lOMoARcPSD| 58794847
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ MARKETING QUỐC TẾ
1. Thế nào marketing quốc tế? Tại sao ngày nay các doanh nghiệp nên làm marketing quốc tế?
marketing quốc tế quá trình triển khai các hoạt động được thiết kế nhằm hoạch định, thiết lập giá, xúc tiến
định hướng luồng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp đến khách hàng của hơn một quốc gia. Khái
niệm này cho thấy, marketing quốc tế không chỉ đề cập tới việc thực hiện kế hoạch theo phạm vi lãnh thổ
(vượt ra khỏi biên giới quốc gia) mà đề cập tới quốc tịch của khách hàng mà hoạt động marketing hướng tới
– không chỉ là khách hàng trong nước mà là cả khách hàng mang các quốc tịch khác 2. Hãy so sánh và giải
thích sự khác biệt của marketing quốc tế với marketing nội địa.
Marketing nhằm vào duy nhất thị trường trong nước gọi là marketing nội địa. Ngược lại, marketing quốc tế
sử dụng các công cụ và các khái niệm của marketing cơ bản để áp dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu của người
tiêu dùng nhiều quốc gia khác nhau, thị trường nước ngoài.Marketing quốc tế, xét về bản chất cũng
giống hoạt động marketing nội địa, chỉ khác hoạt động này không thực hiện một quốc gia nhiều
quốc gia khác nhau.
Marketing nội địa
Marketing quốc tế
Dữ liệu nghiên cứu dường như có sẵn và dễ tiếp c
Việc giao dịch kinh doanh dựa trên một đồng tiền.
Các nhân viên của doanh nghiệp có kiến thức và sự
biết thấu đáo về thị trường trong nước.
Việc xây dựng các thông điệp về xúc tiến chỉ cần x
văn hóa của quốc gia.
Việc phân đoạn thị trường diễn ra trong phạm vi m
Truyền thông và kiểm soát được thực hiện ngay
tiếp.
Hiểu rõ những quy định và luật pháp.
Việc kinh doanh được thực hiện bằng một ngôn ng
mẹ đẻ nên dễ hiểu nhau hơn.
Rủi ro trong kinh doanh thể được xác định và đ
thường xuyên.
Hệ thống lập kế hoạch và kiểm soát thể được th
đơn giản, trực tiếp.
Trong bộ phận marketing có thể có sự chuyên môn
Việc phân phối và kiểm soát có phần dễ dàng.
Tài liệu bán hàng đơn giản, dễ chia sẻ.
n.Dữ liệu nghiên cứu bằng ngôn ngữ nước ngoài khó hiểu và k
thu thập.
Việc giao dịch kinh doanh liên quan đến nhiều đồng tiền với
hiểu giá biến động lớn.
Các nhân viên của doanh nghiệp ét
tới thể chỉ có sự hiểu biết một ch
ột nước.khái lược về thị trường nước
ngoài.
trực Việc xây dựng các thông điệp về c tiến đòi hỏi phi
tính đ khác biệt về văn hóa.
Các đoạn thị trường có thể bao gồm khách hàng giống nhau
nước khác nhau.
- tiếng
Truyền thông kiểm soát quốc tế thể rất khó khăn. ánh
giá Có thể không nắm vững được quy định và luật pháp.
Giao tiếp bằng nhiều thứ tiếng. ực
hiện
Do môi trường không ổn định nên khó đánh giá rủi ro.
hóa.Thường phải áp dụng những hệ thống kế hoạch tổ chức
ki soát phức tạp và đa dạng.
Các nhà quản lý marketing quốc tế cần có kiến thức và kỹ
marketing vừa rộng vừa sâu.
lOMoARcPSD| 58794847
Các kênh phân phối thể dễ điều chỉnh dễ kiể
hơn.
Hành vi của các đối thủ cạnh tranh dễ nhận biết
giá được.
m soát Việc phân phối kiểm soát n dụng thể phức tạp.
Tài liệu bán hàng đa dạng phức tap. đánh
Các kênh phân phối thường khó kiểm soát và điều chỉnh hơn
Khó phát hiện và đánh giá hành vi của đối thủ cạnh tranh.
3. Trình bày vai trò của marketing quốc tế?
Marketing có ảnh hưởng quan trọng tới kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc mở rộng hoạt động
kinh doanh ra thị trường thế giới cho phép các doanh nghiệp hội tăng tỷ lệ lợi nhuận của mình bằng
cách mở rộng thị trường. Các doanh nghiệp hoạt động trên phạm vi quốc tế có thể đạt mức doanh số lớn hơn
nhờ thực hiện chuyển giao các điểm khác biệt nổi trội của mình. Điểm khác biệt nổi trội là những điểm mạnh
cho phép các doanh nghiệp đạt được hiệu quả, chất lượng, sự đổi mới, hoặc sự nhạy cảm với môi trường
marketing quốc tế cao hơn. Những điểm mạnh này thường được thể hiện sản phẩm chào bán các doanh
nghiệp khác khó thể làm theo hoặc bắt chước. Như vậy, khả năng tạo điểm khác biệt nổi trội tạo ra nền
tảng cho lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, chúng giúp doanh nghiệp hạ thấp chi phí trong việc tạo ra giá
trị hoặc tạo ra những sự khác biệt ưu việt qua đó đạt mức doanh số khổng lồ bằng việc phục vụ thị trường
quốc tế các sản phẩm các đối thủ cạnh tranh bản địa thiếu khả năng phục vụ. Bằng các hoạt động quốc
tế, doanh nghiệp có thể có được lợi thế chi phí nhờ đạt hiệu quả kinh tế theo quy mô và tận dụng được hiệu
ứng kinh nghiệm. Việc thực hiện marketing quốc tế cũng giúp các doanh nghiệp học hỏi từ đối thủ cạnh tranh
trên tầm quốc tế, trải nghiệm, cọ xát để hoàn thiện năng lực của mình nhờ đó tăng khả năng thích nghi với
môi trường kinh doanh quốc tế. Bên cạnh đó, việc doanh nghiệp thực hiện marketing quốc tế sẽ giúp cho
việc phát triển thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế thị trường nội địa tốt hơn, qua đó
giúp tăng giá trị thương hiệu của doanh nghiệp.
Đối với quốc gia bản địa (cố quốc), việc thực hiện marketing quốc tế của các doanh nghiệp cũng có ý nghĩa
rất lớn. Thông qua sự thành công trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp giúp tăng GNP cho quốc gia. Các
doanh nghiệp thành công trên thị trường nước ngoài cũng giúp nâng tầm quốc tế cho các thương hiệu bản
địa, xây dựng uy n thương hiệu quốc gia. Chính thế, các quốc gia luôn tạo điều kiện cho doanh nghiệp
của mình tham gia vào thị trường thế giới.
Đối với quốc gia chủ nhà (quốc gia sở tại), việc các doanh nghiệp nước ngoài thực hiện marketing quốc tế
sẽ giúp đáp ứng tốt hơn nhu cầu dân cư của quốc gia đó, tăng sự sung túc cho người dân. Các chiến lược thu
hút nhà đầu nước ngoài cho thấy, giá trị của kinh doanh quốc tế, thể hiện ý nghĩa của marketing quốc tế
đối với quốc gia chủ nhà. mang lại hội việc làm, nguồn vốn nguồn ý tưởng cũng như công nghệ
mới cho phát triển kinh tế - xã hội. Qua đó, kinh doanh quốc tế giúp phát triển kinh tế tăng GDP cho nước
chủ nhà. Marketing quốc tế thúc đẩy kinh doanh quốc tế của quốc gia sở tại.
Đối với toàn thế giới nói chung, việc thực hiện marketing quốc tế của các doanh nghiệp sẽ giúp phát triển
kinh tế thế giới qua việc phát triển kinh tế các quốc gia, thỏa mãn nhu cầu của người dân trên thế giới qua
đó nâng cao đời sống của con người. Marketing quốc tế giúp tăng cường toàn cầu hóa, kiến thiết mối quan
hệ giữa các quốc gia qua các hoạt động trao đổi kinh doanh. Nhờ đó, giúp xóa bỏ rào cản giữa các quốc
gia, tăng cường giao thoa văn hóa, tăng sự đoàn kết dân tộc hòa bình thế giới. Marketing quốc tế còn thúc
đẩy sự phát triển văn minh nhân loại thông qua việc đưa các phát kiến khoa học thông qua những sản phẩm
mới đến với các thị trường mới của các quốc gia.
4. Giá trị của việc tham gia vào thị trường quốc tế đối với doanh nghiệp?
lOMoARcPSD| 58794847
5. Quốc tế hóa thị trường mang lại cho quốc gia sở tại những giá trị nào?
6. Những lợi ích mà một quốc gia sẽ nhận được khi khuyến khích các doanh nghiệp của họ đưa sản phẩm ra
thị trường quốc tế?
7. Phân tích các giai đoạn phát triển của marketing quốc tế.
Giai đoạn 1, doanh nghiệp theo quan điểm tập trung vào cố quốc chỉ kinh doanh nội địa. Doanh nghiệp
sản xuất sản phẩm tại quốc gia của mình và chỉ bán trong nội địa.
Giai đoạn 2, doanh nghiệp theo quan điểm tập trung vào quốc gia nhưng bắt đầu có hoạt động xuất khẩu và
bắt đầu làm marketing xuất khẩu. Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm tại quốc gia trụ sở chính và bán sản phẩm
ra các thị trường nước ngoài. Những sản phẩm này chủ yếu được sản xuất ra theo nhu cầu mong muốn
của người tiêu dùng nội địa.
Giai đoạn 3, doanh nghiệp theo quan điểm tập trung vào nhiều quốc gia, kinh doanh sản phẩm trên nhiều
quốc gia làm marketing quốc tế. Lúc này, doanh nghiệp thể thay đổi các quyết định marketing của
mình tùy điều kiện môi trường marketing khác nhau của các quốc gia. Doanh nghiệp thể đưa ra các sản
phẩm mới hay thương hiệu mới tại các thị trường mới. Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng những sản phẩm
thương hiệu đã nhằm giảm chi phí nghiên cứu phát triển và truyền thông nếu như sản phẩm sẵn có phù
hợp với nhu cầu thị trường quốc gia đó.
Giai đoạn 4, doanh nghiệp theo quan điểm tập trung vào nhiều khu vực và thực hiện marketing đa quốc gia.
Thực hiện quan điểm này, doanh nghiệp cũng đưa ra những quyết định marketing quốc tế tương tự như giai
đoạn 3 nhưng khác chỗ, giai đoạn 3 coi mỗi quốc gia là một thị trường thì giai đoạn 4 coi mỗi khu vực (bao
gồm một số quốc gia) là một thị trường.
Giai đoạn 5, doanh nghiệp theo quan điểm hướng tới thị trường toàn cầu thực hiện marketing toàn cầu.
Doanh nghiệp làm marketing toàn cầu, phối hợp các quyết định marketing trên các quốc gia khu vực, tích
hợpcác nguồn lực phân bổ cho các thị trường nhằm đạt được sự cân bằng vàphát triển trong danh mục
đầu toàn cầu. Với định hướng toàn cầu, họ cóthể theo đuổi chiến lược tiêu chuẩn hóa trên phạm vi toàn
cầu song cũng có
8. Hãy nêu rõ bản chất của 4 định hướng chiến lược kinh doanh trên thị trường quốc tế.
Ưu tiên cổ quốc (Ethnocentric): Định hướng kinh doanh này xuất phát từ quan điểm cho rằng, quốc gia nơi
doanh nghiệp trụ sở chính quan trọng nhất nhu cầu của thị trường tại quốc gia này được doanh nghiệp
quan tâm hơn cả. Doanh nghiệp thể vươn tới kinh doanh trên thị trường quốc tế nhưng mọi quyết định
kinh doanh đều được thực hiện tập trung tại cố quốc việc tổ chức kinh doanh cũng như công nghệ kinh
doanh thực hiện trên thị trường quốc tế đều giống với thị trường trong nước.
Đa trọng tâm (Polycentric): Ngược với chiến lược ưu tiên cố quốc, chiến lược đa trọng tâm là chiến lược mà
các doanh nghiệp hướng tới thị trường quốc tế. Định hướng kinh doanh này cho rằng, mỗi quốc gia một
thị trường riêng với những đặc điểm khác nhau và vì vậy, doanh nghiệp phải xây dựng những mục tiêu khác
nhau cho những quốc gia này. Doanh nghiệp tập trung vào nhiều quốc gia ý thức rằng, việc sản xuất và làm
marketing những địa phương khác nhau có những điều kiện khác nhau, do vậy, họ đưa ra những chính sách
lOMoARcPSD| 58794847
phù hợp với từng địa phương để tối đa hóa lợi nhuận. Việc quản lý các chi nhánh tại các quốc gia này được
thực hiện một cách phi tập trung để giành quyền chủ động tối đa cho các chi nhánh.
Định hướng khu vực (Regiocentric): Định hướng này xuất phát từ quan điểm, thế giới bao gồm nhiều khu
vực (khu vực châu Âu, châu Á, Trung Đông...), trong đó từng khu vực có những đặc trưng riêng biệt, tương
đối dễ chia sẻ giữa các quốc gia trong khu vực bởi đặc điểm địa lý, khí hậu và sự hình thành văn hóa trên
sở tự nhiên. Chính thế, các doanh nghiệp kinh doanh trên phạm vi quốc tế thể nỗ lực hợp nhất thị trường
một khu vực và thực hiện các chiến lược marketing đồng nhất trong khu vực phân biệt với các khu vực
khác.
Định hướng toàn cầu (Geocentric): Với quan điểm “thế giới phẳng”, song mỗi địa phương với đặc điểm kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hóa khác nhau, các doanh nghiệp theo đuổi định hướng toàn cầu có sự thích ứng sẽ
coi thị trường của mình là toàn thế giới và cung ứng cho thị trường sản phẩm toàn cầu với sự điều chỉnh phù
hợp với nhu cầu thị trường quốc gia thậm chí từng vùng miền (“think global, act local”) để đáp ứng tốt
nhất nhu cầu của từng thị trường quốc gia.
9. Phân tích các yếu tố thúc đẩy sự phát triển của marketing quốc tế.
- Định hướng kinh doanh của các doanh nghiệp: qtrình hội nhập về các khía cạnh, kc địa biên giới mờ
nhạt, toàn cầu hóa - >cơ hội
- Quan điểm trong tiêu dùng của khach hàng:xu hướng thị hiếu,
- Cạnh tranh ngày càng trở nên phức tạp đa dạng: số lượng ng tham gia lớn hơn
- Sự ra đời và ptr của các định chế qute: các hàng rào được phá bỏ
- Chuyển đổi số trong hoạt động kinh doanh: công nghệ 10. So sánh marketing quốc tế với marketing xuất
khẩu.
Marketing quốc tế nghĩa rộng hơn marketing xuất khẩu. Marketing quốc tế thể bao hàm cả việc một
doanh nghiệp thực hiện sản xuất hay lắp ráp một phần hàng hóa ở trong nước của doanh nghiệp và một phần
ở nước ngoài, hoặc nhập khẩu cho một nước khác những hàng hóa từ một nước thứ hai để họ bán trong nước
hoặc tái xuất hoặc việc thành lập những đại diện thường trực ở ngoài nước để lưu kho và phân phối các sản
phẩm. Marketing quốc tế thể thông qua việc cấp giấy phép sản xuất những sản phẩm của doanh nghiệp
cho các doanh nghiệp địa phương, hoặc tổ chức các hoạt động marketing khác ở nước ngoài.
Một trong những hình thức của marketing quốc tế được biểu hiện dưới hình thức marketing xuất khẩu. Đó
hoạt động marketing của các doanh nghiệp của một quốc gia nhất định, ứng dụng vào việc xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ của mình ra nước ngoài với yêu cầu cơ bản là các chiến lược mar đã áp dụng ở thị trường nội
địa thích ứng với mt và nhu cầu của thị trường xk bên ngoài
11. So sánh marketing quốc tế với marketing đa quốc gia
Theo cách tiếp cận này tmarketing quốc tế nghĩa hoạt động marketing vượt qua phạm biên giới của
từng quốc gia cụ thể, trong khi marketing đa quốc gia nghĩa sự điều hành hợp nhất c hoạt động marketing
của doanh nghiệp trên phạm vi toàn thế giới. Thực tế, marketing đa quốc gia thường đi cùng với các hoạt
động của doanh nghiệp đa quốc gia MNCs (Multinational corporations), sử dụng những chiến lược toàn cầu
liên quan đến việc sản xuất, đầu tư và marketing; nó mô tả sự hội nhập các nỗ lực marketing của một doanh
nghiệp trên một nhóm các quốc gia thay vì việc thực hiện marketing ở từng thị trường quốc gia cụ thể. Phần
lớn tổng doanh thu của họ được từ các hoạt động kinh doanh nước ngoài (thực tế, một số quan chức
lOMoARcPSD| 58794847
định nghĩa rằng bất kỳ một doanh nghiệp nào thu được tối thiểu 20% lợi nhuận này từ các hoạt động kinh
doanh ở nước ngoài đều được coi MNCs). Do vậy, một MNC sẽ tìm cách tối đa hóa doanh thu của mình
trên thế giới hơn là trong nước. Họ kinh doanh bất cứ nơi nào có điều kiện hợp nhất, không chỉ kể đến
quốc gia có đặt văn phòng của doanh nghiệp. Việc tự do hóa thương mại ngày càng phát triển trong nền kinh
tế thế giới, tỷ giá hối đoái ổn định lâu dài việc chuyển giao công nghệ, các nguồn tài chính, nhân lực dễ
dàng giữa các quốc gia đã khuyến khích mạnh việc mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp đa quốc gia
trong kỷ nguyên sau chiến tranh thế giới thứ hai.
một khía cạnh khác, marketing đa quốc gia chiến lược marketing của các doanh nghiệp kinh doanh
nhiều quốc gia khác nhau áp dụng từng chiến lược marketing riêng biệt cho từng khu vực thị trường -
chiến lược marketing phân biệt theo thị trường nhóm quốc gia do nh đến những đặc điểm về văn hóa,
ngôn ngữ, pháp luật và những đặc tính của cả nhóm các quốc gia.
c. Marketing quốc tế và mar toàn cầu
Marketing quốc tế thể bao hàm việc ứng dụng một hỗn hợp marketing giống nhau ở tất cả các nước. Thực
chất đó chiến lược marketing không phân biệt trên bình diện kinh doanh quốc tế, người ta gọi đó
marketing toàn cầu. Marketing toàn cầu chiến ợc marketing của một số hãng lớn theo đuổi mục tiêu
hướng ra thị trường thế giới và thỏa mãn nhu cầu thị trường các quốc gia thậm chí là thị trường toàn cầu với
một kiểu chiến lược marketing duy nhất song lại thích nghi hóa các chiến thuật marketing các thị trường
khác nhau. Nói cách khác, doanh nghiệp chỉ áp dụng một tưởng chiến lược marketing duy nhất cho toàn
bộ thị trường và phát triển các chương trình marketing cụ thể cho từng quốc gia. Chiến lược marketing này
phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thị trường thế giới. Thực tế chứng minh, xu hướng toàn
cầu hóa hiện nay đã làm cho hoạt động marketing quốc tế phải thay đổi một cách căn bản.
CHƯƠNG 2: LÝ THUYẾT VỀ QUỐC TẾ HÓA
1. Quốc tế hóa là gì? Các nội dung của quốc tế hóa?
Quốc tế hóa sản phẩm là quá trình phát triển các sản phẩm theo cách để nó có khả năng đáp ứng các yêu
cầu của khách hàng của các quốc gia khác nhau. Trong kinh tế học, quốc tế hóa hàm ý quá trình doanh
nghiệp nỗ lực để hiện diện ở các quốc gia khác nhau. Quốc tế hóa bao gồm các hoạt động hướng tới việc
duy trì phát triển mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường quốc tế 2. Hãy liệt phân tích
khái quát các yếu tố thúc đẩy quốc tế hóa.
Động cơ chủ động
Động cơ đối phó
- Mục tiêu lợi nhuận và tăng trưởng
- Định hướng của nhà quản lý
- Năng lực công nghệ/sản phẩm độc đáo
- Khai thác cơ hội thị trường nước ngoài
Mục tiêu lợi nhuận và tăng trưởng
- Định hướng của nhà quản lý
- Năng lực công nghệ/sản phẩm độc đáo
Có đơn hàng ngẫu nhiên từ nước ngoài
lOMoARcPSD| 58794847
- Hiệu quả kinh tế theo quy mô và hiệu ứng ki
nghiệm
Khai thác lợi ích về thuế
nh- Mở rộng thị trường cho sản phẩm mùa vụ
- Làm gần khoảng cách với khách hàng quốc tế
3. Hãy trình bày quá trình quốc tế hóa theo cách tiếp cận theo chu kỳ phát triển của thương mại quốc
tế. Giải thích tại sao quốc tế hóa một quá trình liên tục cần được đánh gliên tục? Các phương
thức quốc tế hóa lần lượt được đưa ra dựa trên quan niệm về chu kỳ phát triển thương mại quốc tế của
Vernon (1966), trong đó các doanh nghiệp thường trải qua giai đoạn xuất khẩu, tiếp đến FDI tìm kiếm
thị trường sau đó FDI định hướng chi phí. Các yếu tố công nghệ marketing kết hợp để định hướng
cho giải pháp tiêu chuẩn hóa, yếu tố giúp đưa ra các quyết định về định vị khu vực thị trường quốc tế
sẽ tham gia.
Giả thuyết của Vernon cho rằng, nhà sản xuất các nước phát triển (advanced countries - ACs) ‘gần gũi” với
thị trường hơn là nhà sản xuất ở những nơi khác; do đó, các cơ sở sản xuất đầu tiên cho các sản phẩm này sẽ
nằm trong ACs. Khi nhu cầu mở rộng, họ sẽ tiến hành tiêu chuẩn hóa một mức độ nhất định. Hiệu quả kinh
tế theo quy mô kinh tế sẽ đạt được thông qua sản xuất hàng loạt. Mối quan tâm về chi phí sản xuất lúc đó sẽ
dần thay thế mối quan tâm về sự thích ứng của sản phẩm. Với sản phẩm được tiêu chuẩn hóa, các nước kém
phát triển hơn (less developed countries - LDCs) sẽ có lợi thế khi lựa chọn địa điểm sản xuất. Một ví dụ về
điều này là sự di chuyển địa điểm sản xuất máy tính cá nhân từ ACs sang LDCs.
4. Phân tích cách tiếp cận thị trường quốc tế theo lộ trình Uppsala.
Mô hình tiếp cận thị trường quốc tế Uppsala với đặc trưng: Tham gia thị trường quốc tế với sự khác biệt so
với thị trường nội địa không lớn, bằng một phương thức gia nhập ít rủi ro nhất có thể, với các cam kết được
bố sung từng bước. hình này cho phép doanh nghiệp thực hiện việc gia nhập thị trường với nhiều giai
đoạn khác nhau. Cam kết với từng thị trường sẽ ngày càng sâu sắc hơn theo lộ trình thời gian. Sở dĩhình
có tên là Uppsala bởi nó xuất phát từ quan điểm của Trường đại học Uppsala (Johanson và
Wiedersheim-Paul, 1975; Johanson và Vahlne, 1977), với nội dung chính là các cam kết quan trọng sẽ tăng
dần theo thời gian. Hệ quả chính của hình quốc tế hóa Uppsala này các doanh nghiệp xu hướng
tăng cường cam kết với thị trường nước ngoài khi kinh nghiệm của họ phát triển. Nội dung 2.2.1 sau đây sẽ
trình bày kỹ về cách tiếp cận này
5. Phân tích cách tiếp cận thị trường quốc tế qua chi phí giao dịch.
Vào đầu những năm 1970, c hình thức quốc tế hóa trung gian như cấp phép không được quan tâm. Buckley
và Casson (1976) đã đưa thêm quan niệm cho rằng, việc cấp phép được xem như một phương cách tiếp cận
khách hàng ở nước ngoài. Theo đó, doanh nghiệp đa quốc gia thường thích 'nội bộ hóa' các giao dịch thông
qua đầu tư cổ phần trực tiếp hơn là cấp phép cho người khác sử dụng nguồn lực đã được tích lũy của mình.
Các liên doanh không được coi nằm trong phạm vi lựa chọn quản trị một cách rõ ng cho đến giữa những
năm 1980. Sự tập trung của Buckley và Casson vào các giải pháp dựa trên thị trường (bên ngoài) so với dựa
vào doanh nghiệp (giữa các bên) đã nêu bật ý nghĩa chiến lược của việc cấp phép thâm nhập thị trường quốc
tế. Quốc tế hóa liên quan đến hai quyết định phụ thuộc lẫn nhau – thị trường thâm nhập và phương thức kiểm
soát thị trường đó.
So với quan điểm nội bộ hóa (liên quan chặt chẽ đến thuyết phân tích chỉ phí giao dịch - Transaction Cost),
(Williamson, 1975) với câu hỏi cơ bản là, khi quyết định thâm nhập thị trường nước ngoài, một doanh nghiệp
nên thực hiện thông qua nội bộ hóa trong phạm vi doanh nghiệp (doanh nghiệp con) hay thông qua một
lOMoARcPSD| 58794847
số hình thức hợp tác với đối tác bên ngoài (bên ngoài)? Các quan điểm nội bộ hóa và lý thuyết phân tích chỉ
phí giao dịch đều liên quan đến việc giảm thiểu chi phí giao dịch cũng như khả năng thất bại của thị trường.
Mục đích phân tích đặc trưng của giao dịch để quyết định phương thức quản trị hiệu quả nhất, với mục
tiêu tối thiểu hóa chi phí giao dịch. thuyết nội bộ hóa thể được coi thuyết chi phí giao dịch của
tập đoàn đa quốc gia
6. Phân tích cách tiếp cận thị trường quốc tế theo lý thuyết mạng lưới.
Giả định bản trong cách tiếp cận mạng lưới doanh nghiệp quốc tế không thể được phân tích như một
tác nhân biệt lập phải được nhìn nhận trong mối quan hệ với các tác nhân khác trong môi trường liên
quốc gia. Do đó, doanh nghiệp nhân phụ thuộc vào các nguồn lực do người khác kiểm soát. Các mối quan
hệ của một doanh nghiệp trong mạng nội địa có thể được sử dụng làm kết nối với các mạng khác ở các quốc
gia khác (Johanson, 1988). Chi
7. Giải thích sự khác biệt chính giữa ba thuyết về quốc tế hóa: hình Uppsala, thuyết chi phí
giao dịch và mô hình mạng.
thuyết qt hóa Up pt
cp giao dịch
Đơn vị
ptich
DN
gd hoặc một số gd
Giả
thuyết
bản về
hvi tổ
chức
hình dựa trên các
thuyết hành vi
quá trình ra quyết định
gia tăng với ít ảnh
hưởng từ các yếu tố thị
trường cạnh tranh. Quá
trình học tập từng
bước từ xuất khẩu đơn
giản sang đầu trực
tiếp nước ngoài (FDI)
Trong thế giới thực,
những khó khăn về giao
dịch / ma sát giữa người
mua người bán. Sự ch
mích này chủ yếu do hành
vi hội gây ra: sự chú ý có
ý thức của người quản lý
đơn lẻ (tức m kiếm
lợi với trò lố)
Giải
thích các
biến số
ảnh
hưởng
tới sự
phát triển
Kiến thức của công ty
/ cam kết thị trường
- Khoảng cách tâm
giữa cố quốc thị
trường quốc tế của
công ty
Khó khăn trong giao dịch
chi phí giao dịch tăng lên
khi các giao dịch được đặc
trưng bởi tính đặc thù của
tài sản, tính không chắc
chắn, tần suất giao dịch
lOMoARcPSD| 58794847
Ý nghĩa
ứng dụng
với ng
làm mar
Các cam kết thị trường
bổ sung nên được thực
hiện theo từng bước
nhỏ. Các bước cụ thể
như sau: - Chọn các thị
trường địa mới với
khoảng cách | tâm linh
nhỏ từ thị trường hiện
Chọn một “chế độ
nhập cảnh” với ít rủi ro
biên
Trong các điều kiện nêu
trên (nghĩa chi phí giao
dịch cao ngất ngưởng), các
công ty nên tìm cách nội bộ
hóa các hoạt động (tức
thực hiện chiến ợc
marketing toàn cầu tại các
công ty con thuộc sở hữu
hoàn toàn). Nhìn chung,
công ty nên chọn phương
thức nhập cảnh để giảm
thiểu chi phí giao dịch
8. Toàn cầu hóa là gì? Những hệ quả của toàn cầu hóa?
Xét về bản chất, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động
lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Toàn cầu hóa là
một quá trình không thể đảo ngược sự hợp nhất giữa các khuynh hướng như: quá trình quốc tế hóa toàn
bộ đời sống xã hội, sự phụ thuộc lẫn nhau xuyên quốc gia của các doanh nghiệp, sự phối hợp hành động của
các tổ chức quốc tế khác nhau, kèm theo đó là quá trình tự do hóa các hình thức giao dịch kinh tế
hội hết sức đa dạng. Toàn cầu hóa không chỉ mở ra các kênh mới của quá trình lưu chuyển các nguồn tài
chính, trí tuệ, con người và vật chất một cách tự do xuyên biên giới; mà đồng thời còn tạo ra những biến đổi
sâu sắc mang tính bản chất đối với đời sống cũng như hoạt động của mỗi quốc gia (nói riêng) và các dân tộc
(nói chung).
2.3.2. Những hệ quả của toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa sẽ dẫn đến những hệ quả sau đây:
Làm gia tăng mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước và giữa các dân tộc trên thế giới;
Hình thành nên các thị trường tài chính, hàng hóa và dịch vụ ở cấp độ toàn thế giới, hay một nền kinh tế thế
giới thống nhất;
Làm nảy sinh không gian thông tin toàn cầu, theo đó, hoạt động giao tiếp giữa các chủ thể không lệ thuộc
nhiều vào không gian địa lý và thời gian vật lý;
Chuyển hóa tri thức thành các đơn vị bản tài sản hội, tiến đến thay thế loại hình lao động truyền
thống bằng lao động sáng tạo;
lOMoARcPSD| 58794847
Làm cho các giá trị tự do, dân chủ (trước hết là các giá trị gắn với nhân quyền) thẩm thấu một cách mạnh mẽ
vào thực tiễn quan hệ quốc tế, cũng như vào đời sống chính trị trong nước.
Đặc trưng toàn cầu hóa: công nghệ mới, sự tập trung ttcho phép liên lạc trực tiếp, sự gia tăng xu hướng chuẩn
hóa các sp kt và xh, gia tăng hội nhập xuyên quốc gia, dễ làm tổn thương lẫn nhau
Các yếu tố thúc đẩy toàn cầu hóa: xóa bỏ các rào cản thương mại/khách hàng toàn cầu/ quản lý qhe, tổ chức
mạng lưới /công nghệ được tiêu chuẩn hóa trên toàn tgioi, tt mọt tgioi/sự hthanhf các nhóm ng trên tgioi có
cùng những gtri văn hoa do sự biên đổi hội nhập vh/ truyền thông trên toàn tgioi
10. Trình bày hiểu biết của bạn về “khoảng cách nhận thức tinh thầntrong thuyết Uppsala?
Khoảng cách nhận thức tinh thần được xác định dựa trên các yếu tố như sự khác biệt về ngôn ngữ, văn
hóa hệ thống chính trị, những yếu tố này làm xáo trộn luồng thông tin giữa doanh nghiệp thị trường.
vậy, các doanh nghiệp bắt đầu quốc tế hóa bng cách đến những thị trường họ thể dễ dàng hiểu
được nhất. Họ sẽ nhìn thấy cơ hội và ở đó, sự không chắc chắn của thị trường là thấp.
CHƯƠNG 3: MT CTRI-LUATPHAP TRONG MARKETING QUỐC TẾ
1. Trình bày ảnh hưởng của chủ quyền quốc gia tới hoạt động kinh doanh quốc tế.
Chủ quyền quốc gia quyền lực được thực thi bởi một chính phủ trong mối tương quan với các quốc gia
khác, áp dụng với công dân của họ hoặc áp dụng với các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong phạm lãnh
thổ một quốc gia.
Trong kinh doanh quốc tế, các quốc gia có thể xem xét "giảm bớt" chủ quyền của mình với các quốc gia khác
để cùng tồn tại ôn a. Việc các quốc gia tham gia vào các định chế quốc tế như Liên minh châu Âu EU,
Hiệp ước Bắc Đại Tây dương (NATO), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN (AFTA), .. những ví dụ điển hình cho việc các quốc gia tự nguyện đồng ý từ bỏ một số chủ quyền
để đổi lấy quyền tham gia với các quốc gia khác cho một mục tiêu lợi ích chung.
Chủ quyền quốc gia một trong những vấn đề trọng tâm nhất trong các cuộc thương thảo trước khi một
quốc gia gia nhập vào bất kỳ liên minh và định chế kinh tế quốc tế nào. Đầu tư nước ngoài cũng có thể được
xem là một trong những mối đe dọa đến chủ quyền và do đó trở thành mối đe dọa đối với sự ổn định của một
thể chế chính trị, sự tồn tại của Chính phủ và các cơ quan của nó
2. Trình bày ảnh hưởng của thể chế chính trị tới hoạt động kinh doanh quốc tế.
Thể chế chính trị (political constitution) bộ máy tổ chức của nhà nước, hình thức chế độ nhà nước
lựa chọn để xây dựng thông qua những quy định, điều luật thông qua để điều chỉnh, quản hội.
các doanh nghiệp có vốn đầu nước ngoài không mấy quan tâm tới đảng phái chính trị, nhưng họ quan tâm
tới việc các bộ luật và cách hành pháp mỗi quốc gia có ổn định lâu dài hay không, qua đó giúp họ đánh giá
được mức độ rủi ro khi kinh doanh tại mỗi khu vực thị trường.
3. Chủ nghĩa dân tộc gì? Ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc tới hoạt động kinh doanh quốc tế?Chủ
nghĩa dân tộc luôn tồn tại bất kỳ quốc gia nào, một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới môi trường
kinh doanh. Chủ nghĩa dân tộc tinh thần thể hiện sự ưu tiên tuyệt đối trong đánh giá tiêu dùng các
sản phẩm của quốc gia. được thể hiện qua tưởng hành động bảo vệ uy tín, nền văn hóa nền
sản xuất thương mại nước nhà. Nó thể hiện niềm tự hào và hợp nhất dân tộc. các quốc gia hướng tới
chủ nghĩa dân tộc luôn tìm cách thức tỉnh người dân niềm tự hào về đất nước, con người và văn hóa riêng
của mình. Niềm tự hào đó sẽ tạo rao cản cùng lớn với các sản phẩm/doanh nghiệp đến từ các quốc
gia khác.
Có nhiều mức độ của chủ nghĩa dân tộc và cũng nhiều phươngcách khác nhau thể hiện chủ nghĩa dân tộc.
Phong trào "chỉ mua sản phẩmđược sản xuất trong nước" được nhiều quốc gia áp dụng nhằm
khuyếnkhích sản xuất trong nước. Phong trào "Buy American" (mua hàng Hoa
lOMoARcPSD| 58794847
Kỳ), "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam", hay "Made in China" (muahàng sản xuất tại Trung Quốc) đã
tạo nên những làn sóng ủng hộ sản xuấttrong nước, hạn chế hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu vào
thịtrường, đặc biệt ở các quốc gia có chủ nghĩa dân tộc ở mức độ cao.
Cho tới nay, chủ nghĩa dân tộc dường như đã lắng xuống, toàn cầu a trở thành xu hướng không thể
tránh khỏi, các nhà đầu nước ngoài được chào đón như một nguồn lực, tạo nên động lực cho phát triển
kinh tế trong nước. Tuy nhiên, cần nhớ rằng, chủ nghĩa dân tộc đến đi theo chu kỳ với các điều kiện
thái độ của chính phủ. Các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài được chào đón hôm nay thể bị hạch
sách vào ngày mai, khi thể chế chính trị thay đổi và thái độ của nhà cầm quyền mới không còn ủng hộ nữa
4. Việc thay đổi đảng cầm quyền ảnh hưởng như thế nào tới nhà đầu tư nước ngoài? Cho dụ minh
họa.
Ví dụ: Nước Mỹ đa đảng. Năm 2017, Trump đảng dân chủ nắm quyền -> thay đổi chính sách rút khỏi TPP,
Hiệp địng Paris về biến đổi khí hậu
1) Tạo ra cạnh tranh giữa các phe phái. Các phe phái đấu tranh nhau ắt dẫn đến sự thay đổi trong hệ thống
pháp luật và hệ thống thực thi pháp luật. "Tân quan, tân chính sách" luôn câu nhắc của các doanh nghiệp
khi theo dõi sự thay đổi của hệ thống chính quyền, chính phủ.
2) Làm thay đổi cục diện kinh doanh, điều kiện kinh doanh cả nhu cầu của thị trường, đặc biệt thị trường
khách hàng tổ chức; cũng ảnh hưởng lớn tới nguồn cung, tới các tổ chức trung gian tới nhu cầu,
mong muốn của người tiêu dùng.
3) Thúc đẩy sự gia tăng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tuyệt đối hóa tính biệt lập, đặc thù của một dân tộc,
đề cao dân tộc/đảng phái mình, phủ nhận hoặc xem thường với thái độ miệt thị các dân tộc/đảng phái
khác; chỉ thấy quyền lợi của dân tộc/đảng phái mình, chà đạp lên quyền lợi của dân tộc khác; nuôi dưỡng
ngày càng sâu mối hận thù với các dân tộc/đảng phái khác,...
4) Làm gia tăng nh trạng thủ địch nhắm vào các quốc gia liên quan tới sự thành bại của các đảng phái
chính trị trong cuộc tranh giảnh quyền lực kiểm soát hoạt động của quốc gia.
5) Tạo nên xu hướng tranh chấp thương mại khi các quy định về kinh doanh bị can thiệp bởi bàn tay vĩ mô
5. Tính bất ổn của thể chế chính trị ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp?
6. Rủi ro chính trị là gì? Các loại rủi ro chính trị khi kinh doanh trên thị trường quốc tế?
Rủi ro chính trị (political risk) những rủi ro gắn liền với luật pháp các doanh nghiệp thể phải đối
mặt. Rủi ro chính trị có ở mọi quốc gia, nhưng phạm vi rùi ro rất khác nhau giữa các quốc gia. Nhìn chung,
rủi ro chính trị là thấp nhất ở các quốc gia có lịch sử ổn định và tính nhất quán trong luật pháp.
Rủi ro chính trị vĩ mô và vi mô. Theo tiếp cận khác, có 5 loại rủi ro chính trị quan trọng có thể gặp phải:
(1) Rủi ro sở hữu: Rủi ro bị mất đi quyền sở hữu nghiêm trọng nhất mà các doanh nghiệpkinh doanh trên thị
trường quốc tế gặp phải chính là việc bị trung thu tài sản. Việc tước đi quyền sở hữu tài sản của nhân, tổ
chức để sung công sản. Việc tước đi đúng thu (confiscation) - thu giữ tài sản của người khác không thanh
toán/ hoàn trả lại. Ít quyết liệt, nhưng cũng rất nghiêm trọng, đó tước đi quyền sở hữu tài sản (expropriation)
của cá nhân, tổ chức nhưng bù lại cho họ một phần giá trị tài sản bị thu giữ. Hình thái thứ ba của rủi ro mất
đi quyền sở hữu chính việc bị thuần hóa tài sản (domestication), xảy ra khi nước chủ nhà đẩy mạnh việc
lOMoARcPSD| 58794847
chuyển giao đầu tư nước ngoài để kiểm soát và sở hữu thông qua các nghị định chính phủ ủy quyền sở hữu
địa phương và sự tham gia của quốc gia lớn hơn trong quản lý doanh nghiệp.
(2) Rủi ro lợi ích kinh tế: hạn chế nk, quy định về tỷ kệ nội địa hóa, kiểm soát trao đổi/tt/giá cả/thuế,
nhữngràng buộc về lđ, thay đổi đảng lãnh đạo, tẩy chay
(3) Rủi ro xã hội; (4) Rủi ro do bạo lực, khủng bố và chiến tranh; (5) Rủi ro từ khủng bố mạng và tội phạm
mạng
7. Những rủi ro lợi ích kinh tế xuất phát từ bất ổn của chính trị?
8. Trình bày các biện pháp doanh nghiệp thể dùng để đối phó với các rủi ro chính trị?Đánh giá
rủi ro chính trị: theo dõi dự báo diễn biến của các sự kiện chính trị ảnh hưởng tiềm tàng của chúng
đến các quyết định kinh doanh quốc tế hiện tại và tương lai Xây dựng mối quan hệ với chính phủ:
Vận động hành lang. Gây ảnh hưởng đến chính trị địa phương liên quan đến việc giao dịch với các nhà lập
pháp và các chính trị gia địa phương, trực tiếp hoặc thông qua các nhà vận động hành lang.
Tham nhũng/ hối lộ. Mặc dù bất hợp pháp ở hầu hết các quốc gia, hối lộ là hình thức phổ biến để đạt được
ảnh hưởng chính trị và xây dựng mối quan hệ với những người ra quyết định chính trị
Xây dựng mối quan hệ với khách hàng;
Trong bối cảnh marketing quốc tế, khách hàng địa phương sẽ ủng hộ các doanh nghiệp đã cung cấp cho họ
những sản phẩm và các dịch vụ mong muốn. Xây dựng mối quan hệ với nhân viên:
Nhân viên địa phương có thể rất bảo vệ doanh nghiệp, ngay cả trong thời điểm bất ổn, đặc biệt nếu họ nhận
thức rằng công việc của họ thể bị ảnh hưởng bởi sự can thiệp của chính phủ. Do đó, những nhân viên
được đối xử tốt thường quan tâm đến sự tồn tại của doanh nghiệp, bởi vì họ cho rằng đó là chìa khóa cho sự
sống còn của chính họ.
Xây dựng mối quan hệ với cộng đồng địa phương:
Cộng đồng địa phương thể lo ngại rằng một doanh nghiệp nước ngoài sẽ khai thác nguyên liệu lao
động tạo ra lợi nhuận, nhưng không mang lại điều đó cho môi trường địa phương người dân địa
phương. Do đó, doanh nghiệp cần trở thành một "công dân địa phương" tốt và tái đầu tư vào cộng đồng địa
phương.
9. Nêu khái niệm luật quốc tế. Phân tích các yếu tố hình thành nên luật quốc tế.
Luật quốc tế (international laws) hệ thống c nguyên tắc quy phạm pháp luật, được các quốc gia
chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng, trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, nhằm điều chỉnh những
quan hệ phát sinh giữa quốc gia các chủ thể trong mọi lĩnh vực đời sống quốc tế và được đảm bảo thực
thi bởi chính các chủ thể luật quốc tế.
Luật quốc tế xuất phát từ ba nguồn chính: phong tục, các hiệp ước quốc tế và các quyết định của tòa án quốc
gia và quốc tế.
Phong tục là những tập quán hoặc hành vi đã được chấp nhận rộng rãi đến mức chúng trở thành các quy tắc
của pháp luật (Luật dựa trên phong tục sẽ phát triển chậm).
Các hiệp ước quốc tế đại diện chính thức cho các thỏa thuận giữa các quốc gia hoặc các doanh nghiệp, theo
đó, đặt ra các quy tắc nghĩa vụ để điều chỉnh các mối quan hệ lẫn nhau giữa các bên. Hiệp ước hợp
đồng chỉ ràng buộc đối với những người tham gia ký kết, nhưng nếu một số lượng lớn các hiệp ước hoặc hợp
đồng quy định tương tự, thì những điều ước hoặc hợp đồng này thể mang tính chất của một luật dựa
trên phong tục hoặc quy tắc chung.
Các quyết định của tòa án quốc gia và quốc tế, là các phán quyết được đưa ra khi có tranh chấp thương mại
giữa các nhân tổ chức quốc tế hoạt động trên phạm vi lãnh thổ một quốc gia nào đó. Các phán quyết
của quốc gia có thể được chấp nhận như luật quốc tế chỉ khi những phán quyết này dựa trên sự thấu hiểu đầy
lOMoARcPSD| 58794847
đủ về các vấn đề quốc tế cần giải quyết, hoặc khi chúng phát triển thành một loạt cách diễn giải phù hợp với
các quốc gia khác. Khi phán quyết của tòa án quốc gia không được một hoặc cả hai bên chấp nhận, thì các
tòa án trọng tài quốc tế thể ra phán quyết. Vấn đề tranh chấp thể chuyển sang a án quốc tế để
phân xử nếu các bên đồng ý.
CHƯƠNG 4: MÔI TRƯỜNG KINH TẾ TRONG MARKETING QUỐC TẾ
1.Mức độ tăng trưởng kinh tế được đánh giá như thế nào? Nó tạo ra các cơ hội và thách thức nào cho
hoạt động kinh doanh?
Tăng trưởng kinh tế (Economic development) được hiểu là sự tăng trưởng của nền sản xuất quốc gia được
thể hiện qua sự thay đổi của các chỉ số như thu nhập bình quân đầu người, tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
hay tổng thu nhập quốc dân (GNI), cho thấy khả năng chi trả của cư dân của một quốc gia nào đó. Nó được
đánh giá các biến số kinh tế liên quan đến quy mô và tính chất của thị trường.
Tại các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng thấp, nhu cầu thị trường ở mức thấp và tăng trưởng kém; cạnh tranh
kém năng động marketing thường chỉ tập trung vào khâu phân phối. Ngược lại, với các nền kinh tế tốc
độ tăng trưởng cao, năng động, nhu cầu thị trường thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi các nỗ lực marketing phải
luôn thay đổi nhằm khám phá và đáp ứng các nhu cầu mới
2. Thu nhập phân phối thu nhập ảnh hưởng như thế nào tới hội kinh doanh trên thị trường
quốc tế?
Thước đo phát triển kinh tế phổ biến là tổng sản phẩm quốc dân (GNP) - giả trị của tất cả hàng hóa và dịch
vụ được sản xuất bởi một quốc gia trong khoảng thời gian một năm. Con số này bao gồm cả thu nhập do
sản xuất trong nước tạo ra và các hoạt động quốc tế của quốc gia. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là giá trị
của tất cả hàng hóa và dịch vụ do nền kinh tế trong nước sản xuất trong một năm, chỉ dấu toàn diện về sức
khỏe kinh tế của một quốc gia. Phân loại các quốc gia theo thu nhập Các nước kém phát triển LDCs:
GDP bq <3000$
Các nước kém phát triển phụ thuộc rất nhiều vào một sản phẩm và thường vào một đối tác thương mại. Giá
hàng hóa giảm thể dẫn đến giảm mạnh thu nhập của cả nước. Kết quả của những điều chỉnh kinh tế
chính trị thể ảnh hưởng đến các nhà xuất khẩu sang quốc gia đó thông qua những thay đổi thể về
thuế quan hàng rào phi thuế quan. Chất lượng của các kênh phân phối khác nhau đáng kể giữa c quốc
gia. Thường sự khác biệt lớn giữa các trung gian phân phối quy nhỏ, thiếu vốn các nước kém
phát triển và các trung gian phân phối ở các nước tiên tiến hơn. Các nhà bán lẻ, chẳng hạn, thường là thương
nhân. Tỷ lệ các cửa hàng tự phục vụ quy mô lớn tương đối thấp.
Các nước công nghiệp hóa mới (NICs):
Ở các quốc gia NICs, mặc dù cơ sở bạ tầng có sự phát triển đáng kể, nhưng tăng trưởng cao của nền kinh tế
thể gây khó khăn cho việc sản xuất theo yêu cầu của khách hàng trong vàngoài nước (do phải tập trung
nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tăng trưởng cao).
Các nước công nghiệp phát triển:
Các quốc gia này có GDP bình quân đầu người cao, sở công nghiệp rộng khắp, lĩnh vực dịch vụ phát triển
đáng kể đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng quốc gia. Một số nước công nghiệp phát triển tiên tiến (ví dụ: Hoa
Kỳ và Pháp) có ngành nông nghiệp quan trọng..
Phân phối thu nhập, của cải sự sung túc của các nhóm cụ thể trong một quốc gia hoặc khu vực cũng rất
được quan tâm. Ngay cả trong một xã hội có thu nhập trung bình thấp, có thể có một bộ phận dân cư có mức
thu nhập cao mong muốn mua hàng xa xỉ. Trong khi thu nhập bình quân Hồng Kông, được đo bằng
lOMoARcPSD| 58794847
Tổng thu nhập quốc dân (GNI) trên đầu người, thấp hơn nhiều so với các quốc gia công nghiệp phát triển
lớn, nhưng nước này có tỷ lệ sở hữu ô tô Rolls-Royce bình quân đầu người cao nhất trên thế giới.
3. sở hạ tầng ảnh hưởng như thế nào tới marketing quốc tế? Các yếu tố sở hạ tầng nào cần
quan tâm?
Người làm marketing quốc tế sẽ phụ thuộc nhiều vào các dịch vụ do thị trường địa phương cung cấp về vận
tải, thông tin liên lạc và năng lượng cũng như các tổ chức tham gia vào các chức năng hỗ trợ của marketing:
truyền thông, phân phối, thông tin tài chính. Ngoài ra, việc thiếu sở hạ tầng khiến người nông dân
không tiếp cận được với công nghệ, đầu vào và ý tưởng mới. Thiếu csht ->k có thông tin.
Mạng lưới giao thông:
Mạng lưới giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy hoặc đường hàng không rất cần thiết cho
việc phân phối vật chất Hạ tầng thông tin:
Khả năng thông tin của một doanh nghiệp với các đối tượng bên ngoài bên trong thị trường có thể được
ước tính bằng cách sử dụng các chỉ số của sở hạ tầng thông tin: điện thoại, máy tính, phương tiện phát
sóng và phương tiện in đang được sử dụng. Công nghệ không dây đang thay đổi toàn cảnh thế giới về giao
tiếp theo nhiều cách. Các thị trường đã phát triển, mới nổi đang phát triển sẽ yêu cầu người làm marketing
có những điều chỉnh.
thể thấy, tăng trưởng người dùng mạng hội tiếp tục mức hai con s10,1% trong năm 2021, bất
chấp ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Có thể thấy, 424 triệu người dùng đã bắt đầu hành trình truyền thông
hội của họ trong năm qua, tương đương với trung bình hơn 1 triệu người dùng mới mỗi ngày, hoặc khoảng
13,5 người dùng mới mỗi giây. Với lượng người dùng mạng hội hiện chiếm 58,4% tổng dân số thế giới,
chúng ta sẽ thấy tỷ lệ tăng trưởng bắt đầu giảm tốc trong vài năm tới đây thlần cuối cùng chúng
tôi báo cáo mức tăng trưởng hàng năm hai con số trong người dùng mạng hội. Điều này hứa hẹn hội
kinh doanh toàn cầu, tận dụng hạ tầng thông tin yêu cầu không thể thiếu cho các doanh nghiệp kinh
doanh trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt trong các hoạt động marketing.
4. Các yếu tố kinh tế nào ảnh hưởng tới hội kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế? -
Thu nhập hội thị trường: Thu nhập ảnh hưởng tới sức mua của thị trường do đó, yếu tố ảnh
hưởng lớn tới sức hấp dẫn của thị trường cả về quy mô và loại sản phầm, cơ cấu sản phẩm mà thị trường đó
tiêu thụ.
- Mức tăng trưởng
- Tỷ giá hối đoái- Cơ sở ht
5. Phân tích ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái tới hội marketing của các doanh nghiệp trên thị
trườngquốc tế?
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến nhu cầu đối với các sản phẩm của một doanh nghiệp trên thị trường toàn cầu.
Khi tiền tệ của một quốc gia yếu (có giá trị thấp so với các đơn vị tiền tệ khác), giá của xuất khẩu của nó trên
thị trường thế giới giảm giá nhập khẩu tăng. Giá thấp làm cho hàng hóa xuất khẩu trở nên hấp dẫn hơn
trên thị trường thế giới. Giá thấp cũng cung cấp cho các doanh nghiệp hội để chiếm thị phần tửừ các doanh
nghiệp có giá sản phẩm cao hơn. Hơn nữa, một doanh nghiệp bán hàng ở một quốc gia có đồng nội tệ mạnh
(đồng tiền có giá trị cao so với các loại tiền tệ khác) trong khi trả lương cho người lao động ở một quốc gia
có đồng tiền yếu, sẽ cải thiện lợi nhuận.
6. Tại sao nói, “đáy kim tự tháp” vẫn tiềm ẩn các cơ hội kinh doanh?
- Số lượng lớn
- Nhu cầu lớn
7. Phân tích một số thay đổi trong môi trường kinh tế quốc tế?
lOMoARcPSD| 58794847
Từ đầu thế kỷ 21, nền kinh tế quốc tế có những đặc điểm mới như: (i) đầu tư quốc tế tăng mạnh và có nhiều
thay đổi quan trọng; (ii) xu hướng quốc tế hóa các doanh nghiệp ngày càng nét; (iii) cấu quốc tế của
các lĩnh vực kinh tế chủ chốt có những thay đổi căn bản. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) - có nghĩa là đầu
tư vào các cơ sở sản xuất và dịch vụ nước ngoài với mục đích tham gia tích cực vào việc quản lý chúng -
là một khía cạnh cơ bản của sự hội nhập ngày càng tăng của các nền kinh tế quốc gia. Tớc đây, FDI được
coi một giải pháp thay thế cho xuất khẩu để tránh các hàng rào thuế quan. Tuy nhiên, hiện nay, FDI
thương mại quốc tế bổ sung cho nhau. Khi các hãng đầu tư vào các cơ sở sản xuất phân phối quốc gia
khác nhằm mở rộng sang các thị trường mới trên thế giới, họ đã bổ sung khả năng hoạt động đối với nguồn
vốn FDI. FDI dịch chuyển từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Trong lịch sử, một phần lớn
FDI được thực hiện các nước phát triển thông qua các doanh nghiệp đa quốc gia của các nước phát triển
trong khu vực Bba (tức Hoa Kỳ, Tây Âu Nhật Bản). Tuy nhiên, nền kinh tế thế giới chứng kiến sự
trỗi dậy nhanh chóng của các nền kinh tế mới nổi thuộc các nước BRICS. Một trong những khu vực phát
triển thay đổi nhanh chóng châu Á các quốc gia thuộc Vành đai Thái Bình Dương. Các quốc gia
châu Á đang tự mình mở rộng liên kết thương mại, đầu tư và công nghệ, thay vì phụ thuộc vào châu Âu hay
Hoa Kỳ như trước đây.
8. Văn hóa tiêu dùng có ảnh hưởng tới hoạt động marketing như thế nào?khi thu nhập một gđ tăng tỷ lệ chi
tiêu cho thực phẩm sẽ giảm chỉ tiêu cho nhà ở và các hoạt động gia đình sẽ gần như không đổi và số tiền
tiết kiệm hoặc chi cho các hoạt động mua sắm khác sẽ tăng lên dụ Trung Quốc, sự khác biệt rệt
giữa các thị trường địa lý và giữa người tiêu dùng ở thị trường thành thị và nông thôn. Gần 60% máy tính
nhân được bán ra tìm được khách hàng ở các tỉnh phía Đông, Bắc Nam có nền kinh tế phát triển, đặc
biệt là các thành phố lớn ven biển. Trong thị trường phụ của máy chủ, thị phần thậm chí còn cao hơn
mức 65%. Người tiêu dùng thành thị chỉ tiêu cho thực phẩm nhiều hơn 2,5 lần cho giải trí nhiều hơn
10 lần so với người tiêu dùng nông thôn. Điều này không nghĩa thị trường thành thị nội địa khu
vực nông thôn không có cơ hội
9. Các rủi ro do môi trường kinh tế mang lại khi kinh doanh trên thị trường quốc tế?
Trên thị trường quốc tế, có thể liệt kê các rủi ro về kinh tế như: (1) Những điểm khác nhau và các biến động
trong giá trị của các loại tiền tệ khác nhau; (2) Những khác biệt về mức lương phổ biến; (3) Khó khăn trong
việc củng cố các quyền sở hữu; (4) Thất nghiệp
Về phương diện thị trường, những rủi ro chung như: khoảng cách các thị trường so sánh; cạnh tranh từ
các doanh nghiệp khác trên thị trường các chị goải, sự khác biệt trong việc sử dụng sản phẩm thị trường
ng ngoài, sự khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa; khó khăn trong việc tìm kiếm nhà phân phối phù hợp tại thị
trường nước ngoài; sự khác biệt về quy cách sản phẩm tại thị trường nước ngoài; sự phức tạp của dịch vụ
vận chuyển cho người mua ở nước ngoài.
Rủi ro thương mại trong marketing quốc tế có thể liệt kê như: biến động tỷ giá hối đoái khi hợp đồng được
thực hiện bằng ngoại tệ; khách hàng xuất khẩu không thanh toán do tranh chấp hợp đồng, phá sản, từ chối
chấp nhận sản phẩm hoặc gian lận; chậm trễ và/ hoặc thiệt hại trong quá trình vận chuyền và phân phối xuất
khẩu; khó khăn trong việc xin tài trợ xuất khẩu.
CHƯƠNG 5: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CÁC ĐỊNH CHẾ QUỐC TẾ
1. Hội nhập kinh tế quốc tế gì? Tại sao nói, hội nhập kinh tế quốc tế một quá trình tất yếu
kháchquan?
Hội nhập quốc tế (ở tầm quốc gia) là sự tham gia vào hệ thống thể giới và trở thành một bộ phận cấu thành
của chinh thể thế giới, trước hết là bộ phận cấu thành của “nền kinh tế thế giới”, “nền chính trị thế giới” và
“nền văn minh nhân loại”. Tất cả các hoạt động này đều là hoạt động có chủ đích, nhằm: (1) phát triển quốc
lOMoARcPSD| 58794847
gia; (2) khẳng định bản sắc quốc gia; (3) giành vị thế xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống; (4) tham gia
hoàn thiện và phát triển hệ thống… hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình giao lưu, hợp tác, gắn kết nền kinh
tế của quốc gia này với quốc gia khác hoặc tổ chức kinh tế khu vực hội nhập với toàn cầu".
Trong thế giới hiện đại, sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng thị trường,
hình thành thị trường khu vực quốc tế. Đây chính động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập quốc
tế. Hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế khác đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Các quốc
gia tham gia quá trình này cơ bản vì lợi ích cho đất nước, vì sự phồn vinh của dân tộc mình. Mặc khác, các
quốc gia thực hiện hội nhập quốc tế cũng góp phần thúc đẩy thế giới tiến nhanh trên con đường n minh,
thịnh vượng.
2. các cấp đhội nhập quốc tế nào? Hiện nay, Việt Nam hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực nào?
Hội nhập ở lĩnh vực nào là sâu rộng nhất hiện nay?
Nhìn tổng thể thì hội nhập quốc tế ba cấp độ chính là: hội nhập toàn cầu, khu vực song phương. Các
phương thức hội nhập này được triển khai trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Cho đến nay, đối
với Việt Nam, hội nhập quốc tế được triển khai trên 3 lĩnh vực chính gồm: hội nhập trong lĩnh vực kinh tế
(hội nhập kinh tế quốc tế), hội nhập trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế trong
lĩnh vực văn hóa - xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế
quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập
kinh tế quốc tế. HNKTQT xu thế lớn và mang nhiều đặc trưng, đồng thời chi phối toàn bộ các mối quan hệ
quốc tế, làm thay đổi cấu trúc hệ thống thế giới cũng như các chủ thể tham gia.
3. Liệt kê và nêu bản chất của từng phương thức hội nhập kinh tế quốc tế?
Thỏa thuận thương mại ưu đãi:
Thỏa thuận thương mại tru đãi (PTA- Preferential Trade Arrangements) là một kiểu hội nhập quốc tế mà các
bên tham gia thỏa thuận dành các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan cho hàng hóa của nhau, tạo thành các
khu vực thương mại ưu đãi vùng. Đây là cấp độ thấp nhất của liên kết kinh tế, tạo thành các khu vực thương
mại ưu đãi vùng (Preferential Trade Area) với danh mục sản phẩm ưu đãi mức độ cắt giảm thuế quan bị
hạn chế trong thỏa thuận thương mại giữa các quốc gia thành viên. Trong các thỏa thuận này, thuế quan
hàng rào phi thuế quan có thể vẫn còn, nhưng thấp hơn so với khi áp dụng cho quốc gia không tham gia hiệp
định. Một ví dụ về thỏa thuận thương mại ưu đãi là Hiệp định về Thỏa thuận Thương
mại Ưu đãi ASEAN được ký kết tại Manila năm 1977 và được sửa đổi năm 1995; Khu
vực thương mại tự do:
Khu vực thương mại (hay còn gọi là mậu dịch tự do - Free Trade Agrcement) là một hình thức hội nhập kinh
tế quốc tế mức độ tương đối cao do hai quốc gia (ví dụ: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Chile)
hoặc một nhóm các quốc gia/vùng lãnh thổ. Khu vực thương mại tự do (Free Trade Agreement- FTA) được
hiểu là khu vực mà trong đó một nhóm các quốc gia tham gia khu vực này đã ký hiệp định thương mại tự do
và duy trì ít hoặc không có rào cản thuế quan hoặc hạn ngạch với nhau.
Các thành viên tham gia khu vực thương mại tự do cam kết giảm thiểu thuế quan cho nhau, thậm chí có lĩnh
vực loại bỏ hạn ngạch thuế quan (thuế bằng không). Hàng rào phi thuế quan (cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu,
hạn ngạch - quota...) cũng được giảm bớt hoặc loại bỏ hoàn toàn. Hàng hóa và dịch vụ được di chuyển tự do
giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ của các thành viên. Xu thế thành lập khu vực mậu dịch tự do đang phổ
biến hiện nay. Các khu vực thương mại tự do tạo điều kiện cho thương mại quốc tế những lợi ích liên
quan từ thương mại, đi kèm với sự phân bổ lao động và chuyên môn hóa quốc tế.
Khu vực thương mại tự do được xem là hình thức liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên thỏa
thuận với nhau về việc giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế về số lượng, tiến tới
hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa và dịch vụ. Song các nước thành viên vẫn giữ được quyền
lOMoARcPSD| 58794847
độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với các nước ngoài khu vực. Nói cách khác, những thành viên của
khu vực thương mại tự do có thể duy trì những thuế quan riêng và những hàng rào thương mại khác đối với
thế giới bên ngoài.
Hiệp định đối tác kinh tế:
Hiệp định đối tác kinh tế (Economic Partnership Agreement) cấp độ hội nhập kinh tế sâu hơn hiệp định
thương mại tự do, trong đó các quốc gia kết một hiệp định nào đó để tạo ra sự tự do cho doanh nghiệp
của các quốc gia thành viên được khai thác thị trường của nhau, ở cả lĩnh vực sản xuất, thương mại và dịch
vụ. Mặc vậy, trong giai đoạn hiện nay, nếu xét về nội dung thì ranh giới để phân biệt giữa hiệp định đối
tác kinh tế và hiệp định thương mại tự do cũng không thực sự rõ ràng (ví dụ: Hiệp định đối tác toàn diện và
tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU).
Tuy nhiên, về nguyên tắc, đối với hiệp định thương mại tự do, ngoài việc tự do hóa thương mại hàng hóa
thông qua bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan, thì còn bao gồm cả tự do hóa ở mức độ cao về dịch
vụ, đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử hoặc các lĩnh vực khác liên quan trực tiếp đến thương mại giữa các
nước ký kết hiệp định. Hiệp định đối tác kinh tế cũng là một xu hướng mới nổi trong hợp tác kinh tế quốc tế
hiện nay. Hiệp định đối tác kinh tế thể đối tác giữa một nhóm nước (khu vực), chẳng hạn: Hiệp định
đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định đối tác toàn diện khu vực (RCEP)
(các nước ASEAN các đối tác đang đàm phán), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện giữa các quốc gia
thành viên ASEAN và Nhật Bản (AJCEP) hoặc hiệp định đối tác song phương, như: Hiệp định đối tác kinh
tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA).
Liên minh thuế quan:
Liên minh thuc Chán (Custom Union, CU) là một hiệp định thương mại mà một nhóm các quốc gia áp dụng
một biểu thuế quan chung cho phần còn lại của thế giới trong khi trao quyền tự do thương mại cho nhau.
Có thể thấy, liên minh thuế quan là một hình thức hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó, thuế quan giữa những
nước thành viên đều được loại bỏ, chính sách thương mại chung của liên minh đối với những nước không
thành viên được thực hiện. Các thành viên của liên minh ngoài việc cắt giảm loại bỏ thuế quan trong
thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài khối
Liên minh thuế quan một hình thức hội nhập kinh tế cung cấp một bước trung gian giữa khu vực thương
mại tự do (cho phép thương mại tự do lẫn nhau nhưng thiếu một hệ thống thuế quan chung) thị trường
chung (ngoài thuế quan chung, còn cho phép di chuyển tự do các nguồn lực như vốn lao động giữa các
quốc gia thành viên).
Trong liên minh thuế quan, các nước thành viên trở thành một thị trường hàng hóa, dịch vụ thống nhất với
các nước ngoài khối và tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng với nhau.
Trong thực tế đã có nhiều liên minh thuế quan ra đời như: Liên minh thuế quan giữa Bi và Luxembourg năm
1921, Hiệp định chung về Mậu dịch và Thuế quan GATT năm 1948, Liên hiệp hải quan các nước Trung Mỹ
(ADEANPACT)
Thị trường chung
Thị trường chung (Common Market) là hình thức liên kết kinh tế giữa các ớc áp dụng các biện pháp tương
tự như liên minh thuế quan trong quan hệ thương mại và cho phép di chuyển tự do tư bản, lao động giữa các
quốc gia thành viên. Ngoài ra, các yếu tố của sản xuất (lao động, vốn và công nghệ) có thể dịch chuyển giữa
các thành viên. Hạn chế về nhập đầu xuyên biên giới bị bãi bỏ. Khi các yếu tố sản xuất dịch chuyển,
vốn, lao động và công nghệ có thể được sử dụng vào những mục đích sử dụng hiệu quả nhất
Khối ASEAN cũng đã tuyên bố hình thành Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột là Cộng đồng chính trị - an
ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa - xã hội
lOMoARcPSD| 58794847
Để được xác định một thị trường chung, các điều kiện sau phải được thỏa mãn: (i) thuế quan, hạn ngạch
và tất cả các rào cản liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giữa các thành viên của thị
* trường chung được loại bỏ; (ii) các hạn chế thương mại phổ biến như thuế quan đối với các quốc gia khác
được áp dụng bởi tất cả các thành viên của thị trường chung. (iii) các yếu tố sản xuất như lao động vốn
có thể dichuyển tự do mà không bị hạn chế. Liên minh kinh tế và tiền tệ
Liên minh kinh tế (Economic Union) được coi cấp độ cao nhất của hội nhập kinh tế quốc tế, được xây
dựng trên cơ sở các quốc gia thành viên thống nhất thực hiện các chính sách thương mại, tiền tệ, tài chính và
một số chính sách kinh tế - xã hội chung giữa các thành viên với nhau và với các nước ngoài khối. Như vậy,
liên minh kinh tế, ngoài việc các luồng vốn, hàng hóa, lao động dịch vụ được tự do lưu thông thị
trường chung, các nước còn tiến tới thống nhất các chính sách quản kinh tế - hội, sử dụng chung một
đồng tiền, ví dụ: EU
Liên minh kinh tế hình thức hợp tác giữa các nước không chỉ giới hạn những đặc điểm của thị trường
chung (như thương mại và sự di chuyển nhân tố sản xuất một cách tự do) còn thống nhất mục tiêu kinh
tế chung của các nước thành viên về tăng trưởng kinh tế, việc làm... và phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá
trình hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, tài chính và các chính sách khác.
Liên minh tiền tệ (Moneytary Union) hình thành trên sở các nước phối hợp các chính sách tiền tệ với
nhau, thỏa thuận về dự trữ tiền tệ cũng như phát hành đồng tiền chung. Trong liên minh tiền tệ, các nước
thống nhất hoạt động của các ngân hàng trung ương, đồng thời thống nhất hoạt động của các giao dịch với
các tổ chức tiền tệ và tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB
4. Lợi thế và bất lợi của phát triển một khu vực thương mại tự do?
5. Sự khác biệt giữa hiệp định đối tác kinh tế và hiệp định thương mại tự do?
6. Điều kiện áp dụng một thị trường chung? Ưu và hạn chế của thị trường chung?
7. Sự ra đời, các nguyên tắc, hội thách thức của WTO với các doanh nghiệp Việt Nam?Tổ chức
Thương mại Thế giới (World Trade Organization – WTO) là một định chế quốc tế được thành lập ngày 01
tháng 01 năm 1995 với mục tiêu thiết lập, duy trì nền thương mại toàn cầu ổn định, tự do, minh bạch. Tính
đến ngày 29 tháng 07 năm 2016, WTO có 164 thành viên, bao gồm các quốc gia và một số vùng lãnh thổ
tự trị về quan hệ ngoại thương. Tiền thân của WTO Hiệp định chung về thuế quan thương mại
GATT (The General Agreement on Tariffs and Trade), được 23 quốc gia kết năm 1947 nhằm tăng cường
các hoạt động thương mại giữa các nước này nói riêng và toàn cầu nói chung. Trong lịch sử hình thành và
phát triển, GATT đã trải qua nhiều vòng đàm phán đa phương về thương mại. Tại vòng đàm 8 phán
Uruguay (vòng thứ 8, 1986 - 1994), các quốc gia đã thống nhất thành lập WTO kế thừa, phát triển, thực
thi các quy định, nội dung của GATT. Nhiêm vụ:
-Thúc đẩy việc thực hiện các Hiệp định và cam kết đã đạt được trong khuôn khổ WTO, kể cả những cam kết
dự kiến trong tương lai;
-Trở thành diễn đàn để các thành viên đàm phán, kết các Hiệp định, cam kết mới về tự do hóa thương
mại, tạo điều kiện để thương mại tiếp tục phát triển trên quy mô toàn cầu;
-Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên WTO trong trường hợp có xung đột theo các quy tắc,
trình tự, thủ tục theo quy định;
-Rà soát định kỳ các chính sách thương mại của các thành viên;
lOMoARcPSD| 58794847
-Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển (thông qua vấn, đào tạo nguồn nhân lực) hợp
tác với các tổ chức quốctế khác
Cơ chế làm việc tại WTO là cơ chế đồng thuận khi đưa ra các quyết định, có nghĩa rằng một quyết định chỉ
được thông qua khi không có bất kỳ quốc gia thành viên nào bỏ phiếu chống. Các hoạt động của WTO dựa
trên các Hiệp định, quy định, nguyên tắc phức tạp, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, các văn bản này đều được đàm phán và thống nhất trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của WTO.
Cơ hội:
Thứ nhất, việc tham gia WTO giúp Việt Nam được hưởng hai đãi ngộ, bao gồm: đãi ngộ tối huệ quốc (MFN)
đãi ngộ quốc gia (NT), nghĩa rằng Việt Nam sẽ được lợi về mức thuế bị áp khi xuất nhập khẩu hàng
hóa như các thành viên hiện hữu trong WTO.
Thứ hai, việc tham gia vào WTO giúp Việt Nam tiếp cận ổn định các thị trường xuất khẩu. WTO
nguyên tắc khuyến khích các nước hạ rào cản thương mại tạo điều kiện cho tự do hóa thương mại. Tiêu
chí của WTO là đảm bảo các điều kiện thương mại ổn định, thay đổi một cách phù hợp, có thời gian để các
doanh nghiệp nội địa thích ứng kịp với sự thay đổi về chính sách thương mại. Việc trở thành thành viên của
WTO giúp Việt Nam mở rộng thị trường, tạo ra các mối quan hệ kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư và giảm
thiểu rủi ro trong các hoạt động thương mại.
Thứ ba, WTO giúp Việt Nam đẩy mạnh hoạt động xây dựng, điều chỉnh chính sách và các chế quản lý,
phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. WTO cho phép Việt Nam tiếp cận thị trường toàn cầu
Thứ tư, với tư cách thành viên WTO, Việt Nam có thể được giải quyết các tranh chấp thương mại một cách
công bằng hơn, đặc biệt với các cường quốc thương mại. Một ưu điểm của các chế này buộc các
thành viên, sau khi nhận được đơn khiếu nại từ một hoặc nhiều thành viên khác thì phải tham gia giải quyết
tranh chấp dựa vào cơ chế của WTO, thể hiện tính ràng buộc lẫn nhau như đã phân tích ở trên.
Mục đích của cơ chế giải quyết tranh chấp là tìm ra giải pháp tích cực, có lợi cho cả các bên tham gia tranh
chấp, đồng thời phù hợp với các Hiệp định liên quan của WTO. Hơn thế nữa, mục tiêu của WTO đảm bảo
sự công bằng cho các quốc gia nói riêng và ổn định nền thương mại quốc tế nói chung.
Thách thức WTO mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam
Thứ nhất, việc gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa thị trường tuân thủ các quy định chung. Việt
Nam là một nước đang phát triển, với nền kinh tế tuy tiềm năng nhưng vẫn còn non trẻ, việc hội nhập kinh
tế với các nước láng giềng khu vực còn gặp những khó khăn nhất định, nên khi hội nhập kinh tế với các
nước trên thế giới trong khuôn khổ WTO có thể làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt
mất đi lợi thế về giá cả khi các sản phẩm nước ngoài được hưởng mức thuế tốt hơn.
Thứ hai, việc các doanh nghiệp chưa am hiểu hệ thống pháp luật và thông lệ quốc tế có thể dẫn đến nhiều vụ
tranh chấp không đáng , không những thua thiệt trong hoạt động kinh doanh còn phải chịu những khoản
phạt lớn, thậm chí là các vấn đề pháp lý khác.
Thứ ba, áp lực về việc phải thay đổi và điều chỉnh nhanh các văn bản pháp luật để phù hợp với quy định và
lộ trình của WTO.
8. Sự ra đời, các nguyên tắc, hội thách thức của CPTPP với các doanh nghiệp Việt Nam? Tiền
thân của Hiệp định Đối tác Toàn diện Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (Trans- Pacific Partnership Agreement - TPP). TPP được đàm phán dự định
kết bởi 12 nước thành viên, bao gồm 4 thành viên sáng lập: Brunei, Chile, New Zealand, Singapore 8
thành viên: Australia, Hoa Kỳ, Peru, Mexico, Canada, Nhật Bản, Malaysia, Việt Nam.
lOMoARcPSD| 58794847
Ban đầu, bốn quốc gia sáng lập dự định kết Hiệp định với nhau lấy tên gọi 4P. Tuy nhiên, sau khi
Hoa Kỳ quyết định tham gia đã đề xuất đổi tên và đàm phán Hiệp định theo khuôn khổ mới và lấy tên gọi
TPP. Năm 2009, Việt Nam tham gia với vai trò quan sát viên đặc biệt. Đến năm 2010, Việt Nam chính
thức tham gia vào các vòng đàm phán Hiệp định. 2017, Mỹ rút. 2018, CPTPP chính thức ký kết bởi 11 nước
thành viên. Hiệp định TPP được kỳ vọng sẽ trở thành điểm sáng của các Hiệp định thương mại tự do, được
coi là Hiệp định “thế hệ mới” với nhiều đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, tiếp cận thị trường một cách toàn diện. TPP dự kiến cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế
quan đối với gần như tất cả hàng hóa, dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp người tiêu dùng.
Thứ hai, đưa ra cam kết mang tính khu vực. TPP tạo thuận lợi cho phát triển chuỗi cung ứng trong nội khối,
không làm gián đoạn sản xuất, thương mại, cũng như mở cửa thị trường và hội nhập hiệu quả.
Thứ ba, tập trung giải quyết các thách thức mới về thương mại. TPP thúc đẩy tăng năng suất, năng lực cạnh
tranh thông qua phát triển nền kinh tế số và đánh giá vai trò của doanh nghiệp Nhà nước đối với nền kinh tế
toàn cầu.
Thứ tư, đảm bảo lợi ích thương mại toàn diện. TPP đưa ra các điều khoản nhằm đảm bảo tất cả các doanh
nghiệp thuộc mọi quy mô. Đặc biệt, doanh nghiệp vừa nhỏ cũng thể được hưởng lợi từ Hiệp định thông
qua các cam kết về phát triển và nâng cao năng lực thương mại.
Thứ năm, trở thành nền tảng cho hội nhập khu vực. TPP ra đời tiền đề cho các quốc gia khác trong khu
vực có thể hội nhập tốt hơn.
Cơ hội CPTPP mang lại cho Việt Nam
Dưới góc độ quản nhà nước, việc tham gia vào Hiệp định CPTPPhội giúp Việt Nam được tiếp cận
với các thị trường lớn, thể chếhành lang pháp lý chặt chẽ, từ đó, buộc Việt Nam phải hoàn thiện, minh
bạch hóa môi trường kinh doanh tốt hơn. Bên cạnh đó, đây cũng cơ hội giúp gia tăng việc làm thu nhập
Dưới góc độ kinh tế mô, tham gia CPTPP hội tốt để tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hội
để nhiều ngành công nghiệp nội địa Việt Nam tham gia vào các chuỗi cung ứng trong khu vực trên toàn
cầu. Một trong những đặc điểm nổi bật của Hiệp định CPTPP hàng rào thuế quan của phần lớn các mặt
hàng xuất nhập khẩu sẽ được giảm đáng kể, đặc biệt tại một số thị trường lớn (Nhật Bản, Canada), mức thuế
áp dụng đối với các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sẽ giảm dần về 0%. Trong khi đó, các lĩnh vực như thực
phẩm, đồ uống, dệt may, hóa chất một số ngành sản xuất, dịch vụ khác được dự báo hưởng lợi nhiều từ
việc Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP.
Thách thức CPTPP mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam
Dưới góc độ quản nhà nước, nhằm hoàn thiện thể chế pháp để thực thi được các cam kết trong Hiệp
định CPTPP theo đúng lộ trình, đời hỏi Chính phủ Việt Nam phải nhanh chóng ban hành kế hoạch của Chính
phủ về thực thi Hiệp định CPTPP. Từ đó, Chính phủ thúc đẩy tiến trình và phân công công việc cho các bộ,
ban, ngành trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan. Bên cạnh đó, các cam kết về dỡ bỏ hàng
rào thuế quan đồng nghĩa với việc nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu của Việt Nam sẽ giảm đi. Chính
phủ cần lưu tâm tới các khía cạnh về thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp. Về các
vấn đề hội, sự cạnh tranh trong quá trình hội nhập tuy giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực nhưng
đồng thời khiến các doanh nghiệp thiếu năng lực sẽ dần bị đào thải. Do vậy, vai trò của Chính phủ trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động là rất quan trọng.
lOMoARcPSD| 58794847
Dưới góc độ cạnh tranh kinh tế, mặc dù Việt Nam được hưởng lợi từ một số mặt hàng thế mạnh, nhưng có
những mặt hàng khác lại là thế mạnh của các quốc gia thành viên khác như một số loại nông sản (thịt gà, thịt
lợn) hay một số lĩnh vực công nghiệp (thép, ô tô). Đặc biệt đối với các đối tác từ châu Mỹ, khoảng cách địa
lý, sự khác biệt về ngôn ngữ, hạn chế về các tuyến vận tải hàng hóa, hành khách, thiếu thông tin thị trường
là những rào cản lớn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh với các quốc gia khác
9. Sự ra đời, các nguyên tắc, hội thách thức của ASEAN với các doanh nghiệp Việt Nam? Hiệp
hội các Quốc gia Đông Nam Á - ASEAN, được thành lập năm 1967 với mục đích tăng cường tình đoàn kết
và phòng chống tình trạng bạo động, bất ổn trong khu vực. Qua nhiều thời kỳ phát triển, ASEAN đưa ra ba
trụ cột quan trọng của tổ chức, bao gồm: an ninh, văn hóa xã hội, hội nhập kinh tế. Trong đó, hội nhập kinh
tế được thúc đẩy và chú trọng trong chương trình nghị sự xuyên suốt lịch sử của ASEAN. Cuối năm 2015,
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community - AEC) chính thức được thành lập. Tuy AEC
được thành lập vào cuối năm 2015, nhưng đây không phải là điểm bắt đầu, cũng không phải thời điểm hoàn
tất các công việc cho các cam kết về kinh tế của ASEAN, mà là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội
nhập kinh tế giữa các nước trong cộng đồng.
Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (viết tắt AFTA - ASEAN Free Trade Area) một hiệp định thương
mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, tiến trình loại bỏ dần các hàng rào
thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước, thúc đẩy hội nhập
kinh tế với các quốc gia khác trong khu vực và quốc tế dần được thực hiện.
Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký kết vào năm 1992 tại
Singapore. Ban đầu chỉ có sáu nước là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore Thái Lan (gọi
chung ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanmar Việt Nam (gọi chung CLMV) được yêu cầu
tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này. Hiện tại đây một trong những khu vực thương mại tự do
lớn nhất thế giới. Mục đích của AFTA là nâng cao năng lực cạnh tranh của ASEAN với tư cách là một cơ sở
sản xuất trên thế giới, đồng thời tăng cường tính hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Khái niệm hội nhập kinh tế ASEAN lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1992 Singapore, tại Hiệp định khung
về Thúc đẩy hợp tác Kinh tế ASEAN, trong đó, nhấn mạnh vai trò của sự hợp tác đối với các lĩnh vực kinh
tế trọng yếu về: thương mại, công nghiệp, năng lượng khoáng sản, tài chính ngân hàng, thực phẩm,
nông nghiệp lâm nghiệp, giao thông truyền thông. Từ đó cho tới năm 1998, các Hiệp định và Hiệp định
khung về thương mại, dịch vụ, đầu lần lượt được kết. Các nhà lãnh đạo ASEAN lần đầu tuyên bố về
mục tiêu hình thành cộng đồng kinh tế chung trong khối ASEAN tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 9 vào
năm 2003. Đề hiện thực hóa mục tiêu nói trên, tại các Hội nghị Bộ trưởng Hội nghị Thượng đỉnh tiếp
theo, kế hoạch tổng thể về việc xây dựng AEC được trình bày. Các nhà lãnh đạo cũng đã đồng ý đẩy nhanh
tiến độ thực hiện thay cột mốc Tầm nhìn ASEAN 2020 như ban đầu. Ngày 22/11/2015, tại Hội nghị thượng
đỉnh ASEAN lần thứ 27, các nhà lãnh đạo ASEAN đã kết Tuyên bố Kuala Lumpur vviệc thành lập AEC.
AEC được thành lập với bốn mục tiêu chính:
Thứ nhất, hình thành một thị trường đơn nhất sở sản xuất chung, thông qua tự do lưu chuyển hàng hóa,
dịch vụ, đầu tư, vốn, lao động tay nghề. Trong đó, lĩnh vực hội nhập được ưu tiên thực phẩm, nông
nghiệp và lâm nghiệp;

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58794847
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ MARKETING QUỐC TẾ
1. Thế nào là marketing quốc tế? Tại sao ngày nay các doanh nghiệp nên làm marketing quốc tế?
marketing quốc tế là quá trình triển khai các hoạt động được thiết kế nhằm hoạch định, thiết lập giá, xúc tiến
và định hướng luồng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp đến khách hàng của hơn một quốc gia. Khái
niệm này cho thấy, marketing quốc tế không chỉ đề cập tới việc thực hiện kế hoạch theo phạm vi lãnh thổ
(vượt ra khỏi biên giới quốc gia) mà đề cập tới quốc tịch của khách hàng mà hoạt động marketing hướng tới
– không chỉ là khách hàng trong nước mà là cả khách hàng mang các quốc tịch khác 2. Hãy so sánh và giải
thích sự khác biệt của marketing quốc tế với marketing nội địa.

Marketing nhằm vào duy nhất thị trường trong nước gọi là marketing nội địa. Ngược lại, marketing quốc tế
sử dụng các công cụ và các khái niệm của marketing cơ bản để áp dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu của người
tiêu dùng ở nhiều quốc gia khác nhau, có thị trường nước ngoài.Marketing quốc tế, xét về bản chất cũng
giống hoạt động marketing nội địa, chỉ khác là hoạt động này không thực hiện ở một quốc gia mà ở nhiều quốc gia khác nhau. Marketing nội địa Marketing quốc tế
Dữ liệu nghiên cứu dường như có sẵn và dễ tiếp cậ n.Dữ liệu nghiên cứu bằng ngôn ngữ nước ngoài khó hiểu và k thu thập.
Việc giao dịch kinh doanh dựa trên một đồng tiền.
Việc giao dịch kinh doanh liên quan đến nhiều đồng tiền với
Các nhân viên của doanh nghiệp có kiến thức và sự hiểu giá biến động lớn.
biết thấu đáo về thị trường trong nước.
Các nhân viên của doanh nghiệp ét
Việc xây dựng các thông điệp về xúc tiến chỉ cần x văn hóa của quốc gia.
tới có thể chỉ có sự hiểu biết một cách
ột nước.khái lược về thị trường nước
Việc phân đoạn thị trường diễn ra trong phạm vi m ngoài.
Truyền thông và kiểm soát được thực hiện ngay và trực Việc xây dựng các thông điệp về xúc tiến đòi hỏi phải tiếp.
tính đ khác biệt về văn hóa.
Hiểu rõ những quy định và luật pháp.
Các đoạn thị trường có thể bao gồm khách hàng giống nhau nước khác nhau.
Việc kinh doanh được thực hiện bằng một ngôn ng ữ - tiếng
mẹ đẻ nên dễ hiểu nhau hơn.
Truyền thông và kiểm soát quốc tế có thể rất khó khăn. ánh
Rủi ro trong kinh doanh có thể được xác định và đ
giá Có thể không nắm vững được quy định và luật pháp. thường xuyên.
Giao tiếp bằng nhiều thứ tiếng. ực
Hệ thống lập kế hoạch và kiểm soát có thể được th hiện đơn giản, trực tiếp.
Do môi trường không ổn định nên khó đánh giá rủi ro.
Trong bộ phận marketing có thể có sự chuyên môn hóa.Thường phải áp dụng những hệ thống kế hoạch tổ chức và
ki soát phức tạp và đa dạng.
Việc phân phối và kiểm soát có phần dễ dàng.
Tài liệu bán hàng đơn giản, dễ chia sẻ.
Các nhà quản lý marketing quốc tế cần có kiến thức và kỹ nă
marketing vừa rộng vừa sâu. lOMoAR cPSD| 58794847
Các kênh phân phối có thể dễ điều chỉnh và dễ kiể hơn.
m soát Việc phân phối và kiểm soát tín dụng có thể phức tạp.
Hành vi của các đối thủ cạnh tranh dễ nhận biết và Tài liệu bán hàng đa dạng và phức tap. đánh giá được.
Các kênh phân phối thường khó kiểm soát và điều chỉnh hơn
Khó phát hiện và đánh giá hành vi của đối thủ cạnh tranh.
3. Trình bày vai trò của marketing quốc tế?
Marketing có ảnh hưởng quan trọng tới kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc mở rộng hoạt động
kinh doanh ra thị trường thế giới cho phép các doanh nghiệp có cơ hội tăng tỷ lệ lợi nhuận của mình bằng
cách mở rộng thị trường. Các doanh nghiệp hoạt động trên phạm vi quốc tế có thể đạt mức doanh số lớn hơn
nhờ thực hiện chuyển giao các điểm khác biệt nổi trội của mình. Điểm khác biệt nổi trội là những điểm mạnh
cho phép các doanh nghiệp đạt được hiệu quả, chất lượng, sự đổi mới, hoặc sự nhạy cảm với môi trường
marketing quốc tế cao hơn. Những điểm mạnh này thường được thể hiện ở sản phẩm chào bán mà các doanh
nghiệp khác khó có thể làm theo hoặc bắt chước. Như vậy, khả năng tạo điểm khác biệt nổi trội tạo ra nền
tảng cho lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, chúng giúp doanh nghiệp hạ thấp chi phí trong việc tạo ra giá
trị hoặc tạo ra những sự khác biệt ưu việt qua đó đạt mức doanh số khổng lồ bằng việc phục vụ thị trường
quốc tế các sản phẩm mà các đối thủ cạnh tranh bản địa thiếu khả năng phục vụ. Bằng các hoạt động quốc
tế, doanh nghiệp có thể có được lợi thế chi phí nhờ đạt hiệu quả kinh tế theo quy mô và tận dụng được hiệu
ứng kinh nghiệm. Việc thực hiện marketing quốc tế cũng giúp các doanh nghiệp học hỏi từ đối thủ cạnh tranh
trên tầm quốc tế, trải nghiệm, cọ xát để hoàn thiện năng lực của mình nhờ đó tăng khả năng thích nghi với
môi trường kinh doanh quốc tế. Bên cạnh đó, việc doanh nghiệp thực hiện marketing quốc tế sẽ giúp cho
việc phát triển thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế và thị trường nội địa tốt hơn, qua đó
giúp tăng giá trị thương hiệu của doanh nghiệp.
Đối với quốc gia bản địa (cố quốc), việc thực hiện marketing quốc tế của các doanh nghiệp cũng có ý nghĩa
rất lớn. Thông qua sự thành công trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp giúp tăng GNP cho quốc gia. Các
doanh nghiệp thành công trên thị trường nước ngoài cũng giúp nâng tầm quốc tế cho các thương hiệu bản
địa, xây dựng uy tín và thương hiệu quốc gia. Chính vì thế, các quốc gia luôn tạo điều kiện cho doanh nghiệp
của mình tham gia vào thị trường thế giới.
Đối với quốc gia chủ nhà (quốc gia sở tại), việc các doanh nghiệp nước ngoài thực hiện marketing quốc tế
sẽ giúp đáp ứng tốt hơn nhu cầu dân cư của quốc gia đó, tăng sự sung túc cho người dân. Các chiến lược thu
hút nhà đầu tư nước ngoài cho thấy, giá trị của kinh doanh quốc tế, thể hiện ý nghĩa của marketing quốc tế
đối với quốc gia chủ nhà. Nó mang lại cơ hội việc làm, nguồn vốn và nguồn ý tưởng cũng như công nghệ
mới cho phát triển kinh tế - xã hội. Qua đó, kinh doanh quốc tế giúp phát triển kinh tế và tăng GDP cho nước
chủ nhà. Marketing quốc tế thúc đẩy kinh doanh quốc tế của quốc gia sở tại.
Đối với toàn thế giới nói chung, việc thực hiện marketing quốc tế của các doanh nghiệp sẽ giúp phát triển
kinh tế thế giới qua việc phát triển kinh tế các quốc gia, thỏa mãn nhu cầu của người dân trên thế giới qua
đó nâng cao đời sống của con người. Marketing quốc tế giúp tăng cường toàn cầu hóa, kiến thiết mối quan
hệ giữa các quốc gia qua các hoạt động trao đổi kinh doanh. Nhờ đó, nó giúp xóa bỏ rào cản giữa các quốc
gia, tăng cường giao thoa văn hóa, tăng sự đoàn kết dân tộc và hòa bình thế giới. Marketing quốc tế còn thúc
đẩy sự phát triển văn minh nhân loại thông qua việc đưa các phát kiến khoa học thông qua những sản phẩm
mới đến với các thị trường mới của các quốc gia.
4. Giá trị của việc tham gia vào thị trường quốc tế đối với doanh nghiệp? lOMoAR cPSD| 58794847
5. Quốc tế hóa thị trường mang lại cho quốc gia sở tại những giá trị nào?
6. Những lợi ích mà một quốc gia sẽ nhận được khi khuyến khích các doanh nghiệp của họ đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế?
7. Phân tích các giai đoạn phát triển của marketing quốc tế.
Giai đoạn 1, doanh nghiệp theo quan điểm tập trung vào cố quốc và chỉ kinh doanh nội địa. Doanh nghiệp
sản xuất sản phẩm tại quốc gia của mình và chỉ bán trong nội địa.
Giai đoạn 2, doanh nghiệp theo quan điểm tập trung vào quốc gia nhưng bắt đầu có hoạt động xuất khẩu và
bắt đầu làm marketing xuất khẩu. Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm tại quốc gia trụ sở chính và bán sản phẩm
ra các thị trường nước ngoài. Những sản phẩm này chủ yếu được sản xuất ra theo nhu cầu và mong muốn
của người tiêu dùng nội địa.
Giai đoạn 3, doanh nghiệp theo quan điểm tập trung vào nhiều quốc gia, kinh doanh sản phẩm trên nhiều
quốc gia và làm marketing quốc tế. Lúc này, doanh nghiệp có thể thay đổi các quyết định marketing của
mình tùy điều kiện môi trường marketing khác nhau của các quốc gia. Doanh nghiệp có thể đưa ra các sản
phẩm mới hay thương hiệu mới tại các thị trường mới. Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng những sản phẩm
và thương hiệu đã có nhằm giảm chi phí nghiên cứu phát triển và truyền thông nếu như sản phẩm sẵn có phù
hợp với nhu cầu thị trường quốc gia đó.
Giai đoạn 4, doanh nghiệp theo quan điểm tập trung vào nhiều khu vực và thực hiện marketing đa quốc gia.
Thực hiện quan điểm này, doanh nghiệp cũng đưa ra những quyết định marketing quốc tế tương tự như giai
đoạn 3 nhưng khác ở chỗ, giai đoạn 3 coi mỗi quốc gia là một thị trường thì giai đoạn 4 coi mỗi khu vực (bao
gồm một số quốc gia) là một thị trường.
Giai đoạn 5, doanh nghiệp theo quan điểm hướng tới thị trường toàn cầu và thực hiện marketing toàn cầu.
Doanh nghiệp làm marketing toàn cầu, phối hợp các quyết định marketing trên các quốc gia và khu vực, tích
hợpcác nguồn lực và phân bổ cho các thị trường nhằm đạt được sự cân bằng vàphát triển trong danh mục
đầu tư toàn cầu. Với định hướng toàn cầu, họ cóthể theo đuổi chiến lược tiêu chuẩn hóa trên phạm vi toàn cầu song cũng có
8. Hãy nêu rõ bản chất của 4 định hướng chiến lược kinh doanh trên thị trường quốc tế.
Ưu tiên cổ quốc (Ethnocentric): Định hướng kinh doanh này xuất phát từ quan điểm cho rằng, quốc gia nơi
doanh nghiệp có trụ sở chính là quan trọng nhất và nhu cầu của thị trường tại quốc gia này được doanh nghiệp
quan tâm hơn cả. Doanh nghiệp có thể vươn tới kinh doanh trên thị trường quốc tế nhưng mọi quyết định
kinh doanh đều được thực hiện tập trung tại cố quốc và việc tổ chức kinh doanh cũng như công nghệ kinh
doanh thực hiện trên thị trường quốc tế đều giống với thị trường trong nước.
Đa trọng tâm (Polycentric): Ngược với chiến lược ưu tiên cố quốc, chiến lược đa trọng tâm là chiến lược mà
các doanh nghiệp hướng tới thị trường quốc tế. Định hướng kinh doanh này cho rằng, mỗi quốc gia là một
thị trường riêng với những đặc điểm khác nhau và vì vậy, doanh nghiệp phải xây dựng những mục tiêu khác
nhau cho những quốc gia này. Doanh nghiệp tập trung vào nhiều quốc gia ý thức rằng, việc sản xuất và làm
marketing ở những địa phương khác nhau có những điều kiện khác nhau, do vậy, họ đưa ra những chính sách lOMoAR cPSD| 58794847
phù hợp với từng địa phương để tối đa hóa lợi nhuận. Việc quản lý các chi nhánh tại các quốc gia này được
thực hiện một cách phi tập trung để giành quyền chủ động tối đa cho các chi nhánh.
Định hướng khu vực (Regiocentric): Định hướng này xuất phát từ quan điểm, thế giới bao gồm nhiều khu
vực (khu vực châu Âu, châu Á, Trung Đông...), trong đó từng khu vực có những đặc trưng riêng biệt, tương
đối dễ chia sẻ giữa các quốc gia trong khu vực bởi đặc điểm địa lý, khí hậu và sự hình thành văn hóa trên cơ
sở tự nhiên. Chính vì thế, các doanh nghiệp kinh doanh trên phạm vi quốc tế có thể nỗ lực hợp nhất thị trường
một khu vực và thực hiện các chiến lược marketing đồng nhất trong khu vực và phân biệt với các khu vực khác.
Định hướng toàn cầu (Geocentric): Với quan điểm “thế giới phẳng”, song mỗi địa phương với đặc điểm kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hóa khác nhau, các doanh nghiệp theo đuổi định hướng toàn cầu có sự thích ứng sẽ
coi thị trường của mình là toàn thế giới và cung ứng cho thị trường sản phẩm toàn cầu với sự điều chỉnh phù
hợp với nhu cầu thị trường quốc gia thậm chí là từng vùng miền (“think global, act local”) để đáp ứng tốt
nhất nhu cầu của từng thị trường quốc gia.
9. Phân tích các yếu tố thúc đẩy sự phát triển của marketing quốc tế.
- Định hướng kinh doanh của các doanh nghiệp: quá trình hội nhập về các khía cạnh, kc địa lý biên giới mờ
nhạt, toàn cầu hóa - >cơ hội
- Quan điểm trong tiêu dùng của khach hàng:xu hướng thị hiếu,
- Cạnh tranh ngày càng trở nên phức tạp đa dạng: số lượng ng tham gia lớn hơn
- Sự ra đời và ptr của các định chế qute: các hàng rào được phá bỏ
- Chuyển đổi số trong hoạt động kinh doanh: công nghệ 10. So sánh marketing quốc tế với marketing xuất khẩu.
Marketing quốc tế có nghĩa rộng hơn marketing xuất khẩu. Marketing quốc tế có thể bao hàm cả việc một
doanh nghiệp thực hiện sản xuất hay lắp ráp một phần hàng hóa ở trong nước của doanh nghiệp và một phần
ở nước ngoài, hoặc nhập khẩu cho một nước khác những hàng hóa từ một nước thứ hai để họ bán trong nước
hoặc tái xuất hoặc việc thành lập những đại diện thường trực ở ngoài nước để lưu kho và phân phối các sản
phẩm. Marketing quốc tế có thể thông qua việc cấp giấy phép sản xuất những sản phẩm của doanh nghiệp
cho các doanh nghiệp địa phương, hoặc tổ chức các hoạt động marketing khác ở nước ngoài.
Một trong những hình thức của marketing quốc tế được biểu hiện dưới hình thức marketing xuất khẩu. Đó
là hoạt động marketing của các doanh nghiệp của một quốc gia nhất định, ứng dụng vào việc xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ của mình ra nước ngoài với yêu cầu cơ bản là các chiến lược mar đã áp dụng ở thị trường nội
địa thích ứng với mt và nhu cầu của thị trường xk bên ngoài
11. So sánh marketing quốc tế với marketing đa quốc gia
Theo cách tiếp cận này thì marketing quốc tế nghĩa là hoạt động marketing vượt qua phạm vì biên giới của
từng quốc gia cụ thể, trong khi marketing đa quốc gia nghĩa là sự điều hành hợp nhất các hoạt động marketing
của doanh nghiệp trên phạm vi toàn thế giới. Thực tế, marketing đa quốc gia thường đi cùng với các hoạt
động của doanh nghiệp đa quốc gia MNCs (Multinational corporations), sử dụng những chiến lược toàn cầu
liên quan đến việc sản xuất, đầu tư và marketing; nó mô tả sự hội nhập các nỗ lực marketing của một doanh
nghiệp trên một nhóm các quốc gia thay vì việc thực hiện marketing ở từng thị trường quốc gia cụ thể. Phần
lớn tổng doanh thu của họ có được từ các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài (thực tế, một số quan chức lOMoAR cPSD| 58794847
định nghĩa rằng bất kỳ một doanh nghiệp nào thu được tối thiểu 20% lợi nhuận này từ các hoạt động kinh
doanh ở nước ngoài đều được coi là MNCs). Do vậy, một MNC sẽ tìm cách tối đa hóa doanh thu của mình
trên thế giới hơn là trong nước. Họ kinh doanh ở bất cứ nơi nào có điều kiện hợp lý nhất, không chỉ kể đến
quốc gia có đặt văn phòng của doanh nghiệp. Việc tự do hóa thương mại ngày càng phát triển trong nền kinh
tế thế giới, tỷ giá hối đoái ổn định lâu dài và việc chuyển giao công nghệ, các nguồn tài chính, nhân lực dễ
dàng giữa các quốc gia đã khuyến khích mạnh việc mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp đa quốc gia
trong kỷ nguyên sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Ở một khía cạnh khác, marketing đa quốc gia là chiến lược marketing của các doanh nghiệp kinh doanh ở
nhiều quốc gia khác nhau và áp dụng từng chiến lược marketing riêng biệt cho từng khu vực thị trường -
chiến lược marketing phân biệt theo thị trường nhóm quốc gia do có tính đến những đặc điểm về văn hóa,
ngôn ngữ, pháp luật và những đặc tính của cả nhóm các quốc gia.
c. Marketing quốc tế và mar toàn cầu
Marketing quốc tế có thể bao hàm việc ứng dụng một hỗn hợp marketing giống nhau ở tất cả các nước. Thực
chất đó là chiến lược marketing không phân biệt trên bình diện kinh doanh quốc tế, người ta gọi đó là
marketing toàn cầu. Marketing toàn cầu là chiến lược marketing của một số hãng lớn theo đuổi mục tiêu
hướng ra thị trường thế giới và thỏa mãn nhu cầu thị trường các quốc gia thậm chí là thị trường toàn cầu với
một kiểu chiến lược marketing duy nhất song lại thích nghi hóa các chiến thuật marketing ở các thị trường
khác nhau. Nói cách khác, doanh nghiệp chỉ áp dụng một tư tưởng chiến lược marketing duy nhất cho toàn
bộ thị trường và phát triển các chương trình marketing cụ thể cho từng quốc gia. Chiến lược marketing này
phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế và thị trường thế giới. Thực tế chứng minh, xu hướng toàn
cầu hóa hiện nay đã làm cho hoạt động marketing quốc tế phải thay đổi một cách căn bản.
CHƯƠNG 2: LÝ THUYẾT VỀ QUỐC TẾ HÓA
1. Quốc tế hóa là gì? Các nội dung của quốc tế hóa?
Quốc tế hóa sản phẩm là quá trình phát triển các sản phẩm theo cách để nó có khả năng đáp ứng các yêu
cầu của khách hàng của các quốc gia khác nhau. Trong kinh tế học, quốc tế hóa hàm ý quá trình doanh
nghiệp nỗ lực để hiện diện ở các quốc gia khác nhau. Quốc tế hóa bao gồm các hoạt động hướng tới việc
duy trì và phát triển mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường quốc tế 2. Hãy liệt kê và phân tích
khái quát các yếu tố thúc đẩy quốc tế hóa.
Động cơ chủ động Động cơ đối phó
- Mục tiêu lợi nhuận và tăng trưởng
Mục tiêu lợi nhuận và tăng trưởng
- Định hướng của nhà quản lý
- Định hướng của nhà quản lý
- Năng lực công nghệ/sản phẩm độc đáo
- Năng lực công nghệ/sản phẩm độc đáo
- Khai thác cơ hội thị trường nước ngoài
Có đơn hàng ngẫu nhiên từ nước ngoài lOMoAR cPSD| 58794847
- Hiệu quả kinh tế theo quy mô và hiệu ứng ki nh- Mở rộng thị trường cho sản phẩm mùa vụ nghiệm
Khai thác lợi ích về thuế
- Làm gần khoảng cách với khách hàng quốc tế
3. Hãy trình bày quá trình quốc tế hóa theo cách tiếp cận theo chu kỳ phát triển của thương mại quốc
tế. Giải thích tại sao quốc tế hóa là một quá trình liên tục và cần được đánh giá liên tục? Các phương
thức quốc tế hóa lần lượt được đưa ra dựa trên quan niệm về chu kỳ phát triển thương mại quốc tế của
Vernon (1966), trong đó các doanh nghiệp thường trải qua giai đoạn xuất khẩu, tiếp đến là FDI tìm kiếm
thị trường và sau đó là FDI định hướng chi phí. Các yếu tố công nghệ và marketing kết hợp để định hướng
cho giải pháp tiêu chuẩn hóa, yếu tố giúp đưa ra các quyết định về định vị và khu vực thị trường quốc tế sẽ tham gia.
Giả thuyết của Vernon cho rằng, nhà sản xuất ở các nước phát triển (advanced countries - ACs) ‘gần gũi” với
thị trường hơn là nhà sản xuất ở những nơi khác; do đó, các cơ sở sản xuất đầu tiên cho các sản phẩm này sẽ
nằm trong ACs. Khi nhu cầu mở rộng, họ sẽ tiến hành tiêu chuẩn hóa ở một mức độ nhất định. Hiệu quả kinh
tế theo quy mô kinh tế sẽ đạt được thông qua sản xuất hàng loạt. Mối quan tâm về chi phí sản xuất lúc đó sẽ
dần thay thế mối quan tâm về sự thích ứng của sản phẩm. Với sản phẩm được tiêu chuẩn hóa, các nước kém
phát triển hơn (less developed countries - LDCs) sẽ có lợi thế khi lựa chọn địa điểm sản xuất. Một ví dụ về
điều này là sự di chuyển địa điểm sản xuất máy tính cá nhân từ ACs sang LDCs.
4. Phân tích cách tiếp cận thị trường quốc tế theo lộ trình Uppsala.
Mô hình tiếp cận thị trường quốc tế Uppsala với đặc trưng: Tham gia thị trường quốc tế với sự khác biệt so
với thị trường nội địa không lớn, bằng một phương thức gia nhập ít rủi ro nhất có thể, với các cam kết được
bố sung từng bước. Mô hình này cho phép doanh nghiệp thực hiện việc gia nhập thị trường với nhiều giai
đoạn khác nhau. Cam kết với từng thị trường sẽ ngày càng sâu sắc hơn theo lộ trình thời gian. Sở dĩ mô hình
có tên là Uppsala bởi nó xuất phát từ quan điểm của Trường đại học Uppsala (Johanson và
Wiedersheim-Paul, 1975; Johanson và Vahlne, 1977), với nội dung chính là các cam kết quan trọng sẽ tăng
dần theo thời gian. Hệ quả chính của mô hình quốc tế hóa Uppsala này là các doanh nghiệp có xu hướng
tăng cường cam kết với thị trường nước ngoài khi kinh nghiệm của họ phát triển. Nội dung 2.2.1 sau đây sẽ
trình bày kỹ về cách tiếp cận này
5. Phân tích cách tiếp cận thị trường quốc tế qua chi phí giao dịch.
Vào đầu những năm 1970, các hình thức quốc tế hóa trung gian như cấp phép không được quan tâm. Buckley
và Casson (1976) đã đưa thêm quan niệm cho rằng, việc cấp phép được xem như một phương cách tiếp cận
khách hàng ở nước ngoài. Theo đó, doanh nghiệp đa quốc gia thường thích 'nội bộ hóa' các giao dịch thông
qua đầu tư cổ phần trực tiếp hơn là cấp phép cho người khác sử dụng nguồn lực đã được tích lũy của mình.
Các liên doanh không được coi là nằm trong phạm vi lựa chọn quản trị một cách rõ ràng cho đến giữa những
năm 1980. Sự tập trung của Buckley và Casson vào các giải pháp dựa trên thị trường (bên ngoài) so với dựa
vào doanh nghiệp (giữa các bên) đã nêu bật ý nghĩa chiến lược của việc cấp phép thâm nhập thị trường quốc
tế. Quốc tế hóa liên quan đến hai quyết định phụ thuộc lẫn nhau – thị trường thâm nhập và phương thức kiểm soát thị trường đó.
So với quan điểm nội bộ hóa (liên quan chặt chẽ đến lý thuyết phân tích chỉ phí giao dịch - Transaction Cost),
(Williamson, 1975) với câu hỏi cơ bản là, khi quyết định thâm nhập thị trường nước ngoài, một doanh nghiệp
có nên thực hiện thông qua nội bộ hóa trong phạm vi doanh nghiệp (doanh nghiệp con) hay thông qua một lOMoAR cPSD| 58794847
số hình thức hợp tác với đối tác bên ngoài (bên ngoài)? Các quan điểm nội bộ hóa và lý thuyết phân tích chỉ
phí giao dịch đều liên quan đến việc giảm thiểu chi phí giao dịch cũng như khả năng thất bại của thị trường.
Mục đích là phân tích đặc trưng của giao dịch để quyết định phương thức quản trị hiệu quả nhất, với mục
tiêu tối thiểu hóa chi phí giao dịch. Lý thuyết nội bộ hóa có thể được coi là lý thuyết chi phí giao dịch của tập đoàn đa quốc gia
6. Phân tích cách tiếp cận thị trường quốc tế theo lý thuyết mạng lưới.
Giả định cơ bản trong cách tiếp cận mạng lưới là doanh nghiệp quốc tế không thể được phân tích như một
tác nhân biệt lập mà phải được nhìn nhận trong mối quan hệ với các tác nhân khác trong môi trường liên
quốc gia. Do đó, doanh nghiệp cá nhân phụ thuộc vào các nguồn lực do người khác kiểm soát. Các mối quan
hệ của một doanh nghiệp trong mạng nội địa có thể được sử dụng làm kết nối với các mạng khác ở các quốc
gia khác (Johanson, 1988). Chi
7. Giải thích sự khác biệt chính giữa ba lý thuyết về quốc tế hóa: mô hình Uppsala, lý thuyết chi phí
giao dịch và mô hình mạng. Lý thuyết qt hóa Up pt c p giao dịch mạng lưới Đơn vị DN gd hoặc một số gd
mqh đa chiều giữa các tổ ptich
chức/mqh giữa các nhóm dn Giả
Mô hình dựa trên các Trong thế giới thực, có Chất keo” giữ mạng lưới (các
thuyết cơ lý thuyết hành vi và những khó khăn về giao mối quan hệ) với nhau dựa bản
về quá trình ra quyết định dịch / ma sát giữa người trên các ràng buộc kỹ thuật, hvi
tổ gia tăng với ít ảnh mua và người bán. Sự xích kinh tế, luật pháp và đặc biệt chức
hưởng từ các yếu tố thị mích này chủ yếu do hành là cá nhân. Ảnh hưởng cá
trường cạnh tranh. Quá vi cơ hội gây ra: sự chú ý có nhân của nhà quản lý đối với
trình học tập từng ý thức của người quản lý các mối quan hệ là mạnh nhất
bước từ xuất khẩu đơn đơn lẻ (tức là tìm kiếm tư trong giai đoạn đầu của quá
giản sang đầu tư trực lợi với trò lố)
trình thiết lập các mối quan tiếp nước ngoài (FDI)
hệ. Sau đó trong quá trình
này, các quy trình và hệ thống
sẽ trở nênn quan trọng hơn Giải
Kiến thức của công ty Khó khăn trong giao dịch Các công ty riêng lẻ được tự
thích các / cam kết thị trường và chi phí giao dịch tăng lên chủ. biến số
khi các giao dịch được đặc ảnh
- Khoảng cách tâm lý trưng bởi tính đặc thù của - Công ty riêng lẻ phụ hưởng
giữa cố quốc và thị tài sản, tính không chắc thuộc vào các nguồn lực do tới
sự trường quốc tế của chắn, tần suất giao dịch
các công ty khác kiểm soát phát triển công ty - Mạng lưới kinh doanh
sẽ xuất hiện trong các lĩnh vực
thường xuyên có sự phối hợp lOMoAR cPSD| 58794847
giữa các tác nhân cụ thể và nơi
các điều kiện đang thay đổi nhanh chóng
Ý nghĩa Các cam kết thị trường Trong các điều kiện nêu Các mối quan hệ của một
ứng dụng bổ sung nên được thực trên (nghĩa là chi phí giao công ty trong mạng nội địa có với
ng hiện theo từng bước dịch cao ngất ngưởng), các thể được sử dụng làm cầu nối
làm mar nhỏ. Các bước cụ thể công ty nên tìm cách nội bộ với các mạng khác ở các quốc
như sau: - Chọn các thị hóa các hoạt động (tức là gia khác. Những cầu nối trực
trường địa lý mới với thực hiện chiến lược tiếp hoặc gián tiếp như vậy
khoảng cách | tâm linh marketing toàn cầu tại các với các mạng lưới các quốc
nhỏ từ thị trường hiện công ty con thuộc sở hữu gia khác nhau có thể rất quan
có Chọn một “chế độ hoàn toàn). Nhìn chung, trọng trong những bước đầu
nhập cảnh” với ít rủi ro công ty nên chọn phương ra nước ngoài và trong việc biên
thức nhập cảnh để giảm thâm nhập thị trường mới sau thiểu chi phí giao dịch đó. Đôi khi, một doanh
nghiệp vừa và nhỏ có thể bị
buộc phải tham gia vào các
mạng nước ngoài, ví dụ: nếu
khách hàng yêu cầu nhà cung
cấp phụ (một doanh nghiệp
vừa và nhỏ) theo sau họ ở nước ngoài
8. Toàn cầu hóa là gì? Những hệ quả của toàn cầu hóa?
Xét về bản chất, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động
lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Toàn cầu hóa là
một quá trình không thể đảo ngược và là sự hợp nhất giữa các khuynh hướng như: quá trình quốc tế hóa toàn
bộ đời sống xã hội, sự phụ thuộc lẫn nhau xuyên quốc gia của các doanh nghiệp, sự phối hợp hành động của
các tổ chức quốc tế khác nhau, và kèm theo đó là quá trình tự do hóa các hình thức giao dịch kinh tế và xã
hội hết sức đa dạng. Toàn cầu hóa không chỉ mở ra các kênh mới của quá trình lưu chuyển các nguồn tài
chính, trí tuệ, con người và vật chất một cách tự do xuyên biên giới; mà đồng thời còn tạo ra những biến đổi
sâu sắc mang tính bản chất đối với đời sống cũng như hoạt động của mỗi quốc gia (nói riêng) và các dân tộc (nói chung).
2.3.2. Những hệ quả của toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa sẽ dẫn đến những hệ quả sau đây:
Làm gia tăng mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước và giữa các dân tộc trên thế giới;
Hình thành nên các thị trường tài chính, hàng hóa và dịch vụ ở cấp độ toàn thế giới, hay một nền kinh tế thế giới thống nhất;
Làm nảy sinh không gian thông tin toàn cầu, theo đó, hoạt động giao tiếp giữa các chủ thể không lệ thuộc
nhiều vào không gian địa lý và thời gian vật lý;
Chuyển hóa tri thức thành các đơn vị cơ bản tài sản xã hội, và tiến đến thay thế loại hình lao động truyền
thống bằng lao động sáng tạo; lOMoAR cPSD| 58794847
Làm cho các giá trị tự do, dân chủ (trước hết là các giá trị gắn với nhân quyền) thẩm thấu một cách mạnh mẽ
vào thực tiễn quan hệ quốc tế, cũng như vào đời sống chính trị trong nước.
Đặc trưng toàn cầu hóa: công nghệ mới, sự tập trung ttcho phép liên lạc trực tiếp, sự gia tăng xu hướng chuẩn
hóa các sp kt và xh, gia tăng hội nhập xuyên quốc gia, dễ làm tổn thương lẫn nhau
Các yếu tố thúc đẩy toàn cầu hóa: xóa bỏ các rào cản thương mại/khách hàng toàn cầu/ quản lý qhe, tổ chức
mạng lưới /công nghệ được tiêu chuẩn hóa trên toàn tgioi, tt mọt tgioi/sự hthanhf các nhóm ng trên tgioi có
cùng những gtri văn hoa do sự biên đổi hội nhập vh/ truyền thông trên toàn tgioi
10. Trình bày hiểu biết của bạn về “khoảng cách nhận thức và tinh thần” trong lý thuyết Uppsala?
Khoảng cách nhận thức và tinh thần được xác định dựa trên các yếu tố như sự khác biệt về ngôn ngữ, văn
hóa và hệ thống chính trị, những yếu tố này làm xáo trộn luồng thông tin giữa doanh nghiệp và thị trường.
Vì vậy, các doanh nghiệp bắt đầu quốc tế hóa bằng cách đến những thị trường mà họ có thể dễ dàng hiểu
được nhất. Họ sẽ nhìn thấy cơ hội và ở đó, sự không chắc chắn của thị trường là thấp.
CHƯƠNG 3: MT CTRI-LUATPHAP TRONG MARKETING QUỐC TẾ
1. Trình bày ảnh hưởng của chủ quyền quốc gia tới hoạt động kinh doanh quốc tế.
Chủ quyền quốc gia là quyền lực được thực thi bởi một chính phủ trong mối tương quan với các quốc gia
khác, áp dụng với công dân của họ hoặc áp dụng với các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong phạm lãnh thổ một quốc gia.
Trong kinh doanh quốc tế, các quốc gia có thể xem xét "giảm bớt" chủ quyền của mình với các quốc gia khác
để cùng tồn tại ôn hòa. Việc các quốc gia tham gia vào các định chế quốc tế như Liên minh châu Âu EU,
Hiệp ước Bắc Đại Tây dương (NATO), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN (AFTA), .. là những ví dụ điển hình cho việc các quốc gia tự nguyện đồng ý từ bỏ một số chủ quyền
để đổi lấy quyền tham gia với các quốc gia khác cho một mục tiêu lợi ích chung.
Chủ quyền quốc gia là một trong những vấn đề trọng tâm nhất trong các cuộc thương thảo trước khi một
quốc gia gia nhập vào bất kỳ liên minh và định chế kinh tế quốc tế nào. Đầu tư nước ngoài cũng có thể được
xem là một trong những mối đe dọa đến chủ quyền và do đó trở thành mối đe dọa đối với sự ổn định của một
thể chế chính trị, sự tồn tại của Chính phủ và các cơ quan của nó
2. Trình bày ảnh hưởng của thể chế chính trị tới hoạt động kinh doanh quốc tế.
Thể chế chính trị (political constitution) là bộ máy tổ chức của nhà nước, là hình thức chế độ mà nhà nước
lựa chọn để xây dựng thông qua những quy định, điều luật và thông qua nó để điều chỉnh, quản lý xã hội.
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không mấy quan tâm tới đảng phái chính trị, nhưng họ quan tâm
tới việc các bộ luật và cách hành pháp ở mỗi quốc gia có ổn định lâu dài hay không, qua đó giúp họ đánh giá
được mức độ rủi ro khi kinh doanh tại mỗi khu vực thị trường.
3. Chủ nghĩa dân tộc là gì? Ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc tới hoạt động kinh doanh quốc tế?Chủ
nghĩa dân tộc luôn tồn tại ở bất kỳ quốc gia nào, và là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới môi trường
kinh doanh. Chủ nghĩa dân tộc là tinh thần thể hiện sự ưu tiên tuyệt đối trong đánh giá và tiêu dùng các
sản phẩm của quốc gia. Nó được thể hiện qua tư tưởng và hành động bảo vệ uy tín, nền văn hóa và nền
sản xuất – thương mại nước nhà. Nó thể hiện niềm tự hào và hợp nhất dân tộc. Ở các quốc gia hướng tới
chủ nghĩa dân tộc luôn tìm cách thức tỉnh người dân niềm tự hào về đất nước, con người và văn hóa riêng
có của mình. Niềm tự hào đó sẽ tạo ra rào cản vô cùng lớn với các sản phẩm/doanh nghiệp đến từ các quốc gia khác.
Có nhiều mức độ của chủ nghĩa dân tộc và cũng có nhiều phươngcách khác nhau thể hiện chủ nghĩa dân tộc.
Phong trào "chỉ mua sản phẩmđược sản xuất trong nước" được nhiều quốc gia áp dụng nhằm
khuyếnkhích sản xuất trong nước. Phong trào "Buy American" (mua hàng Hoa lOMoAR cPSD| 58794847
Kỳ), "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam", hay "Made in China" (muahàng sản xuất tại Trung Quốc) đã
tạo nên những làn sóng ủng hộ sản xuấttrong nước, hạn chế cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu vào
thịtrường, đặc biệt ở các quốc gia có chủ nghĩa dân tộc ở mức độ cao.
Cho tới nay, chủ nghĩa dân tộc dường như đã lắng xuống, và toàn cầu hóa trở thành xu hướng không thể
tránh khỏi, các nhà đầu tư nước ngoài được chào đón như một nguồn lực, tạo nên động lực cho phát triển
kinh tế trong nước. Tuy nhiên, cần nhớ rằng, chủ nghĩa dân tộc đến và đi theo chu kỳ với các điều kiện và
thái độ của chính phủ. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được chào đón hôm nay có thể bị hạch
sách vào ngày mai, khi thể chế chính trị thay đổi và thái độ của nhà cầm quyền mới không còn ủng hộ nữa
4. Việc thay đổi đảng cầm quyền ảnh hưởng như thế nào tới nhà đầu tư nước ngoài? Cho ví dụ minh họa.
Ví dụ: Nước Mỹ đa đảng. Năm 2017, Trump đảng dân chủ nắm quyền -> thay đổi chính sách rút khỏi TPP,
Hiệp địng Paris về biến đổi khí hậu
1) Tạo ra cạnh tranh giữa các phe phái. Các phe phái đấu tranh nhau ắt dẫn đến sự thay đổi trong hệ thống
pháp luật và hệ thống thực thi pháp luật. "Tân quan, tân chính sách" luôn là câu nhắc của các doanh nghiệp
khi theo dõi sự thay đổi của hệ thống chính quyền, chính phủ.
2) Làm thay đổi cục diện kinh doanh, điều kiện kinh doanh và cả nhu cầu của thị trường, đặc biệt là thị trường
khách hàng tổ chức; và cũng ảnh hưởng lớn tới nguồn cung, tới các tổ chức trung gian và tới nhu cầu,
mong muốn của người tiêu dùng.
3) Thúc đẩy sự gia tăng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tuyệt đối hóa tính biệt lập, đặc thù của một dân tộc,
đề cao dân tộc/đảng phái mình, phủ nhận hoặc xem thường với thái độ miệt thị các dân tộc/đảng phái
khác; chỉ thấy quyền lợi của dân tộc/đảng phái mình, chà đạp lên quyền lợi của dân tộc khác; nuôi dưỡng
ngày càng sâu mối hận thù với các dân tộc/đảng phái khác,...
4) Làm gia tăng tình trạng thủ địch nhắm vào các quốc gia có liên quan tới sự thành bại của các đảng phái
chính trị trong cuộc tranh giảnh quyền lực kiểm soát hoạt động của quốc gia.
5) Tạo nên xu hướng tranh chấp thương mại khi các quy định về kinh doanh bị can thiệp bởi bàn tay vĩ mô
5. Tính bất ổn của thể chế chính trị ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp?
6. Rủi ro chính trị là gì? Các loại rủi ro chính trị khi kinh doanh trên thị trường quốc tế?
Rủi ro chính trị (political risk) là những rủi ro gắn liền với luật pháp mà các doanh nghiệp có thể phải đối
mặt. Rủi ro chính trị có ở mọi quốc gia, nhưng phạm vi rùi ro rất khác nhau giữa các quốc gia. Nhìn chung,
rủi ro chính trị là thấp nhất ở các quốc gia có lịch sử ổn định và tính nhất quán trong luật pháp.
Rủi ro chính trị vĩ mô và vi mô. Theo tiếp cận khác, có 5 loại rủi ro chính trị quan trọng có thể gặp phải:
(1) Rủi ro sở hữu: Rủi ro bị mất đi quyền sở hữu nghiêm trọng nhất mà các doanh nghiệpkinh doanh trên thị
trường quốc tế gặp phải chính là việc bị trung thu tài sản. Việc tước đi quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ
chức để sung công sản. Việc tước đi đúng thu (confiscation) - thu giữ tài sản của người khác mà không thanh
toán/ hoàn trả lại. Ít quyết liệt, nhưng cũng rất nghiêm trọng, đó là tước đi quyền sở hữu tài sản (expropriation)
của cá nhân, tổ chức nhưng bù lại cho họ một phần giá trị tài sản bị thu giữ. Hình thái thứ ba của rủi ro mất
đi quyền sở hữu chính là việc bị thuần hóa tài sản (domestication), xảy ra khi nước chủ nhà đẩy mạnh việc lOMoAR cPSD| 58794847
chuyển giao đầu tư nước ngoài để kiểm soát và sở hữu thông qua các nghị định chính phủ ủy quyền sở hữu
địa phương và sự tham gia của quốc gia lớn hơn trong quản lý doanh nghiệp.
(2) Rủi ro lợi ích kinh tế: hạn chế nk, quy định về tỷ kệ nội địa hóa, kiểm soát trao đổi/tt/giá cả/thuế,
nhữngràng buộc về lđ, thay đổi đảng lãnh đạo, tẩy chay
(3) Rủi ro xã hội; (4) Rủi ro do bạo lực, khủng bố và chiến tranh; (5) Rủi ro từ khủng bố mạng và tội phạm mạng
7. Những rủi ro lợi ích kinh tế xuất phát từ bất ổn của chính trị?
8. Trình bày các biện pháp doanh nghiệp có thể dùng để đối phó với các rủi ro chính trị?Đánh giá
rủi ro chính trị: theo dõi và dự báo diễn biến của các sự kiện chính trị và ảnh hưởng tiềm tàng của chúng
đến các quyết định kinh doanh quốc tế hiện tại và tương lai Xây dựng mối quan hệ với chính phủ:
Vận động hành lang. Gây ảnh hưởng đến chính trị địa phương liên quan đến việc giao dịch với các nhà lập
pháp và các chính trị gia địa phương, trực tiếp hoặc thông qua các nhà vận động hành lang.
Tham nhũng/ hối lộ. Mặc dù bất hợp pháp ở hầu hết các quốc gia, hối lộ là hình thức phổ biến để đạt được
ảnh hưởng chính trị và xây dựng mối quan hệ với những người ra quyết định chính trị
Xây dựng mối quan hệ với khách hàng;
Trong bối cảnh marketing quốc tế, khách hàng địa phương sẽ ủng hộ các doanh nghiệp đã cung cấp cho họ
những sản phẩm và các dịch vụ mong muốn. Xây dựng mối quan hệ với nhân viên:
Nhân viên địa phương có thể rất bảo vệ doanh nghiệp, ngay cả trong thời điểm bất ổn, đặc biệt nếu họ nhận
thức rằng công việc của họ có thể bị ảnh hưởng bởi sự can thiệp của chính phủ. Do đó, những nhân viên
được đối xử tốt thường quan tâm đến sự tồn tại của doanh nghiệp, bởi vì họ cho rằng đó là chìa khóa cho sự
sống còn của chính họ.
Xây dựng mối quan hệ với cộng đồng địa phương:
Cộng đồng địa phương có thể lo ngại rằng một doanh nghiệp nước ngoài sẽ khai thác nguyên liệu và lao
động và tạo ra lợi nhuận, nhưng không mang lại điều gì đó cho môi trường địa phương và người dân địa
phương. Do đó, doanh nghiệp cần trở thành một "công dân địa phương" tốt và tái đầu tư vào cộng đồng địa phương.
9. Nêu khái niệm luật quốc tế. Phân tích các yếu tố hình thành nên luật quốc tế.
Luật quốc tế (international laws) là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật, được các quốc gia và
chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng, trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, nhằm điều chỉnh những
quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể trong mọi lĩnh vực và đời sống quốc tế và được đảm bảo thực
thi bởi chính các chủ thể luật quốc tế.
Luật quốc tế xuất phát từ ba nguồn chính: phong tục, các hiệp ước quốc tế và các quyết định của tòa án quốc gia và quốc tế.
Phong tục là những tập quán hoặc hành vi đã được chấp nhận rộng rãi đến mức chúng trở thành các quy tắc
của pháp luật (Luật dựa trên phong tục sẽ phát triển chậm).
Các hiệp ước quốc tế đại diện chính thức cho các thỏa thuận giữa các quốc gia hoặc các doanh nghiệp, theo
đó, đặt ra các quy tắc và nghĩa vụ để điều chỉnh các mối quan hệ lẫn nhau giữa các bên. Hiệp ước và hợp
đồng chỉ ràng buộc đối với những người tham gia ký kết, nhưng nếu một số lượng lớn các hiệp ước hoặc hợp
đồng có quy định tương tự, thì những điều ước hoặc hợp đồng này có thể mang tính chất của một luật dựa
trên phong tục hoặc quy tắc chung.
Các quyết định của tòa án quốc gia và quốc tế, là các phán quyết được đưa ra khi có tranh chấp thương mại
giữa các cá nhân và tổ chức quốc tế hoạt động trên phạm vi lãnh thổ một quốc gia nào đó. Các phán quyết
của quốc gia có thể được chấp nhận như luật quốc tế chỉ khi những phán quyết này dựa trên sự thấu hiểu đầy lOMoAR cPSD| 58794847
đủ về các vấn đề quốc tế cần giải quyết, hoặc khi chúng phát triển thành một loạt cách diễn giải phù hợp với
các quốc gia khác. Khi phán quyết của tòa án quốc gia không được một hoặc cả hai bên chấp nhận, thì các
tòa án và trọng tài quốc tế có thể ra phán quyết. Vấn đề tranh chấp có thể chuyển sang Tòa án quốc tế để
phân xử nếu các bên đồng ý.
CHƯƠNG 4: MÔI TRƯỜNG KINH TẾ TRONG MARKETING QUỐC TẾ
1.Mức độ tăng trưởng kinh tế được đánh giá như thế nào? Nó tạo ra các cơ hội và thách thức nào cho
hoạt động kinh doanh?

Tăng trưởng kinh tế (Economic development) được hiểu là sự tăng trưởng của nền sản xuất quốc gia được
thể hiện qua sự thay đổi của các chỉ số như thu nhập bình quân đầu người, tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
hay tổng thu nhập quốc dân (GNI), cho thấy khả năng chi trả của cư dân của một quốc gia nào đó. Nó được
đánh giá các biến số kinh tế liên quan đến quy mô và tính chất của thị trường.
Tại các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng thấp, nhu cầu thị trường ở mức thấp và tăng trưởng kém; cạnh tranh
kém năng động và marketing thường chỉ tập trung vào khâu phân phối. Ngược lại, với các nền kinh tế có tốc
độ tăng trưởng cao, năng động, nhu cầu thị trường thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi các nỗ lực marketing phải
luôn thay đổi nhằm khám phá và đáp ứng các nhu cầu mới
2. Thu nhập và phân phối thu nhập có ảnh hưởng như thế nào tới cơ hội kinh doanh trên thị trường quốc tế?
Thước đo phát triển kinh tế phổ biến là tổng sản phẩm quốc dân (GNP) - giả trị của tất cả hàng hóa và dịch
vụ được sản xuất bởi một quốc gia trong khoảng thời gian một năm. Con số này bao gồm cả thu nhập do
sản xuất trong nước tạo ra và các hoạt động quốc tế của quốc gia. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là giá trị
của tất cả hàng hóa và dịch vụ do nền kinh tế trong nước sản xuất trong một năm, chỉ dấu toàn diện về sức
khỏe kinh tế của một quốc gia. Phân loại các quốc gia theo thu nhập Các nước kém phát triển LDCs: GDP bq <3000$
Các nước kém phát triển phụ thuộc rất nhiều vào một sản phẩm và thường vào một đối tác thương mại. Giá
hàng hóa giảm có thể dẫn đến giảm mạnh thu nhập của cả nước. Kết quả của những điều chỉnh kinh tế và
chính trị có thể ảnh hưởng đến các nhà xuất khẩu sang quốc gia đó thông qua những thay đổi có thể có về
thuế quan và hàng rào phi thuế quan. Chất lượng của các kênh phân phối khác nhau đáng kể giữa các quốc
gia. Thường có sự khác biệt lớn giữa các trung gian phân phối có quy mô nhỏ, thiếu vốn ở các nước kém
phát triển và các trung gian phân phối ở các nước tiên tiến hơn. Các nhà bán lẻ, chẳng hạn, thường là thương
nhân. Tỷ lệ các cửa hàng tự phục vụ quy mô lớn tương đối thấp.
Các nước công nghiệp hóa mới (NICs):
Ở các quốc gia NICs, mặc dù cơ sở bạ tầng có sự phát triển đáng kể, nhưng tăng trưởng cao của nền kinh tế
cô thể gây khó khăn cho việc sản xuất theo yêu cầu của khách hàng trong vàngoài nước (do phải tập trung
nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tăng trưởng cao).
Các nước công nghiệp phát triển:
Các quốc gia này có GDP bình quân đầu người cao, cơ sở công nghiệp rộng khắp, lĩnh vực dịch vụ phát triển
đáng kể và đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng quốc gia. Một số nước công nghiệp phát triển tiên tiến (ví dụ: Hoa
Kỳ và Pháp) có ngành nông nghiệp quan trọng..
Phân phối thu nhập, của cải và sự sung túc của các nhóm cụ thể trong một quốc gia hoặc khu vực cũng rất
được quan tâm. Ngay cả trong một xã hội có thu nhập trung bình thấp, có thể có một bộ phận dân cư có mức
thu nhập cao và mong muốn mua hàng xa xỉ. Trong khi thu nhập bình quân ở Hồng Kông, được đo bằng lOMoAR cPSD| 58794847
Tổng thu nhập quốc dân (GNI) trên đầu người, thấp hơn nhiều so với các quốc gia công nghiệp phát triển
lớn, nhưng nước này có tỷ lệ sở hữu ô tô Rolls-Royce bình quân đầu người cao nhất trên thế giới.
3. Cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng như thế nào tới marketing quốc tế? Các yếu tố cơ sở hạ tầng nào cần quan tâm?
Người làm marketing quốc tế sẽ phụ thuộc nhiều vào các dịch vụ do thị trường địa phương cung cấp về vận
tải, thông tin liên lạc và năng lượng cũng như các tổ chức tham gia vào các chức năng hỗ trợ của marketing:
truyền thông, phân phối, thông tin và tài chính. Ngoài ra, việc thiếu cơ sở hạ tầng khiến người nông dân
không tiếp cận được với công nghệ, đầu vào và ý tưởng mới. Thiếu csht ->k có thông tin. Mạng lưới giao thông:
Mạng lưới giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy hoặc đường hàng không rất cần thiết cho
việc phân phối vật chất Hạ tầng thông tin:
Khả năng thông tin của một doanh nghiệp với các đối tượng bên ngoài và bên trong thị trường có thể được
ước tính bằng cách sử dụng các chỉ số của cơ sở hạ tầng thông tin: điện thoại, máy tính, phương tiện phát
sóng và phương tiện in đang được sử dụng. Công nghệ không dây đang thay đổi toàn cảnh thế giới về giao
tiếp theo nhiều cách. Các thị trường đã phát triển, mới nổi và đang phát triển sẽ yêu cầu người làm marketing có những điều chỉnh.
Có thể thấy, tăng trưởng người dùng mạng xã hội tiếp tục ở mức hai con số là 10,1% trong năm 2021, bất
chấp ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Có thể thấy, 424 triệu người dùng đã bắt đầu hành trình truyền thông
xã hội của họ trong năm qua, tương đương với trung bình hơn 1 triệu người dùng mới mỗi ngày, hoặc khoảng
13,5 người dùng mới mỗi giây. Với lượng người dùng mạng xã hội hiện chiếm 58,4% tổng dân số thế giới,
chúng ta sẽ thấy tỷ lệ tăng trưởng bắt đầu giảm tốc trong vài năm tới và đây có thể là lần cuối cùng chúng
tôi báo cáo mức tăng trưởng hàng năm hai con số trong người dùng mạng xã hội. Điều này hứa hẹn cơ hội
kinh doanh toàn cầu, và tận dụng hạ tầng thông tin là yêu cầu không thể thiếu cho các doanh nghiệp kinh
doanh trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt trong các hoạt động marketing.
4. Các yếu tố kinh tế nào ảnh hưởng tới cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế? -
Thu nhập và cơ hội thị trường: Thu nhập ảnh hưởng tới sức mua của thị trường và do đó, nó là yếu tố ảnh
hưởng lớn tới sức hấp dẫn của thị trường cả về quy mô và loại sản phầm, cơ cấu sản phẩm mà thị trường đó tiêu thụ. - Mức tăng trưởng
- Tỷ giá hối đoái- Cơ sở ht
5. Phân tích ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái tới cơ hội marketing của các doanh nghiệp trên thị trườngquốc tế?
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến nhu cầu đối với các sản phẩm của một doanh nghiệp trên thị trường toàn cầu.
Khi tiền tệ của một quốc gia yếu (có giá trị thấp so với các đơn vị tiền tệ khác), giá của xuất khẩu của nó trên
thị trường thế giới giảm và giá nhập khẩu tăng. Giá thấp làm cho hàng hóa xuất khẩu trở nên hấp dẫn hơn
trên thị trường thế giới. Giá thấp cũng cung cấp cho các doanh nghiệp cơ hội để chiếm thị phần tửừ các doanh
nghiệp có giá sản phẩm cao hơn. Hơn nữa, một doanh nghiệp bán hàng ở một quốc gia có đồng nội tệ mạnh
(đồng tiền có giá trị cao so với các loại tiền tệ khác) trong khi trả lương cho người lao động ở một quốc gia
có đồng tiền yếu, sẽ cải thiện lợi nhuận.
6. Tại sao nói, “đáy kim tự tháp” vẫn tiềm ẩn các cơ hội kinh doanh? - Số lượng lớn - Nhu cầu lớn
7. Phân tích một số thay đổi trong môi trường kinh tế quốc tế? lOMoAR cPSD| 58794847
Từ đầu thế kỷ 21, nền kinh tế quốc tế có những đặc điểm mới như: (i) đầu tư quốc tế tăng mạnh và có nhiều
thay đổi quan trọng; (ii) xu hướng quốc tế hóa các doanh nghiệp ngày càng rõ nét; (iii) cơ cấu quốc tế của
các lĩnh vực kinh tế chủ chốt có những thay đổi căn bản. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) - có nghĩa là đầu
tư vào các cơ sở sản xuất và dịch vụ ở nước ngoài với mục đích tham gia tích cực vào việc quản lý chúng -
là một khía cạnh cơ bản của sự hội nhập ngày càng tăng của các nền kinh tế quốc gia. Trước đây, FDI được
coi là một giải pháp thay thế cho xuất khẩu để tránh các hàng rào thuế quan. Tuy nhiên, hiện nay, FDI và
thương mại quốc tế bổ sung cho nhau. Khi các hãng đầu tư vào các cơ sở sản xuất và phân phối ở quốc gia
khác nhằm mở rộng sang các thị trường mới trên thế giới, họ đã bổ sung khả năng hoạt động đối với nguồn
vốn FDI. FDI dịch chuyển từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Trong lịch sử, một phần lớn
FDI được thực hiện ở các nước phát triển thông qua các doanh nghiệp đa quốc gia của các nước phát triển
trong khu vực Bộ ba (tức là Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật Bản). Tuy nhiên, nền kinh tế thế giới chứng kiến sự
trỗi dậy nhanh chóng của các nền kinh tế mới nổi thuộc các nước BRICS. Một trong những khu vực phát
triển và thay đổi nhanh chóng là châu Á và các quốc gia thuộc Vành đai Thái Bình Dương. Các quốc gia
châu Á đang tự mình mở rộng liên kết thương mại, đầu tư và công nghệ, thay vì phụ thuộc vào châu Âu hay Hoa Kỳ như trước đây.
8. Văn hóa tiêu dùng có ảnh hưởng tới hoạt động marketing như thế nào?khi thu nhập một gđ tăng tỷ lệ chi
tiêu cho thực phẩm sẽ giảm chỉ tiêu cho nhà ở và các hoạt động gia đình sẽ gần như không đổi và số tiền
tiết kiệm hoặc chi cho các hoạt động mua sắm khác sẽ tăng lên dụ ở Trung Quốc, có sự khác biệt rõ rệt
giữa các thị trường địa lý và giữa người tiêu dùng ở thị trường thành thị và nông thôn. Gần 60% máy tính
cá nhân được bán ra tìm được khách hàng ở các tỉnh phía Đông, Bắc và Nam có nền kinh tế phát triển, đặc
biệt là ở các thành phố lớn ven biển. Trong thị trường phụ của máy chủ, thị phần thậm chí còn cao hơn ở
mức 65%. Người tiêu dùng thành thị chỉ tiêu cho thực phẩm nhiều hơn 2,5 lần và cho giải trí nhiều hơn
10 lần so với người tiêu dùng nông thôn. Điều này không có nghĩa là thị trường thành thị nội địa và khu
vực nông thôn không có cơ hội
9. Các rủi ro do môi trường kinh tế mang lại khi kinh doanh trên thị trường quốc tế?
Trên thị trường quốc tế, có thể liệt kê các rủi ro về kinh tế như: (1) Những điểm khác nhau và các biến động
trong giá trị của các loại tiền tệ khác nhau; (2) Những khác biệt về mức lương phổ biến; (3) Khó khăn trong
việc củng cố các quyền sở hữu; (4) Thất nghiệp
Về phương diện thị trường, có những rủi ro chung như: khoảng cách các thị trường so sánh; cạnh tranh từ
các doanh nghiệp khác trên thị trường các chị goải, sự khác biệt trong việc sử dụng sản phẩm ở thị trường
ng ngoài, sự khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa; khó khăn trong việc tìm kiếm nhà phân phối phù hợp tại thị
trường nước ngoài; sự khác biệt về quy cách sản phẩm tại thị trường nước ngoài; sự phức tạp của dịch vụ
vận chuyển cho người mua ở nước ngoài.
Rủi ro thương mại trong marketing quốc tế có thể liệt kê như: biến động tỷ giá hối đoái khi hợp đồng được
thực hiện bằng ngoại tệ; khách hàng xuất khẩu không thanh toán do tranh chấp hợp đồng, phá sản, từ chối
chấp nhận sản phẩm hoặc gian lận; chậm trễ và/ hoặc thiệt hại trong quá trình vận chuyền và phân phối xuất
khẩu; khó khăn trong việc xin tài trợ xuất khẩu.
CHƯƠNG 5: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CÁC ĐỊNH CHẾ QUỐC TẾ
1. Hội nhập kinh tế quốc tế là gì? Tại sao nói, hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình tất yếu kháchquan?
Hội nhập quốc tế (ở tầm quốc gia) là sự tham gia vào hệ thống thể giới và trở thành một bộ phận cấu thành
của chinh thể thế giới, trước hết là bộ phận cấu thành của “nền kinh tế thế giới”, “nền chính trị thế giới” và
“nền văn minh nhân loại”. Tất cả các hoạt động này đều là hoạt động có chủ đích, nhằm: (1) phát triển quốc lOMoAR cPSD| 58794847
gia; (2) khẳng định bản sắc quốc gia; (3) giành vị thế xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống; (4) tham gia
hoàn thiện và phát triển hệ thống… hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình giao lưu, hợp tác, gắn kết nền kinh
tế của quốc gia này với quốc gia khác hoặc tổ chức kinh tế khu vực hội nhập với toàn cầu".
Trong thế giới hiện đại, sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng thị trường,
hình thành thị trường khu vực và quốc tế. Đây chính là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập quốc
tế. Hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế khác đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Các quốc
gia tham gia quá trình này cơ bản vì lợi ích cho đất nước, vì sự phồn vinh của dân tộc mình. Mặc khác, các
quốc gia thực hiện hội nhập quốc tế cũng góp phần thúc đẩy thế giới tiến nhanh trên con đường văn minh, thịnh vượng.
2. Có các cấp độ hội nhập quốc tế nào? Hiện nay, Việt Nam hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực nào?
Hội nhập ở lĩnh vực nào là sâu rộng nhất hiện nay?
Nhìn tổng thể thì hội nhập quốc tế có ba cấp độ chính là: hội nhập toàn cầu, khu vực và song phương. Các
phương thức hội nhập này được triển khai trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Cho đến nay, đối
với Việt Nam, hội nhập quốc tế được triển khai trên 3 lĩnh vực chính gồm: hội nhập trong lĩnh vực kinh tế
(hội nhập kinh tế quốc tế), hội nhập trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế trong
lĩnh vực văn hóa - xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế
quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập
kinh tế quốc tế. HNKTQT xu thế lớn và mang nhiều đặc trưng, đồng thời chi phối toàn bộ các mối quan hệ
quốc tế, làm thay đổi cấu trúc hệ thống thế giới cũng như các chủ thể tham gia.
3. Liệt kê và nêu bản chất của từng phương thức hội nhập kinh tế quốc tế?
Thỏa thuận thương mại ưu đãi:
Thỏa thuận thương mại tru đãi (PTA- Preferential Trade Arrangements) là một kiểu hội nhập quốc tế mà các
bên tham gia thỏa thuận dành các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan cho hàng hóa của nhau, tạo thành các
khu vực thương mại ưu đãi vùng. Đây là cấp độ thấp nhất của liên kết kinh tế, tạo thành các khu vực thương
mại ưu đãi vùng (Preferential Trade Area) với danh mục sản phẩm ưu đãi và mức độ cắt giảm thuế quan bị
hạn chế trong thỏa thuận thương mại giữa các quốc gia thành viên. Trong các thỏa thuận này, thuế quan và
hàng rào phi thuế quan có thể vẫn còn, nhưng thấp hơn so với khi áp dụng cho quốc gia không tham gia hiệp
định. Một ví dụ về thỏa thuận thương mại ưu đãi là Hiệp định về Thỏa thuận Thương
mại Ưu đãi ASEAN được ký kết tại Manila năm 1977 và được sửa đổi năm 1995; Khu
vực thương mại tự do:

Khu vực thương mại (hay còn gọi là mậu dịch tự do - Free Trade Agrcement) là một hình thức hội nhập kinh
tế quốc tế ở mức độ tương đối cao do hai quốc gia (ví dụ: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Chile)
hoặc một nhóm các quốc gia/vùng lãnh thổ. Khu vực thương mại tự do (Free Trade Agreement- FTA) được
hiểu là khu vực mà trong đó một nhóm các quốc gia tham gia khu vực này đã ký hiệp định thương mại tự do
và duy trì ít hoặc không có rào cản thuế quan hoặc hạn ngạch với nhau.
Các thành viên tham gia khu vực thương mại tự do cam kết giảm thiểu thuế quan cho nhau, thậm chí có lĩnh
vực loại bỏ hạn ngạch thuế quan (thuế bằng không). Hàng rào phi thuế quan (cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu,
hạn ngạch - quota...) cũng được giảm bớt hoặc loại bỏ hoàn toàn. Hàng hóa và dịch vụ được di chuyển tự do
giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ của các thành viên. Xu thế thành lập khu vực mậu dịch tự do đang là phổ
biến hiện nay. Các khu vực thương mại tự do tạo điều kiện cho thương mại quốc tế và những lợi ích liên
quan từ thương mại, đi kèm với sự phân bổ lao động và chuyên môn hóa quốc tế.
Khu vực thương mại tự do được xem là hình thức liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên thỏa
thuận với nhau về việc giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế về số lượng, tiến tới
hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa và dịch vụ. Song các nước thành viên vẫn giữ được quyền lOMoAR cPSD| 58794847
độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với các nước ngoài khu vực. Nói cách khác, những thành viên của
khu vực thương mại tự do có thể duy trì những thuế quan riêng và những hàng rào thương mại khác đối với thế giới bên ngoài.
Hiệp định đối tác kinh tế:
Hiệp định đối tác kinh tế (Economic Partnership Agreement) là cấp độ hội nhập kinh tế sâu hơn hiệp định
thương mại tự do, trong đó các quốc gia ký kết một hiệp định nào đó để tạo ra sự tự do cho doanh nghiệp
của các quốc gia thành viên được khai thác thị trường của nhau, ở cả lĩnh vực sản xuất, thương mại và dịch
vụ. Mặc dù vậy, trong giai đoạn hiện nay, nếu xét về nội dung thì ranh giới để phân biệt giữa hiệp định đối
tác kinh tế và hiệp định thương mại tự do cũng không thực sự rõ ràng (ví dụ: Hiệp định đối tác toàn diện và
tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU).
Tuy nhiên, về nguyên tắc, đối với hiệp định thương mại tự do, ngoài việc tự do hóa thương mại hàng hóa
thông qua bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan, thì còn bao gồm cả tự do hóa ở mức độ cao về dịch
vụ, đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử hoặc các lĩnh vực khác liên quan trực tiếp đến thương mại giữa các
nước ký kết hiệp định. Hiệp định đối tác kinh tế cũng là một xu hướng mới nổi trong hợp tác kinh tế quốc tế
hiện nay. Hiệp định đối tác kinh tế có thể là đối tác giữa một nhóm nước (khu vực), chẳng hạn: Hiệp định
đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định đối tác toàn diện khu vực (RCEP)
(các nước ASEAN và các đối tác đang đàm phán), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện giữa các quốc gia
thành viên ASEAN và Nhật Bản (AJCEP) hoặc hiệp định đối tác song phương, như: Hiệp định đối tác kinh
tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA).
Liên minh thuế quan:
Liên minh thuc Chán (Custom Union, CU) là một hiệp định thương mại mà một nhóm các quốc gia áp dụng
một biểu thuế quan chung cho phần còn lại của thế giới trong khi trao quyền tự do thương mại cho nhau.
Có thể thấy, liên minh thuế quan là một hình thức hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó, thuế quan giữa những
nước thành viên đều được loại bỏ, chính sách thương mại chung của liên minh đối với những nước không
thành viên được thực hiện. Các thành viên của liên minh ngoài việc cắt giảm và loại bỏ thuế quan trong
thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài khối
Liên minh thuế quan là một hình thức hội nhập kinh tế cung cấp một bước trung gian giữa khu vực thương
mại tự do (cho phép thương mại tự do lẫn nhau nhưng thiếu một hệ thống thuế quan chung) và thị trường
chung (ngoài thuế quan chung, còn cho phép di chuyển tự do các nguồn lực như vốn và lao động giữa các quốc gia thành viên).
Trong liên minh thuế quan, các nước thành viên trở thành một thị trường hàng hóa, dịch vụ thống nhất với
các nước ngoài khối và tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng với nhau.
Trong thực tế đã có nhiều liên minh thuế quan ra đời như: Liên minh thuế quan giữa Bi và Luxembourg năm
1921, Hiệp định chung về Mậu dịch và Thuế quan GATT năm 1948, Liên hiệp hải quan các nước Trung Mỹ (ADEANPACT) Thị trường chung
Thị trường chung (Common Market) là hình thức liên kết kinh tế giữa các nước áp dụng các biện pháp tương
tự như liên minh thuế quan trong quan hệ thương mại và cho phép di chuyển tự do tư bản, lao động giữa các
quốc gia thành viên. Ngoài ra, các yếu tố của sản xuất (lao động, vốn và công nghệ) có thể dịch chuyển giữa
các thành viên. Hạn chế về nhập cư và đầu tư xuyên biên giới bị bãi bỏ. Khi các yếu tố sản xuất dịch chuyển,
vốn, lao động và công nghệ có thể được sử dụng vào những mục đích sử dụng hiệu quả nhất
Khối ASEAN cũng đã tuyên bố hình thành Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột là Cộng đồng chính trị - an
ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa - xã hội lOMoAR cPSD| 58794847
Để được xác định là một thị trường chung, các điều kiện sau phải được thỏa mãn: (i) thuế quan, hạn ngạch
và tất cả các rào cản liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giữa các thành viên của thị
* trường chung được loại bỏ; (ii) các hạn chế thương mại phổ biến như thuế quan đối với các quốc gia khác
được áp dụng bởi tất cả các thành viên của thị trường chung. (iii) các yếu tố sản xuất như lao động và vốn
có thể dichuyển tự do mà không bị hạn chế. Liên minh kinh tế và tiền tệ
Liên minh kinh tế (Economic Union) được coi là cấp độ cao nhất của hội nhập kinh tế quốc tế, được xây
dựng trên cơ sở các quốc gia thành viên thống nhất thực hiện các chính sách thương mại, tiền tệ, tài chính và
một số chính sách kinh tế - xã hội chung giữa các thành viên với nhau và với các nước ngoài khối. Như vậy,
ở liên minh kinh tế, ngoài việc các luồng vốn, hàng hóa, lao động và dịch vụ được tự do lưu thông ở thị
trường chung, các nước còn tiến tới thống nhất các chính sách quản lý kinh tế - xã hội, sử dụng chung một đồng tiền, ví dụ: EU
Liên minh kinh tế là hình thức hợp tác giữa các nước không chỉ giới hạn ở những đặc điểm của thị trường
chung (như thương mại và sự di chuyển nhân tố sản xuất một cách tự do) mà còn thống nhất mục tiêu kinh
tế chung của các nước thành viên về tăng trưởng kinh tế, việc làm... và phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá
trình hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, tài chính và các chính sách khác.
Liên minh tiền tệ (Moneytary Union) hình thành trên cơ sở các nước phối hợp các chính sách tiền tệ với
nhau, thỏa thuận về dự trữ tiền tệ cũng như phát hành đồng tiền chung. Trong liên minh tiền tệ, các nước
thống nhất hoạt động của các ngân hàng trung ương, đồng thời thống nhất hoạt động của các giao dịch với
các tổ chức tiền tệ và tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB
4. Lợi thế và bất lợi của phát triển một khu vực thương mại tự do?
5. Sự khác biệt giữa hiệp định đối tác kinh tế và hiệp định thương mại tự do?
6. Điều kiện áp dụng một thị trường chung? Ưu và hạn chế của thị trường chung?
7. Sự ra đời, các nguyên tắc, cơ hội và thách thức của WTO với các doanh nghiệp Việt Nam?Tổ chức
Thương mại Thế giới (World Trade Organization – WTO) là một định chế quốc tế được thành lập ngày 01
tháng 01 năm 1995 với mục tiêu thiết lập, duy trì nền thương mại toàn cầu ổn định, tự do, minh bạch. Tính
đến ngày 29 tháng 07 năm 2016, WTO có 164 thành viên, bao gồm các quốc gia và một số vùng lãnh thổ
tự trị về quan hệ ngoại thương. Tiền thân của WTO là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại –
GATT (The General Agreement on Tariffs and Trade), được 23 quốc gia ký kết năm 1947 nhằm tăng cường
các hoạt động thương mại giữa các nước này nói riêng và toàn cầu nói chung. Trong lịch sử hình thành và
phát triển, GATT đã trải qua nhiều vòng đàm phán đa phương về thương mại. Tại vòng đàm 8 phán
Uruguay (vòng thứ 8, 1986 - 1994), các quốc gia đã thống nhất thành lập WTO và kế thừa, phát triển, thực
thi các quy định, nội dung của GATT. Nhiêm vụ:
-Thúc đẩy việc thực hiện các Hiệp định và cam kết đã đạt được trong khuôn khổ WTO, kể cả những cam kết
dự kiến trong tương lai;
-Trở thành diễn đàn để các thành viên đàm phán, ký kết các Hiệp định, cam kết mới về tự do hóa thương
mại, tạo điều kiện để thương mại tiếp tục phát triển trên quy mô toàn cầu;
-Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên WTO trong trường hợp có xung đột theo các quy tắc,
trình tự, thủ tục theo quy định;
-Rà soát định kỳ các chính sách thương mại của các thành viên; lOMoAR cPSD| 58794847
-Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển (thông qua tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực) và hợp
tác với các tổ chức quốctế khác
Cơ chế làm việc tại WTO là cơ chế đồng thuận khi đưa ra các quyết định, có nghĩa rằng một quyết định chỉ
được thông qua khi không có bất kỳ quốc gia thành viên nào bỏ phiếu chống. Các hoạt động của WTO dựa
trên các Hiệp định, quy định, nguyên tắc phức tạp, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, các văn bản này đều được đàm phán và thống nhất trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của WTO. Cơ hội:
Thứ nhất, việc tham gia WTO giúp Việt Nam được hưởng hai đãi ngộ, bao gồm: đãi ngộ tối huệ quốc (MFN)
và đãi ngộ quốc gia (NT), có nghĩa rằng Việt Nam sẽ được lợi về mức thuế bị áp khi xuất nhập khẩu hàng
hóa như các thành viên hiện hữu trong WTO.
Thứ hai, việc tham gia vào WTO giúp Việt Nam tiếp cận và ổn định các thị trường xuất khẩu. WTO có
nguyên tắc khuyến khích các nước hạ rào cản thương mại và tạo điều kiện cho tự do hóa thương mại. Tiêu
chí của WTO là đảm bảo các điều kiện thương mại ổn định, thay đổi một cách phù hợp, có thời gian để các
doanh nghiệp nội địa thích ứng kịp với sự thay đổi về chính sách thương mại. Việc trở thành thành viên của
WTO giúp Việt Nam mở rộng thị trường, tạo ra các mối quan hệ kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư và giảm
thiểu rủi ro trong các hoạt động thương mại.
Thứ ba, WTO giúp Việt Nam đẩy mạnh hoạt động xây dựng, điều chỉnh chính sách và các cơ chế quản lý,
phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. WTO cho phép Việt Nam tiếp cận thị trường toàn cầu
Thứ tư, với tư cách thành viên WTO, Việt Nam có thể được giải quyết các tranh chấp thương mại một cách
công bằng hơn, đặc biệt là với các cường quốc thương mại. Một ưu điểm của các cơ chế này là buộc các
thành viên, sau khi nhận được đơn khiếu nại từ một hoặc nhiều thành viên khác thì phải tham gia giải quyết
tranh chấp dựa vào cơ chế của WTO, thể hiện tính ràng buộc lẫn nhau như đã phân tích ở trên.
Mục đích của cơ chế giải quyết tranh chấp là tìm ra giải pháp tích cực, có lợi cho cả các bên tham gia tranh
chấp, đồng thời phù hợp với các Hiệp định liên quan của WTO. Hơn thế nữa, mục tiêu của WTO đảm bảo
sự công bằng cho các quốc gia nói riêng và ổn định nền thương mại quốc tế nói chung.
Thách thức WTO mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam
Thứ nhất, việc gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa thị trường và tuân thủ các quy định chung. Việt
Nam là một nước đang phát triển, với nền kinh tế tuy tiềm năng nhưng vẫn còn non trẻ, việc hội nhập kinh
tế với các nước láng giềng và khu vực còn gặp những khó khăn nhất định, nên khi hội nhập kinh tế với các
nước trên thế giới trong khuôn khổ WTO có thể làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là
mất đi lợi thế về giá cả khi các sản phẩm nước ngoài được hưởng mức thuế tốt hơn.
Thứ hai, việc các doanh nghiệp chưa am hiểu hệ thống pháp luật và thông lệ quốc tế có thể dẫn đến nhiều vụ
tranh chấp không đáng có, không những thua thiệt trong hoạt động kinh doanh mà còn phải chịu những khoản
phạt lớn, thậm chí là các vấn đề pháp lý khác.
Thứ ba, áp lực về việc phải thay đổi và điều chỉnh nhanh các văn bản pháp luật để phù hợp với quy định và lộ trình của WTO.
8. Sự ra đời, các nguyên tắc, cơ hội và thách thức của CPTPP với các doanh nghiệp Việt Nam? Tiền
thân của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (Trans- Pacific Partnership Agreement - TPP). TPP được đàm phán và dự định ký
kết bởi 12 nước thành viên, bao gồm 4 thành viên sáng lập: Brunei, Chile, New Zealand, Singapore và 8
thành viên: Australia, Hoa Kỳ, Peru, Mexico, Canada, Nhật Bản, Malaysia, Việt Nam. lOMoAR cPSD| 58794847
Ban đầu, bốn quốc gia sáng lập dự định ký kết Hiệp định với nhau và lấy tên gọi là 4P. Tuy nhiên, sau khi
Hoa Kỳ quyết định tham gia đã đề xuất đổi tên và đàm phán Hiệp định theo khuôn khổ mới và lấy tên gọi là
TPP. Năm 2009, Việt Nam tham gia với vai trò là quan sát viên đặc biệt. Đến năm 2010, Việt Nam chính
thức tham gia vào các vòng đàm phán Hiệp định. 2017, Mỹ rút. 2018, CPTPP chính thức ký kết bởi 11 nước
thành viên. Hiệp định TPP được kỳ vọng sẽ trở thành điểm sáng của các Hiệp định thương mại tự do, được
coi là Hiệp định “thế hệ mới” với nhiều đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, tiếp cận thị trường một cách toàn diện. TPP dự kiến cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế
quan đối với gần như tất cả hàng hóa, dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Thứ hai, đưa ra cam kết mang tính khu vực. TPP tạo thuận lợi cho phát triển chuỗi cung ứng trong nội khối,
không làm gián đoạn sản xuất, thương mại, cũng như mở cửa thị trường và hội nhập hiệu quả.
Thứ ba, tập trung giải quyết các thách thức mới về thương mại. TPP thúc đẩy tăng năng suất, năng lực cạnh
tranh thông qua phát triển nền kinh tế số và đánh giá vai trò của doanh nghiệp Nhà nước đối với nền kinh tế toàn cầu.
Thứ tư, đảm bảo lợi ích thương mại toàn diện. TPP đưa ra các điều khoản nhằm đảm bảo tất cả các doanh
nghiệp thuộc mọi quy mô. Đặc biệt, doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có thể được hưởng lợi từ Hiệp định thông
qua các cam kết về phát triển và nâng cao năng lực thương mại.
Thứ năm, trở thành nền tảng cho hội nhập khu vực. TPP ra đời là tiền đề cho các quốc gia khác trong khu
vực có thể hội nhập tốt hơn.
Cơ hội CPTPP mang lại cho Việt Nam
Dưới góc độ quản lý nhà nước, việc tham gia vào Hiệp định CPTPP là cơ hội giúp Việt Nam được tiếp cận
với các thị trường lớn, có thể chế và hành lang pháp lý chặt chẽ, từ đó, buộc Việt Nam phải hoàn thiện, minh
bạch hóa môi trường kinh doanh tốt hơn. Bên cạnh đó, đây cũng là cơ hội giúp gia tăng việc làm và thu nhập
Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, tham gia CPTPP là cơ hội tốt để tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu và là cơ hội
để nhiều ngành công nghiệp nội địa Việt Nam tham gia vào các chuỗi cung ứng trong khu vực và trên toàn
cầu. Một trong những đặc điểm nổi bật của Hiệp định CPTPP là hàng rào thuế quan của phần lớn các mặt
hàng xuất nhập khẩu sẽ được giảm đáng kể, đặc biệt tại một số thị trường lớn (Nhật Bản, Canada), mức thuế
áp dụng đối với các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sẽ giảm dần về 0%. Trong khi đó, các lĩnh vực như thực
phẩm, đồ uống, dệt may, hóa chất và một số ngành sản xuất, dịch vụ khác được dự báo hưởng lợi nhiều từ
việc Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP.
Thách thức CPTPP mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam
Dưới góc độ quản lý nhà nước, nhằm hoàn thiện thể chế pháp lý để thực thi được các cam kết trong Hiệp
định CPTPP theo đúng lộ trình, đời hỏi Chính phủ Việt Nam phải nhanh chóng ban hành kế hoạch của Chính
phủ về thực thi Hiệp định CPTPP. Từ đó, Chính phủ thúc đẩy tiến trình và phân công công việc cho các bộ,
ban, ngành trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó, các cam kết về dỡ bỏ hàng
rào thuế quan đồng nghĩa với việc nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu của Việt Nam sẽ giảm đi. Chính
phủ cần lưu tâm tới các khía cạnh về thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp. Về các
vấn đề xã hội, sự cạnh tranh trong quá trình hội nhập tuy giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực nhưng
đồng thời khiến các doanh nghiệp thiếu năng lực sẽ dần bị đào thải. Do vậy, vai trò của Chính phủ trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động là rất quan trọng. lOMoAR cPSD| 58794847
Dưới góc độ cạnh tranh kinh tế, mặc dù Việt Nam được hưởng lợi từ một số mặt hàng thế mạnh, nhưng có
những mặt hàng khác lại là thế mạnh của các quốc gia thành viên khác như một số loại nông sản (thịt gà, thịt
lợn) hay một số lĩnh vực công nghiệp (thép, ô tô). Đặc biệt đối với các đối tác từ châu Mỹ, khoảng cách địa
lý, sự khác biệt về ngôn ngữ, hạn chế về các tuyến vận tải hàng hóa, hành khách, thiếu thông tin thị trường
là những rào cản lớn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh với các quốc gia khác
9. Sự ra đời, các nguyên tắc, cơ hội và thách thức của ASEAN với các doanh nghiệp Việt Nam? Hiệp
hội các Quốc gia Đông Nam Á - ASEAN, được thành lập năm 1967 với mục đích tăng cường tình đoàn kết
và phòng chống tình trạng bạo động, bất ổn trong khu vực. Qua nhiều thời kỳ phát triển, ASEAN đưa ra ba
trụ cột quan trọng của tổ chức, bao gồm: an ninh, văn hóa xã hội, hội nhập kinh tế. Trong đó, hội nhập kinh
tế được thúc đẩy và chú trọng trong chương trình nghị sự xuyên suốt lịch sử của ASEAN. Cuối năm 2015,
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community - AEC) chính thức được thành lập. Tuy AEC
được thành lập vào cuối năm 2015, nhưng đây không phải là điểm bắt đầu, cũng không phải thời điểm hoàn
tất các công việc cho các cam kết về kinh tế của ASEAN, mà là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội
nhập kinh tế giữa các nước trong cộng đồng.
Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA - ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương
mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, tiến trình loại bỏ dần các hàng rào
thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước, thúc đẩy hội nhập
kinh tế với các quốc gia khác trong khu vực và quốc tế dần được thực hiện.
Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký kết vào năm 1992 tại
Singapore. Ban đầu chỉ có sáu nước là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (gọi
chung là ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam (gọi chung là CLMV) được yêu cầu
tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này. Hiện tại đây là một trong những khu vực thương mại tự do
lớn nhất thế giới. Mục đích của AFTA là nâng cao năng lực cạnh tranh của ASEAN với tư cách là một cơ sở
sản xuất trên thế giới, đồng thời tăng cường tính hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Khái niệm hội nhập kinh tế ASEAN lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1992 ở Singapore, tại Hiệp định khung
về Thúc đẩy hợp tác Kinh tế ASEAN, trong đó, nhấn mạnh vai trò của sự hợp tác đối với các lĩnh vực kinh
tế trọng yếu về: thương mại, công nghiệp, năng lượng và khoáng sản, tài chính và ngân hàng, thực phẩm,
nông nghiệp và lâm nghiệp, giao thông và truyền thông. Từ đó cho tới năm 1998, các Hiệp định và Hiệp định
khung về thương mại, dịch vụ, đầu tư lần lượt được ký kết. Các nhà lãnh đạo ASEAN lần đầu tuyên bố về
mục tiêu hình thành cộng đồng kinh tế chung trong khối ASEAN tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 9 vào
năm 2003. Đề hiện thực hóa mục tiêu nói trên, tại các Hội nghị Bộ trưởng và Hội nghị Thượng đỉnh tiếp
theo, kế hoạch tổng thể về việc xây dựng AEC được trình bày. Các nhà lãnh đạo cũng đã đồng ý đẩy nhanh
tiến độ thực hiện thay vì cột mốc Tầm nhìn ASEAN 2020 như ban đầu. Ngày 22/11/2015, tại Hội nghị thượng
đỉnh ASEAN lần thứ 27, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập AEC.
AEC được thành lập với bốn mục tiêu chính:
Thứ nhất, hình thành một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, thông qua tự do lưu chuyển hàng hóa,
dịch vụ, đầu tư, vốn, lao động có tay nghề. Trong đó, lĩnh vực hội nhập được ưu tiên là thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp;