lOMoARcPSD| 60794687
ĐỀ CƯƠNG HỌC PHẦN: MỸ HỌC
TS. Phan Thanh Sơn
Chương 1: Khái lược lịch sử các tư tưởng mỹ học
1.1. Các khuynh hướng mỹ học chủ yếu trong lịch sử mỹ học
1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa kinh nghiệm về cái thẩm mỹ
- Đại diện cho quan niệm này Etmun Berker (1729 1797) với tác phẩm: Nghiên
cứu triết học về nguồn gốc nhận thức của chúng ta về cái cao cả cái đẹp được
viết vào năm 1756. Theo ông, mỹ học một bộ phận của triết học thực nghiệm.
cái thẩm mỹ có nguồn gốc từ các giác quan tác ộng tới tâm lý của con người. Các
năng lực tưởng tượng, phán oán của con người đều gắn với các quy luật tâm sinh
tính cách. Tập quán cùng các diễn biến tình cảm đều là phản ánh tình cảm
thẩm mỹ.
Berker khẳng định, trong mỗi con người có 2 khát vọng không giống nhau: một là
khát vọng giao tế thông qua các giác quan tạo nên mỹ cảm và cái đẹp; hai khát
vọng tự bảo tồn tạo nên niềm vui và sự shãi, đóbản chất của tình cảm cao cả.
Với Berker, những ý niệm về cái đẹp cái cao cả khác nhau về nguyên tắc, không
thống nhất thành một cảm xúc duy nhất. i đẹp gắn với tính chất, bản chất của
sự vật hiện tượng, ôi khi các chi tiết, tiểu tiết như sự mịn màng của bề mặt,
uyển chuyển của cấu trúc…, không choáng ngợp mang lại tình cảm tích cực, cái
cao cả thì lại gắn liền với cái ặc trưng của bản chất, ôi khi trở nên dữ dội em lại
tình cảm tiêu cực.
Theo Berker, cái thẩm mỹ sản phẩm của quan hệ sinh học giữa các hiện
tượng tự nhiên cảm giác của các giác quan. Với ông, các giác quan của con
người không biến ộng, các hiện tượng tự nhiên cũng không vận ộng, do đó cái
thẩm mỹ không mang bản chất xã hội: dân tộc, giai cấp và thời ại.
1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan về cái đẹp.
lOMoARcPSD| 60794687
Đại diện cho quan niệm này là Kant (1724 – 1804), người sáng lập nền triết học cổ
iển Đức.
Trong triết học của Kant, khoa học về cái thẩm mỹ khoa học hoàn thiện hệ
thống triết học trong quá trình nghiên cứu bộ ba giá trị chân, thiện, mỹ. Theo
ông, cái đẹp không tồn tại ở ngoài đời sống, nó quá trình mỗi người tìm ra tình
cảm của mình thôi. Với ông, mỹ học năng lực phán oán, khoa học phán
oán thị hiếu: “vấn chủ yếu không phải cái đẹp phán oán về cái đẹp
gì. Vấn ề không phải ặc trưng của đồ vật đẹp và quy tắc sản xuất ra cái đẹp ấy mà
là hoạt ộng của ý thức về cái đẹp”.
Kant cho cái đẹp tình cảm khoan khoái vô tư, không vụ lợi trực tiếp, không do
đối tượng tác ộng vào, có tính nhân tvận ộng. Trong tác phẩm “Phê phán
năng lực phán oán”, Kant nghiên cứu các phán oán thị hiếu về cái đẹp, cái cao cả,
về tài năng thiên tài, nghệ thuật lao ộng và nghệ thuật trò chơi ưa ra các kết luận
về cái thẩm mỹ thuần túy chủ quan, bởi theo ông bản chất của cái thẩm mỹ
không liên hệ với các hiện tượng khách quan.
1.1.3. Quan niệm duy tâm khách quan về cái thẩm mỹ
Đại diện cho quan niệm này là Platon và Hegel
. Platôn (427-347 Tr. CN) tư tưởng mỹ học Platon coi:
- cái đẹp một ý niệm. Cái đẹp một ý niệm chung được “thâm nhập”
vào các hiện tương cụ thể trở thành vật đẹp. Trong Phê re, Platon đã cho
rằng cái đẹp có tính vĩnh cửu trong mọi thời gian, mọi ịa điểm, mọi ý nghĩa bởi vì
nó là một ý niệm chứ không phải là một vật cụ thể.
Trong cuốn Nhà nước tưởng, Platon đã cho rằng: nếu nghệ thuật bắt chước cái
tự nhiên là bắt chước cái không bản chất, bởi vì giới tự nhiên chỉ là cái vẻ bề ngoài
của thế giới chân thật. Cái bản chất thật sự của thế giới ý niệm. Nếu nghệ thuật
bắt chước cái tự nhiên là bắt chước cái bóng của ý niệm thì nghệ thuật ấy chỉ là cái
bóng của cái bóng. Ông viết: “Không thể dung nạp thơ ca nào tính bắt chước
(vào Nhà nước tưởng). Theo tôi tất yếu phải loại trừ một cách tuyệt đối tca đó
là một việc ương nhiên”. Platon dùng lý luận bắt chước của tư duy nghệ thuật cổ ại
lOMoARcPSD| 60794687
để chứng minh cho tính non yếu, tính phiến diện, tính “một hình tượng không
phải là cái bao trùm của nghệ thuật”.
- Lấy tưởng cái đẹp là một ý niệm làm nền tảng, Platon ề ra học thuyết linh
cảm trong sáng tạo nghệ thuật.
Trong tác phẩm đối thoại Ion, Platon cho rằng nhà nghệ không tri thức thật
đối với sự vật được miêu tả, sáng tạo nghệ thuật chủ yếu dựa vào linh cảm. Học
thuyết linh cảm của Platon cho rằng, sáng tạo thơ là không có tính người, nó do
thần nhập. “Những bài thơ hay, thơ đẹp không tính người, không phải tác
phẩm của con người, chúng tính thần thánh do thần làm ra. Các nhà thơ không
phải cái gì khác hơn là người phát ngôn cho thần thánh. Mỗi nhà thơ là vật sở hữu
của một vị thần mà ông ta chịu ảnh hưởng. Chính để chứng minh điều này mà thần
đã cố ý đặt bài thơ tình hay nhất vào miệng nhà thơ tồi nhất”.
Theo Platon, “sáng tác” nghệ thuật không phải một thứ kỹ nghệ một thứ
linh cảm, do một loại thần lực làm phấn chấn giống như điều xảy ra đối với hòn á
nam châm mọi người thường gọi hêracle. Hòn á đó không chỉ hút các vòng
sắt còn truyền sức hút cho các vòng sắt. Nữ thần thơ ca cũng giống như hòn á
nam châm, nàng truyền linh cảm cho một số người rồi tiếp tục truyền tạo thành một
vòng xích.
Platon chia linh cảm làm hai trạng thái:
- Trạng thái bệnh tật.
- Trạng thái thần nhập.
Do thần nhập mà có thần lực. Sáng tạo nghệ thuật là một sự thần nhập tạo ra thần
lực.
Platon đã coi nghệ thuật phản ánh cuộc sống, nhưng ông không phủ nhận tác dụng
của nghệ thuật. Trái lại, thấy ảnh hưởng quá to lớn của nghệ thuật “bắt chước”
nên ông đã bỏ rất nhiều công sức tìm cách hợp pháp để đuổi các nhà thơ ra khỏi
nước cộng hòa tưởng sau khi đội lên ầu họ vòng nguyệt quế. Platon hiểu rất
tác dụng to lớn của giáo dục nghệ thuật trong việc hình thành tính cách công dân.
Trong học thuyết của mình, Platon yêu cầu trước khi học thể dục, quân sự, khoa
học, triết học, mỗi công dân trong “nhà nước tưởng” phải tiếp thu âm nhạc và
cần chế độ kiểm tra nghệ thuật. Trước hết, nghệ thuật phải phù hợp với cương
lĩnh đạo đức chính trị của nhà nước lý tưởng. Platon đã công kích Hômêre
lOMoARcPSD| 60794687
Hêdiôt khi các tác phẩm của các ông này mô tả các thần có tính ghen tuông, ti tiện,
ham mê sắc đẹp và vì sắc đẹp, vì tình dục đã tranh giành nhau.
Hegel (1770 1831). Hegel cho rằng cái thẩm mỹ tồn tại tập trung lĩnh
vực nghệ thuật. Theo ông cái đẹp của tự nhiên nhưng nó nghèo nàn, không a
dạng không lâu bền. Chỉ cái đẹp trong nghệ thuật mới cái thẩm mỹ
chân chính bởi biểu hiện của ý niệm tưởng thể hiện trong hình
tượng nghệ thuật, do đó nó cao hơn cái thẩm mỹ tự nhiên ngoài cuộc sống.
Với Hegel, cái thẩm mỹ trong nghệ thuật được hình thành từ việc con người đối
tượng hóa bản thân chủ thể hóa cái bên ngoài, ây là tiềncho quan điểm thực
tiễn, quan điểm lao ộng vcái thẩm mỹ ông ang nghiên cứu. Ông ưa ra quan
điểm rằng, cái đẹp, cái hài, cái cao cả được vận ộng theo sự vận ộng của ý niệm
trong lĩnh vực nghệ thuật. Qua nghiên cứu về nghệ thuật tcác tình huống đến bản
chất của nghệ thuật cũng như năng lực sáng tạo của nghệ sỹ, Hegel coi cái thẩm
mỹ là thuộc tính của lý tưởng.
1.1.4. Khuynh hướng duy vật thế kỷ XIX về cái thẩm mỹ
Các nhà mỹ học theo khuynh hướng duy vật trước Mác khẳng định cái thẩm mỹ
tồn tại ngay trong đời sống. Thời cổ ại có Aristote (384-322 Tr. CN) và sau này có
nhà mỹ học dân chủ cách mạng Nga Tsecnusepxki (1828 – 1889).
a. Aristote (384-322 Tr. CN) là học trò của Platon, nhưng thực chất hệ thống m
học của Aristote khác về cơ bản với hệ thống mỹ học của Platon. Arixtốt tuyên
bố rằng: “Đối với tôi, cả Platon và chân lý đều quý giá, nhưng vì sự thật,
tôi yêu chân lý hơn”.
Hệ thống mỹ học của Aristote được thể hiện qua một số luận điểm như sau:
Aristote coi cái đẹp là một thực thể vật chất bao gồm trật tự, tỷ lệ, kích thước
và sự cảm nhận. Trong tác phẩm nổi tiếng Nghệ thuật thơ ca, ông viết: “Cái đẹp -
kể cả ộng vật hay bất kỳ đồ vật gì gồm những phần nhất định hợp thành, nó không
những cần sự sắp xếp còn một kích thước nhất định. Cái đẹp trong
kích thước và trật tự, do đó, một vật quá không thể trở thành đẹp, thoắt nhìn
đã qua, không kịp thu nhận; một vật quá lớn cũng không thể trở thành đẹp, vì một
lúc không thể nhìn bao quát vật đó ngay được, tính nhất trí tính hoàn chỉnh bị
mất đi bởi người nhận nó". Như vậy, theo Aristote cái đẹp không nằm ngoài sự vật,
lOMoARcPSD| 60794687
không nằm ngoài kích thước, tỷ lệ, trật tự, scân đối khả năng cảm nhận
trong tính hoàn chỉnh. Quan niệm này tiếp cận gần với ường lối tả hiện thực của
Đêmôcrít.
Aristote viết rằng: “Sử thi, bi kịch cũng như hài kịch và thơ ca ca tụng tửu thần, ại
bộ phận nhạc sáo, nhạc đàn lục huyền - tất cả những cái đó nói chung những nghệ
thuật bắt chước. Bắt chước dường như có hai nguyên nhân, hơn nữa là hai nguyên
nhân tự nhiên đãm nảy sinh ra nghệ thuật thơ ca. Thứ nhất sự bắt chước vốn sẵn
con người từ thủa nhỏ con người khác với ộng vật chỗ họ tài bắt
chước”.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng, thực tại khách quan là tồn tại ộc lập với ý
thức và ý thức sự phản ánh thực tại khách quan, Aristote coi nghệ thuật
sản phẩm của sự tái hiện của con người. Nghệ thuật khi “bắt chước” đời sống thì
đồng thời cung cấp cho con người bức tranh chân thực về hiện thực mang
đến cho con người những thỏa mãn về nhu cầu thẩm mỹ. Theo Aristote thì mọi
nghệ thuật đều bắt chước, nhưng mỗi loại nghệ thuật cách bắt chước khác
nhau mang lại cách thụ cảm thẩm mỹ khác nhau cho con người. Chúng khác
nhau bởi vì: đối tượng bắt chước khác nhau, bắt chước bằng phương thức loại
hình dùng để bắt chước khác nhau (nhất âm nhạc, hội họa, thi ca, kiến trúc); mục
ích của sự bắt chước cũng khác nhau. Tuy vậy các loại hình nghệ thuật cùng mục
ích chung là nhằm khẳng định cái gì và phủ định cái gì.
b. Tsecnusepxki (1828 – 1889).
Nhìn thấy sự tiêu cực trong quan niệm của triết học tinh thần Heghen ảnh hưởng
tới tthức Nga, Tsecnusepxki khẳng định cái thẩm mỹ không phải thuộc nh
vốn có của ý niệm mà nó là thuộc tính của đời sống, cái thẩm mỹ là những cái
đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài trong đời sống con người. Cái đẹp tạo ra cho con
người cảm giác hoan hỉ, trong sáng. Tsecnusepxki cho rằng: “cái đẹp là cuộc sống.
Một thực thể đẹp một thực thể trong đó ta nhìn thấy cuộc sống úng như
quan niệm của chúng ta; một đối tượng đẹp đối tượng trong đó cuộc sống
được thể hiện hay là nó nhắc ta nghĩ tới cuộc sống”. Những thuộc tính khác của
cái đẹp như cái cao cả, không phải tinh thần hạn cũng tồn tại ngay trong
cuộc sống, “vấn chỉ hiện tượng cao cả hiện tượng mạnh hơn những hiện
lOMoARcPSD| 60794687
tượng khác ta em so sánh”. Cái thẩm mỹ trong tưởng mỹ học của
Tsecnusepxki cái bi. Đối lập với quan niệm về bản chất của cái bisự xung ột
giữa đạo đức cộng ộng đạo đức luật pháp của Hegel, Tsecnusepxki cho rằng
không phải xung ột nào cũng dẫn đến bi kịch, theo ông, “bi kịch tồn tại ngay trong
cuộc sống, nỗi au khổ hay cái chết của người ta. Cái bi kịch cái khủng
khiếp trong đời người”. Với ông cái hài cũng tồn tại trong cuộc sống thẩm mỹ của
con người, nó không chỉ đối lập với cái cao cả mà còn đối lập với cái đẹp, “cái hiển
nhiên là hài hước, nó là mặt đối lập với cái đẹp”.
Cái thẩm mỹ trong nghệ thuật là sự tái hiện cái thẩm mỹ trong hiện thực. Nếu Hegel
coi cái thẩm mỹ trong nghệ thuật cao hơn cái thẩm mỹ trong cuộc sống thì
Tsecnusepxki khẳng định cái thẩm mỹ trong cuộc sống cao hơn cái thẩm mỹ
trong nghệ thuật, mọi cái thuộc thẩm mỹ tái hiện trong nghệ thuật chỉ
những chi tiết ấn tượng trong cuộc sống.
1.2. Một số tưởng mỹ học ngoài Mác xít trong nghiên cứu khoa học triết
học, mỹ học ở Việt Nam.
1.2.1. Các tư tưởng mỹ học ngoài Mác xít
a. Tư tưởng triết học duy tâm, siêu hình, phi lý tính của Arthur Schopenhawer
(1788- 1860).
Arthur Schopenhawer người đã nhiều năm nghiên cứu về tư tưởng triết học
Platon và Kant, có nhiều quan điểm đồng thuận với Goethe và bất đồng chính kiến
với Hegel, mang tưởng triết học duy tâm, siêu hình, phi tính. Theo đó, ta
được nhận thức quan điểm mỹ học của ông bằng nhận định bi kịch của bản
thân qua những phương diện khác nhau. Schopenhawer cho rằng: “Mặc dù nội
dung cơ bản của những bi kịch chính thống từ trước đến nay thường nói về ý nghĩa
của những bất hạnh thống khổ thường xuyên của con người, nhưng chúng đã
được thể hiện dưới nhãn quan khác nhau.
Trước hết, nỗi bất hạnh thường xuyên của con người đều do những kẻ xấu
xa trong xã hội gây ra liên tục”.
Với ông, bất hạnh đó gắn liền với khái niệm “dục vọng” theo triết Phật giáo,
và ây là loại bất hạnh xấu xa nhất trong bi kịch của cuộc sống. Từ góc độ này, ông
nhận định rằng, ý nghĩa chân chính của bi kịch một loại nhận thức sâu sắc, đó
lOMoARcPSD| 60794687
không phải tội lỗi riêng vốn “tội lỗi nguyên sinh” do ấu tranh để sinh
tồn, nhân vật phải gánh chịu. Qua những thiên bi kịch thời danh với nhân vật
cao thượng trong bi kịch phải luôn ấu tranh cho bản thân mình, để dành lấy một
nhận thức hoàn chỉnh về thế giới quan. Và cuối cùng đi đến kết luận về ý nghĩa bi
quan trong cuộc sống.
Với Schopenhawer, loại bi kịch mà ông nghiên cứu dưới nhiều dạng thức khác
nhau, với những giá trị ý nghĩa khác nhau, để từ đó khẳng định, mọi ý nguyện
đều xuất phát từ dục vọng, dù ở hình thức nào thì đóng là nguồn gốc của mọi au
khổ trên đời. Con người phải biết hạn chế những ham muốn dục vọng, bởi trong
cuộc sống, không sự thành tựu nào thể mang lại cho chúng ta một thỏa nguyện
viên mãn cả. Tất cả chỉ là sự thỏa mãn nhất thời, tạm bợ, ôi khi là sự lừa dối chính
bản thân mình. Với ông, mỗi một con người sống cùng nhau trong xã hội chẳng
khác cùng đi trên một chiếc thuyền giữa biển khơi, nơi mà giông tố nổi lên bất kể
lúc nào. Nếu cứ trách cứ, hành hlẫn nhau thì đó điều thiếu khôn ngoan nhất.
Không gì bằng sự độ lượng lòng từ tâm trong những cơn biến loạn. “Chỉ có lòng
từ tâm, bác ái, khoan dung, mới thực sự hành vi công tự nguyện trong cách
ứng xử. Khi con người biết sử dụng lòng từ tâm đối với kẻ nào khác, khi đó không
còn hố ngăn cách kẻ nọ, người kia nữa”
1
b. Quan điểm mỹ học của Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844- 1900)
Friedrich Wilhelm Nietzsche xây dựng quan điểm mỹ học của mình trên
sở đạo đức. Hệ thống lý luận mỹ học của ông được tập trung trong tác phẩm “Sự
ra đời của bi kịch” với chủ trương “Cái đẹp của sinh mệnh con người cần phải được
nâng cao lên hơn”. Nietzsche “phản đối mãnh liệt cái đẹp tự tại” trong mỹ học cổ
iển. Ông cho rằng “nếu kẻ nào ý đồ tách khỏi niềm vui của con người, để suy
tưởng về cái đẹp, tức đã ánh mất căn cứ và chỗ ứng của nó. Cái đẹp tự tại theo
nghĩa này, chỉ là câu nói trống rỗng, huyễn hoặc. Trong cái đẹp, con người thường
nâng mình lên thành thước đo của sự hoàn mỹ..... và chính họ đã quên bản thân là
nguyên nhân của cái đẹp”. Với cách đó, ông khẳng định trong vạn vật không hề có
cái đẹp nào cả, chcon người tự thân” mới là cái đẹp ích thực theo úng
1
Lê Trung Kiên, Những vấn ề mỹ học ương ại. Đề tài cấp cơ sở năm 2010. Viện Văn hóa và phát triển.
lOMoARcPSD| 60794687
nghĩa của một nguyên lý căn bản của nền mỹ học, ây là chân lý thứ nhất. Chân
lý này được dùng để chống lại mọi thứ mỹ học thiên về tính do Aristote ề xướng
chế ngự nhiều thế kỷ tiếp sau. Trên sở cái đẹp “tự thân” của con người,
Nietzsche cho rằng: phải ánh giá lại một cách chính xác giá trị khen chê của những
người đi trước, họ đã không nắm vững nguyên tắc thưởng ngoạn. Đây được xem
như chân thứ hai để phân biệt với quan điểm mỹ học “phi tính” của
Schopenhauer. Ông tuyên bố rằng, những giới thưởng ngoạn kiểu thời thượng
ưa ra mang tính áp chế với những thứ được cho thiện, ác, xấu, đẹp, cao cả, phi
đạo đức... tất cả chỉ do tâm cách khác nhau của mỗi người chứ không hề tồn
tại trong bản thân của sự vật.
Trong toàn bộ suy luận mỹ học của mình, Nietzsche đã nêu lên một hệ thống
tiêu chuẩn trong nhận thức để ánh giá làm nền tảng cho tưởng mỹ học
của mình với ba tiêu chí:
Một , phải nhận thức rõ, cái đẹp chân chính của svật thuộc vào phạm trù
sinh học nói chung. Đó cái hữu dụng, hữu ích, ề cao sinh mệnh, thăng hoa cuộc
sống, để xây dựng nhận thức chân chính cho chính mình.
Hai , phải giữ một tâm cảnh chân chính, trung thực thì mới thưởng thức được
giá trị của sự vật. “Cái đẹp” như thông thường vẫn dùng để ánh giá hay gọi tên sự
vật trong một tâm cảnh nào đó như một thành kiến giá trị. Để thấy được chân
giá trị thưởng ngoạn, con người cần phải thoát ly khỏi thành kiến đó.
Ba là, cái đẹp sinh ra từ sự hiểu biết của con người, và con người là trung tâm
của cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả. Tđó con người mới cảm thấy hạnh
phúc trong thưởng ngoạn cách nhìn thế giới khác hơn với cung cách phê phán
từ trước. Đây là chân giá trị của mỹ học.
c. Quan điểm mỹ học của Benedetto Croce (1866- 1952).
Benedetto Croce học giả tiêu biểu nhất cho trường phái biểu hiện, một
khuynh hướng mỹ học và lý luận nghệ thuật thế kỷ XIX, khởi ầu cho sự phát triển
chủ nghĩa biểu hiện ở thế kỷ XX. Về tưởng, tuy được xếp vào hàng ngũ theo chủ
trương “Hegel mới”, nhưng Croce lại thiên về duy tâm chủ quan, gần gũi với chủ
lOMoARcPSD| 60794687
trương của Kant. Trên phương diện mỹ học, ông chịu ảnh hưởng phát triển thuyết
“Tư duy hình tượng” của nhà mỹ học người Ý, Battista Govanni Vico để xây dựng
cơ cấu của “Trường phái trực giác” hay còn gọi là Tân biểu hiện.
Croce khẳng định: “Nghệ thuật không phải là một sự thực vật ”, chỉ “ý
tưởng cá biệt” sinh ra từ trực giác của con người các thể, với tính cách là một
hoạt ộng tâm linh thuần túy, đó mới cái đẹp, nghệ thuật chân chính, cái
đẹp khách quan trong tự nhiên cũng không thể có được. Với ông, nghệ thuật là
một dạng thức của sự tưởng tượng, cái “trực giác” chính là sự “biểu hiện”. ông cho
rằng, chỉ khi con người, bằng con mắt duy của nghệ sỹ để soi chiếu, để hiểu
sự vật thì thiên nhiên mới hiện vẻ đẹp”.
Croce phân biệt giá trị của hai phạm tthưởng thức phê bình. Ông phản
đối khái niệm “ý niệm” trong mỹ học cổ iển Đức trong những “phê phán giáo điều
trước đó, kể cả trong quan điểm mỹ học của Kant, Hegel hay Schiller. Với ông,
thưởng thức là biểu hiện thuần túy của trực giác còn phê bình là hoạt ộng của khái
niệm được chắt lọc qua ý thức, so sánh, phân biệt.
Bên cạnh các tư tưởng mỹ học kể trên, Việt Nam, những khuynh hướng triết
học hiện sinh cũng nội dung được các nhà nghiên cứu mỹ học Việt Nam quan
tâm. Trong các nghiên cứu của mình, GS, TS Đỗ Huy cũng đã cập đến các trào
lưu, khuynh hướng mỹ học hiện sinh Pháp trong thế kỷ XX với những vấn nhân
sinh được khái quát trong hai chủ lớn bản thể luận nhận thức luận với ba
khuynh hướng cơ bản là: hiện sinh tôn giáo của Gabriel Marcel; hiện sinh tính dục
của Merleau Ponty; hiện sinh vô thần của Sartre và Camus.
1.2.2. Những trường phái mới về mỹ học ngoài Mác xít
Cùng với sphát triển của khoa học, với kinh nghiệm xây dựng hệ thống, với sự
phát triển của trí tuệ nhân, chủ nghĩa phi duy đã xuất hiện để đối lập với
chủ nghĩa duy lý mỹ học.
lOMoARcPSD| 60794687
- Mỹ học của Giắc Maritanh về nhận thức tín ngưỡng, khoa học tôn giáo,
đạo đức nghệ thuật phản ánh nhiều vấn tâm linh của con người trong một hệ
tư tưởng công nghiệp
- Mỹ học của chủ nghĩa thực dụng xuất hiện từ mối quan hệ liên tục giữa chủ
thể thẩm mỹ và khách thể thẩm mỹ.
Chủ nghĩa thực dụng âm mưu ánh đồng cái thẩm mvới cái phi thẩm mỹ. Các ranh
giới giữa cái đẹp và cái xấu, cái bi và cái hài, cái cao cả và cái thấp hèn, cái hài hòa
không hài hòa bị phá vỡ trong mỹ học của chủ nghĩa thực dụng. Cái xấu, cái
khủng khiếp, cái ê tiện được mỹ học thực dụng nâng lên thành những giá trị thẩm
mỹ.
- Mỹ học hiện sinh ra đời có tham vọng trả lời tất cả những vấn ề sinh học,
hội trên nền tảng Absur (phi lý).
Quan điểm hiện sinh về mỹ học là loại cảm giác phi lý của chủ thể. Thế giới là một
cảm giác xa lạ. sinh tồn của con người vừa là của mình vừa không của mình. Sinh
tồn ích thực sinh tồn trừu tượng. Họ cho thế giới phi lý. Tồn tại người phi
lý. Con người bị ném vào shỗn loạn đến phi của cuộc đời. Sự kinh hoàng, vô
vọng trạng thái thẩm mỹ thường xuyên con người. Mọi thứ đều “buồn nôn”.
cái đẹp đã ánh đồng với cái xấu. Cái bi bị tiêu diệt bởi cái chết. Các giá trị thẩm
mỹ, các chuẩn mực nền tảng đều bị ảo lộn.
- Mỹ học tiếp nhận (Reception theory), ra đời vào những năm 60 của thế kỉ 20
ở Đức gắn với nhân vật tiêu biểu là Hans Robert Jauss và Wolfwang Iser
Mỹ học tiếp nhận một khuynh hướng dung nạp trong rất nhiều loại
thuyết khác nhau, rất kđi đến khái quát “gọn gàng”, luôn nằm trong nhiều
luồng tranh luận, vì thế, tiếp nhận khuynh hướng thuyết này, và muốn ứng dụng
nó, các nhà nghiên cứu cần phải gia công, điều chỉnh, bổ sung.
- Mỹ học phân ch (Analytic esthetics):phương pháp lý giải những ặc tính
cơ bản của một sáng tác phẩm với từng chi tiết được phân tích ơn thuần hay những
liên hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng của triết học phân tích với hai phần cơ
bản: chủ nghĩ thực chứng logic (Logical positivism) sở triết học của trường
phái ngữ nghĩa học (Semantics).
lOMoARcPSD| 60794687
mỹ học phân tích đã giúp các nhà văn, nhà phê bình thận trọng hơn trong nghiên
cứu, sáng tác và ánh giá tác phẩm. Cho đến nay, mỹ học phân tích ngày càng được
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác nhau.
1.3. Mỹ học Mác - Lê nin
1.3.1. phạm vi nghiên cứu của mỹ học
Cho đến nay, lịch sử mỹ học của nhân loại đã hình thành năm hệ thống khác
nhau, chúng có đối tượng, phương pháp nghiên cứu và hệ thống các phạm trù, quy
luật khác nhau:
1. Hệ thống mỹ học của chủ nghĩa duy tâm khách quan xem xét đối tượng
nghiên cứu trung tâm là ý niệm và ý niệm tuyệt đối. Từ ý niệm này, các ại biểu của
chủ nghĩa duy tâm khách quan đã phản ánh trong hthống của mình những phương
diện nghiên cứu khác nhau.
2. Hệ thống mỹ học của chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi tưởng, tình
cảm, tâm lý là đối tượng quan trọng nhất của mỹ học.
3. Hệ thống mỹ học của chủ nghĩa duy vật trước Mác coi hiện thực cuộc
sống là đối tượng quan trọng nhất của mỹ học và nghệ thuật.
4. Hệ thống mỹ học mácxít đã tiếp thu khắc phục sự phiến diện của
ba hệ thống mỹ học trước đó trên sở quan điểm duy vật biện chứng, đã nghiên
cứu cả chủ thể thẩm mỹ, đối tượng thẩm mỹ và nghệ thuật.
5. Hệ thống mỹ học tư sản hiện ại gồm nhiều khuynh hướng khác nhau,
nhưng tựu trung duy phi duy mới, trong đó gồm rất nhiều phong cách,
trường phái và quan niệm mỹ học khác nhau.
Mỗi hệ thống mỹ học đều dựa trên nguyên xuất riêng. Với cách như một
khoa học ộc lập, mỹ học bao giờ cũng đối tượng riêng, phương pháp riêng và hệ
thống các khái niệm, phạm trù riêng.
Đối tượng của mỹ học không phải nhất thành bất biến. Mỹ học trước Mác có
hệ thống được giới hạn trong các tư tưởng triết học và nghệ thuật khác nhau.
- Mỹ học của chủ nghĩa duy tâm khách quan, ại biểu lớn nhất là Platon
và Hêghen.
- Mỹ học của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, ại biểu lớn nhất là Cantơ.
lOMoARcPSD| 60794687
- Mỹ học của chủ nghĩa duy vật, ại biểu lớn nhất Arixtốt
Tsécnưsépxki.
Ba hệ thống mỹ học này có ba hệ khái niệm phản ánh đối tượng khác nhau.
Nhìn tổng quát, mỹ học trước Mác ba loại quan niệm về đối tượng chính. Một
là, mỹ học nghiên cứu các tình cảm thẩm mỹ của con người diễn ra trước cuộc sống,
khi cảm thụ nghệ thuật, c sáng tác nghệ thuật. Hai là, mỹ học nghiên cứu bản thân
cuộc sống, xem xét nguồn gốc các hiện tượng thẩm mỹ diễn ra như thế nào, cái đẹp,
cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao thượng sẽ xuất hiện ra sao và mang những bản chất
gì? Ba là, mỹ học chuyên nghiên cứu nghệ thuật, cái đẹp nghệ thuật trên nền tảng
ý niệm và ý niệm tuyệt đối.
Mỹ học Mác - Lênin coi cái thẩm mỹ là mối quan hệ hợp thành bởi ba phương
diện: đối tượng trong quan hệ thẩm mỹ; chủ thể trong quan hệ thẩm mỹ; nghệ thuật
trong quan hthẩm mỹ. Như vậy, mỹ học Mác - Lênin nghiên cứu toàn diện các
quan hệ thẩm mỹ từ đối tượng đến chủ thể và nghệ thuật.
Là một bộ phận của triết học Mác- Lê nin, trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, mỹ học Mác- Lê nin nghiên cứu sự vận
ộng của các quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực, trong đó cái đẹp là
biểu hiện trung tâm, hình tượng là khâu cơ bản, nghệ thuật là biểu hiện tập trung
nhất.
Mặt khác, mỗi hình hội khác nhau luôn những quan niệm thẩm m
với các bộ phận chủ thể thẩm mỹ, đối tượng thẩm mỹ... khác nhau, mỹ học Mác-
nin nghiên cứu toàn diện các quan hthẩm mỹ từ đốiợng đến chủ thể và nghệ
thuật.
1.3.2. Kết cấu của mỹ học hiện ại
- Quan hệ thẩm mỹ.
Quan hthẩm mỹ là phạm trù nền tảng của khoa học mỹ học, nên người
gọi siêu phạm trù mỹ học. Nó chi phối mọi hoạt ộng, hiện tượng thẩm mỹ của
con người. Quan hệ thẩm mỹ bao chứa khách thể thẩm mỹ, phản ánh vào chủ thể
thẩm mỹ, hiện diện trong nghthuật. Quan hthẩm mỹ được mô hình hóa như sau:
lOMoARcPSD| 60794687
Quan hệ thẩm mỹ bao chứa quan hệ đối tượng thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ.
Chủ thể thẩm mỹ quan hệ tương tác tạo nên một quan hệ cao nhất của cái thẩm m
trong nghệ thuật. Chính vì điều đó mà Hêghen đã gọi hiện thực cao hơn tồn tại. Cái
đẹp của nghệ thuật cao hơn cái đẹp của tự nhiên. Quan hệ thẩm mỹ chứa ựng: cái
thẩm mỹ khách quan, cái thẩm mỹ chủ quan và cái thẩm mỹ nghệ thuật.
- Cái thẩm mỹ khách quan chính đối tượng thẩm mỹ.
Đối tượng thẩm mỹ bao gồm 5 phạm trù cơ bản: cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái
hài, cái cao cả.
- Cái thẩm mỹ chủ quan chính là chủ thể thẩm mỹ. Chủ thể thẩm
mỹ bao gồm các hoạt ộng thẩm mỹ của con người. Đó là các loại hoạt ộng:
thưởng thức, ánh giá, sáng tạo.
- Nghệ thuật.
Sự tương tác giữa chủ ththẩm mỹ đối tượng chủ thể thẩm mỹ đối
tượng thẩm mỹ tạo nên nghệ thuật. Cái thẩm mỹ trong nghệ thuật là biểu hiện tập
trung của cái thẩm mỹ chủ thể và cái thẩm mỹ trong cuộc sống. Cái thẩm mỹ trong
nghệ thuật biểu hiện ở cả người thưởng thức, người sáng tạo và bản thân tác phẩm
nghệ thuật. Cái thẩm mỹ trong nghệ thuật tồn tại dưới dạng tác phẩm nghệ thuật.
Kết cấu của phạm trù nghệ thuật trong mỹ học kết cấu của thế giới nghệ
thuật, bao gồm: sáng tạo nghệ thuật; cảm thụ nghệ thuật; tác phẩm nghệ thuật; quá
trình nghệ thuật; loại hình nghệ thuật; bản chất hội của nghệ thuật; ặc trưng nghệ
thuật và phê bình nghệ thuật.
1.3.3. Quan hệ giữa mỹ học với các khoa học khác
- Mỹ học là một khoa học triết học.
Các phạm trù mỹ học đều khái quát các quan hệ thẩm mỹ giữa con người và
hiện thực. Nó cũng gắn với sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng. Mỹ học
Quan hệ thẩm mỹ
Nghệ thuật
Đối tượng
Chủ thể
thẩm mỹ
lOMoARcPSD| 60794687
nghiên cứu tính quy luật chung của cái đẹp trong tự nhiên, trong cuộc sống, trong
tâm hồn và trong nghệ thuật.
Lịch sử các tư tưởng mỹ học gắn liền với lịch sử của triết học. Trong các hệ
thống triết học, mỹ học luôn luôn một bộ phận hợp thành. Mỹ học chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của triết học.
Các nhà triết học lớn đều xây dựng hệ thống mỹ học của mình trên ba trục:
Chân, Thiện, Mỹ. Dù là hệ thống triết học nào thì các nhà triết học cũng quan tâm
tới mặt này hay mặt khác của quan hệ thẩm mỹ.
- Mỹ học có quan hệ bản chất với đạo đức học.
Các phạm trù thiện, ác, lương tâm, danh dự, nghĩa vụ, ý nghĩa cuộc sống, nhu
cầu đạo đức, luân lý... có liên hệ mật thiết với các phạm trù mỹ học. Không thlàm
sáng tỏ các phạm trù cái đẹp, cái xấu của mỹ học nếu tách chúng khỏi việc giải
thích cái thiện, cái ác của đạo đức học.
Mỹ học có ảnh trở lại với đạo đức học. Cả hai khoa học này cùng khái quát
những hiện tượng đạo đức thẩm mỹ của cuộc sống. Chúng ường giáp ranh
khi bàn đến cái đẹp và cái xấu, cái cao cả và cái thấp hèn của con người. Mỗi phát
hiện của đạo đức học làm sâu sắc thêm những phạm trù của mỹ học và mỗi phát
hiện của mỹ học làm a dạng hóa các phạm trù của đạo đức học.
- Mỹ học cũng có quan hệ mật thiết với văn học và nghệ thuật
và là những phạm trù định hướng cho văn hóa học.
Khi xác định những nét ặc trưng của mỗi nền văn hóa, văn hóa thẩm mỹ bao
gồm cả văn hóa nghệ thuật luôn luôn quan tâm đến trình độ phát triển của con
người. Nếu văn hóa học coi trình độ người đối tượng trung tâm thì mỹ học không
tách rời quan hệ thẩm mỹ của con người. Văn học, nghệ thuật làm phong phú và cụ
thể hóa các tưởng mỹ học. Mỹ học giúp văn hóa nghệ thuật đi sâu phát hiện
bản chất các đối tượng mà chúng nghiên cứu, ặc biệt là các hệ thống giá trị.
- Quan hệ giữa mỹ học với tâm lý học và xã hội học
Mỹ học khoa học hội nhân văn, gắn liền với đời sống hội của con
người. Khi nghiên cứu các nhu cầu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ,
sáng tạo thẩm mỹ; mỹ học không thể xa rời tâm lý học và tách rời các nhóm xã hội
phản ánh. Tâm học hội học ắp những thiếu hụt của mỹ học khi
lOMoARcPSD| 60794687
nghiên cứu thế giới nghệ thuật. Ngược lại, mỹ học làm phong phú gợi mở các
hướng quan trọng cho xã hội học nghệ thuật và tâm lý sáng tạo. Mỹ học có thể chỉ
ra các con ường cho tâm lý sáng tạo bằng các ề nghị, khám phá các nơi liên tưởng,
tưởng tượng của ước mơ…
Chương 2: Bản chất quan hệ thẩm m
2.1. Khái niệm quan hệ thẩm m
2.1.1. Con người trong các quan hệ tự nhiên và xã hội.
- Con người có quan hệ với tính vật lý của thế giới.
thể con người trọng lượng tồn tại trong không gian thời gian.
mối liên hệ với các vật thể vật lý khác và con người bị chi phối bởi quy luật vạn vật
hấp dẫn, quy luật quán tính, quy luật dẫn nhiệt, chuyển hóa bảo toàn năng
lOMoARcPSD| 60794687
lượng... Con người là một thực thể sống ộng, là một sinh vật, vì thế con người còn
có quan hệ sinh học. Có thể tìm thấy trong mối quan hệ của con người với các sinh
vật khác trong hiện thực.
- Con người có quan hệ sinh học.
Con người là một ộng vật cao cấp, bị quy định bởi các quan hệ sinh học. Con
người phải trao ổi chất với môi trường để tồn tại. Các nhu cầu sinh thường xuyên
được lặp lại con người. Đối với con người, quan hệ sinh học quan hệ căn bản
cho cơ thể sống và nó như các cơ thể sống khác.
- Lao ộng sản xuất là ặc trưng riêng biệt của con người trong
thế giới hiện thực.
Con người có các nhu cầu ăn, ở, mặc, chiếm lĩnh đối tượng. Sự hoạt ộng của
các nhu cầu tạo ra các quan hthực dụng của con người đối với hiện thực. Các quan
hệ này phức tạp hơn các quan hệ vật lý.
Để thỏa mãn các nhu cầu vật lý, nhu cầu sinh học, con người đã không chỉ sử dụng
những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên mà còn tạo ra những vật phẩm để thỏa mãn
những nhu cầu của mình. Chúng ta gọi con người là ộng vật biết lao ộng sản xuất.
Lao ộng sản xuất là ặc trưng riêng biệt của con người trong thế giới hiện thực. Lao
ộng sản xuất đã tạo ra những sự vật mới để thỏa mãn nhu cầu của con người.
Mỹ học Mác - Lênin cho rằng, quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện
thực thể hiện tập trung ba lĩnh vực chính: lao ộng, học tập và sáng tạo; khám phá,
ánh giá; chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn.
Lao ộng, học tập và sáng tạo nguồn gốc của mọi quan hệ thẩm mỹ. Bằng
lao ộng của mình, con người đã phát hiện ra quan hệ thẩm mỹ với tự nhiên và làm
cho thiên nhiên giá trị thẩm mỹ chủ thể thực dụng người trở thành chủ thể
thẩm mỹ. Lao ộng sáng tạo ra giá trị mới theo quy luật của cái đẹp, trong đó sáng
tạo nghệ thuật biểu hiện tập trung của sáng tạo thẩm mỹ. Sáng tạo thẩm mỹ, sáng
tạo nghệ thuật là hoạt ộng mang bản chất người, mang tính chất biến ổi đối tượng,
tạo ra một sản phẩm thẩm mỹ mới chưa từng có trong tự nhiên.
2.1.2. Ý thức của con người
Ý thức một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng
vật chất mà chỉ thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc
lOMoARcPSD| 60794687
người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc
người, lấy phản ánh thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Thuộc
tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác ộng qua lại giữa các đối tượng vật
chất với nhau. Phản ánh là sự tái tạo những c điểm của một hệ thống vật chất này
hệ thống vật chất khác trong quá trình tác ộng qua lại của chúng. nin khẳng
định, phản ánh sự tái tạo những ặc điểm của một hệ thống vật chất này hệ thống
vật chất khác trong quá trình tác ộng qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh
phụ thuộc vào cả hai vật - vật tác ộng vật nhận tác ộng. Đồng thời, quá trình
phản ánh bao hàm quá trình thông tin:
hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy
sinh giai oạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của
con người. Ý thức ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách
rời con người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất - thuộc tính phản
ánh - phát triển thành. Ý thức ra đời kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản
ánh của vật chất, nội dung của thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được
phản ánh. Ý thức sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. Bộ óc
người là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức.
Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao ộng,
ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội,
nó phụ thuộc vào xã hội, và ngay từ ầu đã mang tính chất xã hội.
Quá trình hình thành ý thức không phải quá trình con người thu nhận
thụ ộng. Nhờ có lao ộng con người tác ộng vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng
phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận ộng của mình
thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác ộng vào bộ óc người.
Không có sự tác ộng của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó
đến bộ óc thì hoạt ộng ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác ộng lên bộ óc - đó
nguồn gốc tự nhiên của ý thức”.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao ộng nhờ lao ộng hình thành. là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức.
lOMoARcPSD| 60794687
Ngôn ngữ (tiếng nói chữ viết) vừa phương tiện giao tiếp đồng thời
công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát hóa, trừu tượng
hóa, mới có thể suy nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính.
Chủ nghĩa duy vật mácxít coi ý thức sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng ộng, sáng tạo. Ý thức hình thức hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Tính sáng tạo của ý thức thể tạo ra tri thức
mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế.
Ý thức sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song ây là sự
phản ánh ặc biệt - phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá trình ý
thức là quá trình thống nhất của ba mặt sau ây:
Một là, trao ổi thông tin giữa chủ thể đối tượng phản ánh. Sự trao ổi này
mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, hình hóa đối tượng trong duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất ây quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: hóa các
đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển hình ttư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình
hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt ộng thực tiễn biến cái quan niệm thành cái
thực tại, biến cái ý tưởng phi vật chất trong duy thành các dạng vật chất ngoài
hiện thực. Trong giai oạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện,
công cụ để tác ộng vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục ích của mình.
Điều đó càng nói lên tính năng ộng sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức ẻ ra vật chất. Sáng tạo của
ý thức sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản
ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức
không đối lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh, mà ngược lại thống nhất với phản ánh,
trên cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý
thức - trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội
của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng ộng, sáng tạo của bộ óc. Ý thức
không phải một hiện tượng tự nhiên thuần túy một hiện tượng hội. Ý
thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, phản ánh những quan hệ hội khách
quan. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “ngay từ ầu, ý thức đãmột sản phẩm
xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”.
lOMoARcPSD| 60794687
Hoạt ộng ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt ộng sinh lý thần kinh
của bộ óc người. Ý thức của con người rất phức tạp. yếu tố cấu thành như tri thức,
tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí... Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, là cốt lõi. Tri
thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới
khách quan. theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm các yếu
tố như tự ý thức (là ý thức của con người về những hành vi, những tình cảm,
tưởng, ộng cơ, lợi ích của mình, về ịa vị của mình trong xã hội.), tiềm thức (Tiềm
thức là những hoạt ộng tâm tự ộng diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể,
song lại liên quan trực tiếp đến các hoạt ộng tâm ang diễn ra dưới sự kiểm
soát của chủ thể ấy), vô thức (Vô thức là những hiện tượng tâm không phải do lý
trí điều khiển. Lĩnh vực vô thức là lĩnh vực các hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm
vi của lý tý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. )... Tất cả những
yếu tố đó cùng với những yếu tố khác quy định tính chất phong phú, phức tạp trong
thế giới tinh thần và hoạt ộng tinh thần của con người. Mối quan hệ qua lại của con
người với toàn bộ hiện thực là rất phức tạp. Lúc nào con người là một chủ thể thực
dụng, chủ thể vật , chủ thể sinh học, chủ thể thẩm mỹ do hoạt ộng thực tiễn của
con người quyết định. Có thnói Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên mà
một hiện tượng hội, bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - hội, phản ánh những
quan hệ hội khách quan
2.1.3. Đánh giá thẩm mỹ
Quan hệ thẩm mỹ còn được biểu hiện trong ánh giá thẩm mỹ. Đánh giá thẩm
mỹ phán oán về giá trị thẩm mỹ của khách thể, của tác phẩm đó đối với con
người, với hội. Đánh giá thẩm mỹ quá trình thẩm định mức độ phù hợp của
khách thể, của tác phẩm đối với tưởng thẩm mỹ, với những chuẩn mực, những
tiêu chí nhất định, những chuẩn mực, những tiêu chí này được t ra từ thực tiễn
hội và nghệ thuật. Đánh gthẩm mỹ là hoạt ộng phức tạp của quan hthẩm mỹ.
tổng hợp của các yếu tố như: đối tượng ánh giá, chủ thể ánh giá, sở ánh
giá và tính chất ánh giá.
- Đối tượng ánh giá
Đối tượng của hoạt ộng ánh giá ở ây là đời sống thẩm mỹ, trong đó có nghệ
thuật với tất cả tính ộc áo của nó. Nghệ thuật là sản phẩm ặc biệt của ssáng tạo
lOMoARcPSD| 60794687
là ỉnh cao của các giá trị thẩm mỹ. Hiện thực cuộc sống bao giờ cũng là cội nguồn
nội dung của nghệ thuật. Cái đẹp trong nghệ thuật trước hết là sự phản ánh cái đẹp
trong cuộc sống, nhưng trong nghệ thuật, cái đẹp của cuộc sống được thể hiện tập
trung hơn. Tác phẩm nghệ thuật chính là nơi hội tụ của cái đẹp, là ỉnh cao của quan
hệ thẩm mỹ của con người với thế giới.
- Chủ thể ánh g
Đánh giá thẩm mỹ cũng như mọi hoạt ộng ánh giá nói chung, chủ thể ánh giá
đều phải căn cứ vào những tiêu chuẩn nhất định, những tiêu chuẩn đó skhoa
học cho mọi hoạt ộng ánh giá. Do ặc điểm của sự ánh gthẩm mỹ sự thống nhất
giữa phương pháp phân tích khoa học và năng lực cảm thụ trực tiếp, cho nên trong
quá trình ánh giá thẩm mỹ, chủ thể vận dụng các tiêu chuẩn, mà các tiêu chuẩn này
gắn kết với nhau không phải theo một chế lôgíc nghiêm ngặt, cứng nhắc như
trong ánh giá khoa học.
Quan hệ thẩm mỹ trong ánh giá nghệ thuật có cơ sở khách quan bao gồm
chuẩn mực, những tiêu chí thẩm mỹ như: tính tư tưởng, tính nghệ thuật, tính iển
hình, tính ảng, chân lý nghệ thuật... Các tiêu chuẩn này liên kết với nhau tạo ra
một hệ thống tiêu chuẩn có khả năng vạch ra được giá trị của một hệ thống thẩm
mỹ cụ thể trong tính phong phú, muôn vẻ của nó. Đương nhiên, hệ thống các tiêu
chuẩn của sự ánh giá này không phải hoàn toàn cđịnh và cứng nhắc. Tùy theo
tính chất của khách thể thẩm mỹ, mà tiêu chuẩn này hay tiêu chuẩn khác được
nhấn mạnh trong quan hệ thẩm mỹ.
- Cơ sở và tính chất ánh giá.
Đánh giá thẩm mỹ không phải là ánh giá thuần túy lôgíc. Trong ánh giá thẩm
mỹ, những cảm xúc thẩm mỹ do tác ộng của đời sống tạo nên không thể thiếu
được. thể làm xuất phát điểm, hỗ trợ cho sự ánh giá. Tuyệt đối hóa mặt cảm tính
trong ánh giá thẩm mỹ, sẽ dẫn tới những sai lầm, phủ nhận những giá trị thẩm mỹ
khách quan, ích thực trong đời sống thẩm mỹ.
Quan hệ thẩm mỹ xuất hiện trong ánh giá thẩm mỹ sự thống nhất giữa tình
cảm trí, giữa kinh nghiệm nhân các chuẩn mực xã hội. Đánh giá thẩm
mỹ không chỉ là hoạt ộng riêng của thị hiếu thẩm mỹ, năng lực ánh giá thẩm mỹ
năng lực của toàn bộ thế giới tinh thần của con người, từ quan điểm, lý tưởng thẩm

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60794687
ĐỀ CƯƠNG HỌC PHẦN: MỸ HỌC TS. Phan Thanh Sơn
Chương 1: Khái lược lịch sử các tư tưởng mỹ học
1.1. Các khuynh hướng mỹ học chủ yếu trong lịch sử mỹ học
1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa kinh nghiệm về cái thẩm mỹ
- Đại diện cho quan niệm này là Etmun Berker (1729 – 1797) với tác phẩm: Nghiên
cứu triết học về nguồn gốc nhận thức của chúng ta về cái cao cả và cái đẹp được
viết vào năm 1756. Theo ông, mỹ học là một bộ phận của triết học thực nghiệm.
cái thẩm mỹ có nguồn gốc từ các giác quan tác ộng tới tâm lý của con người. Các
năng lực tưởng tượng, phán oán của con người đều gắn với các quy luật tâm sinh
lý và tính cách. Tập quán cùng các diễn biến tình cảm đều là phản ánh tình cảm thẩm mỹ.
Berker khẳng định, trong mỗi con người có 2 khát vọng không giống nhau: một là
khát vọng giao tế thông qua các giác quan tạo nên mỹ cảm và cái đẹp; hai là khát
vọng tự bảo tồn tạo nên niềm vui và sự sợ hãi, đó là bản chất của tình cảm cao cả.
Với Berker, những ý niệm về cái đẹp và cái cao cả khác nhau về nguyên tắc, không
thống nhất thành một cảm xúc duy nhất. Cái đẹp gắn với tính chất, bản chất của
sự vật hiện tượng, ôi khi là các chi tiết, tiểu tiết như sự mịn màng của bề mặt,
uyển chuyển của cấu trúc…, không choáng ngợp mang lại tình cảm tích cực, cái
cao cả thì lại gắn liền với cái ặc trưng của bản chất, ôi khi trở nên dữ dội em lại tình cảm tiêu cực.
Theo Berker, cái thẩm mỹ là sản phẩm của quan hệ sinh học giữa các hiện
tượng tự nhiên và cảm giác của các giác quan. Với ông, các giác quan của con
người không biến ộng, các hiện tượng tự nhiên cũng không vận ộng, do đó cái
thẩm mỹ không mang bản chất xã hội: dân tộc, giai cấp và thời ại.
1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan về cái đẹp. lOMoAR cPSD| 60794687
Đại diện cho quan niệm này là Kant (1724 – 1804), người sáng lập nền triết học cổ iển Đức.
Trong triết học của Kant, khoa học về cái thẩm mỹ là khoa học hoàn thiện hệ
thống triết học trong quá trình nghiên cứu bộ ba giá trị chân, thiện, mỹ. Theo
ông, cái đẹp không tồn tại ở ngoài đời sống, nó là quá trình mỗi người tìm ra tình
cảm của mình mà thôi. Với ông, mỹ học là năng lực phán oán, là khoa học phán
oán thị hiếu: “vấn ề chủ yếu không phải cái đẹp là gì mà phán oán về cái đẹp là
gì. Vấn ề không phải ặc trưng của đồ vật đẹp và quy tắc sản xuất ra cái đẹp ấy mà
là hoạt ộng của ý thức về cái đẹp”.
Kant cho cái đẹp là tình cảm khoan khoái vô tư, không vụ lợi trực tiếp, không do
đối tượng tác ộng vào, có tính cá nhân và tự vận ộng. Trong tác phẩm “Phê phán
năng lực phán oán”, Kant nghiên cứu các phán oán thị hiếu về cái đẹp, cái cao cả,
về tài năng thiên tài, nghệ thuật lao ộng và nghệ thuật trò chơi và ưa ra các kết luận
về cái thẩm mỹ thuần túy chủ quan, bởi theo ông bản chất của cái thẩm mỹ
không liên hệ với các hiện tượng khách quan.
1.1.3. Quan niệm duy tâm khách quan về cái thẩm mỹ
Đại diện cho quan niệm này là Platon và Hegel
. Platôn (427-347 Tr. CN) tư tưởng mỹ học Platon coi: -
cái đẹp là một ý niệm. Cái đẹp là một ý niệm chung được “thâm nhập”
vào các hiện tương cụ thể mà trở thành vật đẹp. Trong Phê re, Platon đã cho
rằng cái đẹp có tính vĩnh cửu trong mọi thời gian, mọi ịa điểm, mọi ý nghĩa bởi vì
nó là một ý niệm chứ không phải là một vật cụ thể.
Trong cuốn Nhà nước lý tưởng, Platon đã cho rằng: nếu nghệ thuật bắt chước cái
tự nhiên là bắt chước cái không bản chất, bởi vì giới tự nhiên chỉ là cái vẻ bề ngoài
của thế giới chân thật. Cái bản chất thật sự của thế giới là ý niệm. Nếu nghệ thuật
bắt chước cái tự nhiên là bắt chước cái bóng của ý niệm thì nghệ thuật ấy chỉ là cái
bóng của cái bóng. Ông viết: “Không thể dung nạp thơ ca nào có tính bắt chước
(vào Nhà nước lý tưởng). Theo tôi tất yếu phải loại trừ một cách tuyệt đối thơ ca đó
là một việc ương nhiên”. Platon dùng lý luận bắt chước của tư duy nghệ thuật cổ ại lOMoAR cPSD| 60794687
để chứng minh cho tính non yếu, tính phiến diện, tính “một hình tượng mà không
phải là cái bao trùm của nghệ thuật”. -
Lấy tư tưởng cái đẹp là một ý niệm làm nền tảng, Platon ề ra học thuyết linh
cảm trong sáng tạo nghệ thuật.
Trong tác phẩm đối thoại Ion, Platon cho rằng nhà nghệ sĩ không có tri thức thật
đối với sự vật được miêu tả, sáng tạo nghệ thuật chủ yếu dựa vào linh cảm. Học
thuyết linh cảm của Platon cho rằng, sáng tạo thơ là không có tính người, nó là do
thần nhập. “Những bài thơ hay, thơ đẹp không có tính người, không phải là tác
phẩm của con người, chúng có tính thần thánh và do thần làm ra. Các nhà thơ không
phải cái gì khác hơn là người phát ngôn cho thần thánh. Mỗi nhà thơ là vật sở hữu
của một vị thần mà ông ta chịu ảnh hưởng. Chính để chứng minh điều này mà thần
đã cố ý đặt bài thơ tình hay nhất vào miệng nhà thơ tồi nhất”.
Theo Platon, “sáng tác” nghệ thuật không phải là một thứ kỹ nghệ mà là một thứ
linh cảm, do một loại thần lực làm phấn chấn giống như điều xảy ra đối với hòn á
nam châm mà mọi người thường gọi là hêracle. Hòn á đó không chỉ hút các vòng
sắt mà còn truyền sức hút cho các vòng sắt. Nữ thần thơ ca cũng giống như hòn á
nam châm, nàng truyền linh cảm cho một số người rồi tiếp tục truyền tạo thành một vòng xích.
Platon chia linh cảm làm hai trạng thái: - Trạng thái bệnh tật. - Trạng thái thần nhập.
Do thần nhập mà có thần lực. Sáng tạo nghệ thuật là một sự thần nhập tạo ra thần lực.
Platon đã coi nghệ thuật phản ánh cuộc sống, nhưng ông không phủ nhận tác dụng
của nghệ thuật. Trái lại, vì thấy ảnh hưởng quá to lớn của nghệ thuật “bắt chước”
nên ông đã bỏ rất nhiều công sức tìm cách hợp pháp để đuổi các nhà thơ ra khỏi
nước cộng hòa lý tưởng sau khi đội lên ầu họ vòng nguyệt quế. Platon hiểu rất rõ
tác dụng to lớn của giáo dục nghệ thuật trong việc hình thành tính cách công dân.
Trong học thuyết của mình, Platon yêu cầu trước khi học thể dục, quân sự, khoa
học, triết học, mỗi công dân trong “nhà nước lý tưởng” phải tiếp thu âm nhạc và
cần có chế độ kiểm tra nghệ thuật. Trước hết, nghệ thuật phải phù hợp với cương
lĩnh đạo đức và chính trị của nhà nước lý tưởng. Platon đã công kích Hômêre và lOMoAR cPSD| 60794687
Hêdiôt khi các tác phẩm của các ông này mô tả các thần có tính ghen tuông, ti tiện,
ham mê sắc đẹp và vì sắc đẹp, vì tình dục đã tranh giành nhau.
là Hegel (1770 – 1831). Hegel cho rằng cái thẩm mỹ tồn tại tập trung ở lĩnh
vực nghệ thuật. Theo ông có cái đẹp của tự nhiên nhưng nó nghèo nàn, không a
dạng và không lâu bền. Chỉ có cái đẹp trong nghệ thuật mới là cái thẩm mỹ
chân chính bởi nó là biểu hiện của ý niệm và lý tưởng thể hiện trong hình
tượng nghệ thuật, do đó nó cao hơn cái thẩm mỹ tự nhiên ngoài cuộc sống.
Với Hegel, cái thẩm mỹ trong nghệ thuật được hình thành từ việc con người đối
tượng hóa bản thân và chủ thể hóa cái bên ngoài, ây là tiền ề cho quan điểm thực
tiễn, quan điểm lao ộng về cái thẩm mỹ mà ông ang nghiên cứu. Ông ưa ra quan
điểm rằng, cái đẹp, cái hài, cái cao cả được vận ộng theo sự vận ộng của ý niệm
trong lĩnh vực nghệ thuật. Qua nghiên cứu về nghệ thuật từ các tình huống đến bản
chất của nghệ thuật cũng như năng lực sáng tạo của nghệ sỹ, Hegel coi cái thẩm
mỹ là thuộc tính của lý tưởng.
1.1.4. Khuynh hướng duy vật thế kỷ XIX về cái thẩm mỹ
Các nhà mỹ học theo khuynh hướng duy vật trước Mác khẳng định cái thẩm mỹ
tồn tại ngay trong đời sống. Thời cổ ại có Aristote (384-322 Tr. CN) và sau này có
nhà mỹ học dân chủ cách mạng Nga Tsecnusepxki (1828 – 1889).
a. Aristote (384-322 Tr. CN) là học trò của Platon, nhưng thực chất hệ thống mỹ
học của Aristote khác về cơ bản với hệ thống mỹ học của Platon. Arixtốt tuyên
bố rằng: “Đối với tôi, cả Platon và chân lý đều quý giá, nhưng vì sự thật,
tôi yêu chân lý hơn”.
Hệ thống mỹ học của Aristote được thể hiện qua một số luận điểm như sau:
Aristote coi cái đẹp là một thực thể vật chất bao gồm trật tự, tỷ lệ, kích thước
và sự cảm nhận. Trong tác phẩm nổi tiếng Nghệ thuật thơ ca, ông viết: “Cái đẹp -
kể cả ộng vật hay bất kỳ đồ vật gì gồm những phần nhất định hợp thành, nó không
những cần có sự sắp xếp mà còn có một kích thước nhất định. Cái đẹp là ở trong
kích thước và trật tự, do đó, một vật quá bé không thể trở thành đẹp, vì thoắt nhìn
đã qua, không kịp thu nhận; một vật quá lớn cũng không thể trở thành đẹp, vì một
lúc không thể nhìn bao quát vật đó ngay được, tính nhất trí và tính hoàn chỉnh bị
mất đi bởi người nhận nó". Như vậy, theo Aristote cái đẹp không nằm ngoài sự vật, lOMoAR cPSD| 60794687
không nằm ngoài kích thước, tỷ lệ, trật tự, sự cân đối và khả năng cảm nhận nó
trong tính hoàn chỉnh. Quan niệm này tiếp cận gần với ường lối mô tả hiện thực của Đêmôcrít.
Aristote viết rằng: “Sử thi, bi kịch cũng như hài kịch và thơ ca ca tụng tửu thần, ại
bộ phận nhạc sáo, nhạc đàn lục huyền - tất cả những cái đó nói chung là những nghệ
thuật bắt chước. Bắt chước dường như có hai nguyên nhân, hơn nữa là hai nguyên
nhân tự nhiên đã làm nảy sinh ra nghệ thuật thơ ca. Thứ nhất sự bắt chước vốn sẵn
có ở con người từ thủa nhỏ và con người khác với ộng vật ở chỗ họ có tài bắt chước”.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng, thực tại khách quan là tồn tại ộc lập với ý
thức và ý thức là sự phản ánh thực tại khách quan, Aristote coi nghệ thuật là
sản phẩm của sự tái hiện của con người. Nghệ thuật khi “bắt chước” đời sống thì
đồng thời nó cung cấp cho con người bức tranh chân thực về hiện thực và mang
đến cho con người những thỏa mãn về nhu cầu thẩm mỹ. Theo Aristote thì mọi
nghệ thuật đều là bắt chước, nhưng mỗi loại nghệ thuật có cách bắt chước khác
nhau và mang lại cách thụ cảm thẩm mỹ khác nhau cho con người. Chúng khác
nhau bởi vì: đối tượng bắt chước khác nhau, bắt chước bằng phương thức và loại
hình dùng để bắt chước khác nhau (nhất là âm nhạc, hội họa, thi ca, kiến trúc); mục
ích của sự bắt chước cũng khác nhau. Tuy vậy các loại hình nghệ thuật cùng có mục
ích chung là nhằm khẳng định cái gì và phủ định cái gì.
b. Tsecnusepxki (1828 – 1889).
Nhìn thấy sự tiêu cực trong quan niệm của triết học tinh thần Heghen ảnh hưởng
tới trí thức Nga, Tsecnusepxki khẳng định cái thẩm mỹ không phải là thuộc tính
vốn có của ý niệm mà nó là thuộc tính của đời sống, cái thẩm mỹ là những cái
đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài trong đời sống con người. Cái đẹp tạo ra cho con
người cảm giác hoan hỉ, trong sáng. Tsecnusepxki cho rằng: “cái đẹp là cuộc sống.
Một thực thể đẹp là một thực thể trong đó ta nhìn thấy cuộc sống úng như
quan niệm của chúng ta; một đối tượng đẹp là đối tượng trong đó cuộc sống
được thể hiện hay là nó nhắc ta nghĩ tới cuộc sống”. Những thuộc tính khác của
cái đẹp như cái cao cả, nó không phải là tinh thần vô hạn mà cũng tồn tại ngay trong
cuộc sống, “vấn ề chỉ là hiện tượng cao cả là hiện tượng mạnh hơn những hiện lOMoAR cPSD| 60794687
tượng khác mà ta em so sánh”. Cái thẩm mỹ trong tư tưởng mỹ học của
Tsecnusepxki là cái bi. Đối lập với quan niệm về bản chất của cái bi là sự xung ột
giữa đạo đức cộng ộng và đạo đức luật pháp của Hegel, Tsecnusepxki cho rằng
không phải xung ột nào cũng dẫn đến bi kịch, theo ông, “bi kịch tồn tại ngay trong
cuộc sống, nó là nỗi au khổ hay là cái chết của người ta. Cái bi kịch là cái khủng
khiếp trong đời người”. Với ông cái hài cũng tồn tại trong cuộc sống thẩm mỹ của
con người, nó không chỉ đối lập với cái cao cả mà còn đối lập với cái đẹp, “cái hiển
nhiên là hài hước, nó là mặt đối lập với cái đẹp”.
Cái thẩm mỹ trong nghệ thuật là sự tái hiện cái thẩm mỹ trong hiện thực. Nếu Hegel
coi cái thẩm mỹ trong nghệ thuật cao hơn cái thẩm mỹ trong cuộc sống thì
Tsecnusepxki khẳng định cái thẩm mỹ trong cuộc sống cao hơn cái thẩm mỹ
trong nghệ thuật, mọi cái thuộc thẩm mỹ tái hiện trong nghệ thuật chỉ là
những chi tiết ấn tượng trong cuộc sống.
1.2. Một số tư tưởng mỹ học ngoài Mác xít trong nghiên cứu khoa học triết
học, mỹ học ở Việt Nam.
1.2.1. Các tư tưởng mỹ học ngoài Mác xít
a. Tư tưởng triết học duy tâm, siêu hình, phi lý tính của Arthur Schopenhawer (1788- 1860).
Arthur Schopenhawer là người đã có nhiều năm nghiên cứu về tư tưởng triết học
Platon và Kant, có nhiều quan điểm đồng thuận với Goethe và bất đồng chính kiến
với Hegel, mang tư tưởng triết học duy tâm, siêu hình, phi lý tính. Theo đó, ta có
được nhận thức quan điểm mỹ học của ông bằng nhận định bi kịch của bản
thân qua những phương diện khác nhau. Schopenhawer cho rằng: “Mặc dù nội
dung cơ bản của những bi kịch chính thống từ trước đến nay thường nói về ý nghĩa
của những bất hạnh và thống khổ thường xuyên của con người, nhưng chúng đã
được thể hiện dưới nhãn quan khác nhau.
Trước hết, nỗi bất hạnh thường xuyên của con người đều do những kẻ xấu
xa trong xã hội gây ra liên tục”.
Với ông, bất hạnh đó gắn liền với khái niệm “dục vọng” theo triết lý Phật giáo,
và ây là loại bất hạnh xấu xa nhất trong bi kịch của cuộc sống. Từ góc độ này, ông
nhận định rằng, ý nghĩa chân chính của bi kịch là một loại nhận thức sâu sắc, đó lOMoAR cPSD| 60794687
không phải là tội lỗi riêng vốn có mà là “tội lỗi nguyên sinh” do ấu tranh để sinh
tồn, và nhân vật phải gánh chịu. Qua những thiên bi kịch thời danh với nhân vật
cao thượng trong bi kịch phải luôn ấu tranh cho bản thân mình, để dành lấy một
nhận thức hoàn chỉnh về thế giới quan. Và cuối cùng đi đến kết luận về ý nghĩa bi quan trong cuộc sống.
Với Schopenhawer, loại bi kịch mà ông nghiên cứu dưới nhiều dạng thức khác
nhau, với những giá trị và ý nghĩa khác nhau, để từ đó khẳng định, mọi ý nguyện
đều xuất phát từ dục vọng, dù ở hình thức nào thì đó cũng là nguồn gốc của mọi au
khổ trên đời. Con người phải biết hạn chế những ham muốn dục vọng, bởi trong
cuộc sống, không có sự thành tựu nào có thể mang lại cho chúng ta một thỏa nguyện
viên mãn cả. Tất cả chỉ là sự thỏa mãn nhất thời, tạm bợ, ôi khi là sự lừa dối chính
bản thân mình. Với ông, mỗi một con người sống cùng nhau trong xã hội chẳng
khác cùng đi trên một chiếc thuyền giữa biển khơi, nơi mà giông tố nổi lên bất kể
lúc nào. Nếu cứ trách cứ, hành hạ lẫn nhau thì đó là điều thiếu khôn ngoan nhất.
Không gì bằng sự độ lượng và lòng từ tâm trong những cơn biến loạn. “Chỉ có lòng
từ tâm, bác ái, khoan dung, mới thực sự là hành vi công lý tự nguyện trong cách
ứng xử. Khi con người biết sử dụng lòng từ tâm đối với kẻ nào khác, khi đó không
còn hố ngăn cách kẻ nọ, người kia nữa”1
b. Quan điểm mỹ học của Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844- 1900)
Friedrich Wilhelm Nietzsche xây dựng quan điểm mỹ học của mình trên cơ
sở đạo đức. Hệ thống lý luận mỹ học của ông được tập trung trong tác phẩm “Sự
ra đời của bi kịch” với chủ trương “Cái đẹp của sinh mệnh con người cần phải được
nâng cao lên hơn”. Nietzsche “phản đối mãnh liệt cái đẹp tự tại” trong mỹ học cổ
iển. Ông cho rằng “nếu kẻ nào có ý đồ tách khỏi niềm vui của con người, để suy
tưởng về cái đẹp, tức là đã ánh mất căn cứ và chỗ ứng của nó. Cái đẹp tự tại theo
nghĩa này, chỉ là câu nói trống rỗng, huyễn hoặc. Trong cái đẹp, con người thường
nâng mình lên thành thước đo của sự hoàn mỹ..... và chính họ đã quên bản thân là
nguyên nhân của cái đẹp”. Với cách đó, ông khẳng định trong vạn vật không hề có
cái đẹp nào cả, chỉ có con người “tự thân” mới là cái đẹp ích thực theo úng
1 Lê Trung Kiên, Những vấn ề mỹ học ương ại. Đề tài cấp cơ sở năm 2010. Viện Văn hóa và phát triển. lOMoAR cPSD| 60794687
nghĩa của một nguyên lý căn bản của nền mỹ học, ây là chân lý thứ nhất. Chân
lý này được dùng để chống lại mọi thứ mỹ học thiên về lý tính do Aristote ề xướng
và chế ngự nhiều thế kỷ tiếp sau. Trên cơ sở cái đẹp “tự thân” của con người,
Nietzsche cho rằng: phải ánh giá lại một cách chính xác giá trị khen chê của những
người đi trước, họ đã không nắm vững nguyên tắc thưởng ngoạn. Đây được xem
như chân lý thứ hai để phân biệt rõ với quan điểm mỹ học “phi lý tính” của
Schopenhauer. Ông tuyên bố rằng, những gì mà giới thưởng ngoạn kiểu thời thượng
ưa ra mang tính áp chế với những thứ được cho là thiện, ác, xấu, đẹp, cao cả, phi
đạo đức... tất cả chỉ do tâm cách khác nhau của mỗi người chứ không hề tồn
tại trong bản thân của sự vật.
Trong toàn bộ suy luận mỹ học của mình, Nietzsche đã nêu lên một hệ thống
tiêu chuẩn trong nhận thức để ánh giá và làm nền tảng cho tư tưởng mỹ học
của mình với ba tiêu chí:
Một là, phải nhận thức rõ, cái đẹp chân chính của sự vật thuộc vào phạm trù
sinh học nói chung. Đó là cái hữu dụng, hữu ích, ề cao sinh mệnh, thăng hoa cuộc
sống, để xây dựng nhận thức chân chính cho chính mình.
Hai là, phải giữ một tâm cảnh chân chính, trung thực thì mới thưởng thức được
giá trị của sự vật. “Cái đẹp” như thông thường vẫn dùng để ánh giá hay gọi tên sự
vật trong một tâm cảnh nào đó như một thành kiến vô giá trị. Để thấy được chân
giá trị thưởng ngoạn, con người cần phải thoát ly khỏi thành kiến đó.
Ba là, cái đẹp sinh ra từ sự hiểu biết của con người, và con người là trung tâm
của cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả. Từ đó con người mới cảm thấy hạnh
phúc trong thưởng ngoạn và có cách nhìn thế giới khác hơn với cung cách phê phán
từ trước. Đây là chân giá trị của mỹ học.
c. Quan điểm mỹ học của Benedetto Croce (1866- 1952).
Benedetto Croce là học giả tiêu biểu nhất cho trường phái biểu hiện, một
khuynh hướng mỹ học và lý luận nghệ thuật thế kỷ XIX, khởi ầu cho sự phát triển
chủ nghĩa biểu hiện ở thế kỷ XX. Về tư tưởng, tuy được xếp vào hàng ngũ theo chủ
trương “Hegel mới”, nhưng Croce lại thiên về duy tâm chủ quan, gần gũi với chủ lOMoAR cPSD| 60794687
trương của Kant. Trên phương diện mỹ học, ông chịu ảnh hưởng và phát triển thuyết
“Tư duy hình tượng” của nhà mỹ học người Ý, Battista Govanni Vico để xây dựng
cơ cấu của “Trường phái trực giác” hay còn gọi là Tân biểu hiện.
Croce khẳng định: “Nghệ thuật không phải là một sự thực vật lý”, chỉ có “ý
tưởng cá biệt” sinh ra từ trực giác của con người các thể, với tính cách là một
hoạt ộng tâm linh thuần túy, đó mới là cái đẹp, là nghệ thuật chân chính, cái
đẹp khách quan trong tự nhiên cũng không thể có được. Với ông, nghệ thuật là
một dạng thức của sự tưởng tượng, cái “trực giác” chính là sự “biểu hiện”. ông cho
rằng, chỉ khi con người, bằng con mắt và tư duy của nghệ sỹ để soi chiếu, để hiểu
sự vật thì thiên nhiên mới hiện vẻ đẹp”.
Croce phân biệt giá trị của hai phạm trù thưởng thức và phê bình. Ông phản
đối khái niệm “ý niệm” trong mỹ học cổ iển Đức trong những “phê phán giáo điều
trước đó, kể cả trong quan điểm mỹ học của Kant, Hegel hay Schiller. Với ông,
thưởng thức là biểu hiện thuần túy của trực giác còn phê bình là hoạt ộng của khái
niệm được chắt lọc qua ý thức, so sánh, phân biệt.
Bên cạnh các tư tưởng mỹ học kể trên, ở Việt Nam, những khuynh hướng triết
học hiện sinh cũng là nội dung được các nhà nghiên cứu mỹ học Việt Nam quan
tâm. Trong các nghiên cứu của mình, GS, TS Đỗ Huy cũng đã ề cập đến các trào
lưu, khuynh hướng mỹ học hiện sinh Pháp trong thế kỷ XX với những vấn ề nhân
sinh được khái quát trong hai chủ ề lớn là bản thể luận và nhận thức luận với ba
khuynh hướng cơ bản là: hiện sinh tôn giáo của Gabriel Marcel; hiện sinh tính dục
của Merleau Ponty; hiện sinh vô thần của Sartre và Camus.
1.2.2. Những trường phái mới về mỹ học ngoài Mác xít
Cùng với sự phát triển của khoa học, với kinh nghiệm xây dựng hệ thống, với sự
phát triển của trí tuệ và cá nhân, chủ nghĩa phi duy lý đã xuất hiện để đối lập với
chủ nghĩa duy lý mỹ học. lOMoAR cPSD| 60794687 -
Mỹ học của Giắc Maritanh về nhận thức và tín ngưỡng, khoa học và tôn giáo,
đạo đức và nghệ thuật phản ánh nhiều vấn ề tâm linh của con người trong một hệ tư tưởng công nghiệp -
Mỹ học của chủ nghĩa thực dụng xuất hiện từ mối quan hệ liên tục giữa chủ
thể thẩm mỹ và khách thể thẩm mỹ.
Chủ nghĩa thực dụng âm mưu ánh đồng cái thẩm mỹ với cái phi thẩm mỹ. Các ranh
giới giữa cái đẹp và cái xấu, cái bi và cái hài, cái cao cả và cái thấp hèn, cái hài hòa
và không hài hòa bị phá vỡ trong mỹ học của chủ nghĩa thực dụng. Cái xấu, cái
khủng khiếp, cái ê tiện được mỹ học thực dụng nâng lên thành những giá trị thẩm mỹ. -
Mỹ học hiện sinh ra đời có tham vọng trả lời tất cả những vấn ề sinh học, xã
hội trên nền tảng Absur (phi lý).
Quan điểm hiện sinh về mỹ học là loại cảm giác phi lý của chủ thể. Thế giới là một
cảm giác xa lạ. sinh tồn của con người vừa là của mình vừa không của mình. Sinh
tồn ích thực là sinh tồn trừu tượng. Họ cho thế giới là phi lý. Tồn tại người là phi
lý. Con người bị ném vào sự hỗn loạn đến phi lý của cuộc đời. Sự kinh hoàng, vô
vọng là trạng thái thẩm mỹ thường xuyên ở con người. Mọi thứ đều “buồn nôn”.
Và cái đẹp đã ánh đồng với cái xấu. Cái bi bị tiêu diệt bởi cái chết. Các giá trị thẩm
mỹ, các chuẩn mực nền tảng đều bị ảo lộn. -
Mỹ học tiếp nhận (Reception theory), ra đời vào những năm 60 của thế kỉ 20
ở Đức gắn với nhân vật tiêu biểu là Hans Robert Jauss và Wolfwang Iser
Mỹ học tiếp nhận là một khuynh hướng dung nạp trong nó rất nhiều loại lí
thuyết khác nhau, rất khó đi đến khái quát “gọn gàng”, nó luôn nằm trong nhiều
luồng tranh luận, vì thế, tiếp nhận khuynh hướng lí thuyết này, và muốn ứng dụng
nó, các nhà nghiên cứu cần phải gia công, điều chỉnh, bổ sung. -
Mỹ học phân tích (Analytic esthetics): Là phương pháp lý giải những ặc tính
cơ bản của một sáng tác phẩm với từng chi tiết được phân tích ơn thuần hay những
liên hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng của triết học phân tích với hai phần cơ
bản: chủ nghĩ thực chứng logic (Logical positivism) và cơ sở triết học của trường
phái ngữ nghĩa học (Semantics). lOMoAR cPSD| 60794687
mỹ học phân tích đã giúp các nhà văn, nhà phê bình thận trọng hơn trong nghiên
cứu, sáng tác và ánh giá tác phẩm. Cho đến nay, mỹ học phân tích ngày càng được
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác nhau.
1.3. Mỹ học Mác - Lê nin
1.3.1. phạm vi nghiên cứu của mỹ học
Cho đến nay, lịch sử mỹ học của nhân loại đã hình thành năm hệ thống khác
nhau, chúng có đối tượng, phương pháp nghiên cứu và hệ thống các phạm trù, quy luật khác nhau: 1.
Hệ thống mỹ học của chủ nghĩa duy tâm khách quan xem xét đối tượng
nghiên cứu trung tâm là ý niệm và ý niệm tuyệt đối. Từ ý niệm này, các ại biểu của
chủ nghĩa duy tâm khách quan đã phản ánh trong hệ thống của mình những phương
diện nghiên cứu khác nhau. 2.
Hệ thống mỹ học của chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi tư tưởng, tình
cảm, tâm lý là đối tượng quan trọng nhất của mỹ học. 3.
Hệ thống mỹ học của chủ nghĩa duy vật trước Mác coi hiện thực cuộc
sống là đối tượng quan trọng nhất của mỹ học và nghệ thuật. 4.
Hệ thống mỹ học mácxít đã tiếp thu và khắc phục sự phiến diện của
ba hệ thống mỹ học trước đó và trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, đã nghiên
cứu cả chủ thể thẩm mỹ, đối tượng thẩm mỹ và nghệ thuật. 5.
Hệ thống mỹ học tư sản hiện ại gồm nhiều khuynh hướng khác nhau,
nhưng tựu trung là duy lý và phi duy lý mới, trong đó gồm rất nhiều phong cách,
trường phái và quan niệm mỹ học khác nhau.
Mỗi hệ thống mỹ học đều dựa trên nguyên lý xuất riêng. Với tư cách như một
khoa học ộc lập, mỹ học bao giờ cũng có đối tượng riêng, phương pháp riêng và hệ
thống các khái niệm, phạm trù riêng.
Đối tượng của mỹ học không phải nhất thành bất biến. Mỹ học trước Mác có
hệ thống được giới hạn trong các tư tưởng triết học và nghệ thuật khác nhau. -
Mỹ học của chủ nghĩa duy tâm khách quan, ại biểu lớn nhất là Platon và Hêghen. -
Mỹ học của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, ại biểu lớn nhất là Cantơ. lOMoAR cPSD| 60794687 -
Mỹ học của chủ nghĩa duy vật, ại biểu lớn nhất là Arixtốt và Tsécnưsépxki.
Ba hệ thống mỹ học này có ba hệ khái niệm phản ánh đối tượng khác nhau.
Nhìn tổng quát, mỹ học trước Mác có ba loại quan niệm về đối tượng chính. Một
là, mỹ học nghiên cứu các tình cảm thẩm mỹ của con người diễn ra trước cuộc sống,
khi cảm thụ nghệ thuật, lúc sáng tác nghệ thuật. Hai là, mỹ học nghiên cứu bản thân
cuộc sống, xem xét nguồn gốc các hiện tượng thẩm mỹ diễn ra như thế nào, cái đẹp,
cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao thượng sẽ xuất hiện ra sao và mang những bản chất
gì? Ba là, mỹ học chuyên nghiên cứu nghệ thuật, cái đẹp nghệ thuật trên nền tảng
ý niệm và ý niệm tuyệt đối.
Mỹ học Mác - Lênin coi cái thẩm mỹ là mối quan hệ hợp thành bởi ba phương
diện: đối tượng trong quan hệ thẩm mỹ; chủ thể trong quan hệ thẩm mỹ; nghệ thuật
trong quan hệ thẩm mỹ. Như vậy, mỹ học Mác - Lênin nghiên cứu toàn diện các
quan hệ thẩm mỹ từ đối tượng đến chủ thể và nghệ thuật.
Là một bộ phận của triết học Mác- Lê nin, trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, mỹ học Mác- Lê nin nghiên cứu sự vận
ộng của các quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực, trong đó cái đẹp là
biểu hiện trung tâm, hình tượng là khâu cơ bản, nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất.
Mặt khác, ở mỗi mô hình xã hội khác nhau luôn có những quan niệm thẩm mỹ
với các bộ phận chủ thể thẩm mỹ, đối tượng thẩm mỹ... khác nhau, mỹ học Mác-
Lê nin nghiên cứu toàn diện các quan hệ thẩm mỹ từ đối tượng đến chủ thể và nghệ thuật.
1.3.2. Kết cấu của mỹ học hiện ại - Quan hệ thẩm mỹ.
Quan hệ thẩm mỹ là phạm trù nền tảng của khoa học mỹ học, nên có người
gọi nó là siêu phạm trù mỹ học. Nó chi phối mọi hoạt ộng, hiện tượng thẩm mỹ của
con người. Quan hệ thẩm mỹ bao chứa khách thể thẩm mỹ, phản ánh vào chủ thể
thẩm mỹ, hiện diện trong nghệ thuật. Quan hệ thẩm mỹ được mô hình hóa như sau: lOMoAR cPSD| 60794687 Quan hệ thẩm mỹ Đối tượng Chủ thể thẩm mỹ thẩm mỹ Nghệ thuật
Quan hệ thẩm mỹ bao chứa quan hệ đối tượng thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ.
Chủ thể thẩm mỹ quan hệ tương tác tạo nên một quan hệ cao nhất của cái thẩm mỹ
trong nghệ thuật. Chính vì điều đó mà Hêghen đã gọi hiện thực cao hơn tồn tại. Cái
đẹp của nghệ thuật cao hơn cái đẹp của tự nhiên. Quan hệ thẩm mỹ chứa ựng: cái
thẩm mỹ khách quan, cái thẩm mỹ chủ quan và cái thẩm mỹ nghệ thuật. -
Cái thẩm mỹ khách quan chính là đối tượng thẩm mỹ.
Đối tượng thẩm mỹ bao gồm 5 phạm trù cơ bản: cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả. -
Cái thẩm mỹ chủ quan chính là chủ thể thẩm mỹ. Chủ thể thẩm
mỹ bao gồm các hoạt ộng thẩm mỹ của con người. Đó là các loại hoạt ộng:
thưởng thức, ánh giá, sáng tạo. - Nghệ thuật.
Sự tương tác giữa chủ thể thẩm mỹ và đối tượng chủ thể thẩm mỹ và đối
tượng thẩm mỹ tạo nên nghệ thuật. Cái thẩm mỹ trong nghệ thuật là biểu hiện tập
trung của cái thẩm mỹ chủ thể và cái thẩm mỹ trong cuộc sống. Cái thẩm mỹ trong
nghệ thuật biểu hiện ở cả người thưởng thức, người sáng tạo và bản thân tác phẩm
nghệ thuật. Cái thẩm mỹ trong nghệ thuật tồn tại dưới dạng tác phẩm nghệ thuật.
Kết cấu của phạm trù nghệ thuật trong mỹ học là kết cấu của thế giới nghệ
thuật, bao gồm: sáng tạo nghệ thuật; cảm thụ nghệ thuật; tác phẩm nghệ thuật; quá
trình nghệ thuật; loại hình nghệ thuật; bản chất xã hội của nghệ thuật; ặc trưng nghệ
thuật và phê bình nghệ thuật.
1.3.3. Quan hệ giữa mỹ học với các khoa học khác -
Mỹ học là một khoa học triết học.
Các phạm trù mỹ học đều khái quát các quan hệ thẩm mỹ giữa con người và
hiện thực. Nó cũng gắn bó với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Mỹ học lOMoAR cPSD| 60794687
nghiên cứu tính quy luật chung của cái đẹp trong tự nhiên, trong cuộc sống, trong
tâm hồn và trong nghệ thuật.
Lịch sử các tư tưởng mỹ học gắn liền với lịch sử của triết học. Trong các hệ
thống triết học, mỹ học luôn luôn là một bộ phận hợp thành. Mỹ học chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của triết học.
Các nhà triết học lớn đều xây dựng hệ thống mỹ học của mình trên ba trục:
Chân, Thiện, Mỹ. Dù là hệ thống triết học nào thì các nhà triết học cũng quan tâm
tới mặt này hay mặt khác của quan hệ thẩm mỹ. -
Mỹ học có quan hệ bản chất với đạo đức học.
Các phạm trù thiện, ác, lương tâm, danh dự, nghĩa vụ, ý nghĩa cuộc sống, nhu
cầu đạo đức, luân lý... có liên hệ mật thiết với các phạm trù mỹ học. Không thể làm
sáng tỏ các phạm trù cái đẹp, cái xấu của mỹ học nếu tách chúng khỏi việc giải
thích cái thiện, cái ác của đạo đức học.
Mỹ học có ảnh trở lại với đạo đức học. Cả hai khoa học này cùng khái quát
những hiện tượng đạo đức và thẩm mỹ của cuộc sống. Chúng có ường giáp ranh
khi bàn đến cái đẹp và cái xấu, cái cao cả và cái thấp hèn của con người. Mỗi phát
hiện của đạo đức học làm sâu sắc thêm những phạm trù của mỹ học và mỗi phát
hiện của mỹ học làm a dạng hóa các phạm trù của đạo đức học. -
Mỹ học cũng có quan hệ mật thiết với văn học và nghệ thuật
và là những phạm trù định hướng cho văn hóa học.
Khi xác định những nét ặc trưng của mỗi nền văn hóa, văn hóa thẩm mỹ bao
gồm cả văn hóa nghệ thuật và luôn luôn quan tâm đến trình độ phát triển của con
người. Nếu văn hóa học coi trình độ người là đối tượng trung tâm thì mỹ học không
tách rời quan hệ thẩm mỹ của con người. Văn học, nghệ thuật làm phong phú và cụ
thể hóa các tư tưởng mỹ học. Mỹ học giúp văn hóa và nghệ thuật đi sâu phát hiện
bản chất các đối tượng mà chúng nghiên cứu, ặc biệt là các hệ thống giá trị.
- Quan hệ giữa mỹ học với tâm lý học và xã hội học
Mỹ học là khoa học xã hội nhân văn, gắn liền với đời sống xã hội của con
người. Khi nghiên cứu các nhu cầu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ,
sáng tạo thẩm mỹ; mỹ học không thể xa rời tâm lý học và tách rời các nhóm xã hội
mà nó phản ánh. Tâm lý học và xã hội học bù ắp những thiếu hụt của mỹ học khi lOMoAR cPSD| 60794687
nghiên cứu thế giới nghệ thuật. Ngược lại, mỹ học làm phong phú và gợi mở các
hướng quan trọng cho xã hội học nghệ thuật và tâm lý sáng tạo. Mỹ học có thể chỉ
ra các con ường cho tâm lý sáng tạo bằng các ề nghị, khám phá các nơi liên tưởng,
tưởng tượng của ước mơ…
Chương 2: Bản chất quan hệ thẩm mỹ
2.1. Khái niệm quan hệ thẩm mỹ
2.1.1. Con người trong các quan hệ tự nhiên và xã hội. -
Con người có quan hệ với tính vật lý của thế giới.
Cơ thể con người có trọng lượng tồn tại trong không gian và thời gian. Nó có
mối liên hệ với các vật thể vật lý khác và con người bị chi phối bởi quy luật vạn vật
hấp dẫn, quy luật quán tính, quy luật dẫn nhiệt, chuyển hóa và bảo toàn năng lOMoAR cPSD| 60794687
lượng... Con người là một thực thể sống ộng, là một sinh vật, vì thế con người còn
có quan hệ sinh học. Có thể tìm thấy trong mối quan hệ của con người với các sinh
vật khác trong hiện thực. -
Con người có quan hệ sinh học.
Con người là một ộng vật cao cấp, bị quy định bởi các quan hệ sinh học. Con
người phải trao ổi chất với môi trường để tồn tại. Các nhu cầu sinh lý thường xuyên
được lặp lại ở con người. Đối với con người, quan hệ sinh học là quan hệ căn bản
cho cơ thể sống và nó như các cơ thể sống khác. -
Lao ộng sản xuất là ặc trưng riêng biệt của con người trong
thế giới hiện thực.
Con người có các nhu cầu ăn, ở, mặc, chiếm lĩnh đối tượng. Sự hoạt ộng của
các nhu cầu tạo ra các quan hệ thực dụng của con người đối với hiện thực. Các quan
hệ này phức tạp hơn các quan hệ vật lý.
Để thỏa mãn các nhu cầu vật lý, nhu cầu sinh học, con người đã không chỉ sử dụng
những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên mà còn tạo ra những vật phẩm để thỏa mãn
những nhu cầu của mình. Chúng ta gọi con người là ộng vật biết lao ộng sản xuất.
Lao ộng sản xuất là ặc trưng riêng biệt của con người trong thế giới hiện thực. Lao
ộng sản xuất đã tạo ra những sự vật mới để thỏa mãn nhu cầu của con người.
Mỹ học Mác - Lênin cho rằng, quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện
thực thể hiện tập trung ở ba lĩnh vực chính: lao ộng, học tập và sáng tạo; khám phá,
ánh giá; chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn.
Lao ộng, học tập và sáng tạo là nguồn gốc của mọi quan hệ thẩm mỹ. Bằng
lao ộng của mình, con người đã phát hiện ra quan hệ thẩm mỹ với tự nhiên và làm
cho thiên nhiên có giá trị thẩm mỹ và chủ thể thực dụng người trở thành chủ thể
thẩm mỹ. Lao ộng sáng tạo ra giá trị mới theo quy luật của cái đẹp, trong đó sáng
tạo nghệ thuật là biểu hiện tập trung của sáng tạo thẩm mỹ. Sáng tạo thẩm mỹ, sáng
tạo nghệ thuật là hoạt ộng mang bản chất người, mang tính chất biến ổi đối tượng,
tạo ra một sản phẩm thẩm mỹ mới chưa từng có trong tự nhiên.
2.1.2. Ý thức của con người
Ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng
vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc lOMoAR cPSD| 60794687
người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc
người, lấy phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Thuộc
tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác ộng qua lại giữa các đối tượng vật
chất với nhau. Phản ánh là sự tái tạo những ặc điểm của một hệ thống vật chất này
ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác ộng qua lại của chúng. Lê nin khẳng
định, phản ánh là sự tái tạo những ặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống
vật chất khác trong quá trình tác ộng qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh
phụ thuộc vào cả hai vật - vật tác ộng và vật nhận tác ộng. Đồng thời, quá trình
phản ánh bao hàm quá trình thông tin:
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy
sinh ở giai oạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của
con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách
rời con người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất - thuộc tính phản
ánh - phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản
ánh của vật chất, nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được
phản ánh. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. Bộ óc
người là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức.
Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao ộng,
ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội,
nó phụ thuộc vào xã hội, và ngay từ ầu đã mang tính chất xã hội.
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận
thụ ộng. Nhờ có lao ộng con người tác ộng vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng
phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận ộng của mình
thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác ộng vào bộ óc người.
Không có sự tác ộng của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó
đến bộ óc thì hoạt ộng ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác ộng lên bộ óc - đó là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức”.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao ộng và nhờ lao ộng mà hình thành. Nó là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. lOMoAR cPSD| 60794687
Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là
công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát hóa, trừu tượng
hóa, mới có thể suy nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính.
Chủ nghĩa duy vật mácxít coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng ộng, sáng tạo. Ý thức là hình thức là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Tính sáng tạo của ý thức có thể tạo ra tri thức
mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song ây là sự
phản ánh ặc biệt - phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá trình ý
thức là quá trình thống nhất của ba mặt sau ây:
Một là, trao ổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao ổi này
mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất ây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hóa các
đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình
hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt ộng thực tiễn biến cái quan niệm thành cái
thực tại, biến cái ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài
hiện thực. Trong giai oạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện,
công cụ để tác ộng vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục ích của mình.
Điều đó càng nói lên tính năng ộng sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức ẻ ra vật chất. Sáng tạo của
ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản
ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức
không đối lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh, mà ngược lại thống nhất với phản ánh,
trên cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý
thức - trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội
của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng ộng, sáng tạo của bộ óc. Ý thức
không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một hiện tượng xã hội. Ý
thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách
quan. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “ngay từ ầu, ý thức đã là một sản phẩm
xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”. lOMoAR cPSD| 60794687
Hoạt ộng ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt ộng sinh lý thần kinh
của bộ óc người. Ý thức của con người rất phức tạp. yếu tố cấu thành như tri thức,
tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí... Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, là cốt lõi. Tri
thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới
khách quan. theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm các yếu
tố như tự ý thức (là ý thức của con người về những hành vi, những tình cảm, tư
tưởng, ộng cơ, lợi ích của mình, về ịa vị của mình trong xã hội.), tiềm thức (Tiềm
thức là những hoạt ộng tâm lý tự ộng diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể,
song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt ộng tâm lý ang diễn ra dưới sự kiểm
soát của chủ thể ấy), vô thức (Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý
trí điều khiển. Lĩnh vực vô thức là lĩnh vực các hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm
vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. )... Tất cả những
yếu tố đó cùng với những yếu tố khác quy định tính chất phong phú, phức tạp trong
thế giới tinh thần và hoạt ộng tinh thần của con người. Mối quan hệ qua lại của con
người với toàn bộ hiện thực là rất phức tạp. Lúc nào con người là một chủ thể thực
dụng, chủ thể vật lý, chủ thể sinh học, chủ thể thẩm mỹ là do hoạt ộng thực tiễn của
con người quyết định. Có thể nói Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên mà
là một hiện tượng xã hội, bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, phản ánh những
quan hệ xã hội khách quan
2.1.3. Đánh giá thẩm mỹ
Quan hệ thẩm mỹ còn được biểu hiện trong ánh giá thẩm mỹ. Đánh giá thẩm
mỹ là phán oán về giá trị thẩm mỹ của khách thể, của tác phẩm đó đối với con
người, với xã hội. Đánh giá thẩm mỹ là quá trình thẩm định mức độ phù hợp của
khách thể, của tác phẩm đối với lý tưởng thẩm mỹ, với những chuẩn mực, những
tiêu chí nhất định, mà những chuẩn mực, những tiêu chí này được rút ra từ thực tiễn
xã hội và nghệ thuật. Đánh giá thẩm mỹ là hoạt ộng phức tạp của quan hệ thẩm mỹ.
Nó là tổng hợp của các yếu tố như: đối tượng ánh giá, chủ thể ánh giá, cơ sở ánh
giá và tính chất ánh giá.
- Đối tượng ánh giá
Đối tượng của hoạt ộng ánh giá ở ây là đời sống thẩm mỹ, trong đó có nghệ
thuật với tất cả tính ộc áo của nó. Nghệ thuật là sản phẩm ặc biệt của sự sáng tạo và lOMoAR cPSD| 60794687
là ỉnh cao của các giá trị thẩm mỹ. Hiện thực cuộc sống bao giờ cũng là cội nguồn
nội dung của nghệ thuật. Cái đẹp trong nghệ thuật trước hết là sự phản ánh cái đẹp
trong cuộc sống, nhưng trong nghệ thuật, cái đẹp của cuộc sống được thể hiện tập
trung hơn. Tác phẩm nghệ thuật chính là nơi hội tụ của cái đẹp, là ỉnh cao của quan
hệ thẩm mỹ của con người với thế giới.
- Chủ thể ánh giá
Đánh giá thẩm mỹ cũng như mọi hoạt ộng ánh giá nói chung, chủ thể ánh giá
đều phải căn cứ vào những tiêu chuẩn nhất định, những tiêu chuẩn đó là cơ sở khoa
học cho mọi hoạt ộng ánh giá. Do ặc điểm của sự ánh giá thẩm mỹ là sự thống nhất
giữa phương pháp phân tích khoa học và năng lực cảm thụ trực tiếp, cho nên trong
quá trình ánh giá thẩm mỹ, chủ thể vận dụng các tiêu chuẩn, mà các tiêu chuẩn này
gắn kết với nhau không phải theo một cơ chế lôgíc nghiêm ngặt, cứng nhắc như trong ánh giá khoa học.
Quan hệ thẩm mỹ trong ánh giá nghệ thuật có cơ sở khách quan bao gồm
chuẩn mực, những tiêu chí thẩm mỹ như: tính tư tưởng, tính nghệ thuật, tính iển
hình, tính ảng, chân lý nghệ thuật... Các tiêu chuẩn này liên kết với nhau tạo ra
một hệ thống tiêu chuẩn có khả năng vạch ra được giá trị của một hệ thống thẩm
mỹ cụ thể trong tính phong phú, muôn vẻ của nó. Đương nhiên, hệ thống các tiêu
chuẩn của sự ánh giá này không phải hoàn toàn cố định và cứng nhắc. Tùy theo
tính chất của khách thể thẩm mỹ, mà tiêu chuẩn này hay tiêu chuẩn khác được
nhấn mạnh trong quan hệ thẩm mỹ.
- Cơ sở và tính chất ánh giá.
Đánh giá thẩm mỹ không phải là ánh giá thuần túy lôgíc. Trong ánh giá thẩm
mỹ, những cảm xúc thẩm mỹ do tác ộng của đời sống tạo nên là không thể thiếu
được. thể làm xuất phát điểm, hỗ trợ cho sự ánh giá. Tuyệt đối hóa mặt cảm tính
trong ánh giá thẩm mỹ, sẽ dẫn tới những sai lầm, phủ nhận những giá trị thẩm mỹ
khách quan, ích thực trong đời sống thẩm mỹ.
Quan hệ thẩm mỹ xuất hiện trong ánh giá thẩm mỹ có sự thống nhất giữa tình
cảm và lý trí, giữa kinh nghiệm cá nhân và các chuẩn mực xã hội. Đánh giá thẩm
mỹ không chỉ là hoạt ộng riêng của thị hiếu thẩm mỹ, năng lực ánh giá thẩm mỹ là
năng lực của toàn bộ thế giới tinh thần của con người, từ quan điểm, lý tưởng thẩm