



















Preview text:
Câu hỏi 1)
Các nhân tố góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
1.1) Các giá trị tư tưởng và văn hóa truyền thống của dân tộc:
"Được coi là cái nôi của sức mạnh tinh thần"
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã tạo nên một
nền văn hóa vô cùng phong phú và bền vững với 3 truyền thống tốt đẹp, đó là:
1.1.1) Chủ nghĩa yêu nước, ý thức chủ quyền quốc gia, ý chí tự lực tự
cường,...đấu tranh bất khuất để dựng và giữ nước (Sau chiến dịch Điện Biên phủ, năm 1954)
1.1.2) Tinh thần nhân nghĩa, tương thân tương ái, "lá lành đùm lá rách"; kế
thừa truyền thống này, HCM thường nhấn mạnh 4 chữ Đồng: "đồng tình, đồng
sức, đồng lòng, đồng minh".
1.1.3) Dân tộc Việt Nam có truyền thống lạc quan yêu đời: Họ thường động
viên nhau, chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.
1.1.4) Dân tộc VN là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong
chiến đấu, lao đọng và học tập, đồng thời cũng là một dân tộc ham học hỏi và biết
đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
1.2) Tinh hoa văn hóa của nhân loại:
1.1.1) Tư tưởng và văn hóa phương Đông: ❖ Nho giáo:
Là một học thuyết chính trị xã hội chủ trương dùng đạo đức để quản lý và bình
ổn xã hội (hay còn gọi là Đức trị). Trong Nho giáo những mặt tiêu cực bị HCM
phê phán, bác bỏ như tư tưởng phân chia đẳng cấp và giai cấp trong xã hội(1), coi
khinh lao động(2), coi khinh phụ nữ(3),...
(1) giai cấp bóc lột >< giai cấp bị bóc lột
kẻ xâm lược >< nước bị nô dịch
Đây là nguồn gốc sinh ra giai cấp này bóc lột giai cấp khác, dân tộc bóc lột dân tộc khác.
(2) Nho giáo cho rằng "Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thủ cao"
(Vạn nghề trong xã hội đều đáng coi khinh, duy chỉ có nghề làm văn, làm thơ là
đáng ngưỡng mộ). Đây là sự xem thường những nghề chân lấm tay bùn, đề cao tri
thức. Theo HCM: "nhất nông, nhì sĩ"
Còn những mặt tích cực của nho giáo thì được HCM kế thừa có chọn lọc như:
tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời (Khổng Tử >< Lão Tử), tư tưởng thân dân
như "dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" (dân > xã tắc > vua), hoặc thấy
được sức mạnh to lớn của nhân dân "Dân duy bang bản, bản cố bang minh" (dân
là gốc nước, gốc có vững thì nước mới bền); tư tưởng đề cao văn hóa, lễ giáo đã
tạo nên tuyề thống hiếu học tu thân dưỡng tính,... ❖ Phật giáo:
Là một tôn giáo nhưng phật giáo không tránh khỏi những mặt hạn chế của nó,
đó là nó cho rằng nỗi đau khổ, bất hạnh, bất công ở trần thế đều là do tiền duyên
kiếp trước, ăn ở thất đức nên kiếp này phải trả. Từ sự giải thích sai lầm này, vô
hình trung nó hướng con người chit biết đi tìm sự bù trừ hư ảo ở kiếp sau (Niết
Bàn). Điều này đã thủ tiêu phong trào chống bóc lột của quần chúng lao động
nhằm vào giai cấp thống trị bóc lột đương thời.
Còn những mặt tích cực của Phật giáo thì được HCM tiếp bước, cải tạo và
nâng cao; như : tư tưởng vị tha, từ bi, hỉ xả, cứu khổ cứu nạn, tư tưởng bình đẳng,
không phân chia đảng cấp và giai cấp trong xã hội; và nhất là tinh thần lục hòa,...
rất được HCM coi trọng và kế thừa.
Ngoài ra, HCM còn tiếp thu những giá trị tích cực trong các tư tưởng của Lão Tử,
Hàn Phi Tứ, Thánh Ghandi cũng như chủ nghĩa Tam Gian của Tôn Trung Sơn (dân
tộ độc lập, dân quyền, tự do, dân sinh hạnh phúc), theo HCM nó có nhiều điểm phù hợp với cách mạng VN.
1.1.2) Tư tưởng và văn hóa phương Tây:
Ngay khi còn trong nước, Nguyễn Tất Thành đã tiếp xúc với văn hóa phương
Tây, đó là khi anh còn học ở trường Pháp - Việt (Đông Ba) và trường Quốc Học
Huế. Và có thể nói rằng nội dung cốt lõi của chủ nghĩa nhân văn trong văn hóa
phương Tây là " tự do - bình đẳng - bác ái ". Nó từng được coi là 1 trong những
nhân tố thôi thúc HCM sang phương Tây tìm đường cứu nước. Về sau này, khi đã
sang phương Tây, HCM còn có nhiều nghiên cứu và tiếp thu các giá trị văn hóa -
dân chủ tích cực như ở các nhà tư tưởn nổi tiếng: Vinté, Mông Tex Ki Ơ, Rút Xô,...
Nhìn chung các giá trị văn hóa - dân chủ phương Tây, nó giúp cho HCM thấy
rằng dưới chế độ tư bản chủ nghĩa người bóc lột thì không thể thực hiện các quyề
tự do, bình đẳng với nhân dân lao động được. Vì thế người không lựa chọn con
đường cách mạng tư sản để giải phóng dân tộc, đồng thời các giá trị văn hóa - dân
chủ đó, nó còn ảnh hưởng sâu sắc đến tác phong, lề lối làm việc của người sau này.
1.3) Chủ nghĩa Mác - Lê Nin:
Nó được coi là cơ sở lý luận quan trọng nhất, quyết định nhất để hình thành
nên tư tưởng HCM. Như người đã chỉ rõ, Chủ nghĩa Mác - Lê Nin đối với nước ta
mà nói không chỉ là cẩm nang thần kỳ mà còn là mặt trời soi sáng con đường
chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng.
Sỡ dĩ HCM khẳng định như trên là vì khi tiếp thu và vận dụng Chủ nghĩa Mác
- Lê Nin vào cách mạng VN, người đã nắm vững các nhạt nhân cốt lõi của nó. Đó
là phương pháp biện chứng duy vật để trên cơ sở đó tổng kết lịch sử, đúc kết kinh
nghiệm thự tiễn và tích lũy kiến thức, nhằm tìm ra con đường và phương pháp
đúng đắn và khoa học để giải phóng cho dân tộc.
1.4) Phẩm chất cá nhân của HCM:
Sự hình thành và phát triển tư tưởng HCM ngoài nguồn gốc tư tưởng cũng như
sự tác động sâu sắc bởi điều kiện lịch sử của dân tộc, của thời đại, của quê hương
và gia đình còn phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất đạo đức và năng lực tư duy của
HCM,... hay còn gọi là vai trò của các nhân tố chủ quan.
Trước hết, HCM là một con người sống có hoài bão, có lòng yêu nước thương
dân vô cùng sâu sắc, đồng thời HCM cũng là một con người có đức tính khiêm tốn,
giản dị, thông minh, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới và nhất là có đầu óc phê
phán tư tưởng,...Chính nhờ vậy mà HCM không bị cái vả hào nhoáng của CNTB
đánh lừa, không bị những học thuyết đầy những mĩ từ của CNTB mê hoặc, mà
người vẫn tìm đến chân lý thời đại, đó là Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, để trên cơ sở
đó xây dựng được một hệ thống quan điểm sáng tạo và toàn diện chủ nghĩa cách
mạng nhằm giải phóng dân tộc, tiến đến giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Câu 2. Nội dung tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
Vấn đề dân tộc mà HCM đề cập đến chủ yếu là vấn đề dân tộc thuộc địa, tức là đấu
tranh xóa bỏ áp bức bóc lột của thực dân, đế quốc, thực hiện quyền dân tộc tự
quyết, quyền thành lập một nhà nước dân tộc độc lập. Nhìn chung, tư tưởng HCM
về vấn đề dân tộc bao gồm những luận điểm cơ bản sau:
a) Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc.
-Trên hành trình tìm đường cứu nước, sau khi nghiên cứu và tiếp thu những
giá trị tích cực trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) và Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1791), HCM đã khát quát thành quyền
cơ bản của các dân tộc: “ Các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.”
-Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi bản yêu sách 8 điều lên hội nghị Véc
Xây để đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân mình nhưng đã bị các nước
đế quốc gạt ra một bên. Từ thực tế này cùng với kinh nghiệm của bản thận,
Nguyễn Ái Quốc đã rút ra những kết luận rất quan trọng đối với cánh mạng
ở thuộc địa, đó là “Tự do-bình đẳng-bác ái” mà giai cấp tư sản thường rêu
rao chẳng qua là “trò bịp bợm”.
-Các dân tộc thuộc địa muốn được giải phóng chỉ có thể trông cậy vào mình
và dựa vào bản thân mình là chính.
-Tư tưởng về độc lập tự do được thể hiện trong nhiều bài nói của Hồ Chí
Minh nhưng tập trung nhất là trong Tuyên ngôn độc lập ( 2/9/1945), như
Người đã viết: “ Nước VN có quyền hưởng tự do và độc lập, và sựu thật đã
trở thành một nước tự do, độc lập. Dân tộc VN quyết đem tát cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.”
[ HCM; Toàn tập; Nhà xuất bản CTQG; Hà Nội; Năm 2000; Tập 4; Trang 04]
-Tư tưởng trên về sau này đã được HCM đúc kết thành một chân lí cho
thắng lợi cách mạng của nước ta, đó là “ Không có gì quý hơn độc lập, tự
do” [ Sách đã dẫn; Tập 12; Trang 108]
Tóm lại, độc lập tự do không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống của Hồ chí
Minh, đồng thời nó còn là nguồn động lực to lướn cho dân tộc ta và các dân
tộc thuộc địa trên thế giới trong sựu nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do.
b) Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của các nước đang đấu tranh
giành quyền độc lập dân tộc. ( bổ sung phần đầu)
*) Phân tích luận điểm sáng tạo của HCM về vấn đề dân tộc.
Đây được coi là luận điểm sáng tạo của HCM vì:
Lúc bấy giờ, Quốc tế Cộng sản do vận dụng thiếu sang tạo chủ nghĩa Mác trong
thời kì đế quốc chủ nghĩa , lại bị tư tưởng tả khuynh chi phối ( tức là tư tưởng tuyệt
đối hóa vấn đề gaii cấp và đấu tranh giai cấp, xem nhẹ vấn đề dân tộc thuộc địa), từ
đó không có sự quan tâm giúp đỡ đúng mức cho dân tộc thuộc địa: Thậm chí trong
đại hội VI năm 1928, Quốc tế cộng sản còn phê phán là HCM đi vào chủ nghĩa dân
tộc hẹp hòi của tư sản, coi nhẹ vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp là sai lầm.
Ngược lại, ngay năm 1924, tại Đại hội V của Quốc tế Cộng sản , Nguyễn Ái Quốc
đã chỉ rõ ở các nước đang đấu tranh giành độc lập thì “Chhur nghĩa dân tộc là một
động lực to lớn của đất nước” [HCM; Toàn tập; Nhà xuất bản CTQG; Hà Nội;
Năm 2000; Tập 1; Trang 466] - Phần còn lại học tài liệu
c.1) Kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và đấu tranh giai cấp, độc lập dân tộc
và CNXH, CN yêu nước và chủ nghĩa quốc tế:
Tức là kết hợp và giải quyết hài hòa giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, không
được coi nặng lợi ích dân tộc mà xem nhẹ và bỏ rơi lợi ích giai cấp và ngược lại.
Đây được coi là luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh vì:
-Thời kì Mác và Ănghen: Chủ nghĩa tư bản đang ở giai đoạn tự do cạnh tranh nên
mâu thuẫn giữa tư sản và công nhân là mâu thuẫn chủ yếu nhất, gay gắt nhất, do đó
khi xây dựng học thuyết của mình, Mác và Ănghen chỉ chủ yếu tập trung vào vấn
đề giai cấp như Lê-nin đã nói: Ở Mác vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.
-Thời kì Lê-nin: Chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, đây là thời kì
các nước đế quốc đi xâm lược và nô dịch hàng trăm dân tộc thuộc địa làm cho mâu
thuẫn giữa dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt, tất yếu dẫn
đến phong trào cách mạng dân tộc giải phóng ở thuộc địa diễn ra ngày càng mạnh
mẽ. Chính trong bối cảnh lịch sử đó, Lê-nin đã xây dựng thành hệ thống lí luận về
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nhưng Lê-nin chưa có điều kiện để thực
hiện nó vì năm 1924, Lê-nin mất.
Ở HCM, ngay khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản thì Người đã có sự gắn
bó thống nhất giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp,
giữa dân tộc với quốc tế. Như về sau này trong “Chính cương vắn tắt và sách lược
vắn tắt” (1930). HCM đã vạch rõ: C MVN phải trải qua hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” ( Cách
mạng dân tộc Dân chủ nhân dân) => mục tiêu giành độc lập dân tộc.
⇨ Là biểu hiện tập trung cho lợi ích của cả dân tộc.
Giai đoạn 2: “Để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa”
(Cách mạng xã hội chủ nghĩa) => Chủ nghĩa xã hội=> Là biểu hiện tập trung cho lợi ích giai cấp.
Theo HCM, nước ta là nước thuộc địa thì trước hết phải đánh đuổi đế quốc, giành
độc lập dân tộc thì sau đó mới có điều kiện thuận lợi thực hiện cách mạng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm giải quyết vấn đề giai cấp. Hay nói
cách khác, trước hết phải gải quyết cho được lợi ích dân tộc ( độc lập dân tộc )thì
mới có tiền đềvaf điều kiện thuận lợi để giải quyết lợi ích giai cấp ( chủ nghĩa xã hội).
+Mặt khác, theo HCM , nếu xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc mà không xóa bỏ tình
trạng áp bức bóc lột giai cấp ( chủ nghĩa xã hội) thì nhân dân lao động vẫn chưa
được giải phóng vì thế sau khi độc lập dân tộc rồi vẫn tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội, ngược lại CNXH làm cho dân giauf nước mạnh thì đến lượt nó lại là cơ sở
đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Nhìn chung, quan điểm trên của HCM vừa
phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách
mạng vô sản vừa thể hiện rõ nét nhất sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc giai
cấp, độc lập dân tộc và CNXH trong tư tưởng của Người.
c.2) Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
-Là một người yêu nước chân chính, đến với chủ nghĩa Mác Lê-nin từ khát vọng
giải phóng dân tộc nên HCM luôn có sự gắn bó thống nhất giữa chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như Ăngghen đã nhận định: “ Những
tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư
tưởng quốc tế chân chính.” [ Các Mác và Ph. Ăngghen; Toàn tập; NXB Tiến Bộ;
Mátxcơva; Năm 1989; Tập 33; Trang 374]
-Ngay năm 1914, Nguyễn Tất Thành đã tưng nói: “chúng ta phải tranh đấu cho độc
lập tự do của dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy” [ Hồ Chí Minh
truyện; Bản dịch tiếng Trung của Trương Niệm Thức; Bát Nguyệt xuất bản xã;
thượng Hải; tháng 6/1949; Trang 32]
Vì theo HCM: “Giúp bạn là tự giúp mình”, hơn nữa thắng lợi của cách mạng mỗi
nước sẽ góp phần vào thắng lưoij chung của cách mạng thế giới.
II) Tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc:
Bao gồm những luận điểm cơ bản sau:
1) CMVN muốn thắng lợi phải đi theo con đường CM vô sản
Câu hỏi: Theo HCM, CMVN muốn thắng lợi phải đi theo con đường CM vô
sản, dựa vào cơ sở thực tiễn lý luận nào để HCM đưa ra quan điểm trên? Liên
hệ tới thực tế CM nước ta từ khi đấu tranh theo con đường cách mạng vô sản đến nay. Gợi ý:
*) Về cơ sở thực tiễn
-Trước 1930, khi chưa đấu tranh theo con đường cách mạng vô sản thì hàng trăn
phong trào yêu nước đều thất bại cho thấy đât nước ta đang khủng hoảng về một
đường lối cứu nước đúng đắn
- Khi nghiên cứu CM tư sản Pháp (1789), Cách mạng tư sản Mỹ ( 1776), Hồ chí
Minh cho đây là những cuộc cách mạng không đến nơi vì cách mạng thắng lợi rồi
mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động còn bị bóc lột=> Do đó HCM không
lựa chọn cách mạng tư sản.
-Sau khi nghiên cứu CM tháng mười Nga (1917), HCM thấy đây là một cuộc CM
sâu sắc và triệt để nhất vì nó đưa lại chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân
dân lao động-> để từ đó họ có điều kiện xóa bỏ chế độ người bóc lột người và xây
dựng một xã hội công bằng , bình đẳng cho con người=> HCM lựa chọn con
đường CM vô sản để gải phóng dân tộc.
*) Về cơ sở lí luận
Khi bắt gặp chủ nghĩa Mác Lê-nin, HCM thấy đây là một học thuyết cách mạng và
khoa học, nó đã giúp Người tìm thấy được con đường cách mạng sâu sắc triệt để
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đó là con
đường cách mạng vô sản.
Câu hỏi: Liên hệ tới thực tiễn cách mạng VN từ khi đi theo con đường CMVS đến nay:
-Thắng lợi của Cách mạng tháng 8 (1945) đã đưa dân tộc ta từ than phận nô lệ trở
thành một dân tộc có độc lập, chủ quyền.
-Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954): giải phóng miền Bắc, cổ vũ hàng trăm dân tộc
thuộc địa giải phóng đưuocj mình.
-Sau 1954, tuy phải đối đầu với siêu cường đế quốc Mỹ, nhưng đến 1973 ta đã
“Đánh cho Mỹ cút” và 1975 “Đánh cho Ngụy nhào”, thống nhất đất nước.
-Từ 1976- trước 1986, do sai lầm về đường lối nên đã làm đất nước khủng hoảng
trầm trọng nhưng từ 1986 đến nay, Đảng đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, nhờ đó
sau hơn 25 năm đổi mới, nhân dân ta đạt được nhiều thành tựu:
+Nền kinh tế phát triển năng động
+Nạn lạm phát được chặn đứng
+ An ninh, chính trị được giữ vững
+Vị trí nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Kết luận:
Từ những cột mốc thắng lợi và những sự kiện trên cho thấy thực tiền CMVN muốn
thắng lợi phải đi theo CMVS.
2) CM giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do ĐCS lãnh đạo.
Câu hỏi: Theo HCM: “CM giải phóng phóng dân tộc trong thời đại mới phải
dlo DCS lãnh đạo.”, dựa vào cơ sở lỹ luận và thực tiền nào để HCM đưa ra
quan điểm trên, liên hệ CM nước ta từ khi có ĐCS đến nay. Gợi ý: Ý 1:
*Về cơ sở lý luận:
Khi vận dụng chủ nghĩa Mác Lê-nin vào cách mạng nước ta, đương nhiên HCM
phải vận dụng hai điều kiện mà các nhà kinh điển Macxit đã nêu: Giai cấp công
nhân chỉ có thể chiến thắng giai cấp tư sản khi có 2 điều kiện:
+) Có sự lãnh đạo của đảng cộng sản
+) Xây dựng khối liên minh công nông
*Về cơ sở thực tiễn
Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng 10 Nga (1917) do ĐCS NGa lãnh đạo, chính
thắng lợi này càng giúp HCM thấy rõ vai trò quan trọng của ĐCS đối với sự thắng lợi của CM nước ta. Ý 2:
Liên hệ tới thực tiễn cách mạng VN từ khi đi theo con đường CMVS đến nay:
-Thắng lợi của Cách mạng tháng 8 (1945) đã đưa dân tộc ta từ than phận nô lệ trở
thành một dân tộc có độc lập, chủ quyền.
-Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954): giải phóng miền Bắc, cổ vũ hàng trăm dân tộc
thuộc địa giải phóng đưuocj mình.
-Sau 1954, tuy phải đối đầu với siêu cường đế quốc Mỹ, nhưng đến 1973 ta đã
“Đánh cho Mỹ cút” và 1975 “Đánh cho Ngụy nhào”, thống nhất đất nước.
-Từ 1976- trước 1986, do sai lầm về đường lối nên đã làm đát nước khủng hoảng
trầm trọng nhưng từ 1986 đến nay, Đảng đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, nhờ đó
sau hơn 25 năm đổi mới, nhân dân ta đạt được nhiều thành tựu:
+Nền kinh tế phát triển năng động
+Nạn lạm phát được chặn đứng
+ An ninh, chính trị được giữ vững
+Vị trí nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Kết luận:
Từ những cột mốc thắng lợi và những sự kiện trên cho thấy thực tiền CMVN muốn
thắng lưoij phải đi theo CMVS.
II) Tư tưởng HCM về XD một nhà nước của dân, do dân, vì dân
1) Tư tưởng HCM về XD một nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Đây được coi là luận điểm sáng tạo của HCM vì:
-Ở các nhà kinh điển Mácxit, khi đề cập đến Nhà nước XHCN, các ông thường gọi
là nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ vô sản, Nhà nước cảu giai cấp công nhân,
hay còn gọi là nền chuyên chính vô sản…
Với cách gọi này muốn nhấn mạnh bản chất của giai cấp công nhân của nhà nước
XHCN chứ không gọi là nhà nước của dân, do dân, vì dân như HCM
-Trái lại, vận dụng quan điểm sáng tạo về Nhà nước của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào
thực tiễn CM VN, HCM cho rằng: Vấn đề cơ bản của mọi cuộc CM là vấn đề
chính quyền vì vấn đề cơ bản của chính quyền là ở chỗ “Nó thuộc về ai?”( tức là
của giai cấp nào?) “ Nó bảo về và phục vụ lợi ích cho ai?” ( Tức là cho giai cấp nào?)
Tư tưởng trên được HCM tiếp tục chỉ rõ: “Chúng ta đã hi sinh làm CM thì phải
làm cho đến nơi, để làm sao CM rồi, thì quyền phải giao cho dân chúng số nhiều,
chớ để trong tay bọn ít người, thế mới khỏi hi sinh nhiều lần,thế dân chúng mới
được hạnh phúc”. [ Sách đã dẫn, tập 2, trang 270].
-Về sau này, khi đã giành được độc lập dân tộc, HCM tiếp tục khẳng định rõ hơn:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
` Bao nhiêu quyền hạn của dân?
Nói tóm lai, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
[ Sách đã dẫn; tập 5; trang 698]
Tư tưởng trên của HCM cho thấy sự khác nhau về chất giữa nhà nước của quần
chúng ND lao động với nhà nước của các giai cấp thống trị, bóc lột trước kia.
II) Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước theo tư
tưởng HCM ( tài liệu )
Câu 3:Quan điểm sáng tạo của HCM về CNXH và TKQĐ tiến lên CNXH ở VN
• Những luận điểm sáng tạo của HCM về tính tất yếu:
- Trước hết HCM tiếp cận CNXH từ học thuyết hình thái kinh tế chủ
nghĩa của các nhà kinh điển mác-xít, từ đó HCM khẳng định: “ sự phát
sinh, hình thành và phát triển CNXH là một tất yếu mà nguyên nhân sâu
xa là do sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội quy định”. Đồng
thời Người còn đưa ra 1 quan niệm hết sức mới mẻ đó là CNXH ra đời
từ sự tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc, thậm chí CNXH không những
thích ứng ở châu Á và phương đông( đa phần là những quốc gia phong
kiến lạc hậu) mà còn thích ứng ở châu âu( đa phần là những quốc gia tư bản)
- HCM còn tiếp cận CNXH từ lập trường yêu nước, khát vọng giải phóng
dân tộc nên ngay từ năm 1923 HCM đã chỉ rõ chỉ có CNXH, CN cộng
sản mới có thể cứu được nhân loại, mới thực sự đem lại độc lập, tự do cho giai cấp.
- HCM tiếp cận CNXH từ phương diện đạo đức vì theo HCM dưới
CNXH với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nó là cơ sở rất quan
trọng để xóa bỏ áp bức bốc lột và bất công , xây dựng một xã hội công
bằng cho con người và cho dân tộc, xuất phát từ quy mô giải phóng con
người, HCM cho rằng CNXG là giai đoạn phát triển mới của con người.
- Ngoài ra HCM còn tiếp cận CNXH từ truyền thống lịch sử, văn hóa và
con người việt nam, cụ thể là:
+ về truyền thống lịch sử: việt nam vốn là nước nông nghiệp nên với
chế độ công nghiệp và trị thủy cũng như chống giặt ngoại xâm đã sớm
hình thành tính đoàn kết dân tộc nên HCM coi đây là yếu tố quan trọng để đi đến CNXH.
+ về văn hóa: văn hóa Việt nam luôn lấy nhân nghĩa làm gốc, có truyền
thống trọng dân, khoang dung, hòa hợp, hòa đồng.
+ về con người việt nam: người việt nam có tâm hồn trong sáng, giàu
lòng vị tha, yêu thương đồng loại.
Tóm lại, với truyền thống lịch sử, văn hóa và con người như vậy đã
từng là 1 nhân tố quan trọng để đưa HCM đến với CNXH, ngược lại với
bản chất ưu việt của CNXH đã đưa HCM đến với tíh tất yếu của CNXH
và con đường quá độ lên CNXH của nước ta.
• Đặc trưng bản chất của CNXH ở việt nam
Vận dụng quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít về đặc trưng bản
chất của CNXH và thực tiễn cách mạng nước ta, HCM đã đưa ra định
nghĩa về CNXH một cách thiết thực được cụ thể dễ hiểu, dễ tổ chức
thực hiện và nhất là phù hợp với yêu cầu nguyện vọng ở nhân dân:
- Có chế độ chính trị dân chủ do dân làm chủ, mọi quyền lự đều thuộc về nhân dân.
- Dân giàu, nước mạnh, từng bước xóa bỏ áp bức bốc lột bất công.
- Có nền kinh tế phát triển cao gắn liền với sự phát triển khoa học kỹ thuật.
- Xã hội phát triển cao về mặt văn hóa và đạo đức.
- CNXH là của nhân dân và do dân tự xây dựng lấy.
Nhìn chung, quan điểm trên của HCM hoàn toàn phù hợp với quan
điểm của các nhà mác-xít về đặc trưng, bản chất CNXH mà HCM còn
bổ sung 1 yếu tố mới cho phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta.
• Động lực phát triển của CNXH ở Việt Nam
Bao gồm các nhân tố động lực sau:
- Con người: theo HCM là nhân tố động lực quan trọng nhất, quyết định
nhất để xây dựng thành công CNXH .
- Về vai trò quản lý xã hội của nhà nước: theo HCM nếu có 1 bộ máy
nhà nước trong sạch vững mạnh, có đội ngũ cán bộ công nhân viên chức
thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư thì nhà nước đó thực hiện
tốt chức năng quản lý xã hội của mình từ đó tạo ra dộng lực to lớn cho
sự phát triển kinh tế xã hội.
- Về kinh tế: HCM cho rằng kinh tế phải đi trước một bước vì theo người
chỉ sau khi phát triển kinh tế nó vừa đảm bảo nhu cầu đời sống cho toàn
dân, nó vừa tạo ra tiền đề cơ sở vật chất để phát triển các lĩnh vực khác
như giáo dục, y tế, KH-KT, AN-QP.
- Về văn hóa: HCM cho rằng “ một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”,
chính vì thế Nguời đặc biệt quan tâm đến việc phát triển giáo dục, đào
tạo và KH-KT để không ngừng đào tạo nguồn nhân lực nhân tài cho đất
nước và có điều kiện ứng dụng những thành tựu KH-KT tiên tiến của
thế giới để phát triển.
- Về vai trò lãnh đạo của ĐCS: theo HCM sự lãnh đạo với đường lối
đúng đắn của Đảng sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho những nhân tố động
lực khác phát triển cao độ sức mạnh của mình. Từ đó tạo ra động lực
tổng hợp to lớn cho sự phát triển của đất nước.( Vd từ 1976 đến trước
1986 do sai lầm về đường lối đất nước trì trệ khủng hoảng nhưng ừ
21986 đến nay với đường lối đổi mới đúng đắn thì đất nước phát triển
năng động có nhiều thành tựu to lớn). Chính vì thế HCM cho rằng sự
lãnh đạo với đường lối đúng đắn của Đảng là hạt nhân trong hệ thống động lực của CNXH.
• Bước đi và những biện pháp xây dựng CNXH trong thời ky quá độ ở nước ta
Để xác định bước đi đối với việt nam, HCM đã đưa ra 2 nguyên tắc
mang tính phương pháp luận:
- Một là, xây dựng CNXH là hình thức phổ biến mang tính quốc tế, cần
quán triệt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác-lenin về xây dựng
cơ chế mới, cần tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các nước anh em.
- Hai là, xác định bước đi và những biện pháp xây dựng CNXH chủ yếu
xuất phát từ điều kiện thực tiễn, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng
thực tế cuả mỗi người.
Vận dụng 2 nguyên tắc trên, HCM đã xác định phương châm thực hiện
bước đi trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta là: dần dần, thận trọng, từng
bước một. không được chủ quan,lơ là, các bước đi là do điều kiện khách
quan quy định. Mặc khác, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, không
được làm bừa, làm ẩu. Đồng thời, HCM còn nhấn mạnh đến công
nghiệp hóa XHCN, nó là yếu tố quan trọng trong TKQĐ, nhưng Người
cũng đã nêu rỏ công nghiệp hóa chỉ có thể thắng lợi trên cơ sở hình
thành và phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, cùng với hệ thống
tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ đa dạng để giải quyết vấn đề
lương thực, thực phẩm và nhu cầu thiết yếu cho nhân dân
Cùng với các bước đi trên, HCM đã gợi ý nhiều phương thức, biện pháp
để tiến hành xây dựng CNXH. Và trên thực tế, Người đã sử dụng một số cách làm sau:
- Thực hiện cải tạo xã hội, xây dựng xã hội mới kết hợp cải tạo với xây
dựng, lấy xây dựng làm chính.
- Kết hợp xây dựng với bảo vệ, đồng thời thực hiện 2 nhiệm vụ chiến
lược khác nhau ở 2 miền trong phạm vi quốc gia.
- Xây dựng CNXH phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm để thực hiện
thắng lợi kế hoạch, đó là: mục tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm 2.
- Theo HCM CNXH là của dân, do dân, vì dân. Vì vậy cách làm là lấy tài
dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân. Đó là CNXH của dân chứ
không phải CNXH ban phát từ trên xuống.
Câu 4: Những luận điểm sáng tạo của HCM về ĐCSVN
• ĐCSVN là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa mác-lenin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước
- Xuất phát từ sự tổng hợp những bài học kinh nghiệm của phong trào
công nhân ở châu âu và phương đông khi chur nghĩa mác xâm nhập vào
phong trào công nhân đã hình thành nên ĐCS, từ đó Leenin đã khaias
quát lên sự ra đời của ĐCS đó là chủ nghĩa mác xâm nhập vào phong
trào công nhân tất yếu sẽ hình thành nên ĐCS.
- Vận dụng những quan điểm sáng tạo của Đảng vào cách mạng nước ta,
HCM đã vạch rõ qquy luật ra đời của Đảg ta đó là chủ nghõa mác-lenin
xâ nhập vào pông trào công nhân đã dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng
sản đông dương đầu 1930.
- Sau khi bắt gặp chủ nghĩa mác-lenin, HCM càng có điều kiện nhận thức
sâu sắc hơn về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Như Người đã
phân tích: lãnh đạo được cách mạng hay không không phụ thuộc vào số
lượng nhiều hay ít mà cho rằng tính cách mệnh của giai câp công nhân
quy định. Tính cách mệnh của giai cấp công nhân đó là: giai cấp công
nhân là giai cấp kiên quyết, triệt để cách mạng; giai cấp công nhân là
giai cấp có tính tập thể, tính tổ chức và tính kỷ luật cao; giai cấp công
nhân có lợi ích đồng nhất với lợi ích của nhân dân lao động đó là xóa bỏ
chế độ người bốc lột người, xây dựng xã hội công bằng bình đẳng cho
con người. Chính vì vậy, lực lượng công nhân chỉ chiếm 1,2% dân số
nhưng HCM vẫn khẳng định chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì mới
có thể đưa cách mạng việt nam đến thắng lợi cuối cùng.
- Sở dĩ quy luật ra đời của ĐCS phải có thêm phong trào yêu nước là vì:
+ phong trào yêu nước có vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát
triển của dân tộc việt nam, đồng thời nó cũng có vai trò quan trọng
trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm.
+ phong trào công nhân và phong trào yêu nước có chung kẻ thù là thực
dân đế quốc, có chung mục tiêu là độc lập, tự do xây dựng một đất nước
phồn vinh. Chính vì thế phong trào công nhân dễ dàng kết hợp được với phong trào yêu nước.
+ nếu phong trào công nhân không kết hợp với phong trào yêu nước thì
sẽ không tạo ra sức mạnh để thắng lợi cách mạng.
+ phong trào yêu nước của trí thức có vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy sự kết hợp của các yếu tố dẫn đến sự ra đời của ĐCS. Vì người tri
thức có lòng yêu nước, có trình độ tương đối cao, có hiểu biết về chính
trị xã hội sâu rộng nên dễ dàng tieeos thu những tư tưởng tiến bộ sâu sắc
để từ đó có thể giáo dục, giác ngộ cho nhân dân lao động đứng lên đấu
tranh cách mạng, nhất là trong thời kỳ xã hội mới người tri thức lại càng
có vài trò đặc biệt quan trọng.
• ĐCSVN là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
cả dân tộc VN
- Ở các nhà kinh điển mác-xít khi nói đến ĐCS họ thường nghĩ đến đội
ngũ tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng mác-xít, Đảng của giai
cấp công nhân, Đảng vô sản…với cách gọi đó nhằm nhấn mạnh đến bản
chất của giai cấp công nhân, của Đảng chứ họ không gọi Đảng của dân tộc như HCM.
- Trái lại, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa mác-lenin vào cách mạng nước ta,
ngay trong báo cáo chính trị tại ĐHĐBTQ lần thứ 2 của Đảng (2/1951),
HCM đã khẳng định: “ trong giai đoạn này, lợi ích của công nhân, của
nhân dân lao động và của cả dân tộc là một. Chính vì Đảng lao động
việt nam là Đảng của công nhân, của nhân dân lao động nên cũng là
Đảng của dân tộc việt nam”.
- Tư tưởng trên của HCM đã định hướng cho việc xây dựng ĐCSVN có
quan hệ gắn bó máu thịt với công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc
VN. Chính vì thế có người gọi ĐCS là Đảng của mình, Đảng của bác
Hồ. Với cách gọi này càng thể hiện lòng tin yêu của dân đối với sự lãnh
đạo cách mạn nhưng cũng là trách nhiệm nặng nề của Đảng với dân.
- Khi gọi Đảng dân tộc nó không làm mất đi bản chất giai cấp công nhân
của Đảng mà bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở:
+ Đảng ta lấy chủ nghĩa mác-lenin làm nền tảng tư tưởng và là kim chỉ
nang cho hành động( vì chủ nhĩa mác-lenin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân).
+ Mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự vì độc lập, tự do và
CNXH( như chúng ta đã biết mún giải phóng giai cấp, giải phóng nhân
loại thì giai cấp công nhân pahir xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng
CNXH trên phạm vi toàn thế giới, đây cũng là mục tiêu quan trọng nhất
của cách mạng nươc sta do ĐCSVN lãnh đạo).
+ Đảng ta chấp hành nghiêm túc các luật lệ Đảng kiểu mới do giai cấp
công nhân đề ra( mục tiêu của Đảng kiểu mới là làm cho Đảng lành
mạnh hơn, là người đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân).
+ Đảng ta luôn chú trọng đến việc giáo dục, đào tạo đảng viên của Đảng
nhằm nâng cao trình độ hiểu biết về chủ nghĩa mác-lenin( vì chủ nghĩa
mác-lenin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân).
• Ý nghĩa của nó đối với quá trình xây dựng Đảng ta trong sạch lành mạnh
Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Tính chất giai cấp
công nhân của Đảng được thể hiện cụ thể trên các lĩnh vực chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Đảng phải được tổ chức chặt chẽ theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, phải đoàn kết thống nhất, lấy tự phê bình và phê bình làm
quy luật phát triển và phải có kỷ luật nghiêm minh. Đó là nguyên lý cơ bản
của học thuyết Mác - Lênin về xây dựng Đảng Cộng sản được Hồ Chí
Minh vận dụng sáng tạo trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người khẳng định vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng Đảng là:
“Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải
hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Đảng mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đứng vững trên lập
trường, quan điểm của giai cấp công nhân để xác định đường lối, chủ
trương. Đường lối đó tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công
nhân, đồng thời đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Là Đảng của giai cấp công nhân, Đảng mang trong mình tất cả những phẩm
chất ưu việt của giai cấp công nhân, trong đó có bản chất đạo đức, văn minh.
Là Đảng của nhân dân lao động, Đảng đại diện cho lực lượng sáng tạo ra
mọi nền văn minh, mọi giá trị đạo đức. Là Đảng của dân tộc, Đảng kết tinh
truyền thống hàng ngàn năm văn hiến của dân tộc, trọng đạo đức, trọng
nghĩa tình. Xét trên cả phạm vi thế giới và dân tộc, cái chung nhân loại và
cái riêng đất nước, Đảng đều đại diện cho những lực lượng tiến bộ trong xã hội. Câu hỏi 5)
Nội dung cơ bản của tư tưởng hồ chí minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại:
Bao gồm những nội dung cơ bản sau:
a) Phải đặt CMVN trong sự gắn bó với CMTG (học tài liệu)
b) Kết hợp chặt chẻ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng (học tài liệu)
c) Tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN anh em, sự ủng hộ của loài người
nhưng không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình (học tài liệu + bổ sung phần đầu):
Theo HCM, tranh thủ nhưng không phải bằng mọi giá mà phải có tính nguyên
tắc khi tranh thủ sự giúp đỡ, viên trợ từ bên ngoài vì nhiều khi, người ta thông qua
sự giúp đỡ, viên trợ đó để buộc chúng ta phải lệ thuộc vào họ rồi chi phối chúng ta
theo hướng có lợi cho họ, điều này có thể dẫn đến mất độc lập và chủ quyền của dân tộc.
Từ nhận thức sâu sắc trên, HCM cho rằng muốn tranh thủ sự giúp đỡ từ bên
ngoài, trước hết chúng ta cần phân biệt đâu là người bạn đồng minh trung thực,
thủy chung; đâu là người bạn hay tráo trở, phản bội mà có một đối sách tranh thủ
sự giúp đỡ từ bên ngoài sao cho phù hợp mà không làm mất độc lập và chủ quyền của dân tộc.
(phần còn lại học tài liệu)
d) Có quan hệ hữu nghị, hợp tác <> Câu 6
Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước kiểu mới
( câu này không có, phải chép trên mạng, mấy đứa coi lại xem có đúng không)
a. Pháp luật phải dựa trên đạo đức
Khác với pháp luật phong kiến và pháp luật tư sản “cho pháp luật dựa vào đạo
đức” để che giấu bản chất giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương pháp luật
phải dựa trên nền đạo đức thì mới thuyết phục được đa số nhân dân tự giác thực
hiện và ủng hộ. Người cho rằng pháp luật phải ghi nhận và đảm bảo thực hiện
nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, đồng thời phải phù hợp với đạo đức xã hội. Đó
là điều kiện quyết định sự thành công trong lãnh đạo dân chúng của Chính phủ:
“Đạo nghĩa là chính sách của Chính phủ đối với dân chúng. Chính sách này phải
hợp với nguyện vọng và quyền lợi của dân chúng. Đối với dân, Chính phủ phải thi
hành một nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời sống của nhân dân, cứu tế thất
nghiệp, sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa.v.v... Có như thế dân
chúng mới đoàn kết chung quanh Chính phủ, vì quyền lợi thiết thân của mình mà
hy sinh sống chết đánh giặc” (10).
b. Pháp luật là chuẩn của đạo đức
Đây chính là biểu hiện của “pháp luật bảo vệ đạo đức”. Pháp luật và đạo đức đều là
những chuẩn mực giá trị định hướng cho hành động của con người. Đạo đức là nền
thì pháp luật đảm bảo cho chuẩn mực đạo đức được thực hiện và bảo vệ nếu bị vi
phạm. Chuẩn mực cao nhất của đạo đức phong kiến là tôn quân (vua) tuyệt đối thì
vua có quyền tuyệt đối, kể cả quyền đứng trên pháp luật và giết vua là tội nặng
nhất trong pháp luật phong kiến. Khi nêu lên chuẩn mực của đạo đức cách mạng là
“trung với nước”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ chuẩn về pháp luật của “trung với
nước” là: “Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng”, ngược lại “thông với giặc, phản
quốc sẽ bị xử tử” (Quốc lệnh 1946). Kết luận:
Vai trò của pháp luật đối với đạo đức, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trước hết là đảm
bảo thực hiện đạo đức: “Để thực hiện chữ Liêm, trước hết phải có tuyên truyền
và kiểm soát, giáo dục và pháp luật từ trên xuống, từ dưới lên trên”. Nếu đạo
đức bị xâm hại thì pháp luật cũng bị vi phạm: “Do bất liêm mà đi đến tội ác,
trộm cắp”, khi đó pháp luật thể hiện vai trò không thể thay thế trong việc đưa xã
hội trở lại ổn định, đồng thời khôi phục, bảo vệ đạo đức: “Pháp luật phải thẳng
tay trừng trị những kẻ bất liêm”. Như vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
pháp luật và đạo đức thống nhất với nhau cùng thực hiện chức năng quản lý xã hội
của nhà nước, thống nhất nhưng không đồng nhất.
A) Thế nào là nhà nước của dân?
B) Thế nào là nhà nước do dân?
C) Thế nào là nhà nước vì dân?
D) Bản chất quyền lực của Nhà nước kiểu mới. (học tài liệu)
7. Nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh (trong vở nghe + Phần 2 trong sách nữa)
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người Cách mạng giống như gốc
của cây, ngọn nguồn của song suối và theo Hồ Chí Minh chỉ khi có những phẩm
chất đạo đức cách mạng làm nền tảng thì con người mới có thể hoàn thành được
nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó, bởi lẽ :
- Sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp rất to lớn, khó
khăn và nặng nề, nó đòi hỏi sự phấn đấu của mỗi con người, mỗi thế hệ thậm chí
nhiều thế hệ nối tiếp nhau.
- Để nước nhà được độc lập, dân tộc được tự do hạnh phúc thì đạo đức là một vũ
khí sắc bén để thực hiện mục tiêu đó.
-Muốn hoàn thành được sứ mệnh của mình, Đảng vừa là đạo đức vừa là văn minh,
tức là mục tiêu chiến đấu. Để thực sự vì nước vì dân, các cán bộ Đảng phairtieen
phong đi đầu gương mẫu thì mới được dân tin yêu ủng hộ. Nhờ đó Đảng không
ngừng phát triển lớn mạnh
- Muốn làm cách mạng phải có tâm có đức cao đẹp nhưng theo Hồ Chí Minh cái
tâm cái đức đó phải được thể hiện trong mối quan hệ với nước với dân, với đồng chí đồng nghiệp.
- Phải có tâm có đức cao đẹp thì mới giữ vững được chủ nghĩa Mác-LêNin và đưa
nó vào được trong cuộc sống.
Trong mối quan hệ giữa “đức” và “tài” thì theo Hồ Chí Minh, đức với tài, phẩm
chất và năng lực phải luôn đi đôi với nhau, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia,
nhưng trong mối quan hệ đó thì “đức là cái gốc” vì nhờ có đức làm gốc mà tài
năng của Người phát triển hòan thiện, đồng thời nhờ có đức làm nền tảng và định
hướng mà Người đã biết đem tài năng và năng lực của mình sử dụng đúng, phục
vụ đúng ( tức là cho nước cho dân).
chính vai trò to lớn trên của đạo đức nên HCM thường xuyên quan tâm giáo dục
đạo đức cho mọi người, nhất là các cán bộ Đảng viên của Đảng.
* Quan điểm “ đức là gốc” có ý nghĩa đối với việc “lập thân lập nghiệp” của
thế hệ trẻ hiện nay.
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng lớn. Tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh rất sâu sắc,phong phú cả về lý luận và thực tiễn. Khi
đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống,Người đã khẳng định đạo đức là nguồn
nuôi dưỡng và phát triển con người,như gốc của cây,ngọn nguồn của suối. Người
Cách Mạng phải có đạo đức,không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Nội dung đạo đức mà Bác Hồ khuyên thanh niên cần thực hiện là trung với
nước, hiếu với dân. Người cho rằng đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, nên
thanh niên phải ra sức rèn luyện đạo đức cách mạng.Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã để lại giá trị tinh thần to lớn cho Đảng và nhân dân ta, đặc biệt là đối với
thế hệ trẻ-những người tiếp nối sự nghiệp cách mạng vẻ vang của cha anh. Ngày
nay đoàn viên thanh niên đã có ý thức cao về vấn đề “lập thân lập nghiệp”, có khả
năng tiếp thu nhanh những thành tựu khoa học tiên tiến, năng động sáng tạo và
ham học hỏi, vị thế của thanh niên trong xã hội tiếp tục được đề cao và đã nhận
được sự quan tâm và chăm lo nhiều hơn của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã
hội. Tuy nhiệm bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận không ít thanh niên gặp khó
khăn trên nhiều vấn đề như trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn
hạn chế... một bộ phận thanh niên còn chưa có ý thức rèn luyện, chưa xác định
được cho mình lý tưởng sống đúng đắn, thờ ơ và ngại tham gia vào các hoạt động
chính trị xã hội. Đây là những biểu hiên nếu không kịp thời khắc phục thì nó sẽ gây
ra sự cán trở cho đất nước và xã hội. Vì vậy, hiên nay những tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên càng có ý
nghĩa to lớn hơn bao giờ hết
8. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người (học tài liệu nghe mấy tình yêu, tr 68+69 ý)
* Chiến lược trồng người của Hồ Chí Minh
“Trồng người” là chiến lược hàng đầu của cách mạng, như HCM đã chỉ ra tầm
quan trọng của việc trồng người: “ vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm
năm trồng người” . Người coi đây là nhân tố quyết định cho việc thực hiện thắng
lợi mọi chủ trương, đường lối, cũng như cho sự vững vằng, kiên định của Đảng và
dân tộc trước mọi thử thách.
Để “trồng người” theo Hồ Chí Minh phải áp dụng nhiều biện pháp nhưng giáo dục
– đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất, “hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần
nhiều do giáo dục mà nên”. Giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ.
+Nâng cao dân trí cho toàn dân. Vì “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”
+ Đào tạo và sử dụng phải coi trọng cả đức lẫn tài.