Bài thảo luận môn: ỞNG HỒ CHÍ MINH
Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dận tộc chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghia quốc tế
Hồ Chí Minh khác lớp trước người giải quyết vấn đề dân tộc cách
mạng giải phóng dân tộc trên lập trường của chủ nghĩa Mác Lênin, dành độc
lập để đi lên CNXH, mối quan hệ dân tộc và giai cấp được đặt ra.
Vấn đề dân tộc trong lịch sử cho thấy thời đại nào cũng nhận thức
giải quyết trên lập trường theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Đến
thời đại cách mạng vô sản cho thấy chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản
và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.
Mác Ăngghen cho rằng, triệt để xoá bỏ tình trạng bóc lột áp bức
giai cấp mới điều kiện xoá bỏ ách áp bức dân tộc, mới đem lại độc lâp thực
sự cho dân tộc mình dân tộc khác. Chỉ giai cấp sản với bản chấy cách
mạng và sứ mạng lịch sử của mình mới thực hiện được điều này.
Dân tộc vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế,
lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ
tộc.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc sản phẩm của quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử.
+ Mác-Ăngghen đã đặt nền móng tưởng cho việc giải quyết vấn đề dân
tộc một cách khoa học.
Hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển
của chủ nghĩa bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc bản chủ nghĩa. Chủ
nghĩa tư bản bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành
chính sách trang xâm lược, cướp bóc, dịch các dân tộc nhỏ từ đó xuất
hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác Ăngghen nêu lên quan điểm bản
1
tính chất phương pháp luận để nhận thức giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản
chất của dân tộc, những quan hệ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công
nhân và Đảng của nó về vấn đề dân tộc.
+ Đến thời đại Lênin chủ nghĩa đế quốc đã thành hệ thống trên thế giới.
Theo Lênin,cuộc đấu tranh của giai cấp sản chính quốc sẽ không thể dành
được thắng lợi nếu không biết liên minh với cuộc đấu tranh chông đế quốc của
các dân tộc bị áp bức các thuộc địa. Lênin đã phát triển quan điểm của Mác-
Ăngghen thành hệ thống luận toàn diện sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm
sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân
tộc. Trong đó đáng chú ý là các vấn đề:
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa
Khi các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường,
chúng thực hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hoá
đối với các nước bị xâm chiếm- thì vấn đề dân tộc trở thành vấn đề dân tộc
thuộc địa. Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất vấn đề đấu tranh giải
phóng dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành
độc lập dân tộc, xoá bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân
tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập. Nguyễn Ái Quốc đánh giá
cao tư tưởng của Lênin,Người cho rằng:”Lênin đã đặt tiền đề cho một thời đại
mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa.
Dưới ánh sáng của CNMLN khi Hồ Chí Minh bàn đến vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn với CNXH, mối
quan hệ dân tộc và giai cấp được đặt ra.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức giải quyết theo lập
trường của một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của CNMLN, chỉ trên lập
trường của giai cấp sản, cách mạng sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề
dân tộc. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan
2
hệ dân tộc giai cấp: cuộc đấu tranh của giai cấp sản nhằm lật đổ ách thống
trị của giai cấp sản, giai đoạn đầu của mang tính chất dân tộc. Mác
kêu gọi “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự
vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc,...
không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác –Ăngghen,
chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với
các lợi ích của nhân dân lao động của cả dân tộc. Chxoá bỏ áp bức, bóc
lột giai cấp thì mới xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập thật scho dân tộc
mình cho dân tộc khác. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên
cứu vấn đề dân tộc Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách
mạng tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.
Thời đại Lênin, khi CNĐQ đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng
giải phóng dân tộc trở thành bphận của cách mạng sản, Lênin mới phát
triển vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng,
cách mạng sản chính quốc không thể giành thắng lợi nếu không liên minh
với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức thuộc địa. Khẩu hiệu của Mác
được bổ sung: “vô sản toàn thế giới các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại.”
Lênin đã thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các
nước thuộc địa.”
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, đã nhận thức
được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc quốc tế, độc lập
dân tộc chủ nghĩa hội, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng sản. Hồ Chí Minh nêu, các nước thuộc địa phương Đông
không phải làm ngay cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có
độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng XHCN. Từ thực tiễn của đấu tranh
cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm của các đảng cộng sản
Tây Âu không đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương lai của cách mạng thuộc
địa, và
3
Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: “Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức
mình chính, đồng thời biết tranh thủ sđoàn kết, ủng hộ của giai cấp sản
nhân dân lao động thế giới đphải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, từ
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên m cách mạng XHCN.” tưởng Hồ
Chí Minh về kết hợp dân tộc với giai cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc
với CNXH thể hiện một số điểm sau:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hi.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa hội.
Ngay từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của Lênin, Hồ
Chí Minh đã hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng sản, gắn thống nhất giữa dân tộc giai cấp, dân tộc quốc
tế, độc lập dân tộc và CNXH. Người nói: “Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc
giai cấp) chỉ thể sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản của cách mạng
thế giới.” Tiếp đó, ngay trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt được thông qua
tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã
xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm sản dân quyền
cách mạng thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới
hội cộng sản. Hồ Chí Minh thấy mối quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân
tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp của giai cấp sản. “Cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và của cách mạng thế giới”.
Năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
lệ”. tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn giữa độc lập dân tộc CNXH vừa
phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại
cách mạng sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải
phóng dân tộc với các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Do đó “giành được độc lập rồi phải tiến lên CNXH, mục
4
tiêu của CNXH “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn
no, mặc ấm, sung tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn thống nhất giữa độc lập
dân tộc CNXH vừa phản ảnh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong thời đại cách mạng sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp giải phóng
con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp
bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Người nói: “Nếu
nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý
nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên CNXH, mục tiêu
của CNXH dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như
vậy, Hồ Chí Minh, chnghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ
nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
+ Độc lập cho dân tộc mình cho tất cả các dân tộc khác.
Nói đến quyền dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định : “Dân tộc nào cũng
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ở Hồ Chí Minh chủ nghĩa yêu
nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sang. Hồ Chí
Minh nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế
cao cả của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở một.
Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình còn đấu
tranh cho tất cả các dân tộc báp bức. “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc
lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”. Vì vậy năm 1914
khi ở Anh, Người đã đem toàn bộ số tiền dành dụm được từ đồng lương ít ỏi để
ủng hộ quỹ khang chiến của người Anh.
Người tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc. Nhưng Người cũng
nhiệt tình ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc
kháng chiến chông Pháp của nhân dân Lào Campuchia, đề ra khẩu hiệu:
5
“Giúp bạn tự giúp mình” , chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng
mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới
Tựu trung, tưởng HChí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa
học đúng đắn, vừa tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể
hiện skết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập cho
tất cả các dân tộc.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu h hội nhập kinh tế quốc tế, sự
nghiệp xây dựng bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những hội
thách thức to lớn đòi hỏi chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua.
Để làm được điều đó chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Người về
mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, dân tộc quốc tế, độc lập dân tộc
chủ nghĩa hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới
vững bước tiến lên , giành những thắng lợi mới.
Trước hết, trong bất cứ hoàn cảnho cũng đều phải đặc biệt coi trọng
giữ vững độc lập dân tộc. Lịch sử đấu tranh dựng nước giữa nước của ông
cha ta từ ngàn xưa cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng cộng
sảnViệt Nam đứng đầu Hồ Chí Minh khới xướng từ 1930 đến nay được ghi
lại bằng máu và nước mắt. Thế mới thấy được ý nghĩa của độc lập dân tộc, mới
thấu hiểu được tư tưởng bất hủ “Không gì quí hơn độc lập tự do” của Hồ Chí
Minh. Trong xu thế toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, không
một quốc gia nào thể phát triển không gắn với những mối quan hệ đa
dạng đa phương với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam
cũng nằm trong xu thế ấy. Ngoài những lợi ích hiển nhiên, hơn bao giờ hết,
nước ta đang đứng trước rất nhiều nguy ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập
dân tộc. Đó những nguy lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế, chính trị,
nguy phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu một nền văn hoá lai căng
6
phi bẳn sắc. Bên cạnh những nguy mang tính hệ quả của toàn cầu hoá và tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta còn phải đối mặt với âm mưu diễn biến
hoà bình. Các thế lực thù địch trong ngoài nước đang núp dưới những chiêu
bài tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách
mạng nước ta ( Sự biến Tây Nguyên 2/2001 4/2004). Trước những nguy
ấy, Đảng Nhà nước ta phải không ngừng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ
đất nước. Phát huy tối đa các nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền
thống, đất đai, tài nguyên,v.v để xây dựng phát triển kinh tế, đưa đất nước
từng bước bắt kịp các nước phát triển. Đất nước phát triển, nền kinh tế hùng
mạnh sẽ góp phần trực tiếp tạo sức mạnh cho nhân dân ta giữ vững độc lập dân
tộc. Độc lập dân tộc phải được xem cái bất biến trong sự thiên biến vạn hoá
của nền kinh tế thế giới đang phát triển với xu thế toàn cầu hoá; bản sắc văn hoá
Việt Nam cũng phải được xem cái bất biến trong sự đa dạng các nền văn hoá
thế giới, tiếp thu nhứng hay, cái đẹp, cái tiên tiến vẫn không mất đi cái gốc,
cái chất Việt Nam trong mỗi con người. Đó cũng là cách để givững độc lập
dân tộc theo đúng nghĩa của nó.
Độc lập tài sản thiêng liêng giá của cả dân tộc, cái phải giữ cho
mất tất cả, “hy sinh tất cả”. Muốn thực hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ
Chí Minh, ngày nay đường lối của Đảng Nhà nước ta phải thể hiện sự
quan tâm, không ngừng chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân.
Tiếp thu phát huy tinh hoa của dân tộc với truyền thống “lấy dân làm gốc”
(Dân vi bản quốc gia trường thọ), sinh thời Hồ Chí Minh đã không ngừng giáo
dục cán bộ, đảng viên phải luôn luôn tinh thần “vì dân phục vụ”. Người nói:
Gốc vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” Chăm lo và
không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân cách thiết thực nhất để bảo vệ
độc lập dân tộc, vì theo Người, dân như nước, chở thuyền cũng là nước mà lật
7
thuyền cũng nước. Dân giàu thì nước mạnh, nước mạnh thì độc lập dân
tộc còn. Chủ trương diệt giặc đói giặc dốt của Người năm 1945 về bản
chính nền tảng của việc chăm lo nâng cao đời sống cho người dân về vật
chất cũng như tinh thần. Và suy cho cùng, mục tiêu của độc lập dân tộc, theo
quan điểm của Hồ Chí Minh, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân;
nhiên dân được ấm no tự do hạnh phúc sẽ ra sức bảo vệ nền độc lập vốn
mang lại những điều tốt đẹp đó. Như vậy, chăm lo, không ngững nâng cao đời
sống nhân dân vừa là mục tiêu vừa cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân
tộc theo đúng tinh thần mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ.
Thấm nhuần tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát huy
chủ nghĩa dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo tự lực tự
cường của mọi người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
bảo vệ nền độc lập dân tộc. Người Việt Nam vốn truyền thống yêu nước,
tinh thần đoàn kết cộng đồng, ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất,
không chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn. Những phẩm chất tốt đẹp ấy
đã được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc,
đưa đến thắng lợi đại Điện Biên Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng
MN thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Ngày nay, truyền
thống q báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính cần được tiếp tục khơi dậy
mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực đưa đất nước vượt qua mọi khó
khăn thách thức, vững bước tiến lên cùng bè bạn khắp năm châu.
8

Preview text:

Bài thảo luận môn: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dận tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghia quốc tế
Hồ Chí Minh khác lớp trước là người giải quyết vấn đề dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, dành độc
lập để đi lên CNXH, mối quan hệ dân tộc và giai cấp được đặt ra.
Vấn đề dân tộc trong lịch sử cho thấy ở thời đại nào cũng nhận thức và
giải quyết trên lập trường và theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Đến
thời đại cách mạng vô sản cho thấy chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản
và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.
Mác – Ăngghen cho rằng, có triệt để xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức
giai cấp mới có điều kiện xoá bỏ ách áp bức dân tộc, mới đem lại độc lâp thực
sự cho dân tộc mình và dân tộc khác. Chỉ có giai cấp vô sản với bản chấy cách
mạng và sứ mạng lịch sử của mình mới thực hiện được điều này.
Dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế,
lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử.
+ Mác-Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học.
Hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ nghĩa. Chủ
nghĩa tư bản bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành
chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhỏ từ đó xuất
hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác và Ăngghen nêu lên quan điểm cơ bản có 1
tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản
chất của dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công
nhân và Đảng của nó về vấn đề dân tộc.
+ Đến thời đại Lênin chủ nghĩa đế quốc đã thành hệ thống trên thế giới.
Theo Lênin,cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể dành
được thắng lợi nếu không biết liên minh với cuộc đấu tranh chông đế quốc của
các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Lênin đã phát triển quan điểm của Mác-
Ăngghen thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm cơ
sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân
tộc. Trong đó đáng chú ý là các vấn đề:
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa
Khi các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường,
chúng thực hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hoá
đối với các nước bị xâm chiếm- thì vấn đề dân tộc trở thành vấn đề dân tộc
thuộc địa. Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải
phóng dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành
độc lập dân tộc, xoá bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân
tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập. Nguyễn Ái Quốc đánh giá
cao tư tưởng của Lênin,Người cho rằng:”Lênin đã đặt tiền đề cho một thời đại
mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa.
Dưới ánh sáng của CNMLN khi Hồ Chí Minh bàn đến vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn với CNXH, mối
quan hệ dân tộc và giai cấp được đặt ra.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập
trường của một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của CNMLN, chỉ trên lập
trường của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề
dân tộc. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan 2
hệ dân tộc và giai cấp: cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống
trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc. Mác
kêu gọi “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự
vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc,...
không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác –Ăngghen,
chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với
các lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp bức, bóc
lột giai cấp thì mới xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập thật sự cho dân tộc
mình và cho dân tộc khác. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên
cứu vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách
mạng tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.
Thời đại Lênin, khi CNĐQ đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng
giải phóng dân tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới phát
triển vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng,
cách mạng vô sản ở chính quốc không thể giành thắng lợi nếu không liên minh
với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu của Mác
được bổ sung: “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại.”
Lênin đã thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa.”
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, đã nhận thức
được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh nêu, các nước thuộc địa phương Đông
không phải làm ngay cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có
độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng XHCN. Từ thực tiễn của đấu tranh
cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm của các đảng cộng sản
Tây Âu không đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương lai của cách mạng thuộc địa, và 3
Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: “Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức
mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản
và nhân dân lao động thế giới để phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, từ
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.” Tư tưởng Hồ
Chí Minh về kết hợp dân tộc với giai cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc
với CNXH thể hiện một số điểm sau:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ
Chí Minh đã hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc
tế, độc lập dân tộc và CNXH. Người nói: “Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc
và giai cấp) chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng
thế giới.” Tiếp đó, ngay trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt được thông qua
tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã
xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã
hội cộng sản. Hồ Chí Minh thấy rõ mối quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân
tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp của giai cấp vô sản. “Cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và của cách mạng thế giới”.
Năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa
phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại
cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải
phóng dân tộc với các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Do đó “giành được độc lập rồi phải tiến lên CNXH, vì mục 4
tiêu của CNXH là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn
no, mặc ấm, sung Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập
dân tộc và CNXH vừa phản ảnh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp
bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Người nói: “Nếu
nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý
nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu
của CNXH là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như
vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ
nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
+ Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc khác.
Nói đến quyền dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định : “Dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ở Hồ Chí Minh chủ nghĩa yêu
nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sang. Hồ Chí
Minh nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế
cao cả của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở một.
Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu
tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức. “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc
lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”. Vì vậy năm 1914
khi ở Anh, Người đã đem toàn bộ số tiền dành dụm được từ đồng lương ít ỏi để
ủng hộ quỹ khang chiến của người Anh.
Người tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc. Nhưng Người cũng
nhiệt tình ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc
kháng chiến chông Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu: 5
“Giúp bạn là tự giúp mình” , và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng
mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới
Tựu trung, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa
học đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể
hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và
thách thức to lớn đòi hỏi chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua.
Để làm được điều đó chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Người về
mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới
vững bước tiến lên , giành những thắng lợi mới.
Trước hết, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phải đặc biệt coi trọng và
giữ vững độc lập dân tộc. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữa nước của ông
cha ta từ ngàn xưa cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng cộng
sảnViệt Nam đứng đầu là Hồ Chí Minh khới xướng từ 1930 đến nay được ghi
lại bằng máu và nước mắt. Thế mới thấy được ý nghĩa của độc lập dân tộc, mới
thấu hiểu được tư tưởng bất hủ “Không có gì quí hơn độc lập tự do” của Hồ Chí
Minh. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, không
một quốc gia nào có thể phát triển mà không gắn với những mối quan hệ đa
dạng và đa phương với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam
cũng nằm trong xu thế ấy. Ngoài những lợi ích hiển nhiên, hơn bao giờ hết,
nước ta đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập
dân tộc. Đó là những nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế, chính trị,
nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu một nền văn hoá lai căng 6
phi bẳn sắc. Bên cạnh những nguy cơ mang tính hệ quả của toàn cầu hoá và tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta còn phải đối mặt với âm mưu diễn biến
hoà bình. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang núp dưới những chiêu
bài tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách
mạng nước ta ( Sự biến Tây Nguyên 2/2001 và 4/2004). Trước những nguy cơ
ấy, Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ
đất nước. Phát huy tối đa các nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền
thống, đất đai, tài nguyên,v.v để xây dựng và phát triển kinh tế, đưa đất nước
từng bước bắt kịp các nước phát triển. Đất nước phát triển, nền kinh tế hùng
mạnh sẽ góp phần trực tiếp tạo sức mạnh cho nhân dân ta giữ vững độc lập dân
tộc. Độc lập dân tộc phải được xem là cái bất biến trong sự thiên biến vạn hoá
của nền kinh tế thế giới đang phát triển với xu thế toàn cầu hoá; bản sắc văn hoá
Việt Nam cũng phải được xem là cái bất biến trong sự đa dạng các nền văn hoá
thế giới, tiếp thu nhứng hay, cái đẹp, cái tiên tiến mà vẫn không mất đi cái gốc,
cái chất Việt Nam trong mỗi con người. Đó cũng là cách để giữ vững độc lập
dân tộc theo đúng nghĩa của nó.
Độc lập là tài sản thiêng liêng vô giá của cả dân tộc, là cái phải giữ cho
dù mất tất cả, “hy sinh tất cả”. Muốn thực hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ
Chí Minh, ngày nay đường lối của Đảng và Nhà nước ta phải thể hiện rõ sự
quan tâm, không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Tiếp thu và phát huy tinh hoa của dân tộc với truyền thống “lấy dân làm gốc”
(Dân vi bản quốc gia trường thọ), sinh thời Hồ Chí Minh đã không ngừng giáo
dục cán bộ, đảng viên phải luôn luôn có tinh thần “vì dân phục vụ”. Người nói:
“ Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” Chăm lo và
không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân là cách thiết thực nhất để bảo vệ
độc lập dân tộc, vì theo Người, dân như nước, chở thuyền cũng là nước mà lật 7
thuyền cũng là nước. Dân giàu thì nước mạnh, mà nước mạnh thì độc lập dân
tộc còn. Chủ trương diệt giặc đói và giặc dốt của Người năm 1945 về cơ bản
chính là nền tảng của việc chăm lo và nâng cao đời sống cho người dân về vật
chất cũng như tinh thần. Và suy cho cùng, mục tiêu của độc lập dân tộc, theo
quan điểm của Hồ Chí Minh, là tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; và dĩ
nhiên là dân được ấm no tự do hạnh phúc sẽ ra sức bảo vệ nền độc lập vốn
mang lại những điều tốt đẹp đó. Như vậy, chăm lo, không ngững nâng cao đời
sống nhân dân vừa là mục tiêu vừa là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân
tộc theo đúng tinh thần mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ.
Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát huy
chủ nghĩa dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự lực tự
cường của mọi người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
bảo vệ nền độc lập dân tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước,
tinh thần đoàn kết cộng đồng, ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất,
không chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn. Những phẩm chất tốt đẹp ấy
đã được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc,
đưa đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên và Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng
MN thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Ngày nay, truyền
thống quí báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính cần được tiếp tục khơi dậy
mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực đưa đất nước vượt qua mọi khó
khăn thách thức, vững bước tiến lên cùng bè bạn khắp năm châu. 8