảnh hiện
ngân sách, an ninh chính trị phức tạp,
quyền lập hiến ➔ việc dùng hai nay: trình độ dân trí còn thấp, kinh tế còn
đa đảng, thù trong giặc ngoài, …
từ này là hơi thừa thải và không nghèo, … cho nên người dân không thể
với tình hình này nhân dân không thể
pháp lý. Không pháp lý ở chỗ: thực hiện cuộc trưng cầu dân ý trực tiếp.
trực tiếp làm HP được, cho nên nhân đây là văn nói.
Vì vậy, người dân mới tạm giao cho QH
dân mới trao quyền lập hiến đó cho - Với việc khẳng định là: muốn quyền lập hiến cho QH và QH thay mặt
QH lập hiến và QH này có chức năng
thông qua HP chỉ cần 2/3 tổng nhân dân làm ra bản HP đó Điều này
thay mặt nhân dân để thông qua một
số đại biểu QH biểu quyết tán có nghĩa là đến một lúc nào đó, người
bản HP rồi sẽ giải tán. Trên cơ sở của
thành, và các nhà lập hiến lập dân đủ điều kiện để tự mình thông qua
HP 1946, thì nước ta sẽ tổ chức một
luận rằng: việc thông qua HP HP thì QH phải trả quyền lập hiến trả về
cuộc tổng tuyển cử để bầu ra Nghị
khó hơn thông qua đạo luật cho nhân dân không thể quy định QH
viện nhân dân có chức năng lập pháp,
thường (thông qua một đạo luật duy nhất lập hiến. làm ra thường luật
thường chỉ cần quá bán số đại + Cũng không nên quy định QH là cơ
➔ Như vậy, QH mà được đề cập đến
biểu QH). Tuy nhiên, đặt trong quan duy nhất có quyền lập pháp bởi vì
trong lời nói đầu của HP 1946
bối cảnh QH VN là QH đơn nhìn chung lập pháp là một quy trình rất
được hiểu là QH lập hiến. Còn
viện và VN có hơn 95% đại phức tạp với rất nhiều công đoạn và sự
Nghị viện nhân dân được quy định
biểu QH là người của một
tham gia của rất nhiều chủ thể khác nhau
trong chương 3 của HP 46 được
Đảng vì vậy để tìm kiếm
tự thân QH thì không thể nào làm luật
hiểu là cơ quan lập pháp chỉ có
được sự thống nhất cao từ 90% được: Hơn 95% dự án luật là do CP viết
chức năng làm ra thường luật
số phiếu trở lên là một điều quá (đây là giai đoạn quan trọng nhất của 1
(Điều 23 của HP 46 quy định Nghị dễ dàng.
quy tình làm luật). Dự án đó được các
viện nhân dân chỉ là cơ quan có
Với việc trao quyền lập hiến nhà khoa học, các chuyên gia các cấp,
quyền làm ra các đạo luật chứ cho QH và thông qua HP với 1 thủ các ngành đóng góp ý kiến, các cơ quan
không có quyền lập hiến và lập tục đơn giản nhẹ nhàng thì nhìn chuyên môn sẽ thẩm tra dự luật đó QH pháp như QH bây giờ)
chung là không phù hợp với xu chỉ “bấm nút” thảo luận để thông qua
➔ HP 46 có sự phân biệt rạch ròi giữa thế chung của nhân loại, việc áp một dự luật mà thôi. Mà thảo luận thông
QH lập hiến và Nghị viện lập pháp dụng một mô hình QH vừa lập qua một dự luật chỉ là một khâu một giai
đây là cách mà ban hành HP hiến vừa lập pháp sẽ dẫn đến nhiều đoạn để để thông qua 1 dự luật
phù hợp với xu thế chung và văn nguy cơ nguy hiểm:
vì vậy cần phải phân biệt làm luật # minh nhân loại.
Một là chúng ta đã đặt QH – 1 thông qua luật (=lập pháp), lập pháp chỉ
(ii) Để củng cố thêm những căn cứ cơ quan nhà nước cao hơn HP là một khâu của làm luật.
pháp lý để thấy rõ tư tưởng quyền lập HP không kiểm soát được NN - Nếu HP 92 quy định QH là cơ
hiến thuộc về nhân dân là rất rõ nét HP dễ trở thành công cụ trong tay quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
trong HP 46. Có thể căn cứ thêm vào QH để quản lý dân như thường pháp cách quy định này chứng tỏ HP
sắc lệnh 83 của Chủ tịch HCM năm luật.
92 coi quyền lập hiến và lập pháp là
1945. Sắc lệnh này đã đặt nền tảng cho
Hai là đặt HP ở vị thế tương một, đánh đồng lập hiến và lập pháp là
cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 và đương với thường luật, không hề một quyền từ đó dẫn đến một tư duy
trong sắc lệnh này có quy định rõ là có sự phân biệt giữa HP và thường nguy hiểm – đáng đồng giữa HP với
cuộc tổng tuyển cử 6/1/1946 có mục luật rất khó có dân chủ.
thường luật việc đánh đồng giữa HP
đích lập ra QH lập hiến, thay mặt nhân
với thường luật lại tiếp tục dẫn đến điều
dân làm ra bản HP rồi giải tán. Trên cơ
nguy hiểm là vô tình biến HP thành một
sở đó, chúng ta sẽ tổ chức một cuộc
công cụ trong tay NN để quản lý dân
tổng tuyển cứ khác để bầu ra Nghị
như thường luật đây là một điều
viện lập pháp và NV này chỉ có chức
không phù hợp w xu thế chung, văn
năng làm ra thường luật và thường luật
minh nhân loại, xa lạ w dân chủ và pháp
này phải hợp hiến. Tuy nhiên, vào quyền.
9/11/1946, tại ngày làm việc thứ 22 kỳ
Rút kinh nghiệm này Điều 69 HP
họp thứ 2 Nghị viện khóa 1, tập thể
2013 sửa lại QH là cơ quan thực hiện
NV đã bỏ phiếu nhất trí thông qua bản
quyền lập hiến, lập pháp quyền lập
HP này với 242 phiếu thuận và 2 phiếu
hiến, lập pháp là hai quyền khác nhau và
chống (NV khóa 1 bầu ra có 333 đại
độc lập với nhau. Theo đó, quyền lập
biểu nhưng tại kỳ họp này ngày làm
hiến bao giờ cũng thuộc về nhân dân, và
việc đó chỉ có 244 người tham dự). Và
nhân dân sẽ bằng một bản HP (bản HP
bản HP này đang trong giai đoạn chờ
như một bản hợp đồng, một bản khế
Chủ tịch nước ký lệnh công bố thì
ước) để ấn định 3 quyền lực còn lại
cuộc kháng chiến toàn quốc đã bùng
(hành pháp, lập pháp, tư pháp) và trao
nổ (người La Mã có một câu nói nổi
cho cơ quan nào, kiểm soát nhau như
tiếng: khi tiếng súng gầm lên thì luật
thế nào quyền lập hiến phải là quyền
pháp sẽ im tiếng) cho nên có thể nói
nguyên thủy, đặt trên 3 quyền lập - hành
những giá trị tinh thần của nó chưa
- tư pháp. Sự phân biệt lập pháp và lập
được áp dụng nhiều chuyên gia cho
hiến sẽ dẫn đến việc phân biệt rạch ròi
rằng HP 46 được ví như một tia sáng
HP và thường luật (khác nhau ít nhất 4
lóe lên vũ đài chính trị của VN trong
điểm – chủ thể ban hành, thủ tục sửa
một thời khắc ngắn ngủi rồi chợt liệm
đổi, mục đích ra đời và nội dung cơ bản,
tắt đi trong tiếng súng đạn của đại
giá trị của HP). Bên cạnh đó, sự phân bác).
biệt HP và thường luật càng rõ ràng thì
Như vậy, do hoàn cảnh chiến tranh
xã hội càng có dân chủ và HP đã trở
lan rộng nên không thể nào tổ chức
thành một đạo luật mang ý nghĩa nhân
tổng tuyển cử bầu ra NV lập pháp. Vì
văn sâu sắc – bảo vệ con người trước
vậy, QH lập hiến mới chuyển sang làm nhà cầm quyền.
nhiệm vụ của một QH lập pháp. Và (iii)
Điều 119 (giá trị và hiệu lực của
theo quy định của HP 46 thì NV lập
một bản HP), Điều 120 (thủ tục sửa
pháp chỉ có nhiệm kỳ 3 năm mà thôi,
HP) – được phân tích trong tiêu chí 2 và
nhưng do hoàn cảnh chiến tranh mà 3
NV khóa 1 của VN đã kéo dài suốt 13
** Có ý kiến cho rằng, để quyền lập
năm – NV có nhiệm kỳ dài nhất trong
hiến thật sự thuộc về nhân dân thì nên
lịch sử VN (mãi cho đến năm 1959 khi
tiếp thu kinh nghiệm của bản HP 1946
hòa bình đã lập lại ở miền Bắc thì
– tổ chức 2 QH theo đó có QH lập hiến
chúng ta mới có cơ hội để tổng tuyển
riêng và QH lập pháp riêng
cử ở miền Bắc bầu ra QH khóa 2).
➔ Tuy nhiên ý kiến này không hợp
TÓM LẠI: NV khóa 1 ở VN có 2
lý không khả thi ở chỗ: kinh nghiệm lập điểm đặc biệt:
hiến của nhân loại đã chỉ ra rằng: việc tổ
- Ban đầu lập ra chỉ để lập hiến
chức 2 QH để lập hiến và lập pháp chỉ có
nhưng sau đó chuyển sang lập
ý nghĩa khi CM vừa mới thành công và pháp.
QG đó mới bắt tay vào viết bản HP đầu
- NV kéo dài suốt 13 năm – dài nhất
tiên. Còn trong thực tế hiện nay, thì việc trong lịch sử
để quyền lập hiến thuộc về nhân dân là
Hai sự đặc biệt trên chỉ được giải
chỉ được thể hiện tập trung ở khâu thủ
thích bởi 1 lý do duy nhất là chiến
tục sửa HP. Nếu việc sửa HP đem ra
tranh lan rộng, kháng chiến bùng nổ
trưng cầu dân ý hoặc phúc quyết thì vẫn
(vào thời điểm mà QH lập hiến chuyển
đảm bảo quyền lập hiến thuộc về nhân
sang làm nhiệm vụ của NV lập pháp dân.
thì Bác đã xin thêm 70 ghế trong NV,
đại diện cho Việt Quốc Việt Cách
không qua bầu cử - để có đại diện đầy
đủ của các đảng phái) Thủ tục
Thủ tục sửa đổi, bổ sung rất phức
Thủ tục sửa đổi, bổ sung nhìn
Rút kinh nghiệm này, Điều 120 HP sửa đổi,
tạp, chặt chẽ, làm cho bản HP 46 rất chung rất đơn giản, dễ dàng cho 2013, đã có 3 điểm mới quan trọng sau bổ sung
cương tính và bất khả xâm phạm.
nên không phù hợp w xu thế đây so với Điều 147 HP 92: HP
Theo Điều 70 HP 1946, thủ tục sửa chung, không đảm bảo được tính - Hiến pháp 2013 đã quy định chỉ đổi như sau: tối cao của Hiến pháp.
có 1 trong 4 chủ thể sau đây mới có -
Chỉ có ít nhất 2/3 tổng số nghị
Điều 147 của Hiến Pháp 1992 quyền đề nghị QH sửa đổi, bổ sung HP
sĩ mới có quyền đề nghị với NV về có rất nhiều hạn chế và bất cập, cụ (sáng quyền lập hiến):
việc sửa đổi HP QH năm 1946 là thể là: + Uỷ ban thường vụ QH
một QH đa đảng, phức tạp, cho nên để -
Không quy định chủ thể nào + Chủ tịch nước
tìm được quá bán – 51% là một điều có quyền đề nghị với QH về việc + Chính Phủ
khó khăn, và để tìm được 2/3 là một sửa đổi bổ sung HP (tức là không
+ Ít nhât 1/3 tổng số đại biểu yêu cầu.
điều không tưởng. Như vậy, HP không có quy định về sáng quyền lập ➔ Với quy định này hạn chế sự tùy tiện
phải là một món đồ chơi, khó có thể hiến) dẫn đến một cách hiểu khá
và đảm bảo tính tối cao, bất khả xâm sửa.
tùy tiện là ai cũng có quyền đề phạm của HP. -
QH lập một ủy ban để dự thảo xuất sửa đổi, bổ sung nếu hiểu - Sau khi đã hoàn tất dự thảo những
về những điều sửa đổi.
như thế thì HP không còn bất khả điều sửa đổi, thì ban dự thảo (Cơ quan có -
Dự thảo sửa đổi phải được ít xâm phạm và tối cao nữa.
trách nhiệm soạn thảo những điều sửa
nhất 2/3 tổng số nghị sĩ biểu quyết tán -
Không quy định dự thảo sửa đổi) phải đem dự thảo ra cho toàn thể
thành (đa đảng, phức tạp cho nên 2/3 đổi, bổ sung HP phải đem ra lấy ý nhân dân đóng góp ý kiến. Đây là thủ tục
là không tưởng). Tuy nhiên đây mới là kiến toàn thể nhân dân như là một bắt buộc. Trưởng ban dự thảo phải tổng
điều kiện cần để sửa HP chứ chưa phải thủ tục bắt buộc. Vì vậy không hợp ý kiến của nhân dân và báo cáo, giải là điều kiện đủ.
đảm bảo tính khế ước, tính thương trình w QH một cách chi tiết, tường tận -
Điều kiện đủ: Sau khi được NV lượng, tính thỏa hiệp của một bản là ban dự thảo đã tiếp thu ý kiến nào và
thông qua thì bản HP đó phải đem ra hợp đồng mà đã trở thành sự áp đặt vì sao tiếp thu, không tiếp thu ý kiến nào
toàn thể nhân dân phúc quyết.
một chiều từ cơ quan soạn thảo. và vì sao không tiếp thu. Qua đó, thể
LƯU Ý: cần phân biệt trưng cầu Điều này không phù hợp w xu thế hiện rõ tính thỏa ước, thương lượng của
dân ý với lấy ý kiến nhân dân; phúc chung và văn minh nhân loại, một bản hợp đồng và phản ánh được sự quyết.
không đảm bảo quyền lập hiến bình đẳng qua lại – 2 bên của một bản
+ Trưng cầu dân ý với lấy ý kiến thuộc về nhân dân.
hợp đồng góp phần bảo đảm quyền lập
nhân dân khác nhau về mặt bản - Quy định QH là cơ quan có hiến thuộc về nhân dân. chất.
quyền sửa đổi HP với ít nhất 2/3 -
Vẫn quy định QH là cơ quan có
Theo đó kết quả của cuộc trưng cầu tổng số đại biểu QH tán thành. thẩm quyền sửa đổi HP nếu có ít nhất 2/3
dân ý chỉ có giá trị tham khảo đối với Quy định này cho thấy quyền lập tổng số đại biểu QH tán thành, nhưng có
CQNN (CQNN có thể tiếp thu hoặc hiến thuộc về QH, thuộc về CQNN bổ sung thêm một quy định mới như sau:
không tiếp thu) CQNN phải chịu và dễ dẫn đến nguy cơ biến HP
trong trường hợp cần thiết thì QH sẽ
trách nhiệm đối với quyết định của thành công cụ trong tay NN để quyết định trưng cầu dân ý về Hiến pháp. mình.
quản lý dân như thường luật; sự
BÌNH LUẬN VỀ ĐIỂM MỚI NÀY:
Còn lấy ý kiến nhân dân thì kết quả có khác biệt giữa HP và thường luật là nỗ lực chung của các nhà lập hiến để
ý nghĩa bắt buộc thực hiện đối với rất mập mờ, không rõ nét. Mặc dù dung hòa giữa “làm sao để bảo đảm
CQNN và người chịu trách nhiệm cuối các nhà lập hiến có giải thích rằng: quyền lập hiến thuộc về nhân dân” cùng là người dân.
thủ tục sửa đổi HP phức tạp hơn nhưng “phải phù hợp với điều kiện, hoàn
+ Trưng cầu dân ý và phúc quyết: đạo luật thường ở chỗ: muốn sửa cảnh về kinh tế, dân trí, văn hóa, xã hội,
Giống nhau ở chỗ đều là dân quyết và đổi thường luật thì chỉ cần quá bán an ninh của VN hiện tại” (trong điều kiện
kết quả có ý nghĩa bắt buộc thực hiện tổng số đại biểu QH biểu quyết tán hiện nay ở VN do trình độ dân trí còn
đối với cơ quan nhà nước, người chịu thành là được, còn HP phải ít nhất thấp, kinh tế còn khó khăn, an ninh còn
trách nhiệm cuối cùng là dân.
2/3 tổng số đại biểu QH tán thành. phức tạp nên không để cho nhân dân sửa
Khác nhau ở cách làm. Đối với trưng Tuy nhiên, nếu đặt trong điều kiện HP được, buộc phải giao cho QH thay
cầu dân ý thì được đem ra để dân bỏ ở VN ta, QH theo mô hình đơn mặt dân để sửa HP. Nhưng nếu giao toàn
phiếu. Còn phúc quyết thì phải đưa ra viện và trong điều kiện 1 Đảng quyền cho QH thì dẫn đến nguy cơ
cho NV đồng ý trước sự đồng ý của cầm quyền, hơn 95% đại biểu QH quyền lập hiến không thuộc về nhân dân,
NV có giá trị tư vấn định hướng cho là người 1 Đảng để tìm kiếm sự HP trở thành công cụ trong tay NN để
người dân sau khi NV quyết thì mới đồng thuận và nhất trí cao trong quản lý dân. Vì thế, các nhà lập hiến năm
đưa ra cho dân, việc đưa ra cho dân chỉ QH là một điều quá dễ dàng.
2013 đành phải chọn một giải pháp dung
để phúc tra và kiểm tra lại ý của dân có
KẾT LUẬN: thủ tục sửa đổi, bổ hòa là giao cho QH được thay mặt dân giống với NV không.
sung HP của VN được xét vào nhu quyết định sửa HP. Tuy nhiên, khi điều
BÌNH LUẬN VỀ THỦ TỤC SỬA tính, dễ dàng không phù hợp.
kiện hoàn cảnh đã thay đổi, trình độ dân ĐỔI HP NÀY:
trí cao, an ninh chính trị đỡ phức tạp và (i)
Thủ tục này phù hợp w văn
QH nhận thấy nội dung nào phù hợp và
minh nhân loại, xu thế chung đảm
có nhu cầu để dân quyết thì QH sẽ quyết
bảo được giá trị tối cao của HP.
định trưng cầu dân ý). (ii)
Cho thấy một sự sáng của Bác.
Bởi vì, thủ tục này độc nhất vô nhị chỉ
có trong HP 46 của VN. Cho đến ngày
nay, trên thế giới không có một cách
sửa đổi nào giống trong HP 46 của
VN. Với sự sáng tạo này đã dung hòa
được cái gọi là quyền lập hiến phải
thuộc về nhân dân, nhưng phải phù
hợp w điều kiện dân trí và kinh tế, xã hội của đất nước. Hiệu lực
HP 1946 không có một điều luật nào
HP 1959 1992: Đều giành ra
Rút kinh nghiệm từ từ bản HP 92, Điều
của HP và quy định về hiệu lực của HP và cơ chế một điều luật để quy định về tính 119 HP 2013 có 3 điểm mới quan trọng cơ chế bảo hiến.
tối cao trong HP. Tuy nhiên, cách so với Điều 146 HP 1992: bảo hiến
Không có một điều luật nào quy quy định rất hạn chế, bất cập và sơ (i)
Hiến pháp là luật cơ bản của nước
định về hiệu lực của HP vì: Bác và hở.
CHXHCNVN. Điều này có nghĩa là HP
các nhà lập hiến năm 1946 nhận thức
Cụ thể Điều 146 HP 1992 có là luật cơ bản của đất nước VN, của dân
rằng tính tối cao của một bản HP được những điểm hạn chế sau:
tộc, của toàn thể nhân dân VN. Như vậy,
xem là chân lý, sự thật hiển nhiên nên (i) Quy định HP
nước quyền lập hiến thuộc về nhân dân; HP
không cần quy định trong HP (Hầu hết CHXHCNVN là luật cơ bản của thật sự là ý chí của toàn dân, là công cụ
các nước trên TG đều có cách nhận Nhà nước. Với quy định này, làm trong tay của người dân để kiểm soát
thức như thế). Trên thực tế một bản HP cho người ta suy nghĩ rằng từ nhà nước. Cách hiểu này phù hợp với xu
có thật sự tối cao hay không là hoàn “Nhà nước” để chỉ cán bộ, công thế chung và văn minh nhân loại.
toàn phụ thuộc vào 3 yếu tố:
chức NN, để chỉ cơ quan NN, bộ (ii)
Quy định không chỉ có văn bản (i)
Quyền lập hiến có thuộc về máy NN và để chỉ nhà cầm quyền, QPPL là hợp hiến mà mọi hành vi vi
nhân dân hay không (HP 1946 đã đảm người mang quyền lực (tức là chỉ hiến của các quan chức đều phải xử lý bảo tốt tiêu chí này)
khoảng 4 triệu cán bộ, công chức – nghiêm minh, công bằng và xử lý như (ii)
Thủ tục, bổ sung HP có nhiêu người đang mang quyền lực và vậy mới là điều kiện để đảm bảo dân chủ
khê, phức tạp không (HP 46 cũng đảm thực thi quyền lực ở VN) với và pháp quyền – mọi người đều bình
bảo rất tốt tiêu chí này)
cách hiểu này vô tình biến HP đẳng trước pháp luật. (iii)
Có cơ chế bảo vệ HP một cách
thành công cụ trong tay NN để (iii) Có quy định về trách nhiệm bảo
chuyên trách và hiệu quả hay không.
quản lý dân như thường luật. Điều hiến và cơ chế bảo hiến (khoản 3 Điều
Hiến pháp 1946 đã bảo đảm được hai
này hoàn toàn không phù hợp với 119) quy định này như là một điều
tiêu chí, không có tiêu chí thứ 3 mục đích ra đời và nội dung cơ kiện tiên quyết để bảo đảm tính tối cao,
(không có cơ chế bảo hiến)
bản của các bản HP trên thế giới bất khả xâm phạm của một bản HP. Quy
Không có quy định về cơ chế bảo
không phù hợp w văn minh định này làm cho những tuyên bố về tính
hiến vì: tại thời điểm HP 46 được ban nhân loại.
tối cao của HP mới có tính khả thi và có
hành thì vấn đề bảo hiến trên khắp thế (ii)
Chỉ quy định mọi văn bản khả năng áp dụng trong thực tế cuộc
giới rất sơ khai và chưa rõ nét: Ở Châu quy phạm pháp luật là phải hợp sống. Tuy nhiên hiện nay kết thúc Điều
âu, trước 1920 chưa có bảo hiến vì hiến quy định này thiếu ở chỗ: 119 bằng một quy định: “cơ chế bảo hiến
NVTC thống trị; kể từ 1920 TAHP mới chỉ thừa nhận tính tối cao của do luật định” (ý đồ của các nhà lập hiến
được thành lập đầu tiên ở Áo nhưng HP trong hệ thống pháp luật như là là bảo hiến bằng cơ chế nào, mô hình
chưa phổ biến; mãi đến sau thế chiến luật gốc, luật mẹ, là xương sống nào là sẽ được quyết định sau, QH sẽ
thứ 2, thì người Đức có công lao phát của HTPLQG. Tuy nhiên, HP ban hành một đạo luật để quyết định mô
triển TAHP thành một bài văn mẫu và không chỉ tối cao trong HTPL mà hình bảo hiến) nhìn chung quy định
được đa số các nước trên thế giới áp còn phải tối cao trong đời sống này cũng phù hợp w thế giới (Ở Châu
dụng. Ngay cả ở Pháp thì mãi đến XH. Vì vậy, HP còn đặt ra yêu cầu âu, trước 1920 chưa có bảo hiến vì
1958 (tức là 12 năm sau) thì Degaulle là các hành vi của các quan chức NVTC thống trị; kể từ 1920 TAHP được
mới thành lập HĐBH CHP Trên
cũng phải hợp hiến, mọi hành vi vi thành lập đầu tiên ở Áo nhưng chưa phổ
TG, việc bảo hiến chỉ được đặt ra và hiến đều phải được xử lý một cách biến; mãi đến sau thế chiến thứ 2, thì
rầm rộ từ nửa cuối TK 20 trở về sau nghiêm minh, công bằng đó mới người Đức có công lao phát triển TAHP
vì vậy HP 46 không có quy định về cơ là điều kiện tiên quyết của tính tối thành một bài văn mẫu và được đa số
chế bảo hiến là một điều dễ hiểu. Thực cao của một bản HP – đảm bảo các nước trên thế giới áp dụng. Ngay cả
tế ngày nay, các QG trên TG đều quy dân chủ và pháp quyền.
ở Pháp thì mãi đến 1958 (tức là 12 năm
định cơ chế bảo hiến trong một đạo (iii) Không có quy định về trách sau) thì Degaulle mới thành lập HĐBH
luật chứ ít quy định trong HP. Chính vì nhiệm bảo hiến và cơ chế bảo hiến CHP Trên TG, việc bảo hiến chỉ được
điều này mà có lẽ Bác và các nhà lập (tố tụng HP, trình tự thủ tục để bảo đặt ra và rầm rộ từ nửa cuối TK 20 trở
hiến cho rằng: sau này khi tình hình ổn vệ HP) vì không có tố tụng HP về sau) tuy nhiên, vấn đề bảo hiến này
định thì vấn đề bảo hiến sẽ được lựa cho nên đã làm cho quy định về khá mới mẻ và nhạy cảm, cho nên trong
chọn và được quy định trong một đạo tính tối cao của HP chỉ là tuyên 10 năm qua từ khi HP 2013 được thi
luật, không cần quy định trong HP.
ngôn, cương lĩnh, hô hào. Vì vậy, hành đến nay, vấn đề bảo hiến ở VN vẫn
tính tối cao của những bản HP này đang dậm chân tại chỗ - không tiến triển
không mang tính khả thi trong gì trách nhiệm này phụ thuộc vào sự thực tế.
nghiên cứu của chúng ta để tìm ra
mô hình bảo hiến thích hợp. BÀI TẬP
Câu hỏi bắt buộc: Điều 119 HP 2013 quy định “cơ chế bảo hiến do luật định”. Anh chị hãy phân tích những nhu cầu phải có một đạo
luật về cơ chế bảo hiến ở VN hiện nay (tại sao cần có cơ chế bảo hiến). Theo anh chị nếu QH có ban hành đạo luật này thì kết cấu và
nội dung chính của đạo luật này sẽ như thế nào?
Chọn 1 trong 3 chủ đề sau để làm:
1. Có ý kiến cho rằng ở VN hiện nay cần trao việc bảo hiến cho TP và các TA thường như Mỹ - Nhật (đứng đầu là tòa tối cao). Anh chị
hãy bình luận ý kiến trên. Theo anh chị nếu chúng ta trao quyền bảo hiến cho TA thường và đặc biệt là TATC thì cần tái cấu trúc lại
TANDTC ở VN như thế nào? (chọn TP điều kiện tiêu chuẩn thế nào, cấu trúc TA, thủ tục bảo hiến trao thêm quyền gì)
2. Có ý kiến cho rằng ở VN để bảo vệ HP một cách hữu hiệu thì cần thành lập TAHP. Nếu TAHP ở VN được thành lập thì theo anh chị
cấu trúc TAHP sẽ như thế nào? (giống câu 1)
3. Có ý kiến cho rằng ở VN để bảo vệ HP một cách hữu hiệu thì cần thành lập HĐBH. Nếu thành lập HĐBH thì cấu trúc như thế nào? Thiết kế (giống câu 1) II.
NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC THÀNH LẬP MỘT CƠ CHẾ BẢO HIẾN CHUYÊN TRÁCH Ở VN HIỆN NAY
Một là, VN ta chịu ảnh hưởng bởi nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa (nguyên tắc này được áp dụng từ HP 1959 cho đến nay)
với nguyên tắc này thì QH là cơ quan quyền lực NN cao nhất, QH có quyền lập ra, trao quyền, giám sát, bãi nhiễm các CQNN khác
nhưng không có chiều ngược lại (không có cơ quan nào được kiểm soát QH). Kinh nghiệm về vấn đề lập hiến và bảo hiến của nhân
loại đã chỉ ra rằng: nếu QG nào trung thành với lý thuyết NVTC, đề cao QH thì không thể có được một cơ quan bảo hiến chuyên trách
được. Ở Châu âu trước 1920 vì NVTC nên không đặt ra vấn đề bảo hiến và sau này Hant Kesel phải vận động cả Châu âu để thay đổi
lý thuyết NVTC thành HPTC). Ở nước ta từ năm 1992 cho đến nay thì nguyên tắc tập quyền XHCN đã bị nhận thức lại thay vào đó là
cơ chế phân công, phối hợp kiểm soát quyền lực – QH vẫn là cơ quan cao nhất và không bị kiểm soát chính vì lẽ đó Tòa án không có
quyền tuyên bố một đạo luật do NV ban hành và từ chối áp dụng.
Hai là, do sự ảnh hưởng của tập quyền, đề cao QH, toàn bộ quyền lực đều dồn cho QH, cho nên rất nhiều quyền hạn lẽ ra thuộc về
Tòa nhưng lại không trao cho Tòa án mà trao cho QH hoặc những CQNN khác biểu hiện của sự phân công, phân nhiệm không rõ ràng không hợp lý. (i)
Một trong những quyền quan trọng nhất không giao cho TA mà lại giao cho UBTVQH: giải thích HP và pháp luật. Quyền này
các nước trên TG đều giao cho TA vì TA là một cơ quan áp dụng pháp luật, còn ở VN giao cho UBTVQH – không phải là một cơ quan
áp dụng pháp luật UBTVQH rất lúng túng khi sử dụng quyền này, khi gặp sức ép từ các cơ quan khác hay dư luận thì UBTVQH mới
giải thích một cách khiên cưỡng. Tòa án ở VN không được phép giải thích pháp luật nhưng nhu cầu được giải thích pháp luật là rất lớn,
cho nên trên thực tế hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án thường núp bóng dưới dạng “hướng dẫn TA cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật”. (ii)
Quyền thứ hai đáng lẽ nên trao cho TA là xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các VB do các CQNN ban hành các quyền này
là rất cần chuyên môn sâu và thuộc về cơ quan áp dụng pháp luật cho nên trên TG trao quyền này cho TA, tuy nhiên VN lại trao cho
QH, trong khi đại biểu QH không thể thực hiện nỗi quyền này. Do đó, sau bao nhiêu năm quyền này đều bị lấp lửng, yếu kém. (iii)
Quyền thứ ba là án lệ cho phép TP là người vừa áp dụng pháp luật, đồng thời là người sáng tạo ra luật. Đứng trước một VBPL
có sơ hở, thì TP bằng tài năng, trí tuệ, bằng tất cả tư chức mà người TP tích lũy được sẽ tạo ra một bản án để giải quyết vấn đề đó (do
không có luật áp dụng) và TP chứng minh được rằng bản án đó là luân lý, công bằng bản án này sẽ được cái TP khác tôn trọng, áp
dụng co những vụ việc tương tự xảy ra về sau. Việt Nam chỉ mới bắt đầu thừa nhận án lệ khoảng trên 10 năm nay, hiện nay chỉ mới
thừa nhận mấy chục cái án lệ, nhưng nhìn chung những án lệ này còn hạn chế vì chủ yếu được hình thành trong hệ thống luật tư (dân
sự, lao động, thương mại) còn trong lĩnh vực hành chính, hiến pháp gần như là con số không. Ngoài ra, các án lệ VN hầu hết do TP tối
cao tổng kết kinh nghiệm xét xử, qua đó, mới ấn định đó là án lệ và yêu cầu các Tòa trên khắp VN tôn trọng, áp dụng; ở VN chưa có
một TP có đủ tư chức để lập ra một án lệ đúng nghĩa án lệ ở VN vẫn mang dáng dóc của giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng
pháp luật chứ không phải là một án lệ đúng nghĩa ➔ án lệ ở VN đã có nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. (iv)
Một số quyền sau đây các nước trên TG cũng trao cho Tòa án nhưng Tòa án ở VN không có quyền này: quyền giải quyết các
tranh chấp trong các cuộc bầu cử (VN chỉ giao cho Hội đồng bầu cử giải quyết bằng con đường hành chính và nội bộ); giải quyết tranh
chấp quyền lực giữa TW và ĐP (muốn giải quyết được thì phải có tự quản địa phương); giải quyết tranh chấp quyền lực giữa các
CQNN ở TW với nhau (phải phân quyền mạnh, triệt để mới làm được).
Ba là, tư duy bảo hiến ở VN bị ảnh hưởng bởi lối mòn của các nước Liên Xô, quan niệm rằng HP là một báo vật QG, luật cơ bản, vì
vậy không thể giao cho một TAHP hoặc HĐBH nào đó để mà bảo hiến. Do đó, bảo hiến phải thuộc về chức năng của cả một hệ thống
chính trị. Tuy nhiên, những điều này quá chung chung, không rõ ràng, không có cơ chế pháp lý cụ thể, dẫn đến hậu quả là không ai bảo vệ HP (bảo hiến).
Bốn là, ảnh hưởng của lịch sử, văn hóa, tư tưởng, tâm lý của người VN. VN có chế độ phong kiến hằng ngàn năm tồn tại, không dễ
dàng thay đổi ý thức hệ đó. Chính sự thống trị của Nho giáo đã làm cho BMNN ở VN hình thành nên thứ bậc, đặc biệt tư tưởng Nho
giáo thông qua lý thuyết “phụ mẫu chi dân” - coi quan lại, người cầm quyền là cha mẹ, còn dân chúng là con cái. Vì vậy, chỉ chấp nhận
con cái sai thì cha mẹ được xử chứ không có chiều ngược lại. Từ tư tưởng đó mà Tòa án ở VN chỉ được quan niệm là công cụ trong tay
của Nhà nước (của cha mẹ) lập ra là để xử dân thường phạm tội, những tranh chấp nhỏ của dân chúng; còn nếu cán bộ, công chức mà
làm sai sẽ không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa. Hơn nữa, với truyền thống văn minh nông nghiệp, tự trị làng xã, phép vua thua lệ
làng, vô phúc đáo tụng đình, … đã tạo nên sự cấu kết cộng đồng, coi trọng lệ làng, hương ước, từ đó dẫn đến tâm lý coi thường pháp
luật và coi kiện tụng là vô phúc, xui xẻo ở VN không có truyền thống đề cao TP, luật sư , do đó có thể nói vị thế của chánh án tối
cao, TP không được coi trọng không bằng CTN, Thủ tướng, Chủ tịch QH, Tổng bí thư đã đành mà còn không bằng một Phó Thủ
tướng, vị thế của CATC thậm chí còn thua một số Bộ trưởng, bí thư của một số tỉnh thành Chánh án ở VN hiện nay chỉ được xếp
ngang với một số Bộ trưởng “bình thường” (bộ trưởng bộ y tế…), do đó không thể trao quyền tuyên bố một đạo luật là vi hiến cho Tòa
án đây là một thách thức và trở ngại rất lớn.
Năm là, nhìn chung nhận thức của người VN về quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp là khác xa với các nước trên TG. Quyền tư
QUAN NIỆM CỦA THẾ GIỚI QUAN NIỆM CỦA VIỆT NAM pháp và cơ quan thực hiện
Về phạm Thế giới hiểu về quyền tư pháp theo một nghĩa rất hẹp.
Trong khi đó, VN hiểu về quyền tư pháp vi và chức
theo một nghĩa rất rộng. năng thực hiện quyền tư pháp
Document Outline

  • BÀI 2: CƠ CHẾ BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ, HIỆN TẠI, THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG
  • BÀI TẬP
  • Chọn 1 trong 3 chủ đề sau để làm:
  • II. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC THÀNH LẬP MỘT CƠ CHẾ BẢO HIẾN CHUYÊN TRÁCH Ở VN HIỆN NAY