NG HỒ CHÍ MINH VGIẢI PHÓNG DÂN TỘC,
GIẢI PHÓNG GIAI CẤP, GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
Dân tộc Việt Nam truyền thống yêu nước, sẵn sàng xthân độc lập,
tự do của Tổ quc. Trong lịch sử hànng ngàn m dựng nước giữ nước, ông
cha ta đã nhiều lần phải đương đầu với kẻ thù xâm ợc mạnh n mình gấp bội
tthực tiễn đấu tranh chng ngoại m, đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm
i học quý báu. Trí tuệ đánh giặc, giữ nước mt trong những đỉnh cao ca
trí tuViệt Nam.
Ra đi tìm đưng cứu ớc, Hồ Chí Minh mang theo hành trang truyền
thng, bản lĩnh trí tucủa n tộc. Người đã đến với chnghĩa Mác Lênin,
tìm hiểu tm ng của một số nhà yêu ớc lỗi lạc trên thế gii, nâng lên
tầm cao mới của thời đại, gắn quyện thành ởng giải phóng dân tộc, gii
phóng giai cấp, giải phóng con người.
I. Sự thng nhất trong ng HCMinh về giải phóng dân tc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
1
. Không gì qhơn độc lập, tự do.
-
Dân tộc sản phẩm của qtrình phát triển lâu i lịch sử. Tnhững
hình thc cộng đồng thtộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình thành nên các cộng
đồng n tộc, các quốc gia n tộc. Khi ch nghĩa bản chuyển từ giai đoạn tự
do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc ch nghĩa, các ớc đế quốc thi hành
chính ch trang xâm c, ớp bóc, dịch các dân tộc nhược tiu, vấn đề
dân tộc trn gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do
của các dân tộc trở thành vấn đề thời đại.
-
tự do quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Thấm đượm tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong ng
Hồ Chí Minh i qnht trên đời độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân.
Hồ Chí Minh nói: “Cái tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ
quốc tôi được độc lập...”
(1)
. Trên đường tiếp cận chân cứu nước, Hồ Chí Minh
đã tìm hiểu Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền
dân quyền 1791 của cách mạng Pháp, Người hiu chân bất di bất dịch về
quyền bản của các dân tộc: Tất ccác dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng quyền sng quyền sung ng quyền tự do.
-
m 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được
các đồng minh thắng trn trong chiến tranh thế giới thnhất thừa nhận, thay mặt
cho những người Việt Nam u c, Người gửi đến Hội nghị hòa bình Vécy
một bản yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, n chcho nhân n Việt Nam.
Bản yêu sách đã không được luận chú ý đến. Người rút ra i học: Muốn
được giải phóng, các dân tộc ch thtrông cậy vào mình, trông cậy vào lực
ợng của bản thân mình”
(2)
.
-
Trong Chánh cương vắn tắt cũng như trong Li kêu gọi sau khi thành
lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:
a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn phong kiến
b. Làm cho nước Nam được hoàn thành độc lập”
(3)
Đầu năm 1941, Hồ CMinh về nước, ch trì Hội nghị Trung ương 8
-
của Đng, viết tKính cáo đồng bào, ch: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết thảy”
(4)
. Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc
lập, tdo của nhân n ta trong mt u nói bất hủ: phải đối cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập!....
-
Cách mạng Tháng Tám thành ng, người thay mặt Chính ph m thời
đọc bản Tuyên ngôn độc lập, long trng khẳng định trước quốc n đồng bào
thế giới: ớc Việt Nam quyền ng tự do độc lập, sthật đã thành
một nước tự do độc lập. Toàn thdân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
lực ợng, tính mạng của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”
(4)
.
-
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thhiện quyết m bảo vệ độc lập
ch quyền n tộc, Người ra lời u gọi toàn quốc kháng chiến: “... thà hy sinh
tất cả, ch nhất định không chịu mất c, nhất định không chịu làm
lệ”
(2)
.
-
Khi đế quốc Mỹ đn cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ min Nam,
mở rộng chiến tranh min Bắc, Chtch HChí Minh đã khẳng định một chân
bất hủ, giá trị cho mi thi đại:“Không gì quý hơn độc lập, tự do.
“Không quý hơn độc lập, tự dokhông ch ởng n lẽ
sống, học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. thế, Người kng ch được
tôn vinh “anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam còn được thừa
nhận “Người khởi ớng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc
địa trong thế kỷ XX.
2
. Kết hợp nhuần nhuyn n tộc với giai cấp, độc lập dân tộc ch
nghĩa hội, ch nghĩa yêu ớc chủ nghĩa quốc tế.
-
Trong ởng Hồ CMinh, vấn đề n tộc giải phóng n tộc cần
được tiến hành i ánh sáng của ch nghĩa Mác Lênin, giành độc lập n tộc
để tiến lên xây dựng ch nghĩa hội. Đây một vấn đề lun quan trng,
ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thi đại cách mạng sản của ch nghĩa Mác
Lênin. Theo Người, ch đứng trên lập trường của giai cấp sản cách mạng
sản mới gii quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.
-
Ra đi tìm đường cứu c, đến với ch nghĩa Mác Lênin, Hồ C
Minh tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đưng của cách
mạng sản. Người viết rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với
sự nghiệp của sản toàn thế giới; mỗi khi chnghĩa cộng sản giành được chút
ít thắng lợi trong một nước nào đó,... thì đó càng thắng lợi cả cho người An
Nam”
(5)
.
-
Hồ CMinh đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số đảng
cộng sản châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí cũng như
tương lai của cách mạng thuộc đa. Người đưa ra luận đim: các n tộc
thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thi biết tranh th sự đoàn kết,
ủng hộ của giai cấp sản nhân n lao động thế gii để trước hết phải đấu
tranh giành lại độc lập cho n tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng gii phóng
dân tộc tiến lên làm cách mạng hội chnghĩa đóng góp thiết thực vào sự
nghiệp cách mng sản thế giới.
-
Mối quan hgiữa n tộc giai cấp trong ng Hồ Chí Minh được
thể hiện ở những luận đim sau đây:
+
Ch nghĩa yêu nước tinh thần n tộc một động lực ln của đất
nước.
m 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc các ớc pơng
Đông, Hồ Chí Minh khng định: Đối với các dân tộc thuộc địa phương
Đông: Chnghĩa dân tộc động lực lớn của đất ớc
(6)
; “Người ta skhông
thlàm được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực đại,
duy nhất của đời sống hội của họ”
(7)
. Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương
lĩnhnh động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động ch nghĩa dân tộc bản xứ nhân
danh Quốc tế Cộng sn... Khi ch nghĩa dân tộc của họ thng lợi,... nhất định
ch nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành ch nghĩa quốc tế”
(8)
.
+
Độc lập dân tộc gắn liền với ch nghĩa hội.
Ngay từ khi gặp được Luận cương của nin v các vấn đề dân tộc
thuộc địa, Hồ Chí Minh đã sự gắn thống nhất giữa n tộc giai cấp,
dân tộc quốc tế, độc lập dân tộc chnghĩa hội. Trong i Cuộc kháng
chiến viết đu những m 20 của thế kXX, nói về giải phóng n tộc gii
phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cả hai cuộc gii phóng y ch
th sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản của cách mạng thế giới
(4)
.
m 1930, trong Chánh cương vắn tắt, ch ợc vắn tắt, Hồ Chí Minh
xác định cách mng Vit Nam trải qua hai giai đoạn: m sản dân quyền cách
mạng thđịa cách mạng (tức cách mạng n tộc dân chủ) để đi tới hội
cộng sản (tc cách mạng hội ch nghĩa).
Đến năm 1960, Người khẳng định lại hơn: ... ch chnghĩa hội,
ch nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức những người
lao động trên toàn thế gii khi ách lệ”
(5)
.
ởng Hồ Chí Minh về sự gắn thống nhất giữa độc lập n tộc
ch nghĩa hi vừa phản ánh quy luật khách quan của snghiệp giải phóng
dân tộc trong thi đại cách mạng sản, vừa phản ánh mối quan hkhăng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp.
+
Độc lập cho dân tộc mình đồg thi độc lập cho tất cả các dân tộc.
Hồ Chí Minh đã khng định quyền tự do, độc lập quyền bất khm
phạm của các n tộc, “dân tộc nào cũng quyền sống, quyền sung ng
quyền tự do”. một chiến quốc tế chân chính, Hồ CMinh không chđấu
tranh cho độc lp của n tộc mình còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các
dân tộc b áp bức. Hồ CMinh, chnghĩa yêu nước chân chính luôn luôn
thng nhất với ch nghĩa quốc tế trong sáng.
Ngay tnăm 1941, trên đất Anh, Người nói: “Chúng ta phải tranh đấu
cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như tranh đấu cho dân tộc ta vậy.
Người đã nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nht của nhân n Trung
Quốc cuộc kháng chiến chng Pháp của nhân dân Lào Campuchia, đề ra khẩu
hiệu “Giúp bạn tự giúp mình”, chtrương phải bằng thng lợi của cách
mạng mỗi ớc đóng góp vào thng lợi chung của cách mạng thế giới.
+
Giành độc lập n tộc, y dựng ch nghĩa hội hạnh phúc của con
người.
Xuất phát từ ch nghĩa yêu nước, từ thương c, thương nòi, Hồ Chí
Minh luôn luôn gắn lin mục tiêu giải phóng n tộc với việc mang lại hạnh
phúc cho nhân dân.
Người lựa chn con đường giải phóng dân tộc tn lập trường sản
chính cách mạng sản không ch giải phóng giai cấp ng nhân n giải
phóng mọi giai cấp tầng lớp khác thoát khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp.
Người nói: giành độc lập rồi phải xây dựng chnghĩa hội ch nghĩa
hội “làm cho dân giàu, nước mạnh,... “làm cho mọi người được ăn no, mặc
m, sung ớng, tự do”.
Quan điểm giải phóng con người của Hồ C Minh được ng lên, tr
thành m đim của hoạt động cách mạng của Ni. Khi chưa giành được độc
lập, Người thhiện ý cđộc lập bằng câu nói“dù phải đốt cháy cdãy Trường
Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lp”. Nhưng sau đó Người
nói: “Nếu ớc độc lập dân khôn được ởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập
cũng chẳng nghĩa
(9)
. Do đó theo ởng Hồ CMinh, giải phóng n
tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Hồ Chí minh
viết: Tôi ch một sự ham mun, ham mun tột bậc,... đồng bào ai cũng
m ăn, áo mc, ai cũng được học hành”
(2)
.
Như vậy, ng giải phóng n tộc, giải phóng giai cấp, gii phóng con
người luôn luôn gn cht, hòa quyện với nhau trong ttư ởng Hồ Cminh.
II. ng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
ởng Hồ Chí Minh về cách mạng gii phóng n tộc thuộc địa
thể tóm tắt thành một hệ thng các luận điểm như sau:
1
. Cách mng giải phóng dân tộc muốn thng lợi ph đi theo con
đường của cách mạng sn.
-
Đến với ch nghĩa Mác Lênin, vận dụng chnghĩa c Lênin vào
thực tiễnViệt Nam qua các chặng đường gian nan ththách, Hồ CMinh luôn
luôn khẳng định một chân là: Muốn cứu ớc giải phóng dân tộc không
con đưng nào khác cách mng sản.
-
đế quốc một con đỉa hai i, một vòi bám vào chính quc, một vòi m vào
thuộc đa. Muốn đánh bại ch nghĩa đế quốc phi đồng thời cắt chai i vòi
của đi, tức phải kết hợp cách mạng sản ở chính quốc với cách mạng giải
phóng n tộc thuộc địa; phải xem cách mạng thuộc địa như một trong
những cái nh của cách mạng sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng
sản.
2
. Cách mng giải phóng dân tộc muốn thng lợi phải do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo.
-
Hồ CMinh đã sớm khẳng định: mun snghiệp giải png dân tộc
thành công “Tớc hết phải đảng cách mệnh... Đảng vững cách mệnh mới
thành công”
(10)
-
Đảng mun vững thì phải ch nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết
nhiều, ch nghĩa nhiều, nhưng ch nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất ch nghĩa Lênin”
(2)
.
-
Hồ CMinh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai
cấp công nhân phi được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của
Lênin.
3
. Cách mạng giải phóng dân tộc snghiệp đoàn kết của toàn dân,
trên sở liên minh công – nông.
Hồ C Minh viết: cách mạng việc chung cả dân chúng ch không
phải việc việc của một hai người, vậy phi đoàn kết toàn n, “sĩ, nông,
công, thương đều nhất trí chống lại ờng quyền. Trong sự tập hợp rộng rãi
đó, Người khng định i cốt của công nông, “công nông người ch
cách mệnh... công nông gốc cách mệnh”
(11)
.
-
Trong cách mạng giải phóng n tộc, Hồ Chí Minh ch trương cần vận
động, tập hợp rng i các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị
làm lệ trong một Mặt trận dân tộc thng nhất rộng rãi nhm huy động sức
mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.
-
Đảng cn các ch trương, chính sách tranh th vận động các tầng lớp
nhân n mục tiêu chung. Trong sách ợc vắn tắt, Ngưi viết: Đảng phải
hết sức liên lạc với tiu sản, trí thc, trung ng, Thanh niên, n Việt... để
kéo hđi vào phe sản giai cấp. Còn đối với pnông, trung, tiuđịa ch
bản An Nam ca mặt phản cách mạng thì phải li dụng, ít lâu mới làm
cho họ đứng tập trung...
(12)
-
Trong khi ch trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực ợng n tộc
chng đế quc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp:
công nông gốc cách mnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền ch nhỏ cũng b
bản áp bức, song không cực khbằng công nông; 3 hạng y ch bầu bạn
cách mệnh của công nông thôi
(13)
. trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất
cẩn thn, không khi nào nhưng một chút lợi ích của công nông đi vào
đường thỏa hiệp”
(14)
.
4
. Cách mng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chđộng, sáng
tạo khả năng giành thng lợi trước cách mng sản ở chính quốc.
-
Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tn tại quan
điểm xem thng li của cách mng thuộc địa ph thuộc trc tiếp vào thng lợi
của cách mạng sản chính quc. Quan điểm này hình trung đã làm giảm
tính ch động, sáng tạo của các phong trào cách mạng thuộc đa. Phát biểu tại
Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận
mệnh của giai cấp sản thế giới đặc biệt vận mệnh của giai cấp sản
các ớc đi xâm ợc thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức
các thuộc địa”
(15)
; “nọc độc sức sống của con rắn độc bản chnghĩa đang
tập trung các thuộc địa”
(16)
, nếu khinh thường cách mng thuộc địa tức
muốn đánh chết rắn đằn đuôi”
(6)
.
-
Vận dụng ng thc của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân
phải sự nghiệp của bản thân giai cấp ng nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận
điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) ch th thực
hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em
(6)
.
-
Do nhận thc được thuộc địa một khâu yếu trong hệ thng của ch
nghĩa đế quốc do đánh giá đúng đắn sức mạnh của ch nghĩa yêu ớc
tinh thần dân tc, m 1924, Hồ C Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mạng sản chính quốc th
giành thắng lợi trước.
-
Khẳng định v trí vai tcủa cách mạng giải phóng thuộc địa trong
mối quan hệ với cách mng chính quc, HChí Minh cho rằng: “trong khi th
tiêu một trong những điều kin tồn tại của ch nghĩa bản ch nghĩa đế
quốc, h thgiúp đỡ những người anh em mình phương y trong nhim
vụ giải phóng hoàn toàn”
(17)
.
Những luận điểm trên đây s phát triển sáng tạo ch nghĩa Mác
Lênin trong thời đại đế quốc ch nghĩa của Hồ Chí Minh. giá tr lun
thực tiễn rất to lớn đã được thắng lợi ca cách mng giải phóng n tộc
Việt Nam cũng như trên thế giới chng minh hoàn toàn đúng đắn.
5
. Cách mng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường
bạo lực, kết hợp lực ng chính trcủa quần chúng với lực ng trang
trong nhân dân.
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam k, H
Chí Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa trang Đông Dương.
Theo Ni, cuộc khi nghĩa vũ trang đó: phải tính chất một cuộc khi nghĩa
quần chúng ch không phải một cuộc nổi loạn... Lun điểm trên đây của Hồ Chí
Minh bắt ngun tsự phân tích vai trò của quần chúng nhân n, bản cht phản
động của chính quyền thực n Pháp bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt
Nam, của cách mạng Nga, từ sự thất bại của các phong trào yêu c đầu thế k
XX.
-
Tháng 5 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chtrì đã đưa ra
nhận định: Cuộc cách mng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa
trang, mđầu th bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng đa
phương.. mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
-
Để chuẩn btiến tới khi nghĩa trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung
ương Đảng ch đạo xây dựng n cứ đa, đào tạo, huấn luyn n bộ, xây dựng
các tổ chức chính trcủa quần chúng, lập ra các đội du kích trang, chđộng
đón thời , chớp thi cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng m ch trong
vòng 10 ngày đã giành được chính quyền trong cả c.
Tóm lại, Hồ CMinh đã vận dụng ng tạo phát triển học thuyết của
Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thng luận đim mới mẻ, ság tạo,
bao gồm cả đường lối chiến c, sách ợc pơng pháp tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc đa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng m hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn rất quan trng ca sự
nghiệp đổi mới nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách
mạng ng tạo của ởng Hồ CMinh về con đường cách mng gii phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
(1)
(2)
T.Lan: vừa đi đưng vừa kể chuyện, Nxb. Stht, Nội, 1976, tr.15.
Trần Dân Tiên: Nhng mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tch, Nxb Sự tht,
Nội,1986, tr.31.
(3) (4)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính tr quốc gia, Nội, 2000, t.3, tr.1, 198.
Sđd, t.4, tr.4, 480.
(4) (2)
(5)
Sđd, t.1, tr.469.
(6)
,
(2)
,
(3)
Sđd, t.1, tr.466,467.
(7)
. Sđd, tr.416.
(8)
. Sđd, t.10, tr.128.
(9)
,
(2)
. Sđd, t.4, tr.56, 161.
(10)
,
(2)
. Sđd, t.2, tr.267-268.
(11)
(12)
(13)
(14)
. Sđd, tr.266.
Sđd, t.3, tr.3.
Sđd, t.2, tr.266.
Sđd, t.3, tr.3
(15)
,
(5)
,
(6)
. Sđd, t.1, tr.273, 274.
(16)
Sđd, t.2, tr.128.
Sđd, t.1, tr.36.
(17)

Preview text:


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC,
GIẢI PHÓNG GIAI CẤP, GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, sẵn sàng xả thân vì độc lập,
tự do của Tổ quốc. Trong lịch sử hànng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông
cha ta đã nhiều lần phải đương đầu với kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp bội
và từ thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm, đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm
và bài học quý báu. Trí tuệ đánh giặc, giữ nước là một trong những đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam.
Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo hành trang truyền
thống, bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc. Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin,
tìm hiểu thêm tư tưởng của một số nhà yêu nước lỗi lạc trên thế giới, nâng lên
tầm cao mới của thời đại, gắn quyện thành tư tưởng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
I. Sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
1 . Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
- Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài lịch sử. Từ những
hình thức cộng đồng thị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình thành nên các cộng
đồng dân tộc, các quốc gia dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự
do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành
chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề
dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do
của các dân tộc
trở thành vấn đề thời đại.
- Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là độc lập,
tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Thấm đượm tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân.
Hồ Chí Minh nói: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ
quốc tôi được độc lập
...”(1). Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh
đã tìm hiểu Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền 1791
của cách mạng Pháp, Người hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về
quyền cơ bản của các dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và quyền tự do
.
- Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được
các đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt
cho những người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến Hội nghị hòa bình Vécxây
một bản yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Bản yêu sách đã không được dư luận chú ý đến. Người rút ra bài học: “Muốn
được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực
lượng của bản thân mình”
(2).
- Trong Chánh cương vắn tắt cũng như trong Lời kêu gọi sau khi thành
lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:
“ a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
b. Làm cho nước Nam được hoàn thành độc lập”
(3)
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương 8
của Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết thảy”(
4). Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc
lập, tự do của nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: “Dù có phải đối cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập!”
....
- Cách mạng Tháng Tám thành công, người thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước quốc dân đồng bào và
thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(4).

- Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và
chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “... thà hy sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
(2).
- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam,
mở rộng chiến tranh miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân
lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại:“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ
sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người không chỉ được
tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được thừa
nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc
địa trong thế kỷ XX”
.
2 . Kết hợp nhuần nhuyển dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cần
được tiến hành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập dân tộc
để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có
ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thời đại cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Theo Người, chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng
vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.
- Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí
Minh tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường của cách
mạng vô sản. Người viết rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với
sự nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút
ít thắng lợi trong một nước nào đó,... thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam”
(5).
- Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số đảng
cộng sản châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí cũng như
tương lai của cách mạng thuộc địa. Người đưa ra dư luận điểm: các dân tộc
thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết,
ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu
tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng
dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự
nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
- Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh được
thể hiện ở những luận điểm sau đây:
+ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương
Đông, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương
Đông: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”(6); “Người ta sẽ không
thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và
duy nhất của đời sống xã hội của họ”
(7). Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương
lĩnh
hành động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân
danh Quốc tế Cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,... nhất định
chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”(8).
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi gặp được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và
thuộc địa, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp,
dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bài Cuộc kháng
chiến
viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nói về giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”(4).
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh
xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân chủ) để đi tới xã hội
cộng sản (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Đến năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người
lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”(5).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp.
+ Độc lập cho dân tộc mình đồg thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm
phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu
tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các
dân tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn
thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Ngay từ năm 1941, trên đất Anh, Người nói: “Chúng ta phải tranh đấu
cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”.
Người đã nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung
Quốc cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu
hiệu “Giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách
mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
+ Giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của con người.
Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ thương nước, thương nòi, Hồ Chí
Minh luôn luôn gắn liền mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Người lựa chọn con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô sản
chính vì cách mạng vô sản không chỉ giải phóng giai cấp công nhân mà còn giải
phóng mọi giai cấp và tầng lớp khác thoát khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp.
Người nói: giành độc lập rồi phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã
hội “làm cho dân giàu, nước mạnh”,... “làm cho mọi người được ăn no, mặc
ấm, sung sướng, tự do”
.
Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên, trở
thành tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Khi chưa giành được độc
lập, Người thể hiện ý chí độc lập bằng câu nói“dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”
. Nhưng sau đó Người
nói: “Nếu nước độc lập mà dân khôn được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”
(9). Do đó theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân
tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Hồ Chí minh
viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc,... đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(2).
Như vậy, tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người luôn luôn gắn chặt, hòa quyện với nhau trong ttư tưởng Hồ Chí minh.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có
thể tóm tắt thành một hệ thống các luận điểm như sau:
1 . Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả đi theo con
đường của cách mạng vô sản.
- Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào
thực tiễnViệt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn
luôn khẳng định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác là cách mạng vô sản
.
- Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa
đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào
thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi
của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong
những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
2 . Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo.
- Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc
thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công”(10)
- “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(2).
- Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai
cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.
3 . Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân,
trên cơ sở liên minh công – nông.
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không
phải việc việc của một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông,
công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”
. Trong sự tập hợp rộng rãi
đó, Người khẳng định cái cốt của nó là công – nông, “công nông là người chủ
cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”
(11).
- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận
động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị
làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức
mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.
- Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp
nhân dân vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết: “Đảng phải
hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để
kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểuđịa chủ và
tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm
cho họ đứng tập trung...(12)
- Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc
chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp:
“c ông nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị
tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn
cách mệnh của công nông thôi”(13). Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất
cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào
đường thỏa hiệp”(14).
4 . Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan
điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi
của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm
tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại
Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận
mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở
các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở
các thuộc địa”
(15); “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang
tập trung ở các thuộc địa”
(16), nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức
“muốn đánh chết rắn đằn đuôi”(6).
- Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân
phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận
điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”(
6).
- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ
nghĩa đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể
giành thắng lợi trước
.
- Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa trong
mối quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ
tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế
quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm
vụ giải phóng hoàn toàn”(17).
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận
và thực tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5 . Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường
bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ
Chí Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương.
Theo Người, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa
quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn... Luận điểm trên đây của Hồ Chí
Minh bắt nguồn từ sự phân tích vai trò của quần chúng nhân dân, bản chất phản
động của chính quyền thực dân Pháp và bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt
Nam, của cách mạng Nga, từ sự thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.
- Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra
nhận định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ
trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa
phương.. mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
- Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung
ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng
các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động
đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong
vòng 10 ngày đã giành được chính quyền trong cả nước.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của
Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo,
bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự
nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách
mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
(1) T.Lan: vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.15.
(2) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Nà Nội,1986, tr.31.
(3) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.3, tr.1, 198. (4) (2) Sđd, t.4, tr.4, 480. (5) Sđd, t.1, tr.469.
(6), (2) ,(3) Sđd, t.1, tr.466,467. (7) . Sđd, tr.416. (8) . Sđd, t.10, tr.128.
(9), (2) . Sđd, t.4, tr.56, 161.
(10), (2) . Sđd, t.2, tr.267-268. (11) . Sđd, tr.266. (12) Sđd, t.3, tr.3. (13) Sđd, t.2, tr.266. (14) Sđd, t.3, tr.3
(15), (5),(6) . Sđd, t.1, tr.273, 274. (16) Sđd, t.2, tr.128. (17) Sđd, t.1, tr.36.