Phần mở đu
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
xuyên chăm lo xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh.
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng là sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ
thể của cách mạng Việt Nam; chứa đựng những gtrị sâu sắc, bền vững, tiếp tục
định hướng cho công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một nhà
nước làm cho mọi người dân biết sống làm việc theo Hiến Pháp pháp luật.
Mặt khác, nhà nước đó “phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến chịu sự kiểm soát của nhân dân”. Một trong những mối quan tâm của
Người là làm sao đào tạo bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ chính quyền phù
hợp với bản chất của Nhà nước ta , thấm nhuần tinh thần “cán bộ đầy tớ trung
thành của nhân n”. người sáng lập ra Nhà nước ta, Người rất đề cao pháp
quyền, nhưng Hồ Chí Minh không lúc nào coi nhẹ vai trò của giáo dục đạo đức
pháp luật trong quản lý xã hội và nhà nước.
Hiện nay, hình Nhà Nước Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí
Minh đã phát huy thành quả tích cực trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc hơn 60
năm qua. Di sản tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước đã đang được toàn
Đảng, toàn dân kế thừa, phát triển trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ hiện đại hóa đất nước.
Phần nội dung
1.1. TTHCM về xây dựng nhà nước trong sạch vững mnh
1.1.1. Kiểm soát quyền lực nhà nưc
- Nguyên nhân cần phải kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước toàn bộ hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá để
ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi, những việc làm sai trái của các
chủ thể trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước bảo đảm cho quyền lực nhà
nước được sử dụng và thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật.
- Trước hết, kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc bản chất của
Nhà nước pháp quyền XHCN “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc vnhân dân”.
Tuy nhiên, một thực tế khách quan thường xảy ra dân không được bình đẳng với
Nhà nước về thông tin dẫn đến tình trạng: nhân dân thiếu thông tin hoặc không
được thông tin đầy đủ; nhà nước không nắm bắt đúng mục đích, lợi ích của nhân
dân; những người thực thi quyền lực cụ thể không hiểu rõ mục đích; hiểu đúng mục
đích nhưng không sử dụng quyền lực đúng cách, hợp lý; các đại diện lợi ích riêng
thể vượt quyền, lạm quyền làm tổn hại đến mục đích chung. Sự bất bình đẳng
này cộng với việc Nhà nước tổ chức duy nhất thuộc tính cưỡng chế dễ tạo ra
những hội cho các công chức xúc tiến những lợi ích của riêng họ hay những bạn
đồng minh của họ, làm thiệt hại cho lợi ích chung. Những khả năng kiếm lợi
tham nhũng là rất lớn.
- Thứ hai, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền XHCN còn tất yếu kỹ
thuật để thực thi quyền lực đạt hiệu quả. Do khả năng sai lệch trong nhận thức
thực thi quyền lực nhà nước, khả năng sử dụng quyền lực thiếu hiệu quả là thể
xảy ra. Hơn nữa, con người bị điều khiển bởi nhiều khát vọng, trong đó khát
vọng về quyền lực vừa là mục tiêu, vừa công cụ để đạt được các khát vọng khác.
Do đó, trong tổ chức quyền lực nhà nước cần phải sự kiểm soát một cách chặt
chẽ những con người làm việc trong bộ máy quyền lực nhà nước, để thể phát
hiện và xử lý được khi những người này không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân.
- Thứ ba, kiểm soát quyền lực nhà nước còn bắt nguồn từ đặc trưng Nhà nước ta do
một Đảng duy nhất lãnh đạo. Kiểm soát quyền lực giữa các chủ thể cấu thành hệ
thống chính trị là điều tất yếu, bao gồm:
+ Kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước.
+ Kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà
nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp, pháp, giữa quyền lực nhà nước ở trung
ương và quyền lực nhà nước ở địa phương.
+ Kiểm soát của chủ thể lãnh đạo nhà nước Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các chủ thể nói trên nhằm đảm bảo cho tổ
chức hoạt động của Nhà nước vận hành nhịp nhàng, ăn khớp thông suốt,
chống được lạm quyền, lộng quyền. Do đó, mục đích của việc kiểm soát quyền lực
để đảm bảo cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân - bản chất của Nhà
nước pháp quyền XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới xây dựng.
- Phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước
(1) Lấy dân làm gốc, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước
Trong tưởng Hồ Chí Minh, dân chính ngọn nguồn của mọi việc, làm được hay
không phụ thuộc rất nhiều nơi dân. Phải dân thì mới lực lượng cách mạng
phong trào cách mạng. Để dân tin vào Đảng và chế độ, thực hiện được sự nghiệp cao cả
của cách mạng thì càng phải gần gũi với nhân dân, phải “việc lợi cho dân phải hết
sức làm, việc gì hại cho dân phải hết sức tránh Nói m lại, muốn được dân
yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết
thảy, phải có một tinh thần c công vô tư”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng thể hiện mong muốn gắn bó với nhân dân trong công cuộc
xây dựng Nhà nước, đồng thời Nhà nước đảm nhiệm vai trò chăm lo đời sống của nhân
dân. Người đã từng khẳng định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết giá trị của tự do, của
độc lập khi dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân
ăn. 2. Làm cho dân mặc. 3. Làm cho dân chỗ ở. 4. Làm cho dân học hành. Cái
mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó.”
Bên cạnh đó, hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không đối lập hay tách rời nhau. Đảng trong
vai trò người cầm quyền thì càng phải ý thức sâu sắc về tinh thần, thái độ trách
nhiệm phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc,
Đảng không quyền lợi của riêng mình. Đảng phải trong dân, thấu hiểu lòng dân,
điều này được thể hiện Đại hội XIII của Đảng: “Phải đặc biệt coi trọng sự đoàn kết,
thống nhất ý chí hành động trong Đảng, trước hết trong Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ chính trị, Ban thư, lãnh đạo chủ chốt cấp ủy các cấp. Người đứng đầu các cấp
phải thực sự mẫu mực, nói đi đôi với làm, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đặt lợi ích của
quốc gia - dân tộc, nhân dân lên trên hết, trước hết. Thường xuyên tăng cường mối quan
hệ gắn mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai tcủa nhân dân thật sự
dựa vào dân để xây dựng Đảng”.
(2) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, lãnh
đạo chính quyền bằng pháp luật
Muốn xây dựng nhà nước, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh thì pháp
luật chính công chữu hiệu trong việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nhà
nước. Để thực hiện tốt chế này thì cần các giải pháp như: Xác định đúng đắn mối
quan hgiữa Đảng, nhà nước nhân dân, trong đó thì xác định vai trò, trách nhiệm
của Đảng trong nhiệm vụ định hướng, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng
hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo để xây dựng nhà nước của dân, do dân, dân, nhà
nước quản lý xã hội hiệu lực, hiệu quả bằng pháp luật. Sự quản của nhà nước một
mặt nhằm tổ chức thực hiện hiệu quả các chủ trương, đường lối, quan điểm chính trị
của Đảng, mặt khác cũng đảm bảo được sự dân chủ, công bằng, minh bạch trong mọi
hoạt động trong đời sống xã hội.
Ngoài ra, việc tăng cường vai trò của pháp luật cũng góp phần xây dựng n
nước, chính quyền các cấp trong sạch thì cần tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật.
Hệ thống pháp luật Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng sản phẩm của chế độ
một “mục đích duy nhất mưu tự do hạnh phúc cho mọi ngườiđặt quyền lợi nhân
dân lên hết thảy” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t4, tr.21). Người chỉ rõ: “Pháp luật của
ta hiện nay bảo vệ quyền lợi của hàng triệu người lao động… Pháp luật của ta pháp
luật thật sự dân chủ, nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”
(Bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị pháp toàn quốc năm 1950). Như vậy, trong
tưởng của Người thì pháp luật sinh ra dân. Mối quan hệ giữa nhà nước và mỗi
nhân được xây dựng trên nguyên tắc: quan nhà nước thì được làm những luật cho
phép, còn công dân thì được làm tất cả trừ những điều pháp luật cấm.
(3) Cách thức tổ chức bộ máy nhà nước sự phân công, phân nhiệm giữa quan
thực thi quyền lực nhà nước
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp luật thể hiện trong những quy
định về tổ chức bộ máy nhà nước do Người trực tiếp lãnh đạo, chđạo thiết kế
hình tổ chức bộ máy nhà nước, thể hiện trong nội dung các bản hiến pháp c sắc
lệnh, đạo luật lúc Người còn sinh thời. Hiến pháp năm 1946 được xem một bản
Hiến pháp mang đậm dấu ấn của tưởng Hồ Chí Minh, được thiết kế theo tưởng
dân chủ, pháp quyền, tạo nên nguyên tắc phương thức tổ chức hoạt động của
bộ máy nhà nước sao cho lạm quyền, lộng quyền không thể xảy ra quyền tự do,
dân chủ của nhân dân được ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ bảo đảm. Bộ máy nhà
nước các thành tố bản như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân
dân chính quyền địa phương. Với mỗi thành tố bản trong bộ máy nhà nước,
Người đều có những chỉ dẫn khá cụ thể về cách thức tổ chức và hoạt động, bảo đảm
các thành tố đó thể hiện được bản chất của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Preview text:

Phần mở đầu
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
xuyên chăm lo xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng là sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ
thể của cách mạng Việt Nam; chứa đựng những giá trị sâu sắc, bền vững, tiếp tục
định hướng cho công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một nhà
nước làm cho mọi người dân biết sống và làm việc theo Hiến Pháp và pháp luật.
Mặt khác, nhà nước đó “phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”. Một trong những mối quan tâm của
Người là làm sao đào tạo và bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ chính quyền phù
hợp với bản chất của Nhà nước ta , thấm nhuần tinh thần “cán bộ là đầy tớ trung
thành của nhân dân”. Là người sáng lập ra Nhà nước ta, Người rất đề cao pháp
quyền, nhưng Hồ Chí Minh không lúc nào coi nhẹ vai trò của giáo dục đạo đức và
pháp luật trong quản lý xã hội và nhà nước.
Hiện nay, mô hình Nhà Nước Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí
Minh đã phát huy thành quả tích cực trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc hơn 60
năm qua. Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước đã và đang được toàn
Đảng, toàn dân kế thừa, phát triển trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ hiện đại hóa đất nước. Phần nội dung
1.1. TTHCM về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh
1.1.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước
- Nguyên nhân cần phải kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá để
ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi, những việc làm sai trái của các
chủ thể trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước bảo đảm cho quyền lực nhà
nước được sử dụng và thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật.
- Trước hết, kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của
Nhà nước pháp quyền XHCN là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.
Tuy nhiên, một thực tế khách quan thường xảy ra là dân không được bình đẳng với
Nhà nước về thông tin dẫn đến tình trạng: nhân dân thiếu thông tin hoặc không
được thông tin đầy đủ; nhà nước không nắm bắt đúng mục đích, lợi ích của nhân
dân; những người thực thi quyền lực cụ thể không hiểu rõ mục đích; hiểu đúng mục
đích nhưng không sử dụng quyền lực đúng cách, hợp lý; các đại diện vì lợi ích riêng
có thể vượt quyền, lạm quyền làm tổn hại đến mục đích chung. Sự bất bình đẳng
này cộng với việc Nhà nước là tổ chức duy nhất có thuộc tính cưỡng chế dễ tạo ra
những cơ hội cho các công chức xúc tiến những lợi ích của riêng họ hay những bạn
bè đồng minh của họ, làm thiệt hại cho lợi ích chung. Những khả năng kiếm lợi và tham nhũng là rất lớn.
- Thứ hai, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền XHCN còn là tất yếu kỹ
thuật để thực thi quyền lực đạt hiệu quả. Do khả năng sai lệch trong nhận thức và
thực thi quyền lực nhà nước, khả năng sử dụng quyền lực thiếu hiệu quả là có thể
xảy ra. Hơn nữa, con người bị điều khiển bởi nhiều khát vọng, trong đó có khát
vọng về quyền lực vừa là mục tiêu, vừa là công cụ để đạt được các khát vọng khác.
Do đó, trong tổ chức quyền lực nhà nước cần phải có sự kiểm soát một cách chặt
chẽ những con người làm việc trong bộ máy quyền lực nhà nước, để có thể phát
hiện và xử lý được khi những người này không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
- Thứ ba, kiểm soát quyền lực nhà nước còn bắt nguồn từ đặc trưng Nhà nước ta do
một Đảng duy nhất lãnh đạo. Kiểm soát quyền lực giữa các chủ thể cấu thành hệ
thống chính trị là điều tất yếu, bao gồm:
+ Kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước.
+ Kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa quyền lực nhà nước ở trung
ương và quyền lực nhà nước ở địa phương.
+ Kiểm soát của chủ thể lãnh đạo nhà nước là Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các chủ thể nói trên là nhằm đảm bảo cho tổ
chức và hoạt động của Nhà nước vận hành nhịp nhàng, ăn khớp và thông suốt,
chống được lạm quyền, lộng quyền. Do đó, mục đích của việc kiểm soát quyền lực
là để đảm bảo cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân - bản chất của Nhà
nước pháp quyền XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới xây dựng.
- Phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước
(1) Lấy dân làm gốc, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chính là ngọn nguồn của mọi việc, làm được hay
không phụ thuộc rất nhiều ở nơi dân. Phải có dân thì mới có lực lượng cách mạng và
phong trào cách mạng. Để dân tin vào Đảng và chế độ, thực hiện được sự nghiệp cao cả
của cách mạng thì càng phải gần gũi với nhân dân, phải “việc gì có lợi cho dân phải hết
sức mà làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh … Nói tóm lại, muốn được dân
yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết
thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng thể hiện mong muốn gắn bó với nhân dân trong công cuộc
xây dựng Nhà nước, đồng thời Nhà nước đảm nhiệm vai trò chăm lo đời sống của nhân
dân. Người đã từng khẳng định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân
ăn. 2. Làm cho dân mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành. Cái
mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó.”
Bên cạnh đó, hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không đối lập hay tách rời nhau. Đảng trong
vai trò là người cầm quyền thì càng phải có ý thức sâu sắc về tinh thần, thái độ trách
nhiệm phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc,
Đảng không có quyền lợi của riêng mình. Đảng phải ở trong dân, thấu hiểu lòng dân,
điều này được thể hiện rõ ở Đại hội XIII của Đảng: “Phải đặc biệt coi trọng sự đoàn kết,
thống nhất ý chí và hành động trong Đảng, trước hết trong Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ chính trị, Ban bí thư, lãnh đạo chủ chốt và cấp ủy các cấp. Người đứng đầu các cấp
phải thực sự mẫu mực, nói đi đôi với làm, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đặt lợi ích của
quốc gia - dân tộc, nhân dân lên trên hết, trước hết. Thường xuyên tăng cường mối quan
hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân và thật sự
dựa vào dân để xây dựng Đảng”.
(2) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, lãnh
đạo chính quyền bằng pháp luật
Muốn xây dựng nhà nước, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh thì pháp
luật chính là công cụ hữu hiệu trong việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nhà
nước. Để thực hiện tốt cơ chế này thì cần có các giải pháp như: Xác định đúng đắn mối
quan hệ giữa Đảng, nhà nước và nhân dân, trong đó thì xác định vai trò, trách nhiệm
của Đảng trong nhiệm vụ định hướng, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo để xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, nhà
nước quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả bằng pháp luật. Sự quản lý của nhà nước một
mặt nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối, quan điểm chính trị
của Đảng, mặt khác cũng đảm bảo được sự dân chủ, công bằng, minh bạch trong mọi
hoạt động trong đời sống xã hội.
Ngoài ra, việc tăng cường vai trò của pháp luật cũng góp phần xây dựng nhà
nước, chính quyền các cấp trong sạch thì cần tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật.
Hệ thống pháp luật mà Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng là sản phẩm của chế độ có
một “mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người… đặt quyền lợi nhân
dân lên hết thảy” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t4, tr.21). Người chỉ rõ: “Pháp luật của
ta hiện nay bảo vệ quyền lợi của hàng triệu người lao động… Pháp luật của ta là pháp
luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”
(Bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1950). Như vậy, trong tư
tưởng của Người thì pháp luật sinh ra là vì dân. Mối quan hệ giữa nhà nước và mỗi cá
nhân được xây dựng trên nguyên tắc: cơ quan nhà nước thì được làm những gì luật cho
phép, còn công dân thì được làm tất cả trừ những điều pháp luật cấm.
(3) Cách thức tổ chức bộ máy nhà nước và sự phân công, phân nhiệm giữa cơ quan
thực thi quyền lực nhà nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật thể hiện trong những quy
định về tổ chức bộ máy nhà nước do Người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thiết kế mô
hình tổ chức bộ máy nhà nước, thể hiện trong nội dung các bản hiến pháp và các sắc
lệnh, đạo luật lúc Người còn sinh thời. Hiến pháp năm 1946 được xem là một bản
Hiến pháp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Hồ Chí Minh, được thiết kế theo tư tưởng
dân chủ, pháp quyền, tạo nên nguyên tắc và phương thức tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước sao cho lạm quyền, lộng quyền không thể xảy ra và quyền tự do,
dân chủ của nhân dân được ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm. Bộ máy nhà
nước có các thành tố cơ bản như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân
dân và chính quyền địa phương. Với mỗi thành tố cơ bản trong bộ máy nhà nước,
Người đều có những chỉ dẫn khá cụ thể về cách thức tổ chức và hoạt động, bảo đảm
các thành tố đó thể hiện được bản chất của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.