



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 1
Câu 1: Vấn đề cơ bản của Triết học? Bài làm
Triết học, khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi giải quyết các vấn đề
cụ thể của mình, nó buộc phải giải quyết một vấn đề có ý nghĩa nên tảng và là điểm
xuất phát đề giải quyết tất cả những vấn đề còn lại – vấn đề về mối quan hệ giữa vật
chất với ý thức. Đây cũng chính là vấn đề cơ bản của triết học. Ph. Ăngghen đã trả lời
cho câu hỏi “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”, theo ông: “Vấn đề cơ bản lớn của
mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và là điểm xuất phát để giải quyết vấn đề khác
của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất,cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào giữ vai trò quyết định?
- Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và của trường phái
triết học, xác định việc hình thành các trường phái lớn của triết học.
Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học
thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất (giới tự nhiên) là cái có
trước, ý thức có sau và vật chất quyết định ý thức được gọi là những nhà duy vật.
Ngược lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm là cái có trước vật chất và
quyết định vật chất được gọi là những nhà duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, thường
gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Nó là quá trình đúc kết
khái quát những kinh nghiệm để vừa phản ánh những thành tựu mà con người đã đạt
được trong từng giai đoạn lịch sử, vừa định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ
hoạt động trên nền tảng của những thành tựu ấy.
Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa
duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ
nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thứ của các nhà triết học thời cổ đại, có tính
thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng lại đồng nhất vật chất với một hay một số
chất cụ thể của vật chất. Chủ nghĩa duy vật thời kì này đưa ra những kết luận mà về
sau người ta thấy mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác; tuy nhiên những
quan điểm này về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích về
thế giới, không viện đến các thần linh, thượng đế hay các lực lượng siêu nhiên nào.
Ăngghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ, nhưng căn
bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy Lạp thời cổ, và người đầu tiên
diễn đạt được rõ rằng quan điểm đó là Héraclite: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời
lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật
đều luôn ở trong quá trính xuấ hiện và biến đi”.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ 2 trong lịch sử chủ nghĩa duy vật,
thể hiện khá rõ ở cac nhà triết học thế kỷ XV – XVIII và điển hình là ở thế kỷ XVII,
XVIII. Chủ nghĩa duy vật thời kì này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 2 1
pháp tư duy siêu hình, cơ giới – phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ
mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại.
Chủ nghĩa duy vật thời kì này đã góp phần không nhỏ vào việc đẩy lùi thế giới quan
duy tâm và tôn giáo, đặc biệt là ở thời kì chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời phục hưng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.
Mác và Ph. Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỉ XIX, sau đó được V.I.
Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật thời kì này đã kế thừa những tinh hoa của các học
thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để những thành tựu khoa học đương thời.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của
chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỉ XVII,
XVIII và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra, chủ nghĩa
duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại
mà còn là một công cụ hưu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
Ngược lại với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội, đó là sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một
đặc tính nào đó của quá trình nhận thức, đồng thời thường gắn với lợi ích của các giai
cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động.
Mặt khác, chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cung thương có mối liên hệ mật thiết với
nhau để cùng tồn tại và phát triển. Chủ nghĩa duy tâm có hai trường phái: chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ
là phức hợp những cảm giác của cá nhân. Tiêu biểu là Gioócgiơ Béccli ông là nhà triết
học duy tâm chủ quan, vị linh mục người Anh. Triết học của ông chứa đầy tư tưởng
thần bí, đối lập với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần. Ông dựa vào quan điểm
của các nhà duy danh luận thời trung cổ để khẳng định rằng, khái niệm những vật chất
không tồn tại khách quan, mà chỉ tồn tại những vật thể cụ thể, riêng rẽ; sự tranh cãi
về khái niệm vật chất là hoàn toàn vô ích, khái niệm đó chỉ là cái tên gọi thuần túy mà thôi.
Bên cạnh đó, chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức
nhưng lại coi đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người.
Thực thể tinh thần khách quan này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau
nhưu ý niệm, tinh thần, tuyệt đối, lý tính thế giới, v.v... Tiêu biểu là Platôn là một nhà
triết học duy tâm và nổi bật trong hệ thống triết học của ông là “học thuyết về ý niệm”.
Trong học thuyết này, ông đã đưa ra quan điểm về hai thế giới: thế giới các sự vật cảm
biến là không chân thực, không đúng đắn, vì các sự vật không nghững sinh ra và mất
đi, luôn luôn thay đổi, vận động, trong chúng không có gì là bền vững, ổn định và
hoàn thiện. Còn thế giới ý niệm là thế giới của đúng đắn, chân thực sự cảm biết chỉ là
cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người, thoe Platôn không phải là phản ánh
các sự vật cảm biến của thế giới khách quan, mà là nhận thức về ý niệm. lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 3
Ngoài 2 trường phái triết học lớn ở trên, để giải quyết cho mặt thứ nhất của các vấn
đề cơ bản của triết học, các nhà triết học còn chia ra thành các học thuyết: học thuyết
nào chỉ thừa nhận một trong hai thực thể (vật chất hoặc tinh thần) là bản nguyên
(nguồn gốc) của thế giới, quyết định sự vận động của thế giới được gọi là nhất nguyên
luận (nhân nguyên luận duy vật hoặc nhất nguyên luận duy tâm)
Song, trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả 2
bản nguyên vật chất và tinh thần, xem vật chất và tinh thần là hai bản nguyên có thể
cùng quyết định sự vận động của thế giới thì gọi là trường phái nhị nguyên luận. Điển hình là Descartes.
Ngoài ra còn những nhà triết học cho rằng sự vận động của thế giới còn do sự tác động
của nhiều yếu tố khác bên cạnh vật chất và tinh thần được gọi là trường phái đa nguyên luận
Và đề trả lời cho câu hỏi của mặt thứ 2 “con người có khả năng nhận thức được thế
giới hay không?” tuyệt đại đa số các nhà triết học (cả các nhà duy vật và duy tâm) đều
khẳng định: thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người.
Thuyết khả tri luận (thuyết có thể biết) là học thuyết triết học khẳng định khả năng
nhận thức của con người. Thuyết khả tri về nguyên tắc con người có thể hiểu được
bản chất của sự vật. Nói cách khác, càm giác, biểu tượng, quan niệm và nói chung ý
thức mà con người có được về sự vật về nguyên tắc là phù hợp vs bản thân sự vật Bên
cạnh đó, thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết) là học thuyết triết học phủ nhận khả
năng nhận thức của con người. Các hình ảnh, tính chất, đặc điểm,... của đối tượng mà
các giác quan của con người thu nhận được trong quá trình nhận thức, cho phép con
người đồng nhất chúng với đối tượng. Đó không phải là cái tuyệt đối tin cậy.
Thuyết bất khả tri luận không tuyệt đối phủ nhận những thực tại siêu nhiên hay thực
tại được cảm giác của con người, nhưng vẫn khẳng định ý thức con người không thể
đạt tới thực tại tuyệt đối hay thực tại như nó vốn có, vì mọi thực tại tuyệt đối đều nằm
ngoài kinh nghiệm của con người về thế giới.
Thuyết hoài nghi luận ít nhiều liên quan đến Thuyết bất khả tri luận, những người theo
hoài nghi luận luôn nâng cao sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong viêc xem xét tri
thức đã đạt và cho rằng con người không thể đạt tới chân lí khách quan. Tuy cực đoan
về mặt nhận thức, nhưng hoài nghi luận thời Phục Hưng đã giữ vai trò quan trọng
trong cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng và quyền uy của Giáo hội Trung cổ.
Câu 2: Định nghĩa vật chất của Lênin và ý nghĩa của nó Bài Làm 3 lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 4
Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại quy vật chất về một hay một vài dạng cụ thể và xem
chúng là khởi nguyên của vật chất, tức là đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ thể.
Các nhà triết học duy vật như Ta-lét cho rằng vật chất là nước; A-na-xi-men coi là
không khí; Hê-ra-clít coi là lửa. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ
đại trong học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơ-xíp và học trò của ông là Đê-mô-crít.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỉ XVII- XVIII đồng nhất vật chất với khối
lượng, coi những định luật cơ học như những chân lý không thế thêm bớt và giải thích
mọi hiện tượng của thế giới theo chuẩn mực thuần túy cơ học. Nói cách khác, các nhà
triết học thời kì cận đại đã đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ thể và tính chất của chúng.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm
đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính của vật chất
của các nhà triết học duy vật cổ đại và cận đại. Năm 1895, Wilhelm Conrad Rontgen
phát hiện tia X. Năm 1896, Henri Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của
nguyên tố urani. Năm 1897, Joseph John Thomson phát hiện ra điện tử. Năm 1901,
Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là bất biến mà thay
đổi theo vận tốc của nguyên tử. Năm 1898-1902, nhà nữ vật lý Marie Sklodowska
cùng chồng là Pierre Curie đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh poloni và radium. Và
đến năm 1905, thuyết tương đối hẹp và năm 1916, thuyết tương đối tổng quát của
Albert Einstein ra đời đã chứng minh: Không gian, thời gian, khối lượng luôn biến
đổi cùng với sự vận động của vật chất.
Trước những phát hiện trên của khoa học tự nhiên, nhiều nhà khoa học và triết học
đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình đã hoang mang, dao động, hoài nghi
tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng nguyên tử không phải là phần tử
nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã, bị “mất đi”. Do đó vật chất cũng có thể biến
mất; thế giới tồn tại không có quy luật; khách thể tiêu tan, chủ thể trở thành cái có
trước, cái còn lại duy nhất là chúng ta và cảm giác cùng tư duy của ta để tổ chức những
cảm giác đó. Theo đó, Ernst Mach phủ nhận tính hiện thực khách quan của điện tử.
Wilhelm Ostwald phủ nhận sự tồn tại thực tế của nguyên tử và phân tử. Còn Henri
Bergson thì định nghĩa: Vật chất là cái phi vật chất đang vận động. Đây chính là cuộc
khủng hoảng vật lý học hiện đại mà như V.I. Lê-nin khẳng định. Tình hình trên đã làm
cho nhiều nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình sang
chủ nghĩa tương đối, rồi rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm thắng thế. Để
khắc phục cuộc khủng hoảng, Lê-nin đã tổng kết khoa học tự nhiên, kế thừa quan
niệm của chủ nghĩa duy vật cũ và đưa ra định nghĩa về vật chất.
Phạm trù vật chất được V.I.Lênin nêu định nghĩa “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khác quan, nghĩa là nó tồn tại bên ngoài ý thức, không
lệ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 5
thức được. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất. Đưa ra tiêu chuẩn
để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Trong đó, vật chất và ý
thức song song tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, vật chất phải là cái sinh ra và có
trước. Nó xuất hiện từ khi chưa xuất hiện loài người và chưa có cái gọi là ý thức. Con
người có nhận thức được hay không thì vật chất vẫn tồn tại. Ví dụ như thủy triều là
hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian phụ thuộc
vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó tồn tại một cách tự
nhiên, không phụ thuộc vào nhận thức của con người. Như vậy để thấy rằng ý thức có
mặt và vận động, phát triển sau đó. Qua đó vật chất mang đến các chức năng, tác dụng
cần thiết đối với con người. Đặc biệt là vẫn phản ánh thông qua mắt nhìn, tay sờ,..
Nghĩa là thông qua các tiếp cận từ cảm giác và nhu cầu từ ý thức.
Thứ hai, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hay trực tiếp tác
động lên giác quan của con người. Không phải mọi sự vật tác động lên giác quan đều
gây nên cảm giác, có những sự vật phải cần đến sự trợ giúp của những dụng cụ tinh
vi, hiện đại, thậm chí có những sự vật bằng dụng cụ hiện đại vẫn chưa nhận biết được
nó, nhưng trong trình hạn nó tồn tại khách quan thì chính là vật chất. Ví dụ như con
vi khuẩn có thể là nó đã xâm nhập vào cơ thể con người nhưng ta không hề có cảm
giác khi nó tiếp xúc vào ta, mà phải soi dưới kính hiển vi, ta mới có thể nhìn thấy sự
tồn tại của nó. Điều này hoàn toàn đối lập với ý thức- cái tồn tại không cảm giác được.
Thứ ba, cảm giác, tư duy và ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Chỉ có một thế
giới duy nhất là thế giới vật chất, còn ý thức chỉ là sự phản ánh lại thế giới vật chất, là
thuộc tính của vật chất. Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách
quan. Bằng các giác quan của mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận
biết được thực tại khách quan; chỉ có những sự vật, hiện tượng của thực tại khách
quan chưa được nhận biết chứ không thể không biết. Giống như kiến thức của nhân
loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế giới khách quan.
Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.
Ngày nay khi khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn ngày càng phát triển
càng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm duy vật biện chứng về vật chất, cho
thấy định nghĩa vật chất của Lê-nin vẫn giữ nguyên giá trị, và do đó chủ nghĩa duy
vật biện chứng ngày càng khẳng định vai trò là hạt nhân thế giới quan, phương pháp
luận đúng đắn của khoa học hiện đại. Chính vì vậy, quan niệm vật chất của triết học
Mác Lê-nin một mang ý nghĩa sâu sắc. Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện
chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Trước hết, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn
gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất 5
của chủ nghĩa duy vật cổ và cận đại). Bác bỏ chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết không
thể biết, khắc phục hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Tiếp đó là khắc phục
cuộc khủng hoảng trong khoa học tự nhiên, mở đường cho khoa học tự nhiên phát
triển, tiếp tục tìm kiếm các dạng thức mới của vật chất và cấu trúc vật chất. Bằng việc
chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại khách quan, đã giúp lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 6
chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất với tư cách là
phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các
quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định những
gì thuộc và không thuộc về vật chất. Cuối cùng, là cơ sở để xác định vật chất trong xã
hội, là nền tảng lý luận khoa học để phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn
đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nói cách khác định nghĩa vật chất của Lê-nin đã tạo
cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã hội.
Câu 3: Phân tích phương thức và hình thức tồn tại của vật chất Bài làm
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500 năm. Ngay
từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan
nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen cũng như tổng kết những thành tựu
khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, V.I. Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Phương thức tồn tại của vật chất tức là cách thức tồn tại và hình thức tồn tại của vật
chất. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là cách thức tồn
tại, đồng thời là hình thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là hình thức tồn
tại của vật chất. Ph.Ănghen viết: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất –
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Theo quan niệm của Ăng-ghen: vận động không
chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá
trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là một
thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật
chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động;
và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất. Ví dụ như sự di chuyển từ nơi này
sang nơi khác, tăng chiều cao, sự tăng trưởng về kinh tế, sự giảm sút trong học tập, giảm cân,…
Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện ra với các quy mô, trình
độ và tính chất hết sức khác nhau. Dựa vào những thành tựu khoa học của thời đại
mình, Ph.Ănghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ học,
vật lý, hóa học, sinh học và xã hội. Vận động cơ học: sự dịch chuyển trong không gian
của các vật thể. Ví dụ như di chuyển trên đường phố khi tham gia giao thông. Vận
động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, quá trình nhiệt, điện,... lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 7
Ví dụ, thanh sắt nóng sinh ra nhiệt. Vận động hóa học: sự biến đổi các chất hữu cơ,
vô cơ trong quá trình hóa hợp và phân giải. Ví dụ, quá trình tạo ra một phân tử nước
(2H2 + O2→2H2O). Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái
cấu trúc gen, v.v… Ví dụ như sự hít thở, quang hợp, quá trình trao đổi chất. Vận động
xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v… của đời sống
xã hội. Ví dụ, xã hội loài người đi từ mông muội đến văn minh nhưng chưa có giai
cấp, sau đó xuất hiện giai cấp nhưng chưa có nhà nước, cuối cùng là hình thành nhà
nước. Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương
ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song
chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình
thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong
nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể
có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng
bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của
vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều
này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng;
song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im,
cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động. Đứng im là tương đối vì đứng
im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả
mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động chứ không
phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động. Đứng im là tạm thời vì đứng im không
phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong
một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình
biến đổi nhất định. Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong
thế cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình
dáng, kết cấu của sự vật. Ví dụ, thời bao cấp, nền kinh tế trì trệ, không phát triển, được
coi như là đứng im. Nhưng chỉ là đứng im trong hình thức vận động xã hội, trong mối
quan hệ của nền kinh tế tư nhân hay tiền tệ, chứng khoán, thị trường,… Sự đứng im
của kinh tế chỉ diễn ra trong một thời kì nhất định (1976 - 1986) tuy nhiên trong thời
kì này, nội bộ nền kinh tế vẫn có những sự biến đổi: nông nghiệp giảm nhẹ, công
nghiệp và thương nghiệp có tiến triển,.. Sự tăng lên của mặt này bù khuyết vào sự
giảm đi của mặt kia khiến nền kinh tế không có sự tăng trưởng, chưa thấy sự thay đổi nhiều. 7
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc
phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác
nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh
hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình
thức vận động khác trong quá trình nhận thức. Giống như việc dựa trên sự vận động
của các sự vật hiện tượng, chúng ta có các ngành khoa học: Hóa học, Vật lí học, Sinh học,… lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 8
Bên cạnh đó, dựa trên những thành tựu khoa học thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian
và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động. Mọi dạng cụ thể của vật chất
đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài)
nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới,
bên phải hay bên trái,…) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như
vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá
trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,… Những hình thức tồn tại như
vậy được gọi là thời gian.
Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật chất
vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Tính chất của không gian và sự biến đổi
của nó bao giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại.
Do đó, về thực chất không gian và thời gian là một thể thống nhất không gian- thời
gian. Vật chất có ba chiều không gian: chiều cao, chiều rộng, chiều dài và một chiều
thời gian: chiều từ quá khứ đến tương lai. Không gian và thời gian của một sự vật,
hiện tượng cụ thể là có tận cùng và hữu hạn. Quan niệm đúng đắn của chủ nghĩa duy
vật biện chứng đã bác bỏ quan niệm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi không gian
và thời gian là hình thức trực quan tiên nghiệm, là sự sắp xếp các cảm giác mà con
người thu được theo một trình tự nhất định hoặc chỉ là là hệ thống liên kết chặt chẽ
của những chuỗi cảm giác do con người gây ra.
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về không gian và thời gian là cơ sở lý
luận khoa học để đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm, siêu hình tách rời không
gian và thời gian với vật chất vận động. Quan niệm trên đòi hỏi phải quán triệt nguyên
tắc phương pháp luận về tính lịch sử- cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Câu 4: Nguồn gốc của ý thức Bài làm
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức
cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có.
Tác động của ý thức đối với đời sống xã hội là vô cùng to lớn. Nó không những là
kim chỉ nam cho hoạt động của thực tiễn mà còn là động lực của thực tiễn. Sự thành
công hay thất bại của thực tiễn, tác dụng tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự
phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà
biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hóa và tư tưởng.
Theo triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết
học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong
não người, hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
Về nguồn gốc của ý thức, theo các quan niệm lịch sử, quan điểm chủ nghĩa duy tâm
khách quan cho rằng “Ý thức là thực thể tồn tại vĩnh viễn, là nguồn gốc sinh thành lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 9
các sự vật, hiện tượng”, còn theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan “Ý thức là do cảm giác
của con người sinh ra và cảm giác là sự phản ánh lại của cái vốn có trong tâm trí của mỗi con người”
Còn theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguồn gốc của ý thức được
biểu hiện qua nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Về nguồn gốc tự nhiên, ý thức
là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não của con người. Não người
là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới hữu cơ, chất
sống (thực vật và động vật) rồi đến con người - sinh vật - xã hội. Hoạt động ý thức
của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn
thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu
sắc. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên
ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Khi mới xuất
hiện loài người, con người chưa có ý thức sâu sắc vì chưa có kiến thức về thế giới tự
nhiên. Trải qua các quá trình từ thời nguyên thủy đến nay, con người dần phát triển
nhờ việc quan sát tự nhiên, trong quá trình ấy, não người hoàn thiện dần, ghi lại những
kiến thức, kinh nghiệm, làm cho ý thức con người phong phú, văn minh. Từ đó, con
người làm chủ được thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của
mọi đối tượng vật chất. Phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài và từ hình
thức thấp lên hình thức cao, tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất. Ví dụ như sự
phản ánh của quá trình nỗ lực nghiên cứu, học tập chăm chỉ là ở kết quả cao trong các kì thi.
Có 4 trình độ phản ánh: phản ánh vật lý, phản ánh hóa học là hình thức phản ánh thấp
nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật lí, hóa học thể hiện qua những biến
đổi về cơ, lí, hóa, tức là, thay đổi về kết cấu, vị trí, tính chất lí hóa qua quá trình kết
hợp, phân giải các chất khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô
sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng, chưa có lựa
chọn của vật nhận tác động (đinh gỉ sét khi để lâu ngoài trời), (hiện tượng đóng băng của nước)
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu
sinh, tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh. Phản ánh sinh 9 lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 10
học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. (cây cối vươn lên để
đón lấy ánh sáng để quang hợp),
Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển đến trình độ là có
hệ thần kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ có điều kiện đối
với những tác động của môi trường sống. (khi chúng ta quan sát một bức tranh và sau
đó chúng ta có thể phản ánh lại hình ảnh của bức tranh đó trong trí óc)
Và trong đó phản ánh ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, là
hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người, là sự phản ánh năng động, sáng tạo
hiện thực khách quan bởi bộ não của con người. Ví dụ về sự phản ánh sáng tạo của ý
thức dựa trên thực tiễn như tác phẩm Tây Du Kí - 1 tác phẩm hư cấu với những nhân
vật hư cấu, tình tiết hư cấu nhưng được viết dựa trên một câu chuyện có thật về một
vị sự đã trải qua quãng đường cực kỳ dài, gian truân, vất vả để lấy cuốn kinh về truyền
dạy cho người trong quốc gia. Năm thầy trò là sự sáng tạo từ 5 tính cách có thật trong con người.
Về nguồn gốc xã hội, ý thức được biểu hiện qua hình thức lao động và ngôn ngữ của
con người. Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
thế giới tự nhiên, tạo ra sản phẩm đáp ứng cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.
Lao động giúp cho sự hình thành và phát triển ý thức. Lao động giúp hoàn thiện thân
thể, hoàn thiện các giác quan của con người làm cho ý thức hình thành và phát triển.
Và trong quá trình lao động, con người đã sử dụng công cụ lao động tác động vào thế
giới tự nhiên, khiến cho thế giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật
vận động của nó, từ đó làm hình thành nên tri thức cho con người. Trong lao động,
ngôn ngữ được hình thành, từ đó thúc đẩy sự phát triển của ý thức. Ví dụ như Kinh
nghiệm trồng trọt: Khoai đất lạ, mạ đất quen; kinh nghiệm về thiên nhiên: Ráng mỡ
gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) là những hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý
thức. Trong quá trình lao động con người liên kết với nhau, tạo thành các mối quan
hệ xã hội tất yếu, dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với nhau điều gì đấy” nên
ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ trở thành “cái vỏ vật chất của ý thức”. Với tư cách là
công cụ để tư duy, con người sử dụng ngôn ngữu trong việc khái quát hóa, tổng kết
thực tiễn những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau. Với tự cách là phương tiện giao
tiếp, ngôn ngữ được sử dụng trao đổi thông tin, trao đổi tri thứcc từ người này qua
người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thông qua đó, ý thức được hình thành và
phát triển. Ví dụ con người đã sáng tạo ra ngôn ngữ và ghi chép lại trên các phiến đá,
thẻ tre hay bây giờ là ghi trên giấy để truyền lại cho các thế hệ ngày nay để tìm tòi,
nghiên cứu và phát triển.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của
ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 11
Câu 5: Bản chất và kết cấu của ý thức Bài làm
Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan
vào bộ não người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới
khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không
còn y nguyên như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua
tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu,… Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn
ngôn ngữ thì diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá
trong một dạng cụ thể của vật chất - là ngôn ngữ - cái mà con người có thể cảm giác
được. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và tồn tại được. Ví dụ, mọi
lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới
có chọn lọc - tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm
nắm bắt bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng
vượt trước (dự báo) của ý thức tạo nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác
động tốt, xấu lên kết quả của hoạt động mà con người đang hướng tới. Có dự báo đó,
con người điều chỉnh chương trình của mình sao cho phù hợp với dự kiến xu hướng
phát triển của sự vật, hiện tượng (dự báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các mô hình
lý tưởng, đề ra phương pháp thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Như vậy, ý
thức không chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan. Ví
dụ, con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng động trong việc
đáp ứng những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo trước về tương lai thể hiện sự sáng tạo.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối của các quy luật sinh học và
các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực
của xã hội quy định. Với tính năng động của mình, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo
nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng
một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác nhau
theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
Ví dụ, ý thức pháp luật nảy sinh từ việc giải quyết các hiện tượng xã hội, gìn giữ xã
hội phát triển. Mỗi thời đại, pháp luật lại có những quy định khác nhau, thể hiện sự
phát triển của xã hội (Thời kì bao cấp con người khi trao đổi hàng hóa đều phải sử
dụng tem phiếu, còn sau khi Đổi mới thì người dân có thể tự do buôn bán, trao đổi hàng hóa với nhau).
Quá trình ý thức gồm các giai đoạn: Một là trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể
với khách thể phản ánh; định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết. Hai là mô
hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại khách
thể phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần 11 lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 12
phi vật chất. Ba là Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực
hoá tư tưởng. Con người lựa chọn phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách
quan để thực hiện mục đích. Ví dụ, khi giải 1 bài toán ta làm theo các bước: đọc đề,
nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài → suy nghĩ cách làm, hình dung đề bài
theo ý hiểu của mình → tiến hành giải bài toán, biến suy nghĩ thành kết quả.
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu của nó.
Các lớp cấu trúc của ý thức là: tri thức, tình cảm, ý chí và niềm tin.
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức,
là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện
của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức
và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn
tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”. Căn cứ vào lĩnh vực
nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri thức về xã
hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể
chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý
luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,… Ví dụ, các kiến thức về tự nhiên: các loài
động vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên,…Các kiến thức về xã hội: thể chế chính
trị, giai cấp,…Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, lá lành đùm lá rách,…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các mối quan hệ .
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự
khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh.
Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một
yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi
chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những người vô sản và
nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng. Tùy vào từng đối
tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong các quan hệ
mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm
mỹ, tình cảm tôn giáo,… Ví dụ, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết một lòng
giúp nhân dân và quân đội Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
Niềm tin bao gồm hai gồm hai yếu tố cơ bản là tri thức kết hợp với tình cảm hình
thành nên. Để có niềm tin không phải có tri thức là đủ, mà còn cần phải có cảm xúc,
tức năng lực cảm nhận của thế giới nội tâm của con người. Xúc cảm phản ánh nhu cầu
tâm lý, thẩm mỹ, là hình thức phản ánh thế giới riêng có của con người có ý thức. Sự
tích hợp tri thức, xúc cảm tạo nên niềm tin cho chủ thể nhận thức.Tri thức có cấp độ
khác nhau, thể hiện trình độ của nhận thức; tình cảm cũng có cung bậc, tùy thuộc độ
thỏa mãn nhu cầu. Bên cạnh đó, niềm tin còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: thế giới
quan, kết quả hoạt động thực tiễn, điều kiện kinh tế- xã hội,…song kết cấu của nó
luôn bao gồm hai yếu tố cơ bản là tri thức và tình cảm. Ví dụ, trong những cuộc đấu
tranh giành lại độc lập, dân tộc Việt Nam luôn có niềm tin về một tương lai tươi sáng lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 13
phía trước. Bỡi lẽ họ luôn có những hiểu biết, tri thức cơ bản về tính chất của cuộc
đấu tranh và họ có tình cảm là lòng nồng nàn yêu nước.
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá
trình thực hiện mục đích của con người. Có thể coi ý chí là quyền lực của con người
đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích
một cách tự giác; cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán
trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí
không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa
của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố
tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết
liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại. Ví dụ, dù gặp vô vàn thiếu thốn, khó
khăn về vật chất trong suốt giai đoạn kháng chiến nhưng ý chí chiến đấu và chiến
thắng đã thôi thúc quân và dân ta vượt qua trở ngại, tiến đến thắng lợi.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức
là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định
hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
Các cấp độ của ý thức có ba cấp độ. Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân,
hoạt động của tinh thần, ở đó diễn ra sự thay đổi và tranh luận nội tâm. Tự ý thức
không chỉ là tự ý thức của cá nhân, mà còn là tự ý thức của các nhóm xã hội khác nhau
về địa vị của họ trong hệ thống quan hệ sản xuất, về lợi ích và lý tưởng của mình. Cấp
độ tiếp theo là tiềm thức. Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có từ trước nhưng
đã trở thành kỹ năng, kỹ xảo nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể. Cuối cùng là vô
thức. Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi
của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm hay sự kiểm tra, tính toán của lý trí
Câu 6: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức (vận
dụng vào quá trình học tập và lao động) Bài làm
Theo Lênin vật chất “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Vật chất tồn tại bằng cách vận
động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình.Không thể có vật chất
không vận động và không có vận động ở ngoài vật chất.Đồng thời vật chất vận động
trong không gian và thời gian.Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật
chất, là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể .
Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội. Bản chất của
ý thức là hình ảnh chủ quan của TG khách quan, là sự phản ánh tích cực, tự giác, lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 14 13
chủ động, sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn.
Chính vì vậy, không thể xem xét hai phạm trù này tách rời, cứng nhắc, càng không thể
coi ý thức (bao gồm cảm xúc,ý chí,tri thức,….) là cái có trước, cái sinh ra và quyết
định sự tồn tại, phát triển của thế giới vật chất.
Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức. Vật chất là cái có trước, nó
sinh ra và quyết định ý thức: Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não ngưòi –
cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não
người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ viết )trong
hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và
phát triển của ý thức . Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan.Vật chất là đối tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội dung,hình thức,khả
năng và quá trình vận động của ý thức . -Tác động trở lại của ý thức Ý thức do vật
chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó.Hơn nữa,sự
phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần,phản ánh sáng tạo và
chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si thế giới vật chất,vì vậy nó có tác
động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người . Dựa trên
các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục tiêu,phương hướng,xác định
phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì vậy,ý thức tác động đến vật chất
theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh
khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật
chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con
người không phù hợp với quy luật khách quan,do đó:sẽ kìm hãm sự phát triển của vật
chất. Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất
định chứ nó không thể sinh ra hoăc tiêu diệt các quỵ luật vận động của vật chất
được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế
giới vật chất . Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội
là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã
hội . Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,xem
xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý …
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái
đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã
hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ
những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ đó
. Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên
trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh thần.
Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải quyết
những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời cũng phải lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 15
nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh
thần,tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao.
Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu
cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và
thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.
Là một sinh viên năm nhất, em thấy bản thân mình cần phải xác định rõ các nhân tố
vật chất như điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, quy luật khách quan. Trong học tập,
nếu em được tiếp xúc với những cơ sở vật chất, phương pháp dạy tốt chúng ta sẽ cố
gắng học tập tốt, chiếm lĩnh tri thức tốt hơn. Cụ thể hơn, một tiết học Triết của một
giảng viên tâm huyết, truyền đạt bài thú vị, dễ hiểu sẽ khiến bản thân mình yêu môn
Triết và không sợ nó, thúc đẩy mình tìm hiểu thêm về Triết, nhưng nếu như giảng viên
môn Triết của mình thiếu tâm huyết, truyền đạt bài giảng không linh hoạt, khó hiểu
thì mình sẽ sinh ra tâm lý chán nản, không thích học môn Triết. Đó chính là vật chất
quyết định ý thức. Em đã vận dụng để nâng cao năng suất học tập của bản thân bằng
cách tạo ra những cơ sở vật chất tốt để thúc đẩy tinh thần học như : tìm kiếm một
phương pháp học tập phù hợp bản thân, trang trí sắp xếp góc học tập thật gọn
gàng,…Bên cạnh đó em còn đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành động
theo các quy luật mang tính khách quan, thể hiện qua một số hành động như không
cúp tiết, tham gia đầy đủ các buổi học, làm theo giáo viên hướng dẫn,…Cuối cùng,
khi giải thích các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh
thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố khách quan. Trước đây khi em đăng kí nguyện
vọng vào các trường đại học. Việc quan trọng nhất mà em xét đến chính là năng lực
của bản thân và điều kiện tài chính của gia đình để sắp xếp nguyện vọng một cách
thông minh và hợp lí nhất. Tránh trường hợp ngành học không phù hợp với bản thân
về cả năng lực lẫn tài chính
Câu 7: Hãy phân tích nguyên lý mối liên hệ phổ biến Bài làm
Trong khi cùng tồn tại, các đối tượng luôn tương tác lẫn nhau, qua đó thể hiện các
thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định mình là những đối tượng thực tồn.
Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm tối tượng, các thuộc tính của nó thay đổi, và một
trong số trường hợp có thể còn làm nó biến mất, chuyển hóa thành đối tượng khác. Sự
tồn tại của đối tượng, sự hiện hữu các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các tương tác
giữa nó có liên hệ với các đối tượng khác.
Liên hệ là khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa hai đối tượng trong đó sự thay đổi của
đối tượng này nhất định sẽ dẫn đến sự thay đổi của đối tượng kia. Và mối liên hệ là
một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng háy giữa các mặt của một sự vật hiện tượng. Ví dụ như
con người và cây xanh, cây xanh hấp thụ lượng khí CO2 và giải phóng khí ôxi trong lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 16
lành cần thiết cho con người. Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để
chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật và hiện tượng của thế giới. Trong 15
tư duy con người có những mối liên hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới; cây tơ
hồng, cây tầm gửi sống nhờ; nếu chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa duy vật siêu hình, nói rằng các sự vật, hiện tượng trong
thế giới tồn tại độc lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia; giữa chúng không có
sự liên hệ ràng buộc, quy định, chuyển hóa lẫn nhau hoặc nếu có thì chỉ là mối liên hệ
mang tính ngẫu nhiên, bề ngoài.
Ngược lại, theo Chủ nghĩa duy vật biện chứng, họ cho rằng các sự vật, hiện tượng
trong thế giớ tồn tại trong sự liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau, không
tách rời nhau. Cơ sở của mối liên hệ phố biến chính là tính thống nhất vật chất của thế
giới. Đây là nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Về tính chất của các mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng duy vật khẳng định tính
khách quan của các mối liên hệ, tác động trong thế giới. Các mối liên hệ đều là tự
thân, vốn có của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, hoàn toàn không bị lệ thuộc và
ý thức của con người mà hình thành. Minh chứng cho điều này, ta có thể thấy rằng sự
liên hệ giữa cây xanh và cơ thể sống của con người là sự liên hệ tự thân, hoàn toàn
không do sự tác động của ý thức con người; hay có những tình huống “oan gia ngõ
hẹp”, không hẹn mà gặp hoàn toàn không do ý thức của con người tác động lên.
Tính phổ biến của nguyên lý thể hiện ở chỗ mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa
lẫn nhau khôgn những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội,
trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật,
hiện tượng. Ví dụ trong buôn bán hàng hóa, dịch vụ thì giữa cung và cầu có mối liên
hệ với nhau. Giữa cung và cầu trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình tác động qua
lại. Cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, chuyển
hóa lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng của cả cung
và cầu. Đó cũng chính là những nội dung cơ bản khi phân tích về mối quan hệ biện
chứng giữa cung và cầu. Giữa tri thức cũng có mối liên hệ phổ biến. Khi chúng ta làm
đề kiểm tra toán, lý, hóa, chúng ta phải vận dụng kiến thức văn học để đánh giá đề thi.
Mối liên hệ phổ biến còn có tính đa dạng, phong phú. Các mối liên hệ giữa các sự vật,
hiện tượng, có thể chia thành nhiều loại; và trong điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì
mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng cũng khác nhau. Ví dụ như cô A vừa là một
người mẹ, người vợ khi ở nhà, là người giáo viên khi ở trường, là một Đảng viên khi ngoài xã hội...
Từ nội dung và các tính chất của mối liên hệ phổ biến, chúng ta có thể rút ra những ý
nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ này. Nguyên tắc toàn diện yêu cầu xem xét
sự vật hiện tượng: trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 17
tố, các thuộc tính cùng các mối liên hệ của chúng. Trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện
tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt
của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp. Trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa
là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại
và phán đoán cả tương lai của nó. Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến
diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng
lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào
thuật nguỵ biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược
lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau
vào một mối liên hệ phổ biến). VD: Để đánh giá phẩm chất năng lực của một con
người ta cần xem xét người đó trong mọi MQH khác nhau, trong các hoàn cảnh tình
huống khác nhau, trong sự thay đổi của cả một quá trình. Công dân A từng đi tù vì
trộm cắp tài sản, mọi người cho là người không đàng hoàng, có nhiều chỉ trích định
kiến về A nhưng sau khi ra tù, A đã thay đổi, ta cần có cái nhìn khác. A biết yêu thương
gia đình, tử tế giúp đỡ mọi người xung quanh, làm ăn lương thiện,...
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên
hệ cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự
vật hiện tượng. Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là không gian, thời gian với vận
động của vật chất, là quan niệm chân lý là cụ thể và chính nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến. Ví dụ: khi tham gia giao thông, đèn đỏ phải dừng lại nhưng khi đi cấp cứu,
cảnh sát giao thông phải cho ta đi; kinh tế nước ta thời kì trước Đổi mới là lạc hậu,
yếu kém nhưng đặt trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ: vừa bước ra khỏi chiến tranh,
thiệt hại về người và của thì phương thức kinh tế ấy là hợp lí, chưa thể ép người dân
làm kinh tế chủ nghĩa hay kinh tế tư bản,...
Câu 8: Hãy phân tích nguyên lý về sự phát triển Bài làm
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với nhau: quan
điểm siêu hình và quan điểm biện chứng. Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ
là sự tăng lên hay sự giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi gì về mặt
chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ
diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất
mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là một quá trình
tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một
quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa
tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư
duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co,
phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời. Theo quan điểm biện chứng, sự
phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 18
chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường
như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn. 17
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn
gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự
phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định.
Quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó, cũng là quá trình
tự thân phát triển của mọi sự vật.
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực,
quan điểm duy vật biện chứng khẳng định, phát triển là một phạm trù triết học dùng
để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Theo quan điểm này, phát triển không bao
quát toàn bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận
động - xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ.
Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát
triển của mình trong sự vật sẽ hình thành dần dần những quy định mới cao hơn về
chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức năng
vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển cũng có ba tính chất cơ
bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. Sự phát triển bao giờ
cũng mang tính khách quan. Bởi vì, như trên đã phân tích theo quan điểm duy vật biện
chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình
giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật.
Nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không
phụ thuộc vào ý thức của con người. VD: Sự phát triển của xã hội loài người: Công
xã nguyên thủy -> Chiếm hữu nô lệ -> Phong kiến -> Tư bản > Xã hội chủ nghĩa =>
Xã hội đi lên dần dần, con người không thể quay về được dù có muốn hay không.
Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó diễn
ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế
giới khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm
trong quá trình vận động và phát triển; chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức
của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù, mới có thể phản ánh đúng đắn hiện
thực luôn vận động và phát triển. Như xã hội loài người đã có ựu phát triển qua các
nền văn minh: nông nghiệp – công nghiệp – tri thức. Hay về tư duy, năng lực nhận
thức của con người về thế giưới tự nhiên ngày càng sâu sắc.
Sự phát triển còn mang tính kế thừa. Trong quá trình phát triển của sự vật, cái mới sẽ
ra đời thay thế cho cái cũ, trong đó cái mới không đoạn tuyệt hoàn toàn cái cũ mà sẽ
kế thừa những yếu tố tích cực, còn giá trị của cái cũ, đồng thời loại bỏ những yếu tố
tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ. Nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thay đổi lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 19
từng ngày, du nhập thêm những nét văn hóa mới (như Haloween, valentine, noel,...)
nhưng vẫn giữ gìn những nét văn hóa truyền thống của dân tộc (như ca trù, quan họ,...)
Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng chung của
mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển
không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát
triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự
tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động
đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi. Chẳng hạn, nói
chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở
các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện thuận
lợi mà xã hội mang lại. Trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước của các quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều
so với các quốc gia đã thực hiện chúng do đã thừa hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ
của các quốc gia đi trước. Song vấn đề còn ở chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và tận
dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào những nhà lãnh đạo và nhân
dân của các nước chậm phát triển và kém phát triển.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật, hiện tượng có thể có những giai
đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác, nhưng xem xét toàn bộ quá trình
thì chúng vẫn tuân theo khuynh hướng chung.
Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
con người phải tôn trọng quan điểm phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận
thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động,
nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ
nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát
triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những
biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để
vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển
của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức
và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự
phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.
Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con người. Song
để thực hiện được chúng, mỗi người cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng nguyên lOMoAR cPSD| 61470371 P a g e | 20 19
lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một
cách sáng tạo trong hoạt động của mình.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn,
nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh chung của
các nước xã hội chủ nghĩa như : bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan duy ý
chí ... dẫn đến sự suy thoái, khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn khẳng
định “CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ những
khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát
triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa
xã hội”. Nhận định này xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển và quan điểm phát triển
trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình hình thế giới cũng như tình hình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý chí là những căn
bệnh chung của các nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở, thậm chí
kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán với
quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có viết : “... Xóa
bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng
tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai”
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con đường XHCN là
căn cứ vào quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin tưởng
vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện nay CNXH
trên thế giới đang ở giai đoạn thoái trào và công cuộc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
của đất nước ta cũng như các nước XHCN.
Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy các sự
vật phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn
của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy được sự
phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp. Do đó vận dụng quan điểm về sự phát triển
vào thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay, trong điều kiện CNXH đã thoái
trào và sụp đổ; CNĐQ và các thế lực thù địch không ngừng chống phá các nước
XHCN còn lại thì quan điểm của Đảng CSVN là kiên quyết chống lại quan điểm bảo
thủ, trì trệ, bệnh giáo điều, định kiến và nhận định: Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước
nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song
loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tất yếu.
Qua những số liệu và đánh giá thực tế cho thấy được hiện tượng bạo lực học đường
ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Vậy nguyên nhân do đâu mà dẫn đến hiện
tượng bạo lực học đường trên? Bài viết xin Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân kết
quả vào cuộc sống về bạo lực học đường để giải đáp. Bạo lực học đường do một số nguyên nhân như sau: